images
Thịnh hành
Cộng đồng
Webtretho Awards 2025
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Tự kỷ - đồng cảm để đồng hành với con vào đời ...
Ở đây có một số tài liệu có thể có ích cho các bạn:
http://tranvancong.googlepages.com/autism2
Chị MyLang ơi sao em vào Mail Vnautism để Load tài liệu mà không được. Toàn báo Pass không đúng. Có thay đổi gì không hả chị. Chị thông cảm, em là phụ huynh mới nên đang rất sốt ruột và cũng chưa có 1 tài liệu nào trong tay. Chị hồi âm em sớm được không. Em cảm ơn chị!
11:57 SA 05/11/2009
Bé 5 tuổi thích nghịch "chim" - em phải làm gì...
Không cần làm gì cả. Ngày xưa bố các bé cũng đều nghịch thế cả, có khi còn nhiều hơn. Đây là sự phát triển tâm sinh lý bình thường. Mọi hình thức dọa nạt đều gây hậu quả tiêu cực, như sợ hãi, kém tự tin, hoặc càng tò mò, nghịch một cách giấu diếm... càng tai hại.
01:08 CH 09/10/2009
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
Trong khi đợi những nghiên cứu sâu hơn về “thời gian xanh, ” phụ huynh cũng nên chú ý tới cách tiếp cận nhiều triển vọng này để kiểm soát ADHD. Giành thời gian ngòai thiên nhiên không chỉ không hề đắt mà còn dễ làm, nhưng khi phụ huynh đưa con họ vào “thời gian xanh,” họ có thể cũng cần nhiều đến không khí trong lành và thở sâu cho chính họ.

Các bài tập thể dục có thể giúp trẻ ADD/ADHD như thế nào?
Tập thể dục, đặc biệ là chương trình đều đặn đúng giờ giấc và tích cực, có thể giảm bớt những triệu chúng của ADD/ADHD. Đầu tư cho con bạn vào những lớp thể thao hay văn hóa hấp dẫn. Một số trẻ ADD/ADHD phát triển tốt với những môn thể thao đơn/cá nhân cần sự tập trung tinh thần cao độ, như thể dục, nghệ thuật tạo hình, võ thuật, hay đánh kiếm, hơn là những môn thể thao đồng đội, có thể có nhiều thời gian chết. Các bài tập thể dục có thể tăng cường sự tập trung và sự dẫn truyền thần kinh, cũng như giảm trầm cảm, lo âu và thúc đẩy sự phát triển não bộ.

Stephen C. Putnam đã viết một cuốn sách về thể dục như là một sự lựa chọn điều trị cho ADHD có tên Ritalin tự nhiên cho chú ý maratông: Chăm sóc trẻ ADHD của bạn với những bài tập thể dục. Putnam tin rằng những bài thể dục nhịp điệu có hiệu quả lên não cũng như thuốc Ritalin và những chất tác động tâm thần khác (thuốc khác). Ông đề nghị thiết lập chương trình thể dục hấp dẫn con bạn và có vẻ sẽ tạo ra những thay đổi cho những triệu chứng ADD/ADHD. Tập thể dục là sự lựa chọn điều trị lành mạnh cho ADD/ADHD mà có thể có nhiều tác động tích cực khác tới thể chất và sức khỏe tinh thần của trẻ.

Thay đổi thực đơn hàng ngày và chế độ dinh dưỡng có thể giúp trẻ ADD/ADHD không?

Thực đơn hàng ngày và dinh dưỡng có tầm quan trọng với trẻ ADD/ADHD theo những phương diện sau:
- Đúng là trẻ ADHD cần giấc ngủ đầy đủ để hoạt động tốt nhất, trẻ cũng cần chế độ dinh dưỡng tốt và thói quen ăn uống lành mạnh để có những hoạt động tối ưu.
- Trẻ em và người lớn mắc ADD/ADHD có xu hướng rối loạn ăn uống, bao gồm việc ăn uống quá mức và béo phì.

Sự xung động và sự sao nhãng là những triệu chứng của ADD/ADHD gây trở ngại cho việc ăn uống lành mạnh. Sau đây là một số gợi ý để giúp con bạn phát triển thói quen ăn uống tốt:
- Bố trí những bữa ăn ngồi của cả gia đình nơi mà con bạn có thể cho con ăn một bữa cơm lành mạnh, cân đối. Thời gian bữa ăn cũng cần được sắp xếp chặt chẽ trong thời gian biểu, nhất là khi con bạn dễ quên ăn. Hãy làm cho việc ăn uống trở thành một việc đáng lưu tâm.
- Hãy luôn dự trữ (có trong tay) những thức ăn lành mạnh cho những bữa ăn nhanh. Một kho của những thanh protein, hạt hướng dương, trái cây khô, sữa chua, quả hạch không ướp muối, nước sốt táo không đường, và rau quả và trái cây tươi như là táo, cam, chuối, ……(bell peppers), cần tây, và cà rốt.
- Hãy đóng gói bữa trưa thật đầy đủ và lành mạnh cho con bạn thay cho những bữa ăn nhanh buổi trưa (ở trường). Tránh những lúc đói ở trường hay khi tan học khi mà con bạn có thể bị lôi cuốn bởi những bữa ăn nhanh không lành mạnh hay nước xô-đa (sủi bọt có hương vị thơm) từ những máy bán hàng tự động.
- Cung cấp cho trẻ một bữa ăn nhanh lành mạnh khi con bạn mới từ trường về.
- Hãy tạo ra mô hình ăn uống tốt và thói quen ăn những bữa nhỏ.
- Đừng dự trữ nước xô-đa và khoai tây rán. Và hạn chế số lượng pizza mà gia đình bạn ăn.
- Phát huy việc nấu nướng những bữa ăn nhanh, lành mạnh, tốt hơn là nhờ cậy vào những nhà hàng thức ăn nhanh khi bạn không có nhiều thời gian để nấu nướng.
- Hãy chắc chắn rằng con bạn có ăn bữa trưa. Việc tập trung ở trường là đủ khó khăn với trẻ ADD/ADHD, ngay cả khi chưa có sự tác động của bụng đói.
- ủng hộ trường mà trẻ học để cung cấp những thức ăn lành mạnh hơn trong quán quán ăn tự phục vụ ở trường hay máy bán thức ăn.

Tôi có thể giúp con bị ADD/ADHD như thế nào với những mối quan hệ?

Ngòai sự lo lắng về học đường và khả năng trong cuộc đời sau này, các bậc cha mẹ cũng thường xuyên lo nghĩ rằng trẻ ADD/ADHD của họ sẽ không thể kết bạn và duy trì những mối quan hệ quan trọng. Quả thực là trẻ mắc ADD/ADHD thường xuyên có những khó khăn với những tương tác xã hội thông thường và tuân theo vai trò xã hội của mình. Mặc dù vậy, trẻ ADD/ADHD cũng có thể học để trở nên thành công trong các mối quan hệ cũng như học để thành công trong các nhiệm vụ/bài tập và công việc vặt hàng ngày. Bởi vì nhiều trẻ ADHD khá thông minh và sáng tạo, những điều đó giúp chúng hiểu các chiến lược để hòa đồng với người khác. Chúng trở nên đặc biệt hài hước hay lôi cuốn, biết cách nói những gì mà những người khác muốn nghe.
Những mối quan hệ đầu tiên của trẻ là với người lớn, anh chị em ruột, và bạn cùng lứa. Sau đây là một số gợi ý để giúp trẻ thành công trong mỗi loại quan hệ:

Quan hệ với người lớn
- Theo những hướng dẫn ở trên để giúp con bạn (thưởng, phạt, quy định, và cấu trúc), và khuyến khích những những người lớn xung quanh trẻ (giáo viên, những người thân trong gia đình, cô trông trẻ) tuân theo nguyên tắc chỉ đạo.
- Nói chung, nếu bạn có lòng kiên nhẫn và thái độ tích cực về con bạn, những người lớn khác xung quanh trẻ cũng sẽ theo bạn.
- Chia sẽ những công việc làm cho con bạn với những người sẽ chăm sóc trẻ, nhưng cũng nên mềm dẻo/linh hoạt và đừng để bản thân trở nên quá lo lắng rằng con bạn sẽ ứng xử như thế nào khi những người lớn khác chăm sóc.
- Sử dụng những sự giao tiếp hàng ngày và những việc lặt vặt là cơ hội tốt để giúp con bạn cư xử và có những hành vi phù hợp. Sẽ rất khó khăn, nhưng không phải là không thể làm, để dạy con bạn kiên nhẫn và sẽ mất thời gian của con nếu chúng nhìn thấy bạn luôn vội vã, bất lịch sự với những người bán hàng chậm chạp, hay gõ chân một cách thiếu kiên nhẫn khi đợi ở lối đi ở bưu điện. Luôn luôn nhớ rằng trẻ đang dõi theo việc bạn ứng xử như thế nào - bạn có vai trò là kiểu mẫu cho những hành vi phù hợp. Trẻ em đặc biệt vẫn hòa hợp với những người chăm sóc đầu tiên - cách bạn ứng xử như thế nào thực sự ảnh hưởng đến cách trẻ học ứng xử.

Quan hệ với anh chị em ruột
- Cạnh tranh/ghen tị giữa anh chị em ruột có thể nổi lên khi trẻ ADD/ADHD cảm thấy rằng chúng luôn luôn là duy nhất cho những hành vi sai, hay khi anh chị em của chúng cảm thấy rằng chúng được nhận được sự quan tâm thiếu cân bằng (quá nhiều) từ phía bố mẹ. Hãy nhận thức được tầm quan trọng của việc phân chia thời gian ngang bằng cho tất cả con bạn, của việc nêu bật tính cách và khả năng của mỗi trẻ, và có những quy định mà mọi người trong gia đình phải tuân theo.
- Dạy anh chị em của trẻ về ADD/ADHD và những thách thức thực sự đi cùng với nó, nhưng không cho phép trẻ lấy ADD/ADHD như là một lý do bào chữa cho những hành vi sai.
- Hãy đặt kế hoạch cho những hoạt động để cả gia đình bạn có thể làm theo mà không khó thực hiện với trẻ ADD/ADHD. Ví dụ, chơi những đoạn ngắn của trò chơi…… (long board) mà cần đến sự duy trì liên tục tập trung. Khi bạn làm điều này, dù sao, hãy tránh những câu nói như, “làm cho nó dễ hơn cho Johnny.”

