images
Thịnh hành
Cộng đồng
Bé yêu - Mẹ có quà cả nhà đều vui
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Hội phiên dịch tiếng Anh
cam ỏn các chị đã phân tích và trả lời cho câu hỏi của em.
em xin phép đưa thêm thông tin về cty. đây là một cty dịch vụ, chuyên về A/S cho các hãng sx oto lớn.
khi em doc quality in action, với chức năng của cty như vậy thì em nghĩ thẳng à đơn giản là : Chất lượng (nằm) trong hành động. hành động ở đây, theo chức năng của cty thì đòi hỏi nhanh và hiệu quả. tức là đối với cty, yếu tố nhanh và hiệu quả là hàng đầu, là thước đo chất lượng của mình. Nhanh và hiệu quả cũng chính là những gì cơ bản nhất mà các khách hàng (tức là các hãng sx oto) của họ yêu cầu.
Như chị woe nói, "sẽ dễ bị hiểu nhầm thành trong hành động có chất lượng", thì thực ra đó chính là ý họ muốn truyền đến ngừoi đọc, trong hành động của họ (là thay thế phụ tùng oto) phải có chất lượng, và đối với khách hàng của họ là các nhà sx oto thì chất lượng ở đây là nhanh và hiệu quả.
em giải thích có vẻ hơi lòng vòng nhưng em vốn ko biết diẽn đạt mach lạc nên các chị thông cảm cho em nhé hiihhihi

Nếu vậy thì bạn dịch "chất lượng trong hành động" là hay rồi, nhưng thử hình dung trường hợp một công ty sản xuất ô-tô đề cao chất lượng hơn giá thành, đối lập với những công ty quảng cáo về giá cả hợp lý. Ví dụ, họ không muốn sản xuất loại ô-tô thường thường mà chỉ ô-tô xịn. Câu "quality in action" nói rằng chất lượng đang gây tác động đấy, đang là yếu tố quan trọng đấy, mua một cái ô-tô xịn rồi bạn sẽ thấy tác động của nó, cuộc sống của bạn sẽ thay đổi hẳn, và rồi nó lại còn bền lâu dài etc... Ở đây chủ thể của "hành động" là chất lượng.
01:57 CH 28/08/2010
Hội phiên dịch tiếng Anh
em cam ơn các anh chị, em yên tâm rồi. Em lo lắng cũng bởi vì đây là lần đầu tiên người ta nhờ em dịch, mà dịch cho slogan của cty của họ sắp mở o VN chứ ko fai dịch linh tinh đại ý một bài báo cho một ngừoi bạn.

"in action" là một thành ngữ tương đương với "being active" hay "working". Ở đây câu slogan có ý nói chất lượng đang rất active, chất lượng đang gây tác động, etc. mà không nói cụ thể chất lượng của cái gì (có thể là của cả lời nói hay hành động). Chất lượng ở đây thường làm nghĩ tới sự đối lập với số lượng chẳng hạn, và chất lượng là chủ thể. Vì thế nên câu "chất lượng trong hành động" dễ làm hiểu nhầm thành "hành động có chất lượng".
09:11 SA 27/08/2010
Hội phiên dịch tiếng Anh
xin chào các bác biên phiên dịch,
trước hết em rất ngưỡng mộ nghề của các bác!!!! Em luôn ước ao dịch giỏi như các bác hihiihhi, thật đấy :D
em có 1 cai slogan muốn dịch xuôi : Quality in Cction ...
em dịch hộ người bạn (kiểu đúng từ-từ) thì đơn giản là chất lượng trong hành động, nhưng thấy ko hai lòng tẹo nào.
các bác cho em y kiến vơi ạ. rất cảm ơn các bác!

Minh ko làm phiên dịch, nhưng mình thử dịch là "Chất lượng đang hành động".
01:09 CH 22/08/2010
Hội những người yêu tiếng Pháp
Merci beaucoup, chipbong :Rose:. C'est une bonne nouvelle, et je suis ravie !!!!!!!!
11:47 SA 04/08/2010
Hội phiên dịch tiếng Anh
Có bạn nào dịch được cụm từ "trọng tình trọng nghĩa" thì giúp mình với :Rose::Rose::Rose:

Mình thấy có từ loyalty khá tương ứng.
Mẹ Bống Trang: "Bừng sáng không gian sống" mình thử dịch là "Brighten up your living space" (ko hay như câu tiếng Việt).
các mẹ, các bố cho em hỏi với. Chữ "Tâm" trong tiếng Trung Quốc trong tiếng Anh dịch như thế nào

Chữ "Tâm" thì nghĩa đen dịch ra sẽ là "heart".
Kibithanh09: câu đó mình sẽ viết là "We see that you have worked with ..."
11:40 SA 04/08/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Bạn Zoe.
Nước Pháp là nước Pháp và Việt nam là Việt nam. Bạn ở Pháp, muốn ca ngợi Pháp, bênh vực Pháp, đem Pháp ra so với VN thì tôi sẽ vẫn hỏi lại bạn câu cũ: lí do gì mà thuộc địa của Pháp đều nghèo hèn và tham nhũng? có phải đây là thứ văn hóa Pháp đem đi khai hóa cho dân bản địa hay không?

