Dạo này tự nhiên mặt bị nổi mụn, dù tui đã wa tuổi dậy thì lâu rồi.Tui đang si nghĩ: tại sao hết tuổi dậy thì mà mặt lại nổi mụn? Đây là các lý do mà tui nghĩ ra:- Thức khuya lướt wtt (tui chỉ lướt wtt khuya thôi, chứ mấy diễn đàn khác tui chỉ đọc sơ sơ, ít post bài).:Thinking:- Bị bệnh về gan, mật.:Sick:- Xài mỹ phẩm nhiều quá nên da nó bị dị ứng.:Sad:- Tui đẹp quá nên tạo hóa lấy bớt đi một phần nhan sắc kẻo hoa ghen liễu hờn.:Silly::Silly:Sông có khúc, người có lúc. Nhớ hồi xưa da dẻ căng mịn, má hồng hồng, môi tươi thắm. Bây giờ sồn sồn, tóc tai xơ xác, mặt đắp mỹ phẩm vô cho trẻ trung ra mà cũng bị mụn làm cho xấu xí đi.Có ai bị đau khổ như tui không thì cùng vào đây bán than nhé?:Sad::Sad:
Chào các ACE,Em va trai quyết định có baby, nhưng em chua muốn cưới. Em muốn sinh em bé xong rồi mới cưới. Em muốn các ace cho em lời khuyên lam sao để đối mặt với dư luận đây ah?? Em năm nay cũng 30 rồi:Rose:
" Đời không ai cho không ai cái gì " Càng ngày càng thấy câu này đúng :Sigh::Sigh: rảnh em xin hầu chuyện các anh, các chị nhé :Battin ey: Ai có chuyện gì hay trong vụ này chia sẻ cho em biết với ạ. Xin cảm ơn !:Rose:
Mình mới tốt nghiệp ra trường và bắt đầu cuộc sống của một nhân viên...Lúc trước khi đi làm, mình đã tưởng tượng ra rất nhiều điều thú vị về công việc mới, những người đồng nghiệp thân thiện... Nhưng sau khi vào làm, mình cứ thấy mọi thứ khác hẳn với những thứ mình mong đợi.. Mọi người như ở một thế giới khác mình ấy, họ nói những chuyện mình không quan tâm, đùa nhau những câu nói mà mình chẳng thấy vui gì cả. Có vấn đề gì với mình không nhỉ? Mình nên làm thế nào để hòa hợp với mọi người đây ?
Em thấy sát sinh vật khác để làm thức ăn cho mình là chuyện cực kỳ tự nhiên. Bạn ko thể bắt con hổ chuyển sang ăn rau thay vì săn con thú khác làm thức ăn được. Quy luật sinh tồn của tự nhiên. Loài vạt này ăn cỏ, loài vật kia ăn thịt loài vật này, tất cả là sự tự nhiên. Nếu không làm chuyện đó, thì ta đang phá vỡ sự cân bằng của thiên nhiên.Em là người từng theo chủ nghía " thịt,, thịt và thịt" nhưng do 1 thời gian em cũng tiếp xúc với đồ ăn chay thì thấy rằng....cũng rất thú vị....
Haizzz...sao em nghe đến Phật là nhức cái đầuEm ăn chay cũng được, ăn mặn cũng được nhưng mờ nếu ăn mặn thì ai giết heo, giết pò, cắt cổ gà, làm cá,...đi rồi em nấu cũng đc. Chớ bắt em cằm dao giết thì em làm hok đc, thà nhịn còn hơn :Sad:Một năm em đi chùa được 1 lần, ăn chay đc 1 ngày là mùng 1Còn bi nhiu ngày khác đốt nhang bàn thờ em giao hết cho xã, cái số em nó khắc với Phật hay sao ấy, đốt nhang hay vô chùa hửi khói là mắt mũi chảy tèm nhem, cay xè :Worried:Còn bi giờ thì cố gắng sống sao cho tốt, đối xử với ông bà cha mẹ sao cho phải đạo là được (cái này em đang cố gắng). Chớ thấy nhìu người vô chùa tu mà cha mẹ thì pỏ ko ai nuôi, dzậy tu làm chi? :Thinking:
Cơ mà rất phản cảm với việc : đồ chay ... làm giả thịt gà, lợn , bò ... bla blaNếu là văn hóa ẩm thực thì ok, và nếu là cho ng ăn kiêng ( theo quan niệm sát sinh or k sát sinh ) thì Oktức là họ muốn ăn thịt, nhưng họ k muốn sát sinhthì ăn chay nhưng giả thịt, cá .Nhưng giờ thấy nhà chùa cũng làm cỗ như vậy, chứng tỏ họ cũng có mong muốn, và rất thik ăn thịt đấy chứ, nhưng mà k dc thì đành chấp nhận .Mà đã tu hành, thì tu ở trong tâm, chay tịnh từ trong tâm chứ:RollingEy:
...... Cũng là có duyên, .....