Quan hệ với bạn bè cùng lứa
Hãy khuyến khích những mối quan hệ với bạn cùng lứa có vẻ phù hợp với con bạn, và quan sát lúc trẻ chơi cùng nhau để xem chúng tương tác với nhau như thế nào. Sự thành thục, mức độ của kỹ năng, và sự phát triển thể chất của mỗi trẻ có thể quyết định tốt hay xấu cho tình bạn.
- Khi con bạn có những hẹn gặp chơi cùng bạn, hãy đưa ra những luật lệ ở chỗ chơi và để mắt tới con bạn để giúp chúng tuân theo luật lệ và giải quyết những cuộc cãi cọ. Đừng ngại ngần can thiệp trước mặt bạn của trẻ hay kết thúc buổi hẹn chơi nếu xung động của con bạn dẫn tới những hành vi thực sự không thể chấp nhận được. (Nếu bạn làm như vậy, dù sau, hãy chắc chắn rằng nó sẽ giúp con bạn học từ những kinh nghiệm và tạo cơ hội cho những hành vi tốt hơn trong tương lai.)
- Giúp con bạn và bạn của chúng đạt tới những hoạt động thích hợp dựa trên những sở thích và khả năng của con bạn.
- Hãy tuân theo những chỉ dẫn ở trên về việc giúp con bạn trong những mối quan hệ bạn bè, nhưng đừng quá thận trọng/cầu toàn - hãy để cho con bạn có khoảng trống để học cách có những mối quan hệ thành công.
- Hãy lưu tâm tới việc đăng ký tên con vào những nhóm kỹ năng xã hội phụ vụ cho trẻ ADD/ADHD. Hãy hỏi ý kiến của nhà tâm lý học học đường hay nhà lâm sàng về sức khỏe tâm thần để có những sự tham khảo về những nhóm kỹ năng xã hội địa phương. Hãy chắc chắn tìm ra nhóm kỹ năng xã hội có lưu tâm đến sự xung động của ADD/ADHD, nơi mà có thể can thiệp vào sự đáp ứng từ những gì được học từ kỹ năng xã hội. (?) Những nhóm kỹ năng xã hội như vậy se giúp con bạn thử những kỹ năng xã hội trong cuộc sống thực.
- Hãy nhạy cảm với vấn đề lòng tự trọng của con bạn, điều có thể gây nhiều khó khăn cho trẻ ADD/ADHD. Giúp con bạn xây dựng lòng tự tin và niềm tin vào khả năng của bản thân để được giống như những người khác.
- Với lượng (sự) giúp đỡ thích hợp từ người bố/mẹ luôn kiên nhẫn và ủng hộ, trẻ ADD/ADHD có thể thiết lập và duy trì thành công những mối quan hệ.
05:24 CH 06/08/2007
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
NUÔI TRẺ ADD/ADHD :
CHIẾN LƯỢC CHO GIA ĐÌNH VÀ Ở NHÀ

Tác giả : Lisa Flores Dumke, M.A., Robert Segal, M.A., Tina de Benedictis., Ph.D., and Jeanne Segal, Ph.D., contributed to this article. Last modified on: 2/9/06.
Nguồn :
http://www.helpguide.org
Phụ huynh có trẻ mắc ADD/ADHD có thể cảm thấy nản lòng và tuyệt vọng khi cố gắng dạy con ứng xử. Đây là những thứ mà cha mẹ có thể làm để giảm thiểu nét tăng hoạt động của trẻ, mà không cần nhiều sức lực, tính vui đùa và cảm giác về một điều kỳ diệu ở mỗi trẻ. (Barry Belt).

Quá thường xuyên, môi trường tại các gia đình có trẻ ADD/ADHD trở thành một bãi chiến trường. Bố mẹ trẻ ADD/ADHD thường xuyên phản ánh về cuộc sống hàng ngày:
- Thật khó để hòan thành bài tập và công việc nhà.
- Họ và con cái họ thường xuyên nản lòng.
- Họ phải theo dõi đứa con ADD/ADHD của họ không ngớt.

Các thành viên trong gia đình có thể cảm thấy như thế này-hoặc tồi hơn, có thể thực sự là-“chạy” theo trẻ ADD/ADHD và chúng cần quá nhiều thời gian giành riêng và sự quan tâm chú ý. Một kiểu mẫu hình (trẻ gây rối, bố mẹ chạy theo…) có thể phát triển nơi mà bố mẹ nhận ra “vấn đề” của con một cách không khó khăn gì, nhưng lại bỏ qua những lúc trẻ làm tốt, từ đó tạo ra một chu trình nơi mà mọi người bắt đầu cảm thấy thật tồi tệ về chính họ.

Không hề có một quy định nào rằng cứ có ADD/ADHD trong gia đình thì nghĩa là cuộc sống gia đình sẽ hỗn độn, đáng thất vọng và đầy thách thức. Tài liệu này không chỉ cung cấp những chỉ dẫn để cha mẹ quản lý trẻ ADD/ADHD ở nhà, mà còn giúp trẻ có thể quản lý thành công rối loạnh của mình trong tất cả các khía cạnh khác của cuộc sống. Một điều bắt buộc phải làm là cha mẹ trẻ ADD/ADHD phải giành thời gian và có được sự hỗ trợ cần thiết để có được sự kiên nhẫn, sự hướng dẫn, cấu trúc , và quản lý hành vi ở nhà.

Làm thế nào để dạy dỗ thành công trẻ ADD/ADHD?

Trẻ mắc ADD/ADHD cần nhiều sự giúp đỡ hơn những trẻ khác để phát triển qua những giai đoạn khác nhau của thời niên thiếu. Bố mẹ của những trẻ này có thể cũng cần nhiều hơn những sự trợ giúp từ bên ngoài hơn những phụ huynh khác, đặc biệt nó là chắc chắn khi họ thấy được những nhu cầu đặc biệt của con mình.

Hơn nữa, bố mẹ trẻ ADD/ADHD cũng cần quan tâm đặc biệt tới chính bản thân họ bởi họ phải đối phó với những thách thức và khó khăn của bệnh ADD/ADHD-như là trong đa số trường hợp-bố mẹ thậm chí phải đối mặt với những thách thức lớn hơn để có thể giúp đỡ được con mình.

Bố mẹ trẻ ADD/ADHD cần phải:
- Kiên nhẫn và nghị lực để kiểm soát được lo âu bởi có một đứa con với những nhu cầu riêng biệt,
- ý thức sắc sảo/tinh nhạy trong liên kết thành tổ chức với sự mềm dẻo-và khả năng thiết kế mô hình cho trẻ,
- Sự sẵn sàng xin gặp và khả năng phối hợp với những sự hỗ trợ và dịch vụ; bao gồm cả giáo viên, nhà trị liệu và bác sĩ.
- Khả năng xây dựng nên cấu trúc và theo sát tất cả các kế hoạch kiểm soát hành vi,
- Sự sẵn sàng để tham gia các khóa học về ADD/ADHD, sẵn sàng để thách thức sự phủ nhận thường đi kèm với nó, và
- Tinh thần lạc quan và các cách để làm dịu sự căng thẳng của bản thân.

Cũng rất có ích nếu các bậc phụ huynh nhớ:
- Hành vi của con bạn liên quan chặt chẽ đến một rối loạn và xét về đại thể thì không phải do trẻ cố ý làm,
- Con của bạn có những khả năng và đặc điểm rất đáng nể trọng,
- Con của bạn có khả năng học và thành công,
- Tập trung vào cách giúp trẻ thay đổi hành vi không phù hợp,
- Hãy luôn đứng sau lưng/bênh vực trẻ cho tới khi trẻ có thể tự bênh vực, và
- Hãy tin tưởng và ủng hộ con bạn.

Có lẽ quan trọng nhất là, bố mẹ phải có vai trò chính (làm chủ) của sự kết hợp giữa lòng yêu thương và sự kiên định. Sống trong gia đình có cả tình thương và nền nếp sẽ là nơi tốt nhất cho trẻ học cách kiểm soát được khó khăn của mình.
Nếu trong nhà bạn có trẻ trong độ tuổi 13-19 mắc ADD/ADHD, nhiều chiến lược được giới thiệu cho trẻ có thể mang lại hiệu quả. …………………

Làm thế nào để giúp trẻ biết kiểm soát hành vi?

Với những gia đình phải đối phó với ADD/ADHD, tiếp cận hành vi được ứng dụng tại nhà và có thể là chìa khóa để quản lý vấn đề hành vi và duy trì không khí gia đình êm ấm và hạnh phúc. Theo Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, tiếp cận hành vi “được sử dụng vào điều trị ADD/ADHD để cung cấp cho trẻ cấu trúc và củng cố hành vi thích hợp.”

Tiếp cận hành vi cần sự tận tụy (cam kết) của bố mẹ và những nhà chuyên nghiệp làm việc với họ, ví dụ như:
- Nhà tâm lý học,
- Cán bộ thầy cô giáo trường học
- Nhà trị liệu sức khỏe tâm thần địa phương, và
- Bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Theo Bộ Giáo dục, các kiểu tiếp cận hành vi cho trẻ ADD/ADHD bao gồm:
- Tập huấn về hành vi cho bố mẹ và giáo viên biết cách quản lý trẻ,
- Một chương trình hệ thống bao gồm sự quản lý ngẫu nhiên, ví dụ như học để biết củng cố tích cực và/hoặc thời gian tách biệt,
- Trị liệu lâm sàng hành vi, ví dụ như tập huấn về kĩ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng xã hội, và
- Trị liệu nhận thức-hành vi, cũng như tự kiểm soát bản thân.
Với mỗi kiểu tiếp cận, bố mẹ được học để biết chính xác họ cần làm gì ở nhà để quản lý hành vi trẻ A. Bố mẹ phải làm việc thực hiện và theo sát theo cách tiếp cận tại gia đình dựa trên một nền tảng đều đặn và nhất quán.

Một số chiến lược hành vi cụ thể/riêng biệt mà phụ huynh có thể dùng cho trẻ ADD/ADHD?
Dựa theo những chiến lược dành cho cha mẹ để giúp đỡ trẻ A. (Những ý kiến này được phỏng theo và thích nghi từ Bộ Giáo dục và Gợi ý Cải thiện Hành vi của Con bạn từ trang web Attention Deficit Specialists (Các chuyên gia về Giảm chú ý).)

Phần thưởng, Hậu quả/trừng phạt , và Quy tắc nhất quán cho Hành vi
- Tập trung vào những phần thưởng và Hậu quả cho hànhvi phù hợp và không phù hợp:
+ Những phần thưởng và thiết đãi rõ ràng
+ Buổi tối đi xem phim cho một tuần tốt đẹp ở trường học
+ Sự thay đổi những quyền lợi (phần thưởng)
+ Đưa trẻ ra khỏi những tình huống thuận lợi cho những hành vi không phù hợp
- Luôn luôn theo sát với phần thưởng và trừng phạt - Như các bậc cha mẹ, phải luôn nhất quán và một khi bạn đã nói gì thì phải làm cái đó.
- Đừng nói “Được” chỉ vì nói như vậy thì dễ hơn - Hãy luôn luôn tôn trọng quy tắc nhất quán, kể cả khi bạn mệt hay khi con bạn hét rất to để chống đối.
- Có thời gian chuyển thích hợp cho hành vi sai - Như đa số các sách hướng dẫn, đối với con bạn, độ dài của thời gian chuyển (tính theo phút) nên ngang bằng với tuổi của trẻ (tính theo năm).
- Dạy bằng những ví dụ - Khi bố mẹ yêu cầu trẻ “làm theo bố/mẹ nói, không làm theo bố/mẹ làm” là họ làm cho trẻ rối tung lên và hy sinh những bài học đạo đức tốt đẹp mà họ đang cố truyền đạt.
- Hãy giải thích rõ ràng về những quy định - Hãy nói cho con bạn biết những lời răn trước khi hành vi không phù hợp diễn ra để cho con bạn hiểu tại sao trẻ phải chịu sự trừng phạt. Một số phụ huynh thỏa thuận một “tín hiệu” với con họ, để cảnh báo khi trẻ bắt đầu hành vi sai.
- Có những chỉ dẫn và lời nhắc ngắn và đơn giản - Sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu và chính xác. Đưa ra những chỉ dẫn …………………………….. (one step at a time, and make requests one at a time)
- Hãy gây nên những cuộc vật lộn/đánh nhau - Không phải mọi lỗi lầm hay hành vi sai ở trẻ đều cần có can thiệp của bố mẹ. Hãy cho trẻ một chút tự do để gây lên lỗi và giúp trẻ học từ những lỗi lầm đó.
- Luôn giữ trong đầu thái độ tích cực về con bạn - Viết ra một danh sách những nét tích cực của con bạn. Khi chỉ ra những lỗi và hành vi sai, điều chỉnh câu trả lời của bạn một cách tích cực để chỉ rõ cách tốt hơn để làm mọi thứ. Điều này sẽ cho thấy rằng con của bạn sẽ tin tưởng vào những sự thành công của chúng.
- Hãy luôn ghi nhận thấy những lúc ngoan của con bạn - Trẻ ADD/ADHD thường xuyên bị bố mẹ và giáo viên để ý những lỗi sai. Thay vì đó, hãy ca ngợi trẻ thật nhanh sau đó và thật hào phóng, thậm chí với những điều đạt được nhỏ nhất. Và đừng bỏ qua những hành vi tốt thông thường bởi đó là thứ mà bạn mong chờ con bạn làm.