Thở dài :)
Bao giờ bác Boom chỉ ra được zoe ca ngợi Pháp ở đâu thì ta bàn tiếp nhé :). Chứ cứ ngoại suy kiểu này mệt lắm. Câu hỏi về thuộc đại P thì zoe đã từng trả lời bác rồi (nhờ bạn Anth chứng giám xem zoe có ca ngợi Pháp ko :)).
Việc xây dựng ĐCT ở Pháp có lợi ích đặc trưng cho nước Pháp. Nếu muốn dùng Pháp làm ví dụ để phản đối việc xây ĐCT thì cần so sánh sự khác nhau về địa lý lịch sử kinh tế của hai nước, để thấy là ĐCT có thể có lợi ở một nơi mà không ở nơi khác. Chứ không nên trích ra những điểm ko hay của ĐCT ở Pháp và ko chỉ ra điểm hay, vì như thế sự phân tích không toàn diện.
11:44 SA 16/06/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Những ghi chép này mang tính lẻ tẻ, và bàn về một tuyến đường sắt họ muốn mở thêm, trong bối cảnh năm 2009 kinh tế khủng hoảng.
Về việc TGV ở Pháp có lãi (trừ khủng hoảng năm 2009) là một thực tế (chứ không chỉ là ý kiến của ai).
Đây là bài báo dự báo cuối năm 2009 về tình hình thua lỗ của ngành đường sắt Pháp (do việc mở thêm đường chưa thu hồi vốn + khủng hoảng kinh tế), trong đó cái câu "TGV là con bò sữa truyền thống" của ngành đường sắt được nhắc đi nhắc lại. Điều này khá hiển nhiên đó bác Boom, với những người sống ở Pháp hay biết kỹ về Pháp.
http://www.lepoint.fr/actualites-economie/2009-09-29/transports-la-sncf-sera-deficitaire-en-2009/916/0/381341
Mình nhấn mạnh lại là mình không có ý kiến gì về việc xây dưng TCT ở VN, và ở đây mình chỉ bàn về thông tin TGV có lãi hay không. Để bàn về các vấn đề trọng đại này cần vốn kiến thức kinh tế giao thông, kỹ thuật khá cao. Việc thông tin như trong bài báo trên mình thấy thiếu tính tổng quát, dễ gây hiểu nhầm, càng làm vấn đề thêm phức tạp trong khi thông tin là vô cùng quan trọng trong các vấn đề này. Đã nói về TGV ở Pháp thì phải tổng kết đầy đủ các mặt trong tiến trình lịch sử. Dù sao Pháp và Nhật là hai nước đầu tiên đầu tư vào TCT, có một khoảng thời gian tương đối dài rồi.
Thế Zoe phát biểu thế nào khi chính người Pháp họ nói về TCT của họ thế này:
Từ Paris, tôi vẫn thường đi miền nam nước Pháp vì lý do công việc hoặc đi nghỉ hè. Cứ mỗi lần chuẩn bị đi, tôi đều đặt cho mình câu hỏi: đi ôtô, tàu cao tốc hay máy bay?
Thật ra cũng không quá khó để có lời giải đáp. Đi nghỉ cả gia đình bốn người thì đi ôtô là hợp lý nhất về mặt tài chính, dù thời gian trên đường có lâu hơn.
Đi tàu cao tốc (người Pháp thường gọi tắt là TGV) trên quãng đường dài 770km ấy (từ Paris đến Marseille) mất độ 3 giờ 20 phút. Nhưng túi tiền hao hụt thấy rõ: 90 euro vé một chiều (dĩ nhiên sẽ rẻ được gần 2/3 nếu mua vé trước một tháng nhưng sẽ không được đổi vé, đổi giờ). Đi và về mất 180 euro, tương đương 16% lương tối thiểu ở Pháp.
Nhưng nếu phải đi vì công việc thì tôi lại chọn TGV vì có thể nghỉ ngơi trên tàu hoặc tranh thủ làm việc. Xét về thời gian đối với máy bay cũng tương đương vì thời gian ra sân bay và chờ làm thủ tục khá lâu.
Xét về giá cả thì hiện ở châu Âu các hãng hàng không giá rẻ đã khiến các công ty đường sắt phải méo mặt. Vì thế tôi có thể kiếm vé từ Paris đi xuống miền nam với giá chỉ độ 25-30 euro.
"Ở những đường dài, tàu TGV hiện đang bị hàng không giá rẻ cạnh tranh. Tàu cao tốc chỉ khai thác có lãi khi số tàu chạy nhiều và số khách ổn định"
Ông Pierre Gembi
(nhà nghiên cứu của ban địa lý, Đại học Cergy-Pontoise)