Nếu 1 người đàn bà nhà có con gầy gò, đang tuổi lớn, cha mẹ ốm đau mà nỡ lòng ăn chay để cầu mong bình yên ... thì sao nhỉ ?Ai là người nấu nướng đồ tươi đồ tốt có dinh dưỡng để chăm lo cho các thành viên trong gia đình ?Bếp núc mà toàn đậu với rau thì còn cần gì ngọn lửa ?Mình thấy phụ nữ mà ăn chay thì quá ích kỷ, nhỏ nhen với tứ đại đồng đường
Nhìn thấy "tâm" trong sáng và yên lặng là cái đích đến của bất kể ai bước vào con đường tìm hiểu về Phật và Đạo Phật. Bạn làm được như thế thì thật lòng xin chúc mừng!Lúc trước tôi cũng nghĩ "Phật tại tâm" giống bạn, nhưng khái niệm đó với tôi khi đó đơn giản chỉ là làm điều lành, không hại ai. Ai ngờ, càng đọc tôi càng hiểu ra cái "Tâm" mà Phật nhắc đến không phải như vậy. Vì chỉ hiểu giản đơn như vậy nên cứ thắc mắc hoài sao mình vẫn ưu phiền vì có người hiểu lầm hay bị chê trách hay kết quả không như mong đợi. Thì ra cái tâm mình lăng xăng đeo đuổi mà chẳng được nghỉ ngơi lắng đọng. Nó luôn bị vô số những ý nghĩ che lấp và chẳng bao giờ được trong suốt thảnh thơi song hành trong thân thể. Khi những suy tư miên man làm chủ thì cái tâm chỉ làm nô lệ. Khi ý nghĩ lành cái tâm yên nhưng khi ý nghĩ là phê phán là tiêu cực cái tâm chứa đầy độc tố nên con người ta mới có buồn phiền hờn giận ganh ghét là vậy.Con đường của Phật (mình không thích dùng từ Đạo vì dễ bị nhầm là tôn giáo, nhưng rườm rà quá) là con đường nhận thức (các vị hành giả thường viết lại là "giác ngộ", mình diễn giải theo từ ngữ thông thường), nhưng là cách nhận thức bừng lên từ tâm sáng, thông tuệ chứ không phải của kiến thức suy diễn. Đến với đạo Phật không phải từ lòng tin mà từ trí tuệ. Tin mới gọi là tôn giáo, tín ngưỡng. Trong kinh Phật để lại cho đời thì cũng không có câu nào về xem bói, rút quẻ, hướng nhà hay cầu xin thần thánh, trời đất. Đạo Phật dạy chúng ta nhận thức từ thâm tâm sáng lên thấy đúng như thật. Trí tuệ ở đây cũng được hiểu là khả năng nhận biết thông thường và cả sự thấu hiểu có được từ tuệ giác. Chả trách, một trong tám nhánh của con đường (Bát chánh đạo) Đức Phật xếp Chánh Kiến lên đầu là để nói lên sự quyết định của Trí tuệ trong việc "giác ngộ"! Chữ "tu" được nhắc nhiều trong đạo Phật cũng làm mọi người thường ngại ngần, thật ra chỉ là "sửa". Chưa tốt "sửa" lại thành tốt thôi mà. Mình chẳng thích dùng từ này tí nào vì nghe cũng rất tôn giáo, mình thay bằng từ "rèn luyện"! Nghe sports và khí thế hơn nhiều!