Cấu trúc
- Đặt lịch đều đặn hàng ngày và phải theo sát lịch. Giờ đi ngủ và chuẩn bị tới trường sẽ dễ dàng hơn nếu đã được sắp xếp trong cấu trúc đó. Có những thời gian biểu riêng cho bài tập về nhà.
- Giảm những kích thích ngẫu nhiên/tùy tiện và tăng cường cấu trúc - Rất nhiều thời gian không được cấu trúc (không được sắp xếp trong thời gian biểu) có thể gây ra những hành vi bột phát ở trẻ. Hãy đăng ký cho con bạn một vài lớp thể thao và văn hóa. Một số trẻ ADD/ADHD đáp ứng tốt với các hình thức nghệ thuật hoặc những môn thể thao đơn (không cần đội). Những hoạt động như vậy tác động mạnh tới cấu trúc thời gian của con bạn và tạo lối thoát ra cho mức năng lượng cao (của trẻ).
- Giúp con bạn luôn được tổ chức chặt chẽ - Hãy thiết lập cuộc sống gia đình theo cách khuyến khích sự tổ chức và tự chịu trách nhiệm. Ví dụ, dành một chỗ riêng trước cửa ra vào để con bạn đặt những bài tập đã hòan thành và sách học mỗi tối trước khi đi ngủ để những thứ này không bị quên đi vào buổi sáng mai. Hay cho con bạn cuốn sổ ghi chép riêng để ghi lại những bài tập. Dành cho con bạn một nơi yên tĩnh trong nhà để làm bài tập.
- Có những lưu ý (nhắc nhở) cụ thể:
+ Một chiếc đồng hồ to trong phòng ngủ;
+ Bảng ghi những việc vặt trong nhà;
+ Tập giấy phân công việc để ghi lại bài tập về nhà và một hộp riêng biệt để ghi những công việc đã hòan thành; và
+ Giành lấy sự chú ý của trẻ trước khi nói với trẻ. Cần những ý kiến phản hồi từ phía trẻ về những việc quan trọng.
- Những giờ nghỉ ngơi/giải lao sau khi làm việc hoặc học tập cần nhiều sự tập trung chú ý:
+ Sử dụng thiết bị bấm giờ trong nhà bếp để nhắc trẻ giờ nghỉ tiếp sau là gì.
+ Dành thời gian để chơi thoải mái ngòai trời.
+ Đặt kế hoạch thời gian cho những hoạt động vui vẻ cùng với gia đình.

Những gợi ý khác

- Loại bỏ những thực phẩm có cafêin và nhiều đường - Dinh dưỡng không phù hợp và thực phẩm nhạy cảm có thể làm tăng sự tăng hoạt động. Những bữa ăn cân đối cùng với gia đình, cũng tạo cơ hội giao tiếp cho trẻ.
- Dạy trẻ những kỹ thuật thở sâu và thư giãn - Nhiều trẻ tăng động dễ bị xáo trộn và mất khả năng điều khiển cảm xúc. Để giúp trẻ đối phó với những suy nghĩ căng thẳng như vậy, học một vài kỹ thuật thư giãn, và dạy trẻ biết cách làm bằng cách cùng nhau thực hành.

Một kỹ thuật làm như sau: Hít vào thật chậm. Khi bạn hít vào, hãy giãn rộng bụng và ngực khi đếm đến ba. Tập trung vào hơi thở vào thật chậm, sâu, nhẹ nhàng, và đều đặn. Sau đó, khi bạn thở ra, hãy trút hơi ra thật từ từ và sâu, làm bụng xẹp xuống. Chọn những từ hay câu để nhắc lại khi thở ra. Hãy làm điều này với con bạn khi trẻ cáu giận hay phá rối. Nó sẽ giúp cả hai lấy lại và giữ lại được sự kiểm soát xúc của của mình, và vì vậy bạn có thể đối phó với tình huống đó một cách bình tĩnh.
- Cung cấp cho trẻ kiến thức xã hội - Giúp con bạn giải quyết những vấn đề với anh chị em ruột và bạn bè đồng lứa.

“Thời gian xanh” là gì và nó có thể giúp gì cho trẻ ADD/ADHD?
Nghiên cứu của trường Đại học Illinois ở Thành phố-Nông thôn đã chỉ ra rằng trẻ mắc ADHD có thể có lợi từ việc giành thời gian ngòai trời trong thiên nhiên. Theo những tác phẩm mới, một nghiên cứu, bắt đầu từ tháng 9 năm 2004 được đăng trên báo Báo Sức khỏe Nhân dân Hoa Kỳ, đã thấy rằng “đỉnh cao của kiểu “trị liệu” này cho trẻ từ 5 đến 18 tuổi… là sự giảm đáng kể các triệu chứng.” Nghiên cứu đã đưa ra những câu hỏi đáng suy nghĩ về “trị liệu tự nhiên” có thể bổ trợ như thế nào cho những cách trị liệu ADHD khác.
05:23 CH 06/08/2007
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
NHỮNG GỢI Ý QUẢN LÝ TRẺ MẮC RỐI LOẠN GIẢM CHÚ Ý
(Attetion Deficit Disorder - ADD)
Tác giả:
William T. Weathers, M.D.
Pediatrics Specialists
Developmental-Behavioral Pediatrics
Medical University of South Carolina, Pediatrics, University of Oklahoma Medical Center, American Medical Association, Ambulatory Pediatric Association

NHỮNG GỢI Ý QUẢN LÝ TRẺ MẮC RỐI LOẠN GIẢM CHÚ Ý
(Attetion Deficit Disorder - ADD)

1. Hãy kiên quyết. Thiết lập một nền móng phép tắc/quy định rõ ràng khi con bạn còn nhỏ và hãy giữ vững những phép tắc này (với bất kể một sự tiến bộ nào) cho đến tuổi thanh niên. Khi trẻ cải thiện được tình trạng của mình, hãy cho trẻ thêm sự tự do trong khuôn khổ.

2. Đừng để trẻ chìm ngập vào những thứ nhỏ nhặt/điều vụn vặt, mất thời gian. Ví dụ, nếu con bạn gặp khó khăn trong việc quyết định nên mặc cái gì, hãy giúp trẻ bằng cách thu hẹp sự lựa chọn lại còn một hay hai (chiếc quần, áo…).

3. Bất cứ khi nào có thể, hãy xem xét ý kiến của con bạn trong một nội dung/chủ đề/phạm vi rộng. Ví dụ, hãy cho phép trẻ lựa chọn có đến sinh nhật bạn hay không, hay có hay không muốn đi chơi với bạn. Nếu không có lý do thực sự nào để từ chối/cấm trẻ, cho trẻ lựa chọn có hoặc không. Dù sao, nhiều trẻ mắc ADD cần thời gian để hình dung ra tình huống và suy nghĩ kỹ trước khi ra quyết định.

4. Đừng bao giờ cho trẻ nghĩ rằng trẻ có quyền lựa chọn trong những trường hợp trẻ không được phép lựa chọn. Ví dụ, đừng bao giờ hỏi trẻ có muốn đến bác sĩ hay uống thuốc hay không, vân vân… Những thứ như vậy là quy định trước (luật), và các bậc cha mẹ không nên đặt mình vào những tình thế không thể biện hộ được khi thúc ép trẻ mà trẻ đã nói rằng chúng không muốn làm.

5. Hãy giao cho trẻ công việc vặt trong nhà với tất cả các cách thức. Bao gồm những thứ như dọn bàn, giúp chuẩn bị bữa ăn, rửa bát đĩa, chuẩn bị giường ngủ, vân vân… Trẻ nên làm những việc như thế này. Cha mẹ cần phải chia sẻ công việc và công việc vặt của họ với trẻ mắc ADD vì nó có lợi cho trẻ. Những công việc như vậy xây dựng lên kỷ luật và ý thức về trách nhiệm cho trẻ. Lựa chọn một hoặc hai việc nhà và chuẩn bị các yếu tố để những việc này sẽ chiếm thời gian, sự cố gắng, thiện chí gợi lại cho trẻ sự dễ chịu để trẻ làm. Việc từ chối một phần thưởng mà trẻ mong muốn có thể là cần thiết nếu trẻ không làm những việc được phân công. Một danh sách để kiểm tra công việc hiện tại giúp theo dõi tốt hơn.

6. Hãy sẵn sàng chấp nhận sự lơ đãng ở hầu hết trẻ mắc ADD. Những trẻ này cần được nhắc đi nhắc lại, và không được phép phàn nàn “Mẹ đã nói với con cả triệu lần rồi”. Hãy tránh việc tăng lên của những lời phàn nàn thông thường khi lời hướng dẫn và nhắc nhở được đưa ra liên tục. Khi bạn phải nhắc lại lời hướng dẫn nào đó, hãy nói điều đó mỗi lần như là lần đầu tiên. Những trẻ này không hề cố ý bướng bỉnh (thường xuyên là như vậy) bởi chúng không thể nhớ được, với thời điểm đó, đơn giản là chúng không thể nhớ trong đầu những điều mà chúng ta mong đợi trẻ nhớ.

7. Hãy luôn cảnh giác/đề phòng cho sự đãng trí của con bạn trong việc giữ cẩn thận đồ và các công cụ khác, đồ chơi, vân vân… Hãy ghi nhớ những nơi mà bạn thấy trẻ bày kéo làm bếp, cưa, búa, vân vân… Kiểm tra sau đó, và nếu những đồ vật vẫn còn ở đó, hãy nhắc nhở con bạn thật nhẹ nhàng để cất đi một cách hợp lý.

8. Một danh sách ngắn các nhiệm vụ là rất tuyệt vời để giúp con bạn nhớ. Một danh sách trung tính (không có yếu tố xúc cảm, cá nhân trong đó) và giảm bớt lời phàn nàn; trẻ sẽ thỏa mãn khi kiểm tra những nhiệm vụ đã hòan thành. Có lẽ nên trao phần thưởng/điểm thưởng cho trẻ khi những nhiệm vụ đã được kiểm tra.

9. Nhiều trẻ mắc ADD có vẻ như “không bao giờ nghe” hoặc lờ đi lời chỉ dẫn và mệnh lệnh của bố mẹ. Những trẻ này thường xuyên không thực hiện nhiều yêu cầu một cách nhanh chóng hay chính xác. Bởi vậy, sẽ tốt hơn nếu cha mẹ chắc chắn rằng họ đã thu hút được sự chú ý của trẻ trước khi đưa ra yêu cầu. Sau khi bạn đã bắt đầu những mong muốn của họ bằng một lệnh đơn giản, rõ ràng, đơn nghĩa, trẻ nên được yêu cầu để nhắc lại bạn vừa nói điều gì. Sẽ tốt hơn nếu bạn nói với trẻ tốc độ chậm hơn.

10. Vì nhiều trẻ ADD hay không trật tự/ngăn nắp (trong tư duy), chúng đôi khi gặp khó khăn khi thuật lại sự việc một cách chính xác và nối tiếp. Các thành viên trong gia đình cần thường xuyên hỏi một cách nhẹ nhàng “ai, cái gì, ở đâu, và khi nào” để có những thông tin cần thiết. Xin nhắc lại, cư xử với trẻ một cách không phê phán, không phàn nàn nên là quy định trong gia đình.

11. Một đặc điểm chung của nhiều trẻ ADD là chúng khó đợi đến lượt mình. Trong khi chơi trò chơi hoặc nói chuyện, trẻ thường xuyên làm gián đoạn người lớn. Nhưng dù thế nào, các bậc cha mẹ không được cho phép có nhiều sự làm gián đoạn/ngắt lời, và trẻ nên được được sửa lại cho đúng một cách kiên quyết nếu chúng cố chấp. Trẻ có thể bị buộc rời bàn ăn, hay bị trừng phạt một cách thích đáng để chúng không tiếp tục hành vi này nữa.