Ở Pháp, cũng như châu Âu nói chung, để cổ xúy tàu cao tốc, người ta sẽ nói với bạn rằng đó là loại tàu ít gây ô nhiễm môi trường vì không thải khí CO2. Điều đó đúng nhưng chưa đủ vì nên nhớ khi làm đường tàu thì các phương tiện làm việc thải khí không ít, rồi chuyện chặt phá rừng để lấy đất làm đường sắt. Chuyện nguồn điện cũng là điều đáng bàn vì những đoàn tàu TGV đó ngốn điện khá nhiều. May mà ở Pháp có nguồn điện hạt nhân dồi dào.
Đường tàu TGV đầu tiên ở Pháp ra đời vì lý do kinh tế. Nó nối Paris với Marseille và đi qua Lyon là hai thủ phủ kinh tế ở phía nam. Nhu cầu đi lại của người Pháp trên trục đường trên thuộc hàng cao nhất nước nên ý tưởng về việc rút ngắn thời gian đi lại từ 5 giờ còn 2 giờ rưỡi lúc đó thuyết phục khá nhiều người.
Nhưng khi nghe nói đến số tiền đầu tư khổng lồ mọi người cũng e ngại. Lúc đó, tổng thống Valérie Giscard d’Estaing tuyên bố hùng hồn: “Chúng ta có đủ phương tiện cho các tham vọng của chúng ta!”. Sự thật là nước Pháp vẫn nằm trong nhóm tám quốc gia giàu có nhất thế giới. Nhưng cho đến giờ, sau nửa thế kỷ, người đóng thuế ở Pháp vẫn còn è cổ trả món nợ làm TGV.
Vì lẽ đó những tuyến TGV sau này thường vấp phải phản ứng của các chuyên gia và dân chúng. Ngoài chuyện “tiền đâu” còn là chuyện phát triển khu vực. Bởi câu chuyện TGV chỉ là câu chuyện “đầu - cuối”. Những địa phương nằm trên đường đi của đoàn tàu chẳng được hưởng chút lợi ích gì từ đường tàu hiện đại đó.
“Năm 2010 này, liệu chúng ta vẫn còn đủ khả năng cho thứ tàu sang trọng đó? Lẽ ra nên dành tiền đầu tư cho những lĩnh vực cấp thiết mà mọi người đang cần như chăm sóc y tế, giáo dục, việc làm...” - bà Andrée Oger, nghị sĩ thuộc Đảng Cộng sản Pháp, nói.
Thật sự xét theo tiền đầu tư cho đường tàu sắt hiện đại này thì khá tốn kém: khoảng 1,7-2 tỉ euro cho mỗi 100km, cao gấp ba lần chi phí làm đường xa lộ bốn làn xe hữu ích cho các địa phương vùng sâu, vùng xa. Nếu là vùng địa hình đồi núi nhiều thì chi phí có thể lên gấp đôi vì với tàu cao tốc không có chuyện đi vòng.
Nhưng một điều cần nhớ nữa là chi phí xây dựng đường sắt khá lớn, chi phí bảo trì, duy tu cũng không nhỏ: khoảng 1 triệu euro/km/năm.
Vì vậy, ngoài tuyến đường Paris - Lyon - Marseille có lãi khoảng 4,2%, các tuyến đường TGV khác của Pháp đang là gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Tuyến đường miền đông mới mở đang lỗ ròng 100 triệu euro mỗi năm, sau khi trừ ra mọi khoản trợ giúp của chính phủ.
Vì tình thế này, Công ty Đường sắt quốc gia Pháp (SNCF) chọn giải pháp tăng giá vé: tăng thêm hơn 30% từ năm 2010. Điều đó càng làm cho TGV mất giá trước máy bay.
“TGV dễ làm ta mơ mộng vào lúc đầu và sau đó sẽ làm ta thất vọng nếu trông mong vào nó nhiều quá” - ông Pierre Gembi, nhà nghiên cứu của ban địa lý, Đại học Cergy-Pontoise, nhận xét. Ông từng làm việc trong ban lập kế hoạch hệ thống đường sắt Pháp.
Những tuyến đường mới của Pháp ở miền đông và miền tây chẳng hạn hiện chỉ đông vào ngày cuối tuần hoặc các kỳ nghỉ. Ông Gembi kết luận: “Vì vậy sẽ là không hợp lý khi đầu tư nhiều cho nhóm nhỏ người thụ hưởng như vậy. Những lãnh đạo chính trị địa phương có thể tự hào khoe vùng mình có tàu cao tốc chạy ngang qua nhưng liệu có ích gì? Tàu chỉ chạy cái vèo qua. Tốt hơn nên dành tiền đầu tư cho các đoàn tàu địa phương, dù có chậm một chút nhưng khách hàng ổn định và hữu ích cho dân chúng ở đó”.
Trong báo cáo trình Chính phủ Pháp năm 2009, ông Philippe Rouvillois - thành viên Ủy ban kinh tế và xã hội - viết: “Tốt hơn là nên làm những đường tàu ngắn và trung bình nối các thủ phủ ở địa phương”.
Từng lãnh đạo Ban Năng lượng hạt nhân (CEA) và cả SNCF nên ông Rouvillois hiểu mình nói gì: “Tham vọng san bằng hố sâu chênh lệch phát triển giữa các vùng miền ở Pháp đã bị hỏng vì TGV. Vì muốn chạy nhanh và chạy xa nên tàu dừng rất ít và chỉ nhắm đến những đô thị lớn, bỏ mặc những vùng vốn đã kém phát triển”.
VÕ TRUNG DUNG ghi chép từ Paris
10:03 SA 15/06/2010
Hội phiên dịch tiếng Anh
There is an ecstacy that marks the summit of life, and beyond which life cannot rise. And such is the paradox of living, this ecstacy comes when one is most alive, and it comes as a complete forgetfulness of living, comes to the artist, caught up and out of himself in a sheet of flame; it comes to the soldier, war-mad on a stricken field and refusing quarter;....
------------------
Chào các bạn, trong đoạn văn trên mình hiểu nôm na "refusing quarter" nghĩa là không có quyền chọn lựa, người lính khi ra trận thì phải chiến đấu một mất một còn, anh không giết kẻ địch thì kẻ địch sẽ giết anh... Các bạn thấy thế nào, có ổn không?
Cảm ơn nhiều nhé!

refusing quarter = từ chối không xin đừng giết. Nôm na là không "xin tha sống" :)
05:05 CH 14/06/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Mình xin tham gia tiếp loạt câu hỏi về WWII.
Nhân 65 năm ngày chiến thắng chủ nghĩa phát xít, Boom có một loạt câu hỏi dành cho các bạn Hội sử và yêu sử, mong mọi người cùng tham gia:
12. Phi công tiêm kích nào hạ nhiều phi cơ đối phương nhất?

Do cách tính của mỗi nước khác nhau, nên nhận định khó thống nhất. Quân đội Anh tính theo kiểu chia số máy bay và số phi công, nhưng Đức tính theo "one pilot, one kill", và nếu tính theo kiểu Đức thì Erich Hartmann là phi công tiêm kích hạ nhiều đối phương nhất.
Thông tin về Erich Hartmann trên wiki
http://en.wikipedia.org/wiki/Erich_Hartmann
12:26 CH 14/06/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
"Cho tới nay ngoài tuyến ĐSCT Tokyo-Osaka ở Nhật là có lãi ra (vì người ta dùng nó để đi làm hàng ngày như đi xe bus, đâu phải là đi du lịch), các tuyến ĐSCT đã khai thác khác đều không có lãi vì không đủ lượng khách cần thiết, song xét tới hiệu quả về các mặt khác (như hiệu quả xã hội, môi trường, tiết kiệm năng lượng, phục vụ những thời kỳ lượng khách tăng đột xuất ...) nên người ta vẫn chấp nhận khai thác."

Bàn về các vấn đề này yêu cầu một kiến thức rộng hơn lịch sử rất nhiều. Mình không dám có ý kiến gì, chỉ có một thông tin là tác giả bài báo này chưa nghiên cứu kỹ rồi. Tàu cao tốc TGV ở Pháp là có lãi (lãi thật sự chứ không phải chỉ là lợi ích kinh tế xã hội chung) và nó được mệnh danh là "con bò sữa" của ngành đường sắt. Đức bây giờ cũng mở rộng tuyến cao tốc, có lãi không thì mình không biết.
08:12 SA 11/06/2010
Help - Kinh nghiệm đàm phán lương bổng

Mọi người giúp em gỡ rối với, đời em đang vô tư cuộc sống nhẹ tênh tự nhiên hai đêm nay mất ngủ. Mà tính em dát, giao tiếp kém nên những vụ thế này là sợ lắm lắm ấy

:)
Chị nghĩ em cứ thử hỏi có thể thêm lương và các khoản được ko ? (ko nói bao nhiêu). Họ sẽ đề xuất nếu có thể. Mình nói để mình suy nghĩ ... Cứ qua thái độ của người phỏng vấn mà tính tiếp.
Chúc mẹ miu đàm phán thành công :Rose:.
02:47 CH 07/06/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Mình mạnh dạn (hay chính xác là liều lĩnh) đóng góp vào series câu hỏi này của bác Boom. Một vài câu dễ nhất và đã tưng được bàn đến.