Thì có 1 thế giới duy nhất với những người nhất định và có một trật tự nhất định từ trên xuống dưới.
Cụ Diệu Hỷ và những viên xá lợi sau khi hỏa táng
Được sự đồng ý của nhà thiêu Altona, con cháu của cụ và Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng đến nhà thiêu lúc 3g30 chiều cùng ngày 13-8-2001. Trong hộp tro cốt, Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng và con cháu cụ Diệu Hỷ, đã tìm thấy hơn trăm mảnh xá lợi đủ 5 màu sắc: đen, đỏ, vàng, xanh, trắng. Đa số các mảnh kết thành Hoa xá lợi, có hình như hoa cúc.
Cụ bà Quách Thị Huế, sanh ngày 15-1-1921 tại Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Việt Nam. Bà là chị thứ tư trong gia đình cùng với 3 người em trai, hai người em đã quá vãng, hiện còn một người em trai là Quách Văn Bội, đang cư ngụ tại Melbourne, Australia .
Bà lập gia đình với ông Lê Đăng Vinh ( 1917- 1970 ) nguyên quán làng Gia Lộc, huyện Trãng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Ông Vinh, người trong Gia tộc vẫn gọi là ông Ba Ngộ, là con dòng thứ của một đại Hương Cả làng Gia Lộc thuộc Tổng Hàm Ninh Hạ, huyện Trãng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Khi còn trai trẻ, ông Ba Ngộ không ham học chữ nghĩa, chỉ say mê võ nghệ và bùa chú. Khi lập gia đình với bà Huế, sanh được một người con trai, ông Ba Ngộ bỏ gia đình, vợ con lên vùng núi Thất Sơn ( Châu Đốc ) và dãy núi Tà Lơn (Cao Miên ) để tầm Thầy học võ và bùa chú. Trên đường tầm Thầy học võ và bùa chú, ông Ba Ngộ lần hồi qua đến Nam Vang, xứ Cao Miên thì gặp được kỳ ngộ. Ông đã gặp được Sư Hộ Tông, gặp được chánh pháp của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ông Ba Ngộ bèn rũ bỏ tất cả võ nghệ và bùa chú, quy y Tam Bảo là Phật- Pháp- Tăng, và xuất gia theo hệ phái Phật giáo nguyên thủy Cao Miên Theravada. Đường tu học đưa dẫn ông lần sang Lào và Xiêm La. Năm 1945, nghe mẹ già và vợ con đang kẹt trong lằn chiến tranh ác liệt ở Việt Nam, ông Ba Ngộ xin Thầy cho phép hoàn tục và lập tức trở về Việt Nam đưa mẹ và vợ con đi lánh nạn chiến tranh (thời đó gọi là đi tản cư ).
Ông Ba Ngộ là người con chí hiếu và lòng tín tâm vào ngôi Tam Bảo thật là sâu xa; nên ông đã lần hồi dắt dẫn vợ và mười một người con vào đường chánh pháp. Bà Quách Thị Huế có mười một người con với ông Ba Ngộ; gồm 7 trai và 4 gái. Người con trai thứ 3 của bà đã tử nạn trong chiến tranh năm 1968 tại Việt Nam.
Năm 1960, do sự dẫn dắt của chồng, bà Quách Thị Huế đã quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới tại chùa Pháp Quang ( đường Nguyễn văn Học , Gia Định ) được Sư Hộ Tông và Sư Thiện Luật ( Giáo hội Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam ) đặt pháp danh là Diệu Hỷ. Cũng năm 1960 ông Ba Ngộ đem hai đứa con trai thứ 5 và thứ 6 ký gởi ở chùa Pháp Quang, làm nghĩa tử của Đại Đức Hộ Giác, giám đốc Phật học viện Pháp Quang thuộc hệ phái Phật Giáo nguyên thủy Việt Nam Theravada. Người con trai thứ 5 của cụ Diệu Hỷ đã xuất gia năm 1964, thuộc hệ phái Phật Giáo nguyên thủy VN và theo học trường Cao Đẳng Phật Học Vạn Hạnh . Năm 1970, ông Ba Ngộ đột ngột qua đời lúc ông mới 53 tuổi. Cụ Diệu Hỷ chọn con đường ở vậy nuôi con. Thật là một "gánh nặng trần ai" nặng nề quằn quại trên đôi vai yếu ớt của bà mẹ Việt Nam. Năm 1972, cụ Diệu Hỷ rời bỏ quê hương Trãng Bàng, đến xứ Cần Thơ sinh sống. Năm 1975, cụ Diệu Hỷ lại rời Cần -Thơ về sinh sống tại tỉnh Vĩnh Long. Tại nơi đây, cụ Diệu Hỷ đã trở thành người hộ Phật, hộ Pháp, hộ Tăng đầy tín tâm của chùa Siêu Lý (thuộc thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long ).