12. Không cho phép trẻ ADD gây ồn và nói quá to không cần thiết tại nơi công cộng. Hãy làm thứ gì đó thật nhanh, thậm chí nếu điều đó làm cản trở đến tất cả những gì liên quan. Nói với trẻ như “Hãy đợi đến khi về nhà” sẽ không giúp được trẻ và chỉ làm cho bố mẹ cảm thấy bất lực. Hãy nhớ rằng, thậm chí trẻ có bị ADD, chúng vẫn có thể chịu trách nhiệm về những hành vi tốt hay xấu của mình.

13. Thời gian biểu cho mỗi ngày rất hữu ích cho trẻ và có vẻ như rất cần cho trẻ ADD. Thời gian biểu bao gồm những thứ như giờ giấc không thay đổi cho bữa ăn, bài tập về nhà, xem tivi, thức giấc và đi ngủ. Mỗi gia đình nên sắp xếp một bảng giờ giấc hợp lý nhất, và tuân thủ càng chặt chẽ càng tốt.

14. Trong phần lớn trường hợp, bố mẹ không nên làm gia sư (dạy học) cho chính con mình. Sẽ rất có ích nếu trẻ có khó khăn về đọc có được một người trong gia đình đọc to bài đọc. Nhưng thực tế của việc dạy trẻ phát âm và đọc từ, hay dạy những khái niệm toán thì thường không thành công. Nhiều khi, thay vì cải tiến kỹ năng cho trẻ, bạn có thể để lại hậu quả là mối quan hệ căng thẳng (với trẻ).

15. Về việc phạt trẻ:
a. Trừng phạt nên được thiết kế phù hợp với từng trẻ và khác nhau cho từng loại vi phạm.
Quy tắc quan trọng nhất (tất yếu) là “Trừng phạt hành vi xấu của trẻ chứ không trừng phạt bản thân trẻ”. Thông thường, trừng phạt về thể xác (đánh roi…) nên tránh bởi những cách trừng phạt khác (bỏ mặc một mình hoặc không được làm những gì trẻ thích) thì tập trung vào hành vi của trẻ nhiều hơn và ít ảnh hưởng đến khái niệm của trẻ về bản thân mình.
Thực tế, hầu hết các gia đình dùng những hình phạt thể xác, nên cẩn thận và chắc chắn rằng nó không quá khắt khe và kéo dài, và nó nên được sử dụng lúc đầu khi trẻ không tuân thủ quy định của bố mẹ hay người chăm sóc.
b. Việc trừng phạt nên thực hiện ngay sau trẻ phạm lỗi, để trẻ có sự liên hệ giữa hành vi sai của mình với hình phạt sau đó.
c. Trừng phạt nên diễn ra trong thời gian ngắn; thái độ phải rõ ràng. Cha mẹ không nên buộc tội và cằn nhằn, và không tiếp tục nhắc lại hành vi xấu của trẻ trong quá khứ.

16. Giúp các thành viên khác trong gia đình nhận ra và hiểu sự khác biệt của trẻ mắc ADD. Điều quan trọng là những thành viên khác trong gia đình nhận ra trẻ ADD của họ không thể kiềm chế sự xung động, gây ồn, hay quên, vụng về, vân vân… Anh chị em ruột của trẻ có thể hỗ trợ nhiều cho anh/em gặp vấn đề của mình.

17. Bản thân cha mẹ cũng phải chấp nhận với sự mất tập trung của con họ và mức độ bệnh. Trẻ mắc ADD có sự thiệt thòi và thường xuyên cần sự giúp đỡ trong nhiều năm. Mục tiêu cho con bạn nên là một đòi hỏi nhưng đừng phóng đại khả năng thực tế của con bạn. Nếu cha mẹ có thể chấp nhận giá trị và những khó khăn trở ngại của con mình, trẻ sẽ có thể bắt đầu chấp nhận bản thân mình và cố gắng vượt qua sự thiệt thòi của bản thân.
05:20 CH 06/08/2007
Tự kỷ (phần 3)
Về địa chỉ các trung tâm hay rối loạn của bé, bạn có thể vào http://z9.invisionfree.com/tuongtrophuhuynh/index.php?showtopic=5&view=getnewpost hoặc vào http://z9.invisionfree.com/tuongtrophuhuynh
Chúng tôi nghi ngờ bé có nhiều nét tăng động giảm chú ý (ADHD) và vấn đề ngôn ngữ hơn là Phổ tự kỷ
Chào các mẹ,
Bé trai nhà mình gần 5 tuổi.Bé rất nghịch, luôn chân luôn tay và luôn cả mồm nữa ( ngậm linh tinh, hét ầm ĩ.. chứ ko phải là ăn luôn mồm). Khả năng tập trung của bé kém. Đi học mẫu giáo từ đầu năm học đến giờ chỉ thuộc 1 bài thơ và 1 bài hát. Hỏi các bạn lớp con tên gì thì toàn nói là ko biết. Hỏi hôm nay cô dạy gì thì noi cô ko dạy gì, toàn ngồi chơi. Khả năng giao tiếp, diễn đạt của bé cũng kém. Nói lắp mãi mới được một câu.
Tóm lại mình rất nghi ngờ con mình bị một dạng của bệnh tự kỉ. Mình muốn cho bé đi kiểm tra nhưng ko biết chỗ nào. Các mẹ có thể tư vấn cho mình chỗ khám bệnh tâm thần cho trẻ em ko ? Thank you các mẹ rất nhiều
05:22 CH 27/03/2007
Tự kỷ (phần 3)
Thời gian vừa qua, Nhóm đã tìm dịch được một số tài liệu về điều trị cho trẻ tự kỷ. Xin post lên đây để các phụ huynh tham khảo. Xin lưu ý tất cả thông tin chỉ có tính chất THAM KHẢO, phù hợp với tùy trẻ và tùy tình huống, hoàn cảnh.
Mong các bậc phụ huynh có thêm nhiều nghị lực!
TỰ KỶ - TỔNG QUAN


Nuôi dạy một đứa trẻ tự kỷ là rất khó khăn và vô cùng căng thẳng, đó có thể là gánh nặng đặt lên vai gia đình đó. Một đứa trẻ tự kỷ đòi hỏi sự chăm sóc gần nh¬ư liên tục và cách ứng xử không đúng của mọi ngư¬ời xung quanh đứa trẻ có thể gây ra những hậu quả bất lợi đối với chúng.
Anh (chị, em) ruột có thể trở thành nguời quản lý, giám sát đứa trẻ bằng sự quan tâm chăm sóc, hoặc họ có thể có tìm cách từ chối tiếp xúc hoặc tìm hiểu về đứa trẻ. Kết quả này thu được từ những ng¬ười anh (chị, em) ruột cảm thấy họ không đ¬ược chú ý so với đứa trẻ, rất nhiều thời gian của bố mẹ đã dành cho đứa trẻ bị tự kỷ.
Cha mẹ cần để cho đứa trẻ của họ ở những nơi an toàn, được sự trông nom của ngư¬ời thân và có một không gian riêng của trẻ, không nên để cho trẻ có thể lấy đư¬ợc mọi đồ đạc. Anh chị của trẻ cũng cần có những phòng riêng để hạn chế tập nhiễm những hành vi xấu của anh (chị,em) chúng bị tự kỷ. Tuy nhiên điều quan trọng nhất là bố mẹ cũng luôn phải dành một khoảng thời gian tốt nhất cho những đứa trẻ khác. Có lẽ điều này đòi hỏi phải có một mối quan hệ gần gũi hoặc một cô giáo dạy trẻ để giám sát trẻ tự kỷ vào những khoảng thời gian trống, gia đình cũng nên có những trò chơi, hoạt động ngoài trời vào buổi tối.
Ngư¬ời bị tự kỷ rất khó có thể lập gia đình. Bố mẹ phải hy sinh gần như¬ trọn thời gian của mình vì việc trông nom đứa trẻ tự kỷ của họ đòi hỏi nh¬ư vậy. Việc trông nom này có thể dẫn đến buồn chán thất vọng hay nản lòng do bố mẹ qúa lo lắng, thậm chí còn dẫn đến ly dị hoặc bỏ nhau
Bố mẹ cần nhận đ¬ược sự giúp đỡ, ủng hộ của các thành viên khác bởi họ cũng cần thời gian tự lo cho chính họ. Hơn nữa,những thành công của chúng ta đạt đư¬ợc trong quá trình chăm sóc nuôi dạy đứa trẻ đều dựa trên nền tảng đó là việc chúng ta giao tiếp hàng ngày với đứa trẻ
Nếu bố mẹ có những vấn đề, suy nghĩ hay lo lắng quá nhiều, họ cần nhận ra những hạn chế của mình và cố gắng tìm chuyên gia giúp đỡ. Khi con ngư¬ời ở trong tình trạng lo lắng liên tục, những vấn đề nhỏ có thể tích tụ dẫn đến bực bội hoặc bùng nổ cơn giận. Nh¬ư vậy những vấn đề này làm giảm khả năng lập gia đình và tăng lên những lo lắng căng thẳng. Hơn nữa bố mẹ không nên sợ phải đi ra ngoài cộng đồng, chính sự tách biệt này dẫn đến họ bị cô lập khỏi thế giới xung quanh, điều đó sẽ chỉ làm cho họ cảm thấy đơn độc hơn trong việc nuôi dạy đứa trẻ tự kỷ của họ.
Tự kỷ là gì?

Tự kỷ đã đ¬ợc xếp loại như¬ một sự rối loạn lan toả phát triển của não. Nó không phải là một bệnh cơ thể. Tự kỷ là một chứng rối loạn các chức năng của não, đặc trư¬ng là khả năng truyền đạt thông tin với mọi ng¬ười, khả năng thiết lập mối quan hệ và cách phản ứng với các kích thích từ môi trư¬ờng xung quanh.
Một vài ng¬ười tự kỷ có những mối quan hệ, có những hoạt động bình thư¬ờng,lời nói và trí tuệ không bị ảnh hư¬ởng gì, những ng¬ười khác thì có trí lực chậm chạp, không nói đ¬ược hoặc ngôn ngữ nói rất khó khăn. Ngư¬ời bị tự kỷ thư¬ờng có tính cách khép kín, thu mình. Nhiều ngươì tự có những hành động lặp lại và có mẫu tư duy cứng nhắc. Tuy nhiên, ng¬ười bị tự kỷ có những dấu hiệu, triệu chứng không giống nhau, những rối nhiễu của họ nghiêng về phía xã hội, giao tiếp, vận động và cảm giác, tác phong trong hư¬ớng dự đoán phát triển.
Trị liệu

