Cám ơn Lá nhé :Rose:, Luna vừa khóc nhè chè thiu, nhớ vn quá. Mà sao giờ này mà Lá + bazachamngoan vẫn chưa ngủ nhỉ, 4h15 sáng giờ vn rồi còn gì. Chúc mọi người ngủ ngon nha.
Tối đi làm về Z lăn kềnh ra ngủ đẫy xong sớm tinh mơ mờ sáng dậy lọ mọ thế đấy Luna ạ!
Sẻ cùng cả nhà 1 đoạn kinh niệm đc phổ nhạc mà độ rày Zà hom hem hay nghe ạ!
"Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc ............ Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc ............ "
Ai? Vì ai mà nên nỗi thế? :Smug:
Ốm! Ốm thật à?
Thương thế nhể!
:Smug:
Hị hị, thẹn ghê, xưa cứ là tạo dáng thế xem có ai mủi ai thương ko chứ mà giờ là lòng xuân tắt hẳn - mải chắm chúi mần xèng thôi ạ
Tks nhà chị Phú Đỗ có lòng nhớ tới! :Rose:
@ Biển: cho Z gửi lời hỏi thăm anh bạn Lin Râu mấy nhớ! :Rose:
Cảm ơn nhà 8!
Kia mà h đứng đấn lắm - để về hỏi kí người kia xem nên cử ai ra nhận ra chút choét lại đã nhá :Sad:
Người thăng thôi đã thăng rồi, mỏ khóa thôi đã khóa rồi - h cứ là đành mặc họ tha hồ tô voi vẽ vượn cho thỏa kí nỗi nhầm nhọt hấm hức lâu nay :Nottalkin:
Uất kinh :75:
1. Vợ ko bao h sai
2. Vợ sai: xem lại điều 1
Đừng bao h nói hẳn ra là vợ sai dù thực tế đích rành rành như vậy - cứ lẳng lặng làm điều mà bác cho là đúng thôi - nhường 1 bước, sang trao đổi với hàng xóm cho 2 nhà hữu hảo, em bé đỡ chịu tiếng ồn, bác ạ
Chị Lá có cách đón nhận sự chia sẻ dễ thương quá héng. Tks!
Đậm: Xưa giờ Z mới dừng ở mức chiêm ngưỡng chứ chưa tìm lấy cho mình 1 đức tin 1 tín ngưỡng thực sự nên chưa biết nhiều, chưa đc đọc tác phẩm chị nói - kia mà có từng nghe đâu đó có cả câu "trên đỉnh cao là sự cô đơn"
Vậy trên đỉnh cao là bình yên hay là sự cô đơn? Theo nghếch ý của Z thì bình yên hay cô đơn là tùy thuộc ở kí sự sự "Giác", sự "Ngộ" và cái tâm sân si nhiều ít của mỗi người mà ra, phỏng ạ?
Tối đi làm về Z lăn kềnh ra ngủ đẫy xong sớm tinh mơ mờ sáng dậy lọ mọ thế đấy Luna ạ!
Sẻ thêm cùng chị Lá bài hát hòa trộn giữa thiên nhiên hùng vĩ, tâm linh thành kính và thoáng chút tình yêu đôi lứa, quê hương!
Có lẽ chị Lá đã xem, đã nghe nhiều nhíp có bài hát cổ này rồi - kia mà Z vẫn thích khoe đi khoe về vì nhíp này - vốn dành tặng 1 người bạn chiến đấu đặc biệt mà Z (cũng như nhiều fan hâm của bạn í) đều rất yêu mến, kính phục:
Xưa cứ là Zà Zà em em nghe ngọt lọt tym!
...............
từ ngày biết thi thoảng Zà vẫn phải nhờ bu quẹt mũi hộ tự dâng kí tiếng
Sẻ cùng cả nhà 1 đoạn kinh niệm đc phổ nhạc mà độ rày Zà hom hem hay nghe ạ!
Suýt xoát 1 giờ rồi đấy nhể - nể :Smug:
Thôi, đừng bấm - bữa nay bắt người ta ăn kham uống khổ rồi có sức đâu ra mà gắng :o
Tranh thủ giăng mật đến nơi rồi - Na Na thị còn muốn "nhớ ai, đợi chờ ai?"