Năm 1990, cụ Diêu Hỷ di dân đến Melbourne, Úc Châu để đoàn tụ với 4 người con trai và 3 con gái đang sinh sống tại đây. Từ đó, cụ Diệu Hỷ là đệ tử tín tâm của nhiều ngôi Tam Bảo ở vùng Melbourne, Sydney, Việt Nam và Ấn Độ.
Cụ Diệu Hỷ là Liên Hữu của Đạo tràng Cực Lạc Liên Hữu, thuộc chùa Quang Minh, do Đại Đức Thích Phước Tấn chủ trì. Do có nhiều thiện duyên người con rể thứ 9 của cụ Diêu Hỷ đã xuất gia vào năm 1996. Cụ Diệu Hỷ không phải làngười có học vấn cao rộng, cũng không phải là người có kiến thức uyên bác về giáo lý, kinh điển của Phật Giáo. Cụ Diệu Hỷ thọ Tam quy và Ngũ giới một cách nghiêm cẩn. Mỗi tháng cụ thọ Bát Quan Trai Giới 4 ngày. Sau khi mổ sạn mật , do lời khuyên của bác sĩ, cụ không còn thọ Bát Quan Trai Giới nữa, nhưng tâm rất luyến tiếc công phu nhiều năm phải bỏ dở.
Theo những người con, thì cụ Diệu Hỷ là người có tâm cố chấp; khi buồn, giận thì buồn giận rất lâu, không xả bỏ được. Cụ Diệu Hỷ cũng biết rõ tâm cố chấp này của mình, nhưng dù cố gắng tu tập nhiều năm vẫn chưa đoạn trừ được. Theo như nhận xét của nhiều người thân, thì vào những tháng cuối cùng của cuộc đời, cụ Diệu Hỷ đã từng bước đoạn trừ được kiến chấp, lòng sân hận và tỏ rõ quyết tâm sẳn sàng từ bỏ thân ngũ trược này.
Năm 1995, người con trai thứ 5 của cụ Diệu Hỷ từ Hoa Kỳ đến Úc châu thăm cụ và để lại cho cụ một "nghi tình" lớn: " PHIỀN NÃO LÀ NIẾT BÀN " . Từ đó, trong nhiều năm liền, tâm của cụ Diệu Hỷ không thoát ra khỏi "nghi tình" này. Gặp ai cụ cũng đặt ra câu hỏi: " Vì sao phiền não là Niết Bàn ?? "
Từ năm 2000, cụ Diệu Hỷ thường nói với con cháu " Mẹ rất chán ngán cõi ngũ trược luân hồi này, một khi đã ra đi, mẹ không muốn trở lại cõi này nữa…" Thấy nhân duyên đã đến, người con trai thứ 10 của cụ Diệu Hỷ khuyên cụ : " Chỉ có con đường Tịnh Độ, nhất tâm niệm Hồng Danh Đức A Di Đà mới có thể vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương, Tịnh thổ của Đức A Di Đà Phật được". Cụ Diệu Hỷ vô cùng hoan hỷ, phát tâm tham gia vào Đạo Tràng Cực Lạc Liên Hũu của Chùa Quang Minh ( Melbourne ). Mặc dù vẫn niệm Phật từ nhiều chục năm qua, nhưng cụ Diệu Hỷ vẫn chưa tu tập pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương như một pháp môn trọng yếu thật sự. Khi nhân duyên đã đến, trong hai năm sau cùng của cuộc đời, cụ đã tỏ rõ quyết tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc cõi A Di Đà. Sáng niệm Phật, trưa niệm Phật, chiều niệm Phật, tối niệm Phật, niệm niệm không ngừng với lòng tín tâm vô bờ bến. Bên cạnh công phu nhất tâm niệm niệm Hồng Danh A Di Đà Phật, cụ Diệu Hỷ luôn luôn hoan hỉ công đức, phát tâm hoan hỉ bố thí, phóng sanh, hoan hỉ cúng dường Tam Bảo. Dường như phước báu của công phu niệm Phật luôn làm cho cụ hoan hỉ, an lạc và mát mẻ.