Khi bố mẹ tìm hiểu về chứng tự kỷ của con họ. Họ mong ước có những điều kỳ diệu để tìm ra hướng giải quyết. Họ hân hoan chờ đợi có đứa trẻ để nuôi dạy nó học hành và lớn lên, thay cho điều đó họ phải chấp nhận một sự thật là họ có đứa trẻ không giống như giấc mơ của họ và họ sẽ phải kiên nhẫn đối mặt hàng ngày với thử thách đó. Một vài gia đình từ chối tìm hướng giải quyết hay mơ mộng về một liều thuốc khỏi bệnh ngay tức khắc. Họ nhầm lẫn đứa trẻ này với …đứa trẻ đặc biệt khác, hy vọng một sự chẩn đoán khác đi. Đó là điều quan trọng để gia đình khắc phục khó khăn và đối mặt với vấn đề, trong khi đó họ vẫn giữ kín trong lòng một hy vọng thầm lặng về tương lai cho những đứa trẻ của họ.
Hiện nay người bị tự kỷ có thể được giúp đỡ nhiều hơn trước, có thể kết hợp can thiệp sớm, giáo dục đặc biệt, sự hỗ trợ của gia đình và trong một vài trường hợp phải dùng thuốc, đó là phần lớn sự giúp đỡ đứa trẻ tự kỷ, để chúng có cuộc sống bình thường hơn. Sự can thiệp đặc biệt và chương trình giáo dục có thể làm tăng khả năng học tập, giao tiếp và thiết lập mối quan hệ với người khác, trong khi có thể làm giảm mức độ rối nhiễu hành vi. Thuốc có thể làm giảm một số triệu trứng nhất định, trẻ em và trẻ lớn hơn có thể sử dụng những cách chữa trị đă có, trong khi chưa có phương pháp nào hữu hiệu, có thể chấp nhận những cách thức trên cho cuộc sống hàng ngày của trẻ em cũng như trẻ lớn hơn bị tự kỷ.
Tự kỷ không phải là định nghĩa về một loại rối nhiễu rõ ràng, một người được chẩn đoán là tụ kỷ có thể có những đau đớn về thể xác với những triệu chứng rất đa dạng (không giống nhau). Vì tự kỷ có những kiểu đặc trưng khác nhau nên một cách chữa trị không thể áp dụng cho tất cả các bệnh nhân. Sự chữa trị cần phải sáng tạo và linh động với từng cá nhân. Dưới dây là danh sách hai phương pháp mô tả cách chữa trị chứng tự kỷ.
Tiếp cận phát triển
Nhiều chuyên gia cho rằng môi trường tốt nhất để trẻ tự kỷ học đó là xây dựng kỹ năng và khả năng chú ý, sự giúp đỡ của các chuyên gia là hết sức cần thiết.
Chương trình tiếp cận phát triển đưa ra một cấu trúc cố định, trong thời gian dài với mức độ gần như chỉ để khuyến khích. Ví dụ : Một bản dự thảo hàng ngày giúp trẻ tự kỷ học tập và trải nghiệm. Sử dụng một khoảng trống nhất định của phòng khách cho những hoạt động hàng ngày.
Đó là những vấn đề về cảm giác, vận dộng, sự nhạy cảm hay không có cảm giác, với những đứa trẻ giống nhau nhất định, sự kích thích có thể coi như sự trợ giúp
Tiếp cận hành vi
Khi một hành vi nhất định của con người được khuyến khích, họ sẽ thích lặp lại hơn hoặc tiếp tục hành vi đó. Những hành vi đã được huấn luyện là nền tảng cho những hành vi đúng đắn khác. Khi trẻ tự kỷ được khuyến khích, chúng sẽ cố gắng đạt được những kỹ năng mới. Với sự tập luyện thường xuyên cuối cùng sẽ thành thạo những kỹ năng này. Ví dụ: một đứa trẻ sẽ coi người dạy chúng như một phần thưởng khi cô ấy dạy được chúng nhìn mắt người khác khi tiếp xúc.
Source:
http://www.supreme.state.az.us
07:54 CH 26/01/2007
Tự kỷ (phần 1)
QUẢN LÝ HÀNH VI CỦA TRẺ TỰ KỶ
1. Can thiệp hành vi theo hướng phân tích hành vi (ABA)
Các phương pháp theo hướng Phân tích hành vi chủ yếu dựa trên những nguyên tắc khoa học về hành vi giúp trẻ có được cách thể hiện mang tính xã hội và giảm được những hành vi có vấn đề.
Việc can thiệp theo hướng phân tích hành vi cho trẻ tự kỷ tập trung chủ yếu vào dạy những đơn vị hành vi được chia nhỏ một cách có hệ thống. Vì hầu hết các trẻ tự kỷ đều không thể hiện được những kỹ năng thông thường và tương đối đơn giản như: nhìn vào mắt người khác, giao tiếp và tương tác xã hội… Do vậy, những kỹ năng này cần được chia thành các bước nhỏ hơn để dạy.
Trong quá trình dạy chủ yếu sử dụng các tình huống dạy một - một. Bắt đầu mỗi bước dạy, giáo viên cần đưa ra những yêu cầu hoặc gợi ý thật cụ thể. Đôi khi có thể nhắc cho trẻ (ví dụ như cầm tay trẻ) để giúp trẻ bắt đầu thực hiện. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là việc nhắc hay gợi ý trẻ cũng cần được cân nhắc và phải giảm dần để tránh cho trẻ trở nên thụ động và phụ thuộc vào các gợi ý đó. Sau mỗi lần trẻ thực hiện xong cần phải củng cố bằng cách khen thưởng cho trẻ. Mục đích chủ yếu ở đây là tạo cho trẻ một môi trường học vui vẻ và thoải mái.
Một mục tiêu nữa là dạy trẻ cách phân biệt các kích thích khác nhau. Ví dụ như phân biệt tên của mình trong số các âm thanh, lời nói khác nhau; phân biệt màu sắc, hình dạng, các con chữ, con số; phân biệt hành vi phù hợp và không phù hợp… Không củng cố khi trẻ thể hiện những hành vi có vấn đề (ví dụ như hờn dỗi kéo dài, hành vi rập khuôn, tự kích thích…). Thêm vào đó, trẻ cần được giúp đỡ để được tham gia vào những tình huống có hành vi phù hợp nhằm tránh cho trẻ lại thể hiện những hành vi không mong muốn.
Việc dạy trẻ cũng cần phải linh hoạt, các tiết dạy cần lặp đi lặp lại nhiều lần. Ban đầu tiết dạy có thể lặp đi lặp lại thường xuyên cho tới khi trẻ có thể tự mình thực hiện được. Việc thể hiện hành vi của trẻ cần được ghi lại và đánh giá theo những tiêu chí cụ thể và khách quan. Ngoài ra, chúng còn cần được biểu đồ hóa để cha mẹ hay giáo viên của trẻ có thể nắm được một cách khái quát sự phát triển của trẻ và giúp họ điều chỉnh chương trình dạy. Mỗi trẻ cũng như mỗi kỹ năng cần dạy lại yêu cầu một chương trình dạy và quy định thời gian tiết dạy khác nhau. Do vậy, mỗi trẻ cần một cách chỉ dẫn khác nhau, phụ thuộc vào các bước thực hiện kỹ năng và cách học tập của từng trẻ.
2. Những điều cần lưu ý trong can thiệp hành vi.
2.1. Hiểu về khuyết tật của trẻ

Vấn đề hành vi hầu như nằm ngoài khả năng kiểm soát của trẻ. Do vậy điều đầu tiên là cha mẹ phải hiểu trẻ cũng như khuyết tật của trẻ và phải chấp nhận thực tế bởi vì sự bắt buộc hay trừng phạt trẻ sẽ chẳng đem lại hiệu quả cần thiết.
Không nên phê bình hay phạt trẻ vì những điều mà trẻ không làm được. Cha mẹ nên hiểu và phân biệt được một cách rõ ràng những gì trẻ “không thể làm” và những gì trẻ “không làm” vì hầu hết những trẻ này không cố tình thể hiện những hành vi không mong muốn.
2.2. Suy nghĩ và làm việc một cách tích cực vì trẻ
Cần cho trẻ biết được những điều sẽ xảy ra sau khi trẻ thể hiện hành vi. Các hình thức củng cố cần được thực hiện nhiều hơn khi trẻ tỏ ra hợp tác. Vì trong nhiều trường hợp nếu trẻ không nhận được chú ý từ phía giáo viên, cha mẹ, trẻ sẽ cố gắng thể hiện hành vi để được chú ý. Nếu được củng cố đúng lúc một cách phù hợp, trẻ sẽ có nhiều khả năng học được một hành vi mong muốn.
Cụ thể là:
- Tạo sự khen thưởng bất ngờ với hành vi của trẻ
- Khen trẻ ngay lập tức
- Đưa ra lời khen thật cụ thể và có mục đích rõ ràng
- Khen một cách tích cực
- Khen thưởng bằng lời nói đi kèm với các biểu lộ trên khuôn mặt như cười, nhìn vào mắt trẻ.
- Có thể có những hành vi khác như xoa đầu, ôm hay hôn trẻ đi kèm với lời khen.
- Đừng chỉ khen những khi trẻ biểu hiện hành vi một cách hoàn hảo. Hãy khen và củng cố bất cứ khi nào ta cảm thấy trẻ có thể thành công.
- Hãy khen bất cứ khi nào ta thấy trẻ có biểu hiện hành vi mong muốn.
- Khen trẻ trước mặt trẻ khác.
Luôn tạo và duy trì mối quan hệ tích cực với trẻ. Cha mẹ cần cố gắng tạo ra một hoạt động thú vị và tham gia vào hoạt động này cùng với trẻ càng thường xuyên càng tốt, ít nhất một hoặc hai lần mỗi tuần.
2.3. Giao tiếp rõ ràng.
Các trẻ này cần sử dụng giao tiếp hay các chỉ dẫn ngắn gọn, rõ ràng. Các chỉ dẫn cần phải rõ ràng, chính xác và được củng cố thường xuyên. Những chỉ dẫn cho trẻ nên được đưa ra dưới dạng câu khẳng định hơn là câu phủ định. Ví dụ nên nói “Hãy đặt chân xuống sàn” thay vì “con không được đặt chân lên bàn”.
Trong quá trình dạy trẻ cần phải biết chắc chắn là trẻ đã nắm được các quy tắc và những gì trẻ cần phải làm theo.
Cụ thể là:
- Giữ lấy vai của trẻ để trẻ có thể ngồi yên trong khi đưa ra lời chỉ dẫn
- Nhìn vào mắt trẻ
- Nói rõ ràng, chính xác.
- Liên tục yêu cầu trẻ chú ý và làm theo chỉ dẫn
- Cần lưu ý những biện pháp như la mắng, làu bàu, giận dữ, tranh cãi… sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn.
- Yêu cầu trẻ nhắc lại yêu cầu vừa được đưa ra.
Tỏ ra không để khi cần thiết
- Cha mẹ hoàn toàn không nên để ý đến những hành vi như thái độ phản đối hay tỏ ra hỗn xược của trẻ.
- Không nên để ý tới những cơn hờn dỗi, la hét bằng cách tỏ ra không nghe thấy gì và không quan tâm đến điều đó.
- Cha mẹ cần cho trẻ hiểu được mình muốn nói bằng cách: nhìn vào mắt trẻ, nhắc lại yêu cầu với giọng nói có ngữ điệu rõ ràng (tuy nhiên không được nói quá to), âm lượng của giọng nói phải rõ ràng, đủ nghe…

2.4. Điều khiển được quá trình dạy/tình huống.

- Cha mẹ cần tránh để mất kiểm soát tình huống.
- Khi cần phê bình trẻ cũng cần kết hợp với khen ngợi những điểm tích cực của trẻ.
- Cha mẹ cần tránh những phê bình, nhận xét có thê làm cho trẻ cảm thấy bị tổn thương. Điều này có thể làm tổn hại đến mối quan hệ với trẻ.
2.5. Kỳ vọng thực tế.
Cha mẹ không nên kỳ vọng vào việc giải quyết nhanh chóng các vấn đề về hành vi của trẻ. Không nên cứ cố gắng giải quyết tất cả các hành vi không mong muốn cùng một lúc là mỗi lần nên chọn nhiều nhất một hoặc hai hành vi quan trọng nhất để dạy trẻ riêng. Việc chọn các hành vi để dạy phụ thuộc vào từng gia đình và mức độ mà hành vi đó có ảnh hưởng tới trẻ và gây hậu quả không tốt sau này.
3. Giới thiệu đặc điểm và cách can thiệp của một số hành vi có vấn đề.
3.1. Các hành vi tự kích thích hoặc rập khuôn.