7. Quân đội nước nào tham chiến muộn nhất?

Nếu nói về quân đội chính thức chứ không phải những người tình nguyện, có lẽ là Quân đội Mexico. Quân đội Mexico vào tháng 3 năm 1945 gửi một đơn vị Không quân mang tên Escuadrón 201 đến Không Quân Mỹ ở Viễn Đông. Đơn vị này tham gia chiến đấu vào tháng 6 năm 1945. Đặc biệt họ tham gia ném bom quân đội Nhật ở đảo Luzon và Formosa.
http://en.wikipedia.org/wiki/Escuadr%C3%B3n_201
8. Quân đội nước nào tham gia nhiều phe nhất?

Khá nhiều, Liên Xô, Phần Lan, Bungari, Ý, Rumani, và còn nữa (??) ...
18. Trận đấu tăng kinh khủng nhất?

Trận Prokhorovka là một trận đánh diễn ra giữa Tập đoàn quân thiết giáp số 4 của phát xít Đức với Tập đoàn quân cận vệ số 5 của Hồng quân Liên Xô diễn ra tại làng Prokhorovka.
Một số thông tin về trận này đã được bác Boom post trong một bài cũ
http://www.webtretho.com/forum/f140/hoi-nhung-nguoi-yeu-thich-lich-su-115867/index27.html
10:06 SA 03/06/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Vì là topic lịch sử :), mình xin post một bài viết có tóm tắt về Bảy Đức Phật trong các thời kỳ lịch sử và vài dòng sơ lược về sự khác nhau giữa quan niệm Tiểu Thừa và Đại Thừa cũng như cách thờ cúng.
Việc ít người biết tiếng Phạn đúng là một ngăn cản lớn đến việc tiếp cận đạo Phật Nguyên Thủy và các tông phái sau đó. Chính trong phong trào Chấn hưng đạo Phật ở VN, một trong những việc quan trọng nhất là dịch Kinh sách.
==================
Bảy đức Phật trong thế giới ta bà
Nguyễn Dư