Hờn lẫy lẫy hờn như kiểu vợ chồng son í nhể - hay hnay tranh thủ con trai vắng nhà 2vc son hồi tưởng lại chuện giăng mật thủa xửa đê :Smug:
Chời ạ - Zà cả chững chạc đứng đấn thế mà để đeo kí chữ "
Đổi chữ kí nì cho hợp dáng :10:
Đậm: Z xin phép "thanh minh" giùm 1 chút nhá:
Các thể thư pháp gồm Minh văn đời Ân, Tiểu triện đời Tần, Lệ thư đời Lưỡng Hán, Thảo thư đời Đông Tấn, Khải thư và Cuồng thảo đời Đường, Hành thảo các đời Tống – Nguyên – Minh – Thanh, trong đó, đáng chú ý nhất là Khải thư, Lệ thư, Hành thư và Tiểu triện.
Khải thư còn gọi là “Chân thư” hay “Chính thư“, do Lệ thư và Chương thảo diễn biến mà thành, còn được gọi là “Khải lệ” hoặc “Kim lệ“. Tương truyền Khải thư do Vương Thứ Trọng đời Đông Hán sáng tạo ra, bằng cách sửa đổi cách viết chữ Lệ ra cách viết chữ Khải. Khải thư tuy ra đời vào cuối thời Hán, nhưng phải sang đến đời Đường mới thoát khỏi mọi ảnh hưởng và tàn tích của Lệ thư để chính thức trở thành một thể thư pháp độc lập, với tất cả các đặc điểm riêng của nó.
Lệ thư xuất hiện sớm nhất vào đời Tần, giữa lúc Triện thư đang độ cực thịnh. Nhưng hồi này Lệ thư còn thô kệch và mang nhiều dấu vết của Triện thư. Lệ thư sở dĩ ra đời là do nhu cầu viết nhanh và tiện lợi khi sử dụng, không nhiêu khê như Tiểu triện. Quá trình Tiểu triện chuyển hóa thành Lệ thư có thể phác ra như sau:
Tiểu Triện —> Thảo Tiểu triện —> Thảo lệ
“Thảo lệ” là do các viên thư lại đời Tần tạo ra, cốt xử lý kịp thời đống công văn bề bộn viết bằng chữ Triện hồi bấy giờ mà họ có trách nhiệm giải quyết, và đây là tiền thân của Lệ thư chính thức được nhìn nhận vào đời Lưỡng Hán sau đó.
Hành thư xuất hiện sớm nhất vào đời Đông Hán, cũng là do nhu cầu viết sao cho nhanh chóng, tiện lợi. Một mặt, Hành thư giảm bớt nét so với Khải thư và như vậy là thoát khỏi sự gò bó của Khải thư; mặt khác, nó tiếp thu cách viết bay bướm của Thảo thư, nhưng không quá phóng túng đến nỗi khó đọc, khó nhận diện như Thảo thư. Nghĩa là nó vừa giản dị, vừa năng động. Nếu ví Khải thư như người đang đứng, Thảo thư như người đang chạy, thì Hành thư như người đang đi vậy. Tương truyền kiểu chữ này do Lưu Đức Thăng tạo ra, đến thời Đông Tấn đã có người sử dụng thành thạo, trở nên nổi tiếng như hai cha con Vương Hi Chi, Vương Hiến Chi, và Từ Tống, Nguyên về sau, cách viết Thảo thư ngày càng phổ biến.
Tiểu triện có nguồn gốc từ Đại triệu (chỉ các lối chữ xuất hiện trước Tiểu triện, gồm Kim văn, Thạch cổ văn v.v.), nhưng nét bút từ chỗ cong queo của Đại triện đã được cải tiến thành thông thoáng, uyển chuyển, lại có nhiều nét thẳng thớm, thanh mảnh. Văn bản Tiểu triện được viết thành hàng dọc từ phải sang trái, không còn viết tùy tiện, thiếu cố định như ở Giáp cốt văn hay Kim văn. Từ Giáp cốt văn, Kim văn … đến Tiểu triện, cũng tức là từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 2 TCN, trong khoảng 1200 năm ấy, hình thức thư pháp đều thuộc hệ thống Triệu thư, cho nên gọi đây là thời đại Triệu thư. Tiểu triện được coi như sự phát triển tột đỉnh của Triện thư, và đến đây trở nên định hình.
Mỹ học thư pháp cũng tức là cái đẹp thể hiện trong nghệ thuật thư pháp. Giống với nhiều loại hình nghệ thuật khác, bản chất cái đẹp của thư pháp là ở chỗ phản ánh được cái đẹp của khách thể (sự vật khách quan) cùng với cái đẹp tinh thần của chủ thể (nhà thư pháp).