Hành vi rập khuôn hay tự kích thích tức là sự vận động một cách lặp đi lặp lại các bộ phận cơ thể hoặc các đồ vật. Hành vi này thường phổ biến ở các trẻ khuyết tật, chậm phát triển. Tuy vậy hành vi này thường xuất hiện nhiều ở các trẻ em Tự kỷ. Trên thực tế, nếu một trẻ nào đó mắc một loại khuyết tật phát triển khác với tự kỷ mà có những biểu hiện của hành vi tự kích thích, người ta thường gọi đó là những trẻ có hành vi tự kỷ. Hành vi rập khuôn có thể liên quan đến một hoặc tất cả các giác quan. Chúng tôi xin đưa ra đây năm giác quan chủ yếu và một số ví dụ về hành vi rập khuôn.
Giác quan Các hành vi rập khuôn
Thị giác
Nhìn trừng trừng vào bóng đèn hoặc các vật phát sáng, nheo mắt liên hồi, hay giơ ngón tay trước mắt, hay vỗ tay.
Thính giác
Hay đập đập vào tay, bật bật các ngón tay cho tạo thành âm thanh, hay phát ra các âm thanh từ miệng
Xúc giác
Hay dùng tay hoặc các vật khác tự chà vào da mình. Cũng có thể chúng còn hay tự cào cấu vào da mình
Tiền đình
Hay đu đưa thân mình từ trước ra sau hoặc hai bên
Vị giác
Hay đưa các đồ vật hoặc ngón tay lên miệng
Khứu giác
Hay ngửi các đồ vật, thậm chí người khác
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều lý do khác nhau lý giải cho các hành vi này. Một số lý thuyết cho rằng những hành vi này gây ra cho trẻ sự kích thích giác quan (nghĩa là giác quan của trẻ ở ngưỡng quá thấp). Do sự suy giảm chức năng ở Hệ thần kinh trung ương hay hệ thần kinh ngoại biên, cơ thể của trẻ thể hiện nhu cầu được kích thích, do vậy trẻ bộc lộ những hành vi này nhằm kích thích hệ thần kinh. Một lý thuyết khác thì lại cho rằng những hành vi này nhằm giải phóng lượng betaendorphins trong cơ thể của trẻ (những chất trong cơ thể giống như thuốc phiện) và tạo cho trẻ khoái cảm bên trong cơ thể.
Một trường phái lý thuyết khác cho rằng những hành vi này nhằm mục đích làm cho trẻ bình tĩnh trở lại (như trong trường hợp giác quan của tẻ ở ngưỡng quá cao (quá thấp?)). Điều này có nghĩa là môi trường xung quanh quá kích thích tẻ và trẻ ở trong trạng thái quá tải về cảm giác. Kết quả là trẻ tham gia vào những hành vi này nhằm thoát khỏi môi trường quá nhiều yếu tố kích thích.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng những hành vi rập khuôn có ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình chú ý và học tập của trẻ. Một điều thú vị là những hành vi này thường là những hình thức củng cố tích cực có hiệu quả nếu trẻ được phép biểu hiện những hành vi này sau khi hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Có nhiều cách khác nhau làm giảm bớt hoặc loại trừ các hành vi rập khuôn ví dụ như các bài tập thể dục hay cung cấp cho trẻ những dạng kích thích đa dạng và phù hợp hơn về mặt xã hội (ví dụ như nhai kẹo cao su thay vì tự cắn tay). Ngoài ra, người ta còn sử dụng thuốc nhằm giảm thiểu những hành vi không mong muốn này, tuy nhiên cũng không rõ ràng là liệu thuốc có tác dụng trong việc giảm thiểu hành vi không mong muốn một cách trực tiếp (ví dụ như kích thích nội tại trong cơ thể của trẻ) hay gián tiếp (làm chậm lại sự vận động toàn bộ của trẻ) hay không.
ở một mức độ nào đó, chúng ta cũng đã có những biểu hiện của hành vi tự kích thích, ví dụ như khi buồn hoặc lo lắng, chúng ta thường có những hành vi như cắn đầu bút, gõ gõ ngón chân, cắn tóc, cắn ngón tay, nghiến răng, nhai kẹo… Tuy nhiên đối với trẻ tự kỷ những hành vi này được coi là có vấn đề vì chúng có thể là những nỗi bận tâm ám ảnh với chính đứa trẻ và không dễ điều khiển. Đây chính là một trong những đặc điểm chẩn đoán trẻ tự kỷ. Các ví dụ về những hành vi của trẻ tự kỷ bao gồm sự vận động lặp đi lặp lại ví dụ như hay tự đập vào người, vỗ tay, chạy vòng quanh nhà, tự chọc vào cơ thể, nhẩy lên hoặc vỗ tay đen đét một cách không thích hợp. Các dạng hành vi tự kích thích khác có thê gồm các thao tác với đồ vật (ví dụ trẻ cứ cuộn cuộn một cái dây hoặc tờ giấy…), cứ nhìn chằm chằm vào một vật nào đó một cách liên tục. Các âm thanh phát ra rất vô nghĩa và khó hiểu giống như ậm ừ, lúng búng trong cổ họng hoặc gào thét the thé hoặc nhắc đi nhắc lại.
3.2. Hành vi tự xâm hại.
Hành vi tự xâm hại là những hành vi có thể gây ra những tổn thương ở các mô tế bào như phồng rộp, sưng tấy hay trầy xước. Những dạng hành vi chủ yếu là đập đầu, cắn tay, cào cấu hay chà xát một cách thái quá.
Có hai trường phái lý thuyết lý giải tại sao lại xuất hiện những hành vi này, cả về mặt sinh lý và xã hội. Một số cách giải thích theo lý thuyết về sinh học (có gợi ý cách điều trị) bao gồm:
1) Những hành vi này giải phóng beta-endorphines trong não bộ và tạo cho cá nhân sự khoái cảm nội tại (beta-endorphines là một chất nội sinh có thành phần giống như thuốc phiện tồn tại trong não). Cách điều trị gợi ý: để giảm các hành vi này, có thể cho trẻ sử dụng naltrexone, một chất gây ức chế beta-endorphines.
2) Những hành vi tự xâm hại xảy ra một cách đột ngột có thể nguyên nhân từ chứng tai biến có tác dụng phụ của thuốc. Những tai biến này không có mối liên hệ một cách điển hình với những hành vi đặc trưng của chứng tai biến thông thường nhưng lại có biểu hiện bất thường trong điện não đồ. Cách điều trì gợi ý: những người này nên được chụp điện não đồ để xác định hành vi tự xâm hại đó có liên quan đến chứng tai biến do tác dụng của thuốc hay không.
3) Những hành vi như tự đập vào đầu hay vào tai có thể xuất phát từ nguyên nhân viêm tai giữa. Cách điều trị gợi ý: nên đưa trẻ đi khám tai.
4) Những hành vi này cũng có thể xuất phát từ việc trẻ quá bức xúc (ví dụ như tức giận, hờn dỗi thái quá) và do vậy trẻ biểu hiện những hành vi này như một sự giải toả căng thẳng diễn ra trong cơ thể nó. Cách điều trị gợi ý: Nên cố gắng giảm mức độ bức xúc thái quá của trẻ bằng các hình thức giải trí, trị liệu, bằng các hình ảnh kích thích thị giác, bài tập thể dục…
5) Trong một số trường hợp, hành vi tự xâm hại có thể là một dạng của hành vi tự kích thích, rập khuôn. Điều này có nghĩa là những hành vi này xuất hiện lặp đi lặp lại, tạo cho trẻ sự kích thích, bức xúc qua giác quan. Cách điều trị gợi ý: Trẻ cần được trị liệu phối hợp các giác quan để làm cho các giác quan trở lại bình thường.
Một số lý thuyết về xã hội lý giải về hành vi này bao gồm:
1) Một số người biểu hiện những hành vi này nhằm thu hút sự chú ý của người khác. Cách điều trị gợi ý: mọi người xung quanh cần phớt lờ khi trẻ có những hành vi này để trẻ thấy rằng hành vi này không giúp gì cho chúng trong việc thu hút sự chú ý của người khác.
2) Một số trẻ biểu hiện hành vi này nhằm trốn tránh thực hiện nhiệm vụ. Cách điều trị gợi ý: Cần yêu cầu trẻ phải hoàn thành nhiệm vụ hơn là trốn tránh không thực hiện.
Mặc dù vấn đề này vẫn chưa được đưa ra trong lý luận nghiên cứu nhưng cũng có nhiều khả năng là những hành vi này liên quan đến sự quá nhạy cảm đối với những âm thanh từ môi trường xung quanh. Ví dụ: nếu một âm thanh nào đó gây cho trẻ sự khó chịu, chúng có thể phản ứng bằng cách tự đập vào đầu hay tai mình. Cách điều trị gợi ý: nên cho trẻ được học làm quen với các âm thanh từ môi trường xung quanh.
Có nhiều nguyên nhân gây nên những vấn đề về hành vi. Cách tốt nhất để xác định lý do nào xuất hiện của các hành vi này là phân tích hành vi. Điều này bao gồm cả việc phân tích những gì xảy ra trước hành vi cũng như những gì xảy ra ngay sau hành vi. Nếu chúng ta có thể loại bỏ những ảnh hưởng về mặt xã hội có thể đối với hành vi, lúc đó cần phải điều tra thêm các nguyên nhân về mặt sinh lý học.
08:27 SA 04/06/2006
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
Thay đổi thực đơn hàng ngày và chế độ dinh dưỡng có thể giúp trẻ ADD/ADHD không?
Thực đơn hàng ngày và dinh dưỡng có tầm quan trọng với trẻ ADD/ADHD theo những phương diện sau:
- Đúng là trẻ ADHD cần giấc ngủ đầy đủ để hoạt động tốt nhất, trẻ cũng cần chế độ dinh dưỡng tốt và thói quen ăn uống lành mạnh để có những hoạt động tối ưu.
- Trẻ em và người lớn mắc ADD/ADHD có xu hướng rối loạn ăn uống, bao gồm việc ăn uống quá mức và béo phì.
Sự xung động và sự sao nhãng là những triệu chứng của ADD/ADHD gây trở ngại cho việc ăn uống lành mạnh. Sau đây là một số gợi ý để giúp con bạn phát triển thói quen ăn uống tốt:
- Bố trí những bữa ăn ngồi của cả gia đình nơi mà con bạn có thể cho con ăn một bữa cơm lành mạnh, cân đối. Thời gian bữa ăn cũng cần được sắp xếp chặt chẽ trong thời gian biểu, nhất là khi con bạn dễ quên ăn. Hãy làm cho việc ăn uống trở thành một việc đáng lưu tâm.
- Hãy luôn dự trữ (có trong tay) những thức ăn lành mạnh cho những bữa ăn nhanh. Một kho của những thanh protein, hạt hướng dương, trái cây khô, sữa chua, quả hạch không ướp muối, nước sốt táo không đường, và rau quả và trái cây tươi như là táo, cam, chuối, ……(bell peppers), cần tây, và cà rốt.
- Hãy đóng gói bữa trưa thật đầy đủ và lành mạnh cho con bạn thay cho những bữa ăn nhanh buổi trưa (ở trường). Tránh những lúc đói ở trường hay khi tan học khi mà con bạn có thể bị lôi cuốn bởi những bữa ăn nhanh không lành mạnh hay nước xô-đa (sủi bọt có hương vị thơm) từ những máy bán hàng tự động.
- Cung cấp cho trẻ một bữa ăn nhanh lành mạnh khi con bạn mới từ trường về.
- Hãy tạo ra mô hình ăn uống tốt và thói quen ăn những bữa nhỏ.
- Đừng dự trữ nước xô-đa và khoai tây rán. Và hạn chế số lượng pizza mà gia đình bạn ăn.
- Phát huy việc nấu nướng những bữa ăn nhanh, lành mạnh, tốt hơn là nhờ cậy vào những nhà hàng thức ăn nhanh khi bạn không có nhiều thời gian để nấu nướng.
- Hãy chắc chắn rằng con bạn có ăn bữa trưa. Việc tập trung ở trường là đủ khó khăn với trẻ ADD/ADHD, ngay cả khi chưa có sự tác động của bụng đói.
- ủng hộ trường mà trẻ học để cung cấp những thức ăn lành mạnh hơn trong quán quán ăn tự phục vụ ở trường hay máy bán thức ăn.
Tôi có thể giúp con bị ADD/ADHD như thế nào với những mối quan hệ?
Ngòai sự lo lắng về học đường và khả năng trong cuộc đời sau này, các bậc cha mẹ cũng thường xuyên lo nghĩ rằng trẻ ADD/ADHD của họ sẽ không thể kết bạn và duy trì những mối quan hệ quan trọng. Quả thực là trẻ mắc ADD/ADHD thường xuyên có những khó khăn với những tương tác xã hội thông thường và tuân theo vai trò xã hội của mình. Mặc dù vậy, trẻ ADD/ADHD cũng có thể học để trở nên thành công trong các mối quan hệ cũng như học để thành công trong các nhiệm vụ/bài tập và công việc vặt hàng ngày. Bởi vì nhiều trẻ ADHD khá thông minh và sáng tạo, những điều đó giúp chúng hiểu các chiến lược để hòa đồng với người khác. Chúng trở nên đặc biệt hài hước hay lôi cuốn, biết cách nói những gì mà những người khác muốn nghe.
Những mối quan hệ đầu tiên của trẻ là với người lớn, anh chị em ruột, và bạn cùng lứa. Sau đây là một số gợi ý để giúp trẻ thành công trong mỗi loại quan hệ:
Quan hệ với người lớn
- Theo những hướng dẫn ở trên để giúp con bạn (thưởng, phạt, quy định, và cấu trúc), và khuyến khích những những người lớn xung quanh trẻ (giáo viên, những người thân trong gia đình, cô trông trẻ) tuân theo nguyên tắc chỉ đạo.
- Nói chung, nếu bạn có lòng kiên nhẫn và thái độ tích cực về con bạn, những người lớn khác xung quanh trẻ cũng sẽ theo bạn.
- Chia sẽ những công việc làm cho con bạn với những người sẽ chăm sóc trẻ, nhưng cũng nên mềm dẻo/linh hoạt và đừng để bản thân trở nên quá lo lắng rằng con bạn sẽ ứng xử như thế nào khi những người lớn khác chăm sóc.
- Sử dụng những sự giao tiếp hàng ngày và những việc lặt vặt là cơ hội tốt để giúp con bạn cư xử và có những hành vi phù hợp. Sẽ rất khó khăn, nhưng không phải là không thể làm, để dạy con bạn kiên nhẫn và sẽ mất thời gian của con nếu chúng nhìn thấy bạn luôn vội vã, bất lịch sự với những người bán hàng chậm chạp, hay gõ chân một cách thiếu kiên nhẫn khi đợi ở lối đi ở bưu điện. Luôn luôn nhớ rằng trẻ đang dõi theo việc bạn ứng xử như thế nào - bạn có vai trò là kiểu mẫu cho những hành vi phù hợp. Trẻ em đặc biệt vẫn hòa hợp với những người chăm sóc đầu tiên - cách bạn ứng xử như thế nào thực sự ảnh hưởng đến cách trẻ học ứng xử.
Quan hệ với anh chị em ruột
- Cạnh tranh/ghen tị giữa anh chị em ruột có thể nổi lên khi trẻ ADD/ADHD cảm thấy rằng chúng luôn luôn là duy nhất cho những hành vi sai, hay khi anh chị em của chúng cảm thấy rằng chúng được nhận được sự quan tâm thiếu cân bằng (quá nhiều) từ phía bố mẹ. Hãy nhận thức được tầm quan trọng của việc phân chia thời gian ngang bằng cho tất cả con bạn, của việc nêu bật tính cách và khả năng của mỗi trẻ, và có những quy định mà mọi người trong gia đình phải tuân theo.
- Dạy anh chị em của trẻ về ADD/ADHD và những thách thức thực sự đi cùng với nó, nhưng không cho phép trẻ lấy ADD/ADHD như là một lý do bào chữa cho những hành vi sai.
- Hãy đặt kế hoạch cho những hoạt động để cả gia đình bạn có thể làm theo mà không khó thực hiện với trẻ ADD/ADHD. Ví dụ, chơi những đoạn ngắn của trò chơi…… (long board) mà cần đến sự duy trì liên tục tập trung. Khi bạn làm điều này, dù sao, hãy tránh những câu nói như, “làm cho nó dễ hơn cho Johnny.”
Quan hệ với bạn bè cùng lứa
Hãy khuyến khích những mối quan hệ với bạn cùng lứa có vẻ phù hợp với con bạn, và quan sát lúc trẻ chơi cùng nhau để xem chúng tương tác với nhau như thế nào. Sự thành thục, mức độ của kỹ năng, và sự phát triển thể chất của mỗi trẻ có thể quyết định tốt hay xấu cho tình bạn.
- Khi con bạn có những hẹn gặp chơi cùng bạn, hãy đưa ra những luật lệ ở chỗ chơi và để mắt tới con bạn để giúp chúng tuân theo luật lệ và giải quyết những cuộc cãi cọ. Đừng ngại ngần can thiệp trước mặt bạn của trẻ hay kết thúc buổi hẹn chơi nếu xung động của con bạn dẫn tới những hành vi thực sự không thể chấp nhận được. (Nếu bạn làm như vậy, dù sau, hãy chắc chắn rằng nó sẽ giúp con bạn học từ những kinh nghiệm và tạo cơ hội cho những hành vi tốt hơn trong tương lai.)
- Giúp con bạn và bạn của chúng đạt tới những hoạt động thích hợp dựa trên những sở thích và khả năng của con bạn.
- Hãy tuân theo những chỉ dẫn ở trên về việc giúp con bạn trong những mối quan hệ bạn bè, nhưng đừng quá thận trọng/cầu toàn - hãy để cho con bạn có khoảng trống để học cách có những mối quan hệ thành công.
- Hãy lưu tâm tới việc đăng ký tên con vào những nhóm kỹ năng xã hội phụ vụ cho trẻ ADD/ADHD. Hãy hỏi ý kiến của nhà tâm lý học học đường hay nhà lâm sàng về sức khỏe tâm thần để có những sự tham khảo về những nhóm kỹ năng xã hội địa phương. Hãy chắc chắn tìm ra nhóm kỹ năng xã hội có lưu tâm đến sự xung động của ADD/ADHD, nơi mà có thể can thiệp vào sự đáp ứng từ những gì được học từ kỹ năng xã hội. (?) Những nhóm kỹ năng xã hội như vậy se giúp con bạn thử những kỹ năng xã hội trong cuộc sống thực.
- Hãy nhạy cảm với vấn đề lòng tự trọng của con bạn, điều có thể gây nhiều khó khăn cho trẻ ADD/ADHD. Giúp con bạn xây dựng lòng tự tin và niềm tin vào khả năng của bản thân để được giống như những người khác.
- Với lượng (sự) giúp đỡ thích hợp từ người bố/mẹ luôn kiên nhẫn và ủng hộ, trẻ ADD/ADHD có thể thiết lập và duy trì thành công những mối quan hệ.
09:11 SA 01/06/2006
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
Lisa Flores Dumke, M.A., Robert Segal, M.A., Tina de Benedictis., Ph.D., and Jeanne Segal, Ph.D., contributed to this article. Last modified on: 2/9/06.
http://www.helpguide.org/mental/adhd_add_parenting_strategies.htm