http://chimviet.free.fr/tacgia/ngdu/nddg050.htm
Từ trước đến giờ, tôi cứ đinh ninh rằng chỉ có một đức Phật là Phật Thích Ca, còn Phật Bà Quan Âm là do người đời sau thêm vào, và đức Phật Di Lặc thì chưa giáng sinh...
Một hôm được xem bức tranh dân gian "Ông sư đội mũ thất Phật (bảy đức Phật)", tôi bàng hoàng ! Rõ ràng chiếc mũ có bảy mặt, mỗi mặt vẽ hình một đức Phật. Như vậy là có đến bảy đức Phật ! Hiểu biết của tôi thật là nông cạn, thô thiển. Từ ngày đó trong đầu tôi cứ lởn vởn câu hỏi: bảy đức Phật là những đức Phật nào ? Các ngài là ai ?
May sao lời giải đáp cho thắc mắc này, tôi đã tìm thấy trong bộ kinh Trường A Hàm (1). Tôi xin chép tóm tắt ra đây, để giúp ai muốn tìm hiểu, đỡ mất thì giờ tra cứu.
Theo bài kinh thứ nhất (Nhân duyên giáng sanh, thành đạo, giáo hóa của bảy đức Phật trong thế giới Ta bà), có ba đức Phật của kiếp quá khứ (Trang nghiêm kiếp) và bốn đức Phật của kiếp hiện tại (Hiền kiếp). Bài kinh không nói đến kiếp vị lai (Tinh tú kiếp).
Bảy đức Phật gồm :
1. Đức Phật Tỳ Bà Thi của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại thành Bàn Đầu Ma Na, và chứng (đắc đạo) dưới cây Bà la, cách nay 91 kiếp. Thuở ấy nhân loại sống 8 vạn tuổi. Ngài có 3 hội thuyết pháp gồm 168000, 100000 và 80000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Kiển Trà và Chất Sa. Đệ tử chấp sự (người hầu hạ giúp đỡ) của ngài là Vô Ưu.
Cha ngài là Bàn Đầu Ma Đa, mẹ là Bàn Đầu Ma Để, ngài có con tên là Phương Ưng.
2. Đức Phật Thi Khí của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại thành Quang Tướng, chứng dưới cây Phân đà lỵ, cách nay 31 kiếp. Thuở ấy nhân loại sống 7 vạn tuổi. Ngài có 3 hội thuyết pháp gồm 100000, 80000 và 70000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là A Tỳ Phù và Tam Bà Đà. Đệ tử chấp sự là Nhẫn Hạnh.
Cha ngài là Minh Tướng, mẹ là Quang Diệu.
3. Đức Phật Tỳ Xá Baø của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại thành Vô Dụ, chứng dưới cây Bác Lạc Xoa, cách nay 31 kiếp. Thuở ấy nhân loại sống 6 vạn tuổi. Ngài có 2 hội thuyết pháp gồm 70000 và 60000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Phò Du và Uất Đa Ma. Đệ tử chấp sự là Tịch Diệt.
Cha ngài là Thiện Đăng, mẹ là Xưng Giới.
4. Đức Phật Câu Lưu Tôn của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại thành An hòa, chứng dưới cây Thi lỵ sa. Thuở ấy nhân loại sống 4 vạn tuổi. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm 40000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Tát Ni và Tỳ Lâu. Đệ tử chấp sự là Thiện Giác.
Cha ngài là Lễ Đức, mẹ là Thiện Chi.
5. Đức Phật Câu Na Hàm của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại thành Thanh tịnh, chứng dưới cây Ưu đàm bác la. Thuở ấy nhân loại sống 3 vạn tuổi. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm 30000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Ưu Bà Hiển Xí Đa và Uất Đa La. Đệ tử chấp sự là An Hòa.
Cha ngài là Đại Đức, mẹ là Thiện Thắng.
6. Đức Phật Ca Diếp của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại thành Ba la nại, chứng dưới cây Thi câu loại. Thuở ấy nhân loại sống 2 vạn tuổi. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm 20000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Đề Xá và Bà La Bà. Đệ tử chấp sự là Thiện hữu.
Cha ngài là Phạm Đức, mẹ là Tài Chủ.
7. Đức Phật Thích Ca của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại thành Ca tỳ la vệ, chứng dưới cây Bát đa (Bồ đề). Nhân loại bây giờ sống 100 tuổi. Hội thuyết pháp của ngài được 1250 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Đệ tử chấp sự là A Nan.
Cha ngài là Tịnh Phạn, mẹ là Đại Hóa. Ngài có con tên là La Hầu La.
Về sự tích các đức Phật, có sách chép : Ca Diếp và A Nan Đà (hay A Nan) là hai đệ tử của đức Phật Thích Ca (2) (3).
Về mặt giáo lý, tông phái Đại thừa tự cho là hiểu ý sâu xa của Phật, chủ trương chỉ theo tinh thần lời Phật dạy mà tiến hóa. Người tu đạo phát nguyện tự giác, giác tha, cứu mình và cứu chúng sinh. Tông phái Tiểu thừa thì tự cho là theo đúng lời Phật dạy, mọi việc đều chỉ cần theo đúng các kinh điển. Người tu đạo nhằm tự cứu lấy mình.
Tuy cả hai tông phái đều nhắm mục đích cứu khổ, giải thoát, nhưng vì quan điểm có khác nhau, nên cách hành đạo, thờ cúng cũng có khác nhau.
Về mặt hình thức, chùa là nơi thờ Phật. Việt nam là nước có nhiều chùa, nên các đức Phật được thờ cũng nhiều !
Tại các chùa theo phái Tiểu thừa, trên chánh điện chỉ bày tượng Phật Thích Ca, giáo chủ Phật giáo. Ngoài ra không có pho tượng nào khác. Ngược lại, các chùa theo phái Đại thừa, chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu, thờ nhiều Phật, nhiều nhân vật của Phật giáo. Nhiều chùa còn thờ thêm thần thánh của đạo Lão, của tín ngưỡng dân gian (2) (3).
Vào một ngôi chùa theo Đại thừa, ngước lên chánh điện, ngó sang bên trái, ngoảnh qua bên phải, nhìn lại phía sau, khách thập phương có cảm tưởng như đang thăm viếng một viện bảo tàng trưng bày tượng. Lớp trong lớp ngoài, tầng trên tầng dưới. Tượng Phật, tượng La hán, tượng Bồ tát, tượng Hộ pháp. Mỗi giới lại có nhiều vị. Có chùa cho là chưa đủ, bày thêm Đế Thích, Phạm Thiên, Ngọc Hoàng, Minh Vương, Nam Tào, Bắc Đẩu... Sơn son thếp vàng rực rỡ, chữ nho lớn nhỏ, dọc ngang (4). Phật tử nào chưa biết rõ lai lịch, vai trò của các vị được tạc tượng, đến chùa lễ Phật thường bị choáng ngợp, hoa mắt, ngẩn ngơ. Các cụ cho rằng càng nhiều càng hay, càng to càng quý. Đám trẻ đứa nào nhát gan thì đâm ra sợ sệt, đứa nào bạo dạn mới dám tò mò đặt câu hỏi... Câu trả lời xoay quanh Tam thế, Tam thân, Thập bát La hán, Thập điện Diêm vương... Càng huyền bí, càng linh thiêng. Giản dị quá hóa phàm tục. Kẻ mới bắt đầu học Phật hoang mang như lạc vào rừng, chỉ thấy cây, cây nhiều che lấp cả cánh rừng, ngăn mất nẻo về. Bậc uyên thâm giáo lý gật gù, trầm trồ khen ngợi...
***
Tôi mơ một ngày trời trong sáng, êm dịu, được thả bộ nơi đồng quê Việt nam, thơ thẩn dạo chơi giữa ruộng lúa, khóm tre. Bỗng nghe tiếng chuông chùa ngân vang, từ đâu vọng lại. Như mời, như gọi...
Tôi vào thăm chùa. Chùa làng nhỏ, bốn bề rêu mốc. Chánh điện bày biện đơn sơ, hai ngọn đèn dầu chỉ đủ soi sáng một pho tượng Phật. Khói hương tỏa mùi thơm nhẹ nhàng, không làm điếc mũi nhức đầu. Sư cụ đang tụng kinh. Chuông mõ điểm nhịp đều đặn, khoan thai. Chùa không có máy tăng âm, nhưng chú ý nghe cũng nhận ra sư cụ tụng kinh bằng tiếng Việt.
Tụng kinh xong, sư cụ gọi chú tiểu mang ấm nước vối ra mời khách. "Tiếp khách mà không có được chén trà Tàu nóng thơm. Xin ông bỏ qua. Chùa còn nghèo". Tôi trân trọng uống cạn chén nước vối. Chuyện trò cùng sư cụ. Chuyện đạo, chuyện đời...
Bước ra khỏi cổng chùa, một làn gió nhẹ thoáng qua, tôi rùng mình, văng bật ra khỏi giấc mơ...
Nguyễn Dư
***
(1) Thích Trí Đức : Kinh Trường A Hàm, NXB Phật học viện Trung Phần, 1962.
(2) Toan Ánh : Tín ngưỡng Việt nam, quyển I, NXB Xuân thu, Hoa kỳ (in lại), t.276-308.
(3) Louis Bezacier : L'art vietnamien, Edition de l'Union française, Paris, 1954, p.152-176.
(4) Võ Văn Tường : Việt nam danh lam cổ tự, NXB Khoa học xã hội, Hà nội, 1993.
10:02 SA 02/06/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Dạ, đúng ạ. Đệ Tử Ca Diếp của Thích-ca Mâu-ni thì không phải là Phật.
Phật Ca Diếp quen thuộc với quần chúng lắm mà. Người có bài kệ với hai câu ai cũng biết: Đừng làm điều ác, phải làm điều lành.
Các Phật tuy có khác nhau về thời gian nhưng các lời dạy là tương đồng. Những điều Phật hiện tại khám phá đã được các vị Phật quá khứ khám phá, mà chẳng qua thời gian lịch sử làm mai một. Đó chính một nét rất thú vị trong thế giới quan của đạo Phật.
PS: Tháp Phước Duyên ở Huế có một tầng thờ Phật Ca Diếp đấy ạ.
08:52 SA 02/06/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Theo truyền thuyết nhà Phật thì đây là vị Giáo chủ ngôi tương lai, còn Đức Adidha Như lai Giáo chủ ngôi quá khứ, Thích Ca Mầu Ni Phật giữ ngôi hiện tại.