Trong những ngày tháng sau cùng, cụ Diệu Hỷ dường như đã hoàn toàn biến đổi thành " một người khác". Những kiến chấp nặng nề của tâm thức của cụ đã rơi rớt xuống như những mảnh hồ vữa rơi rớt xuống từ một bức tường cũ kỹ. Gặp ai cụ cũng đều vô cùng hoan hỉ, cụ luôn tìm mọi cơ hội để " cho bớt" những gì thuộc về mình. Gặp ai cụ cũng khuyến khích tu hành, niệm Phật, bố thí, làm phước. Đặc biệt đối với các con cháu, cụ luôn nhắc nhở, khuyến tấn con cháu tu hành, làm phước, làm lành, tránh xa việc ác. Cụ Diệu Hỷ tu hành thật đơn giản : Gìn giữ Tam Qui và Ngũ Giới, Thập Thiện. Hoan hỉ mọi công đức, giữ thân tâm an lạc và thanh tịnh, tinh tấn niệm Hồng Danh A Di Đà Phật.
Thật là rõ ràng và đơn giản biết bao! Hỡi ôi, sinh tử là việc lớn, tu nhất kiếp, ngộ nhất thời như bậc cổ đức đã từng nói. Với tín tâm như thế, cụ Diệu Hỷ đã nhẹ nhàng trút bỏ tất cả, ra đi trong niềm an lạc vô biên. Sáng ngày 7-8-2001, sau khi công phu sáng xong, cụ Diệu Hỷ đến phòng ăn, pha tách cà phê , uống và ăn bánh sáng. Bất thình lình cụ ngã qu?xuống đất và la lên một tiếng thật lớn. Lúc đó người con gái thứ tư của cụ là cô Oanh, lập tức chạy đến và thấy mẹ mình ở tình trạng rất nguy ngập và chị gọi ngay xe cấp cứu đến để đưa cụ đến bệnh viện. Một giờ sau khi bị tai biến mạch máu não, cụ Diệu Hỷ vẫn còn nhận biết những người con và không ngừng niệm Phật, hòa trong tiếng niệm Hồng Danh Đức A Di Đà Phật của các con cháu. Sau khi giải phẫu đầu, cụ Diệu Hỷ không tỉnh lại nữa. Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng, vị Thầy có nhiều nhân duyên với cụ Diệu Hỷ đã khai thị và trì tụng cho cụ. Đại Đức Thích Phước Tấn, Đại Đức Thích Phước Thiền, Đại Đức Thích Nguyên Tạng , Đại Đức Thích Tịnh Đạo là những vị Thầy mà cụ Diệu Hỷ vô cùng qúy kính cũng kịp thời đến thăm và trì tụng cho cụ Diệu Hỷ tại bệnh viện.
Vào lúc 9g 45 sáng ngày 10-8-2001, cụ Diệu Hỷ đã vãng sanh một cách nhẹ nhàng, an lạc trong tiếng niệm Hồng Danh A Di Đà không dứt của các con cháu. Cụ Diệu Hỷ đã được chư Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, đạo hữu các đạo tràng, và các ban hộ niệm của nhiều Chùa ở Melbourne đến viếng và trì tụng vãng sanh từ ngày 11-8-2001 đến ngày 13-8-2001.
Sáng ngày 13-8-2001, xác thân cụ Diệu Hỷ được Đưa vào nhà thiêu Altona Crematorium để hỏa thiêu lúc 11g sáng. Do có sự cảm ứng được báo trước của người con gái thứ 11 của cụ Diệu Hỷ, nên con cháu cụ xin phép được quan sát tro cốt sau khi hỏa thiêu.