Nuôi trẻ ADD/ADHD: Chiến lược cho gia đình và ở nhà.

Phụ huynh có trẻ mắc ADD/ADHD có thể cảm thấy nản lòng và tuyệt vọng khi cố gắng dạy con ứng xử. Đây là những thứ mà cha mẹ có thể làm để giảm thiểu nét tăng hoạt động của trẻ, mà không cần nhiều sức lực, tính vui đùa và cảm giác về một điều kỳ diệu ở mỗi trẻ. (Barry Belt).
Quá thường xuyên, môi trường tại các gia đình có trẻ ADD/ADHD trở thành một bãi chiến trường. Bố mẹ trẻ ADD/ADHD thường xuyên phản ánh về cuộc sống hàng ngày:
- Thật khó để hòan thành bài tập và công việc nhà.
- Họ và con cái họ thường xuyên nản lòng.
- Họ phải theo dõi đứa con ADD/ADHD của họ không ngớt.
Các thành viên trong gia đình có thể cảm thấy như thế này-hoặc tồi hơn, có thể thực sự là-“chạy” theo trẻ ADD/ADHD và chúng cần quá nhiều thời gian giành riêng và sự quan tâm chú ý. Một kiểu mẫu hình (trẻ gây rối, bố mẹ chạy theo…) có thể phát triển nơi mà bố mẹ nhận ra “vấn đề” của con một cách không khó khăn gì, nhưng lại bỏ qua những lúc trẻ làm tốt, từ đó tạo ra một chu trình nơi mà mọi người bắt đầu cảm thấy thật tồi tệ về chính họ.
Không hề có một quy định nào rằng cứ có ADD/ADHD trong gia đình thì nghĩa là cuộc sống gia đình sẽ hỗn độn, đáng thất vọng và đầy thách thức. Tài liệu này không chỉ cung cấp những chỉ dẫn để cha mẹ quản lý trẻ ADD/ADHD ở nhà, mà còn giúp trẻ có thể quản lý thành công rối loạnh của mình trong tất cả các khía cạnh khác của cuộc sống. Một điều bắt buộc phải làm là cha mẹ trẻ ADD/ADHD phải giành thời gian và có được sự hỗ trợ cần thiết để có được sự kiên nhẫn, sự hướng dẫn, cấu trúc , và quản lý hành vi ở nhà.
Làm thế nào để dạy dỗ thành công trẻ ADD/ADHD?
Trẻ mắc ADD/ADHD cần nhiều sự giúp đỡ hơn những trẻ khác để phát triển qua những giai đoạn khác nhau của thời niên thiếu. Bố mẹ của những trẻ này có thể cũng cần nhiều hơn những sự trợ giúp từ bên ngoài hơn những phụ huynh khác, đặc biệt nó là chắc chắn khi họ thấy được những nhu cầu đặc biệt của con mình.
Hơn nữa, bố mẹ trẻ ADD/ADHD cũng cần quan tâm đặc biệt tới chính bản thân họ bởi họ phải đối phó với những thách thức và khó khăn của bệnh ADD/ADHD-như là trong đa số trường hợp-bố mẹ thậm chí phải đối mặt với những thách thức lớn hơn để có thể giúp đỡ được con mình.
Bố mẹ trẻ ADD/ADHD cần phải:
- Kiên nhẫn và nghị lực để kiểm soát được lo âu bởi có một đứa con với những nhu cầu riêng biệt,
- ý thức sắc sảo/tinh nhạy trong liên kết thành tổ chức với sự mềm dẻo-và khả năng thiết kế mô hình cho trẻ,
- Sự sẵn sàng xin gặp và khả năng phối hợp với những sự hỗ trợ và dịch vụ; bao gồm cả giáo viên, nhà trị liệu và bác sĩ.
- Khả năng xây dựng nên cấu trúc và theo sát tất cả các kế hoạch kiểm soát hành vi,
- Sự sẵn sàng để tham gia các khóa học về ADD/ADHD, sẵn sàng để thách thức sự phủ nhận thường đi kèm với nó, và
- Tinh thần lạc quan và các cách để làm dịu sự căng thẳng của bản thân.