Đức Adidha bác Boom nói trên là Phật A-di-đà (amitābha hay cách phiên âm khác là amida)??
Theo zoe hiểu thì Phật Quá Khứ là Ca-Diếp. Phật A-di-đà trụ trì cõi Cực lạc. Đức Thích-ca Mâu-ni từng giảng về A-di-đà. Theo quan điểm Tam thân của Đại thừa thì Đức Thích-ca Mâu-ni là Ứng thân (hiện diện trên trái đất và hay đi kèm với một vị Bồ Tát, cùng với Thích-ca Mâu-ni là Bồ Tát Quán Thế Âm) của Phật A-di-đà. Phật Di-lặc trong tương lai là Ứng thân của Phật Bất Không Thành Tựu. Phật Ca-diếp là Ứng thân của Phật Bảo Sinh.
Nôm na Thích-ca Mâu-ni như là Đại Sứ của Phật A-di-đà trên Trái đất (nôm na thôi nha :)).
Đó là nhìn theo Phật tính. Nếu nhìn theo thời gian thì có Tam thế Phật, nghĩa là Phật của ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ ba vị Ca-diếp (sa. kāśyapa), Thích-ca Mâu-ni (sa. śākyamuni) và Bồ Tát Di-lặc (sa. maitreya).
Mình tranh thủ hỏi một câu, tượng ba ông Phúc Lộc Thọ có phải không nên để trong phòng khách? Có phải giữ gìn cẩn trọng ko? Mình thì tôn trọng lắm, mà bọn trẻ con toàn lôi ra chơi :(
10:12 SA 01/06/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Zoe là dân Toán có khác, đòi hỏi chính xác quá! Như ta đã biết, ai đã thành Phật tức là phải “hóa” rồi. Vậy đương nhiên không thể “đang”, hay “sẽ” được nữa. Mà “đang” hay “sẽ” thì quan điểm của lão Boom mảnh đất người ta tự xưng là trung tâm của vũ trụ kia chất chồng tội ác, từng phá đền chùa, đập tượng, bắn giết sư sãi, xâm lược cả quê hương Phật giáo, luôn luôn thâm độc bành trướng ra xung quanh, ăn cướp biển đảo và không nhỏ đất của Việt nam, chúng chỉ “sẽ” thành quỷ mà thôi.

Mình xin nói rõ là khi nói về thời tương lai, mình nói về vũ trụ quan của đạo Phật, mà khá độc lập với dân tộc hay đất nước cụ thể.
04:44 CH 28/05/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Zoe là dân Toán có khác, đòi hỏi chính xác quá! Như ta đã biết, ai đã thành Phật tức là phải “hóa” rồi. Vậy đương nhiên không thể “đang”, hay “sẽ” được nữa.

Có "đang" và "sẽ" chứ, nếu chúng ta không giới hạn trong một số dòng của đạo Phật. Chỉ tranh thủ nói vậy.
Zoe tạm thời xin rút khỏi trường thi.
03:31 CH 28/05/2010
Hội những người yêu thích lịch sử

Câu hỏi dành cho những người mộ Đạo Phật và hay đi đền chùa: Có bao nhiêu vị Phật là người Trung Quốc? Pháp hiệu là gì?

Có dành cho người không đi đền chùa không ạ ?? :)
Câu hỏi của bác Boom quả là thú vị. Bác có thể hạn chế lại context được ko :) ?? Tiểu Thừa hay Đại Thừa, kỷ nguyên nào, "là người Trung Quốc" tức là "từng là, đang là hay sẽ là" ???
01:00 CH 28/05/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Mình không rành về việc phải thế nào mới được coi là đóng góp cho đạo Phật để được thờ. Chỉ biết rằng Quan Vũ là một nhân vật được nhắc nhiều trong sách vở Phật Giáo. Thiết nghĩ có giá trị triết học hơn tín ngưỡng.
Ông Quan Vũ được thờ trong dân gian ở Việt Nam là ông Quan Vũ đã được Việt hóa. Người Việt dùng ông làm biểu tượng cho lòng yêu nước (cho dù việc che mắt Pháp cũng quan trọng, nhưng mật thám Pháp, cũng người thường, khó mà dễ tin rằng những người Việt thờ một người Trung Quốc tức là không yêu nước). Có những giá trị vượt khỏi mọi biên giới. Trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của VN chẳng có hai câu nói rất hay, của hai nước từng có chiến tranh với VN, chẳng nhẽ chỉ vì đề cao tinh thần dân tộc ta lại bỏ đi.
Tuy nhiên mình ủng hộ không thờ Quan Công nữa, chắc Ngài cũng rất vui vì như thế giảm trừ được nhiều mê tín dị đoan và tốn kém :).
Nhân nói về hình ảnh Quan Công trong đạo Phật, chép lại một đoạn trong bài giải thích Kinh Kim Cương. Bài này thú vị vì dùng nhiều văn chương để giải thích triết lý đạo Phật, chắc bạn Anth sẽ thích.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/baikelucnhu.htm