Được sự đồng ý của nhà thiêu Altona, con cháu của cụ và Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng đến nhà thiêu lúc 3g30 chiều cùng ngày 13-8-2001. Trong hộp tro cốt, Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng và con cháu cụ Diệu Hỷ, đã tìm thấy hơn trăm mảnh xá lợi đủ 5 màu sắc: đen, đỏ, vàng, xanh, trắng. Đa số các mảnh kết thành Hoa xá lợi, có hình như hoa cúc. Đến 4g cùng ngày Đại Đức Thích Phước Tấn đến, và Thầy đã tìm thấy thêm 2 viên xá lợi hình tròn như hạt tiêu màu vàng sậm, bóng sáng rất đẹp, và Đại Đức cũng tìm thấy thêm nhiều hoa xá lợi khác nữa. Sự khác biệt giữa xá lợi và di cốt là: Xá lợi kết thành viên tròn hoặc thành hoa xá lợi hình bông cúc, cứng, rắn chắc không bóp vỡ được và có màu ( đen, đỏ, vàng, xanh, trắng ). Di cốt thì màu trắng ngà, xốp hoặc đặc, nhưng mềm, dùng tay bóp có thể vỡ ra..
Đại Đức Thích Phước Tấn xác nhận tất cả những phần tìm thấy đều là xá lợi, có giá trị như sự chứng thực cụ Diệu Hỷ đã thực sự vãng sanh. Đại Đức khuyên con cháu nên thờ kính xá lợi không như thờ cha mẹ, mà như bậc Thầy dẫn dắt ta trên đường tu tập. Con cháu cụ Diệu Hỷ hơn 10 người có mặt tại chỗ đều cung kính nhận lấy lời dạy của Đại Đức Thích Phước Tấn. Số xá lợi được đem về tôn thờ tại nhà người con gái thứ 4 của cụ Diệu Hỷ, địa chỉ: 382 Francis st. yarraville. Vic. 3013. Australia.
Ba ngày sau khi đem về, sau khi đem ra để an vị xá lợi vào hộp kiếng, số xá lợi đã tăng thêm gấp 3 lần và có màu sắc sáng láng hơn. 14 ngày sau, khi con cháu đem xá lợi ra để ngắm dưới kính phóng đại , thấy có nhiều ánh sáng trắng nhấp nháy như ánh sáng kim cương , hoặc như ánh sáng của các vì sao chiếu nhấp nhoáng trên bầu trời vào ban đêm. Đây là một sự huyền diệu, không thể lý giải bằng phương pháp khoa học, chỉ có thể lý giải bằng tín tâm vào sự mầu nhiệm của Phật Pháp mà thôi.
Đại Đức Thích Phước Tấn có cung thỉnh 2 viên xá lợi tròn màu vàng sậm ( do chính Đại Đức Tìm thấy ) và thêm vài hoa xá lợi khác màu xanh về chùa Quang Minh. Số xá lợi còn lại, được chia cho các con cháu để thờ kính, và các Chùa, Tự viện nếu có lời yêu cầu; nhằm mục đích khuyến tu. Trong kệ kinh sách của cụ Diệu Hỷ, người con trai trưởng của cụ đã tìm thấy nhiều thủ bút của cụ. Trong đó có thủ bút của cụ Diệu Hỷ sưu tập chép lại bài thơ, hoặc sáng tác chưa rõ.