Đạt đến cảnh giới tự chứng mới thực sự là mục đích của sự quán chiếu thế gian Như Mộng. Theo tinh thần Đại thừa, khi cả cõi thế hiện ra như giấc mộng thì toàn thể vạn hữu đều hòa nhập vào bản giao hưởng vô cùng huyền diệu của cảnh giới Hoa Nghiêm. Khi quán tưởng được thế gian là Như Mộng thì cõi đời sẽ hiện ra trong vẻ đẹp rực rỡ và bi tráng của cảnh giới vô tướng, để con người có thể mở rộng tâm thức mà chứng nhập được Như Huyễn tam muội. Có lẽ đó mới thực sự là ý nghĩa của chữ “Mộng” trong bài kệ Lục Như.
Trong Tam quốc chí diễn nghĩa có một đoạn có thể được xem như là phần minh họa cho cảnh giới được mô tả trong kinh Lăng Già, theo tinh thần của bài kệ Lục Như.
Sau khi thất thủ Kinh Châu, Quan Vân Trường bị vua Ngô là Tôn Quyền chém đầu. Linh hồn ông cứ cưỡi ngựa Xích Thố bay phiêu diêu khắp nơi, kêu gào “Trả đầu cho ta”. Khi đến núi Ngọc Tuyền, sư Phỗ Tĩnh nghe tiếng kêu trên không, liền bước ra khỏi am, cầm cây phất trần gõ vào cửa mà hỏi “Vân Trường an tại?” Câu hỏi đơn giản đó lại giống tiếng hét của Lâm Tế, cây gậy của Đức Sơn khiến hồn ông sực tỉnh, liền hạ ngựa xuống trươc am để nghe thuyết pháp và quy y cửa Phật. Câu này thường được dịch là “Vân Trường ở đâu?”, mà lẽ ra nên hiểu là “Vân Trường có chăng?” nghĩa là “Vân Trường có thực sự tồn tại chăng?” mới đúng tinh thần của sư Phổ Tĩnh muốn điểm hóa cho vị danh tướng huyền thoại này.
Nhà phê bình Mao Tôn Cương cho rằng chỉ một câu đó của sư Phổ Tĩnh cũng bao hàm cả diệu nghĩa của cuốn kinh Kim Cương. Nhận xét đó quả vô cùng sâu sắc. Chính tại sát na thù thắng mà vị danh tướng đó nhận ra diệu nghĩa của chữ Mộng, chữ Không, và tạo được sự chuyển y trong tâm thức. Lúc đó, ắt hẳn anh hồn Vân Trường, như vua quỷ Rāvana hoang mang trước cảnh tượng tất cả đều đột nhiên biến mất, cũng hoang mang trước câu hỏi “Vân Trường an tại?”. Đó là một công án giúp Quan Công hoát nhiên đốn ngộ “Quan Công anh hồn đốn ngộ”. Chuyện thành bại thị phi đáo cùng cũng chỉ là hư không mộng ảo. Kinh Châu chỉ là mộng. Thục cũng chỉ là mộng. Ngụy hay Ngô cũng chỉ là mộng. Tham vọng tranh bá đồ vương cũng chỉ là mộng. Mà cả đến bản thân của Vân Trường cũng là mộng nốt. Vân Trường an tại? Có nghĩa là “Nhất thiết Ngụy Ngô Thục, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Bởi vậy, sau khi nghe sư Phổ Tĩnh thuyết pháp, Quan Công mới đại ngộ rồi cúi đầu làm lễ quy y mà đi ”mang nhiên đại ngộ, khể thủ quy y nhi khứ” (Tam quốc chí diễn nghĩa, hồi 77).
Trong Tam quốc chí diễn nghĩa, đoạn văn tả cảnh trên chỉ ngắn ngủi có vài dòng, nhưng đó mới chính là chỗ mà ngọn bút của La Quán Trung đạt đến mức “đăng phong tháo cực, lô hỏa thuần thanh”, khiến người đọc liên tưởng đến bài kệ Lục Như.
11:42 SA 25/05/2010
Hội những người yêu thích lịch sử
Cám ơn bác Boom đã giải đáp :Rose:
Mình xin có chút ý kiến. Quan Công khi sống không liên quan đến đạo Phật, nhưng truyền thuyết dân gian lẫn tôn giáo nói khi chết thì Ngài liên quan nhiều đấy (và chỉ một số nhánh thôi như Thiên Đài Tông) và Ngài ngộ đạo Phật là sau khi chết. Vấn đề là với đạo Phật thì sống chết không quan trọng, nhưng người trần không biết được những gì sau khi chết thì làm sao mà kiểm chứng, nên chỉ là truyền thuyết thôi :).
Thực ra mình đang dòng suy nghĩ từ câu hỏi trước về chế độ thực dân Pháp nên mới hỏi câu này. Sau đây là một bài viết dựa theo sách viết bởi một nhà sử học có tiếng. Bài viết có giải thích phần nào việc Quan Công được thờ ở VN.
QUAN THÁNH XƯA VÀ NAY
LÊ ANH DŨNG
10. Quan thánh với tình yêu nước của người Việt
“Việc thờ phượng ông Quan công, thờ Phật, việc tin tưởng vào chư tiên, chư thánh đã có sẵn từ lâu ở miền Nam...” . Do đó, ảnh hưởng của Quan thánh đối với người miền Nam có lẽ khá quan trọng: “Quan Vân Trường hiện thân của ‘trung cang nghĩa khí’, ‘trung nghĩa thiên thu’ đã ăn sâu vào tâm lý mọi người, qua nhiều tuồng hát bội ‘hàng Hớn bất hàng Tào’, không phản bội, giữ lời thề đào viên kết nghĩa.”
Quan thánh được hiểu như một biểu tượng của tinh thần trọng nhân nghĩa, trung tín, hoạn nạn có nhau, bần cùng không biến tâm, giàu sang không đổi chí, trong mọi hoàn cảnh vẫn một dạ chẳng hai lòng... Những đức tính đó có tác dụng không nhỏ đối với những người nuôi chí lớn, muốn tụ nghĩa để trừ gian, diệt giặc, cứu khổn phò nguy, cứu vớt giang san giữa cơn ly loạn... Thờ Quan thánh hiểu cho sâu xa không phải chỉ là sùng bái cá nhân Quan Vũ thời Tam quốc. “Nét nổi bật là thờ Quan công để nhắc nhở việc kết nghĩa, hoạn nạn giúp nhau...”
Trong miền Nam, nếu đã có trường hợp vì địa phương không có đình làng, người dân sở tại phải quyền biến, “lắm khi, tạm xem đền thờ Quan công là đình làng” , cũng như vậy, khi muốn tránh sự trả thù, đàn áp của thực dân Pháp, người dân vẫn thấy không có gì lấn cấn, băn khoăn trong đời sống tâm linh nên sẵn sàng dựng miếu thờ liệt sĩ chống Pháp qua tấm bình phong là nơi thờ Quan thánh. Về hiện tượng này, Sơn Nam cho biết một thí dụ tiêu biểu, đó là “bốn vị anh hùng chống Pháp ở Cai Lậy (ông Thận, Long, Đức, Rộng) sống mãi trong lòng dân địa phương. Để thực dân không bắt bẻ, gọi chùa Ông (Quan công) nhưng bài vị bên trong ghi Tứ vị thần hồn”.
Từ đó, cũng có thể suy luận thêm rằng không phải tự nhiên mà một số nhà ái quốc Việt Nam thời xưa, khi muốn quy tụ đồng bào chống Pháp, đã ít nhiều vận dụng hình tượng Quan thánh, muốn thỏa mãn phần nào tâm lý quần chúng, nhất là giới bình dân, vốn không phù hợp những lý luận trừu tượng, mà thông thường vẫn có xu hướng dễ chấp nhận những hình ảnh cụ thể, quen thuộc.
Chí sĩ Nguyễn An Ninh (1900-1943) có thể là một thí dụ. Ông là con chí sĩ Nguyễn An Khương, cháu Nguyễn An Cư, quê ở Quán Tre, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Học ở Sài Gòn, qua Pháp du học, hai mươi mốt tuổi (1921) đậu cử nhân luật. Khoảng đầu năm 1927 lại sang Pháp lần nữa học tiếp để thi lấy tiến sĩ luật.
Ngoài nền học vấn phương Tây phong phú như vậy, ông lại “có sẵn một căn bản về triết học Đông phương vững chắc, am hiểu đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng” . Và chắc rằng ông cũng hiểu tâm lý quần chúng, cho nên ngoài những cuộc diễn thuyết ở Hội Khuyến học Nam Kỳ (Sài Gòn), ngoài làm báo La Cloche fêlée (Cái chuông rè), ngoài việc viết sách Tôn giáo, Trưng nữ vương, hay dịch Dân ước (trích sách Contrat social của J. J. Rousseau), v.v... nhằm hô hào, vận động quần chúng yêu nước chống lại xiềng xích thực dân, nhà ái quốc này từng bị thực dân Pháp kết án tù vì “tội Hội kín Nguyễn An Ninh”, chết trong ngục tù Côn Đảo -- đã tìm phương thức tạo ra cho mình một sự gần gũi, đồng cảm ở đồng bào, bằng cách “thờ Quan công, tụng kinh gõ mõ; hình ảnh của người trí thức trở về nguồn để tìm sinh lực”. Có thể ông đã thành công trong một chừng mức nhất định, vì lẽ “nhiều người tuy không hiểu rành chánh kiến của ông (...) nhưng vẫn mến mộ ông, xem ông như vị thánh sống”.
viết: ”Nguyễn An Ninh, chiến sĩ yêu nước nhiệt thành không thể làm ngơ trước ảnh hưởng của tôn giáo, ông dùng chuông mõ, tượng Quan công trưng bày trong nhà...” (Các chi tiết về tiểu sử Nguyễn An Ninh, xem: Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Hà Nội: nxb Văn hóa, 1993, tr. 479-480.)
Một thí dụ khác là đạo Minh sư. Minh sư là một tông phái thờ Tam giáo, nhưng trọng về Lão, sử dụng cơ bút, tu đơn (nội đơn, thiền của đạo Lão). Khởi thủy, môn phái này quy tụ các di thần nhà Minh (Trung Quốc), xuất hiện đầu đời Thanh (cuối thế kỷ 17). Tổ thứ 12 của Minh sư là Trần Thọ Khánh, từng sang Việt Nam năm Giáp ngọ (1894), năm sau về Trung Quốc thì tạ thế. Minh sư lúc đầu nuôi chí “phản Thanh phục Minh”, nhưng với thời gian đã biến thái đi nhiều. Khi truyền sang Việt Nam, Minh sư rất có tiếng ở Trung và Nam.
Ngoài Trung, tại Tam Quan, tỉnh Bình Định có chí sĩ Trần Cao Vân (1866-1916), chính là một đạo sĩ Minh sư.
Ở Sài Gòn, trên đường Phạm Đăng Hưng, Đa Kao, có chùa Ngọc Hoàng, tạo tác trong hai năm 1905-1906, vị chủ chùa đầu tiên là Lưu Minh, ăn chay trường, cũng tu Minh sư.
Chùa của Minh sư gọi là Phật đường. Rất nhiều Phật đường của Minh sư là căn cứ mật của nghĩa quân chống Pháp. Theo Sơn Nam, vào đầu những năm 80 của thế kỷ 19, ở Trà Ngoa (giáp ranh với Cần Thơ) đạo Minh sư rất thịnh. Một ngôi chùa ở Trà Ngoa “về danh nghĩa công khai thì thờ ông Quan đế nhưng bên trong là chùa của đạo Minh sư.”
Một số tranh thờ Quan thánh thường viết phía trên bốn chữ Trung nghĩa thiên thu. Việc kết hợp tín ngưỡng Quan thánh với tình yêu nước của người Việt Nam trong một thời kỳ lịch sử đã qua, phải chăng là muốn mượn hình ảnh Quan thánh thay cho các khẩu hiệu trung nghĩa, để khỏi quá lộ liễu, vừa che mắt kẻ thù ngoại xâm, mà còn ngầm nhắc nhở, khuyên nhau rằng trong cùng tổ chức phải giữ lòng trung nghĩa để mưu đồ việc lớn của nước nhà, giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại xâm.
Cũng vậy, thờ Quan thánh hồi đầu thế kỷ 20 còn gắn liền với đọc kinh Minh thánh. Trong kinh dạy nhiều về trung hiếu, liêm tiết (là những giá trị đạo đức cơ bản của con người đối với gia đình, xã hội, nước non). Trong thời còn bị thuộc Pháp, khi tụng kinh Minh thánh hàng ngày để thấm nhuần những tư tưởng đó, có thể coi là một cách răn mình trước mồi vinh hoa, bả phú quý mà thực dân và tay sai đem ra câu nhử.
Suy rộng như trên, có thể nghĩ rằng, trong tâm lý người Việt, Quan thánh với hoàn cảnh như thế có lẽ không còn là hình ảnh một ông tướng nhà Hán cách xa mười mấy thế kỷ; trái lại Quan thánh trở thành một biểu tượng của trung nghĩa đối với quần chúng bình dân giữa thời nước mất nhà tan. Phải chăng, bằng cách này, người Việt Nam mặc nhiên đã Việt Nam hóa Quan thánh?
LÊ ANH DŨNG
10:58 SA 24/05/2010
z
zoe
Chuyên gia
7.2kĐiểm·26Bài viết
Báo cáo