TA NHÌN TA
Đêm sầu gần một kiếp
Ôm bóng tối ưu phiền
Chính giữa lòng triền miên
Mang âm thầm tứ nghiệp
Nằm đu đưa ảo mộng
Đi suốt trùng sương mù
Ngồi dưới tàng cây phượng
Còn nữa đời phù du
Sáng ngày bên đầu núi
Bên đất trời mênh mông
Biết ta là hạt bụi
Trong cơn lốc vô thường
Nhìn xuống vào sâu thẳm
Dòng sông nào vơi đầy
Biển khơi nào đã cạn
Mưa nắng nào qua đây
Làm Thiền sư khoác áo
Leo lên đỉnh non cao
Khu rừng xưa mất dấu
Xuyên lá nắng nào reo
Ta bước vào tịnh cốc
Ngồi tụng Kinh Kim Cang
Chợt nụ cười Di Lặc
Căn cứ vào những thủ bút do cụ Diệu Hỷ ghi chép và để lại, có thể thấy rất rõ rằng cụ Diệu Hỷ đã đi trên con đường Phước Huệ song tu suốt cả đời cụ. Còn quan sát hành trạng của cụ như gìn giữ Tam Quy, Ngũ giới, thọ Bát Quan Trai giới, Thọ Thập Thiện giới, hoan hỉ công đức cúng dường Tam Bảo, Từ bi , phóng sanh, làm lành, lánh dữ… thì có thể nói cụ Diệu Hỷ đang đi trên đường Giới, Định, Huệ tiệm tu qua nhiều chục năm của cuộc đời cụ. Nhưng nếu nhìn gần những năm tháng cuối đời của cụ Diệu Hỷ, có thể nói cụ chuyên chú vào pháp môn niệm phật, niệm niệm không dừng dứt, để cầu vãng sanh cõi A Di Đà Phật, tịnh thổ của Tây Phương Cực lạc. Như trong kinh A Di Đà đã nói: Hựu nhất nhật… nhất tâm bất loạn, nhất tâm, nhất niệm, niệm niệm Hồng Danh A Di Đà Phật cũng đủ được vãng sanh cõi A Di Đà.
Trong lần viếng di tích Phật Giáo năm 1997 ở Ấn Độ, mặc dù tuổi đã già sức đã yếu, chỉ với cây gậy chống đỡ , cụ Diệu Hỷ đã leo lên đỉnh núi Linh Thứu trước tất cả mọi người trong đoàn . Và ngay trên tảng đá, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hơn 2.600 năm trước, đã thuyết Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, cụ Diệu Hỷ đã dùng tóc mình để cúng dường Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và pháp bảo vô lượng. Ôi! Dũng mãnh thay Đại lực tín tâm của một người phật tử bình thường. Ôi! Kiên cố thay Đại lực tín tâm như kim cương của một hành giả trên đường vượt thoát sinh tử luân hồi. Chỉ bằng sức tín tâm, nhất tâm nhất niệm, niệm niệm không rời Hồng Danh A Di Đà Phật, mà cụ Diệu Hỷ đã chứng thực : VÃNG SANH CÕI DI ĐÀ LÀ HIỆN THỰC.
Tất cả lời biện luận uyên bác, cao siêu; trăm nghìn vấn đáp phù phiếm chẳng qua là tro cốt còn lại. Tín tâm và hạnh nguyện , nhất tâm, nhất niệm Hồng Danh A Di Đà, dù chỉ 1 ngày, 2 ngày , 3 ngày, 4 ngày, 5 ngày, 6 ngày 7 ngày mà nhất tâm bất loạn cũng chắc chắn vãng sanh về cõi Cực Lạc Tây Phương . Và tinh tủy của công năng niệm Phật ấy đã kết thành xá lợi, lưu ly, sáng ngời, lấp lánh như kim cương. Phải chăng, cụ Diệu Hỷ chỉ muốn để lại cho con cháu lời nhắn nhủ vô ngôn : Trải qua A tăng kỳ kiếp, ngụp lặn trong sinh tử, luân hồi. Trải qua lửa đỏ của 9 tầng địa ngục, Chỉ bằng Tín tâm và nhất niệm Hồng Danh A Di Đà Phật, cũng đủ độ thoát hằng hà sa chúng sanh qua bên kia bờ sinh tử ! Hỡi ơi, kiến thức càng lớn, kiến chấp càng sâu dày, nghiệp duyên càng nặng, tín tâm càng nhỏ, ngã ta càng to, tro cốt càng nhiều, sinh tử bao giờ mới dừng lại ? Kiến chấp bỏ xuống, nghiệp mỏng, duyên dày, tín tâm vô lượng, ngã ta không còn, chỉ còn lại kim cương và lưu ly sáng ngời như hào quang tiếp dẫn của Đức A Di Đà từ cõi Tịnh Thổ Cực Lạc Tây Phương.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Viết tại Melbourne 25-8-2001
Thiện Ngộ ( Con trai thứ 5 của bà Diệu Hỷ)