Cũng rất có ích nếu các bậc phụ huynh nhớ:
- Hành vi của con bạn liên quan chặt chẽ đến một rối loạn và xét về đại thể thì không phải do trẻ cố ý làm,
- Con của bạn có những khả năng và đặc điểm rất đáng nể trọng,
- Con của bạn có khả năng học và thành công,
- Tập trung vào cách giúp trẻ thay đổi hành vi không phù hợp,
- Hãy luôn đứng sau lưng/bênh vực trẻ cho tới khi trẻ có thể tự bênh vực, và
- Hãy tin tưởng và ủng hộ con bạn.
Có lẽ quan trọng nhất là, bố mẹ phải có vai trò chính (làm chủ) của sự kết hợp giữa lòng yêu thương và sự kiên định. Sống trong gia đình có cả tình thương và nền nếp sẽ là nơi tốt nhất cho trẻ học cách kiểm soát được khó khăn của mình.
Nếu trong nhà bạn có trẻ trong độ tuổi 13-19 mắc ADD/ADHD, nhiều chiến lược được giới thiệu cho trẻ có thể mang lại hiệu quả. …………………
Làm thế nào để giúp trẻ biết kiểm soát hành vi?
Với những gia đình phải đối phó với ADD/ADHD, tiếp cận hành vi được ứng dụng tại nhà và có thể là chìa khóa để quản lý vấn đề hành vi và duy trì không khí gia đình êm ấm và hạnh phúc. Theo Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, tiếp cận hành vi “được sử dụng vào điều trị ADD/ADHD để cung cấp cho trẻ cấu trúc và củng cố hành vi thích hợp.”
Tiếp cận hành vi cần sự tận tụy (cam kết) của bố mẹ và những nhà chuyên nghiệp làm việc với họ, ví dụ như:
- Nhà tâm lý học,
- Cán bộ thầy cô giáo trường học
- Nhà trị liệu sức khỏe tâm thần địa phương, và
- Bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Theo Bộ Giáo dục, các kiểu tiếp cận hành vi cho trẻ ADD/ADHD bao gồm:
- Tập huấn về hành vi cho bố mẹ và giáo viên biết cách quản lý trẻ,
- Một chương trình hệ thống bao gồm sự quản lý ngẫu nhiên, ví dụ như học để biết củng cố tích cực và/hoặc thời gian tách biệt,
- Trị liệu lâm sàng hành vi, ví dụ như tập huấn về kĩ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng xã hội, và
- Trị liệu nhận thức-hành vi, cũng như tự kiểm soát bản thân.
Với mỗi kiểu tiếp cận, bố mẹ được học để biết chính xác họ cần làm gì ở nhà để quản lý hành vi trẻ A. Bố mẹ phải làm việc thực hiện và theo sát theo cách tiếp cận tại gia đình dựa trên một nền tảng đều đặn và nhất quán.
Một số chiến lược hành vi cụ thể/riêng biệt mà phụ huynh có thể dùng cho trẻ ADD/ADHD?
Dựa theo những chiến lược dành cho cha mẹ để giúp đỡ trẻ A. (Những ý kiến này được phỏng theo và thích nghi từ Bộ Giáo dục và Gợi ý Cải thiện Hành vi của Con bạn từ trang web Attention Deficit Specialists (Các chuyên gia về Giảm chú ý).)
Phần thưởng, Hậu quả/trừng phạt , và Quy tắc nhất quán cho Hành vi
- Tập trung vào những phần thưởng và Hậu quả cho hànhvi phù hợp và không phù hợp:
+ Những phần thưởng và thiết đãi rõ ràng
+ Buổi tối đi xem phim cho một tuần tốt đẹp ở trường học
+ Sự thay đổi những quyền lợi (phần thưởng)
+ Đưa trẻ ra khỏi những tình huống thuận lợi cho những hành vi không phù hợp
- Luôn luôn theo sát với phần thưởng và trừng phạt - Như các bậc cha mẹ, phải luôn nhất quán và một khi bạn đã nói gì thì phải làm cái đó.
- Đừng nói “Được” chỉ vì nói như vậy thì dễ hơn - Hãy luôn luôn tôn trọng quy tắc nhất quán, kể cả khi bạn mệt hay khi con bạn hét rất to để chống đối.
- Có thời gian chuyển thích hợp cho hành vi sai - Như đa số các sách hướng dẫn, đối với con bạn, độ dài của thời gian chuyển (tính theo phút) nên ngang bằng với tuổi của trẻ (tính theo năm).
- Dạy bằng những ví dụ - Khi bố mẹ yêu cầu trẻ “làm theo bố/mẹ nói, không làm theo bố/mẹ làm” là họ làm cho trẻ rối tung lên và hy sinh những bài học đạo đức tốt đẹp mà họ đang cố truyền đạt.
- Hãy giải thích rõ ràng về những quy định - Hãy nói cho con bạn biết những lời răn trước khi hành vi không phù hợp diễn ra để cho con bạn hiểu tại sao trẻ phải chịu sự trừng phạt. Một số phụ huynh thỏa thuận một “tín hiệu” với con họ, để cảnh báo khi trẻ bắt đầu hành vi sai.
- Có những chỉ dẫn và lời nhắc ngắn và đơn giản - Sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu và chính xác. Đưa ra những chỉ dẫn …………………………….. (one step at a time, and make requests one at a time)
- Hãy gây nên những cuộc vật lộn/đánh nhau - Không phải mọi lỗi lầm hay hành vi sai ở trẻ đều cần có can thiệp của bố mẹ. Hãy cho trẻ một chút tự do để gây lên lỗi và giúp trẻ học từ những lỗi lầm đó.
- Luôn giữ trong đầu thái độ tích cực về con bạn - Viết ra một danh sách những nét tích cực của con bạn. Khi chỉ ra những lỗi và hành vi sai, điều chỉnh câu trả lời của bạn một cách tích cực để chỉ rõ cách tốt hơn để làm mọi thứ. Điều này sẽ cho thấy rằng con của bạn sẽ tin tưởng vào những sự thành công của chúng.
- Hãy luôn ghi nhận thấy những lúc ngoan của con bạn - Trẻ ADD/ADHD thường xuyên bị bố mẹ và giáo viên để ý những lỗi sai. Thay vì đó, hãy ca ngợi trẻ thật nhanh sau đó và thật hào phóng, thậm chí với những điều đạt được nhỏ nhất. Và đừng bỏ qua những hành vi tốt thông thường bởi đó là thứ mà bạn mong chờ con bạn làm.
Cấu trúc
- Đặt lịch đều đặn hàng ngày và phải theo sát lịch. Giờ đi ngủ và chuẩn bị tới trường sẽ dễ dàng hơn nếu đã được sắp xếp trong cấu trúc đó. Có những thời gian biểu riêng cho bài tập về nhà.
- Giảm những kích thích ngẫu nhiên/tùy tiện và tăng cường cấu trúc - Rất nhiều thời gian không được cấu trúc (không được sắp xếp trong thời gian biểu) có thể gây ra những hành vi bột phát ở trẻ. Hãy đăng ký cho con bạn một vài lớp thể thao và văn hóa. Một số trẻ ADD/ADHD đáp ứng tốt với các hình thức nghệ thuật hoặc những môn thể thao đơn (không cần đội). Những hoạt động như vậy tác động mạnh tới cấu trúc thời gian của con bạn và tạo lối thoát ra cho mức năng lượng cao (của trẻ).
- Giúp con bạn luôn được tổ chức chặt chẽ - Hãy thiết lập cuộc sống gia đình theo cách khuyến khích sự tổ chức và tự chịu trách nhiệm. Ví dụ, dành một chỗ riêng trước cửa ra vào để con bạn đặt những bài tập đã hòan thành và sách học mỗi tối trước khi đi ngủ để những thứ này không bị quên đi vào buổi sáng mai. Hay cho con bạn cuốn sổ ghi chép riêng để ghi lại những bài tập. Dành cho con bạn một nơi yên tĩnh trong nhà để làm bài tập.
- Có những lưu ý (nhắc nhở) cụ thể:
+ Một chiếc đồng hồ to trong phòng ngủ;
+ Bảng ghi những việc vặt trong nhà;
+ Tập giấy phân công việc để ghi lại bài tập về nhà và một hộp riêng biệt để ghi những công việc đã hòan thành; và
+ Giành lấy sự chú ý của trẻ trước khi nói với trẻ. Cần những ý kiến phản hồi từ phía trẻ về những việc quan trọng.
- Những giờ nghỉ ngơi/giải lao sau khi làm việc hoặc học tập cần nhiều sự tập trung chú ý:
+ Sử dụng thiết bị bấm giờ trong nhà bếp để nhắc trẻ giờ nghỉ tiếp sau là gì.
+ Dành thời gian để chơi thoải mái ngòai trời.
+ Đặt kế hoạch thời gian cho những hoạt động vui vẻ cùng với gia đình.
Những gợi ý khác
- Loại bỏ những thực phẩm có cafêin và nhiều đường - Dinh dưỡng không phù hợp và thực phẩm nhạy cảm có thể làm tăng sự tăng hoạt động. Những bữa ăn cân đối cùng với gia đình, cũng tạo cơ hội giao tiếp cho trẻ.
- Dạy trẻ những kỹ thuật thở sâu và thư giãn - Nhiều trẻ tăng động dễ bị xáo trộn và mất khả năng điều khiển cảm xúc. Để giúp trẻ đối phó với những suy nghĩ căng thẳng như vậy, học một vài kỹ thuật thư giãn, và dạy trẻ biết cách làm bằng cách cùng nhau thực hành.
Một kỹ thuật làm như sau: Hít vào thật chậm. Khi bạn hít vào, hãy giãn rộng bụng và ngực khi đếm đến ba. Tập trung vào hơi thở vào thật chậm, sâu, nhẹ nhàng, và đều đặn. Sau đó, khi bạn thở ra, hãy trút hơi ra thật từ từ và sâu, làm bụng xẹp xuống. Chọn những từ hay câu để nhắc lại khi thở ra. Hãy làm điều này với con bạn khi trẻ cáu giận hay phá rối. Nó sẽ giúp cả hai lấy lại và giữ lại được sự kiểm soát xúc của của mình, và vì vậy bạn có thể đối phó với tình huống đó một cách bình tĩnh.
- Cung cấp cho trẻ kiến thức xã hội - Giúp con bạn giải quyết những vấn đề với anh chị em ruột và bạn bè đồng lứa.
“Thời gian xanh” là gì và nó có thể giúp gì cho trẻ ADD/ADHD?
Nghiên cứu của trường Đại học Illinois ở Thành phố-Nông thôn đã chỉ ra rằng trẻ mắc ADHD có thể có lợi từ việc giành thời gian ngòai trời trong thiên nhiên. Theo những tác phẩm mới, một nghiên cứu, bắt đầu từ tháng 9 năm 2004 được đăng trên báo Báo Sức khỏe Nhân dân Hoa Kỳ, đã thấy rằng “đỉnh cao của kiểu “trị liệu” này cho trẻ từ 5 đến 18 tuổi… là sự giảm đáng kể các triệu chứng.” Nghiên cứu đã đưa ra những câu hỏi đáng suy nghĩ về “trị liệu tự nhiên” có thể bổ trợ như thế nào cho những cách trị liệu ADHD khác.
Trong khi đợi những nghiên cứu sâu hơn về “thời gian xanh, ” phụ huynh cũng nên chú ý tới cách tiếp cận nhiều triển vọng này để kiểm soát ADHD. Giành thời gian ngòai thiên nhiên không chỉ không hề đắt mà còn dễ làm, nhưng khi phụ huynh đưa con họ vào “thời gian xanh,” họ có thể cũng cần nhiều đến không khí trong lành và thở sâu cho chính họ.
Các bài tập thể dục có thể giúp trẻ ADD/ADHD như thế nào?
Tập thể dục, đặc biệ là chương trình đều đặn đúng giờ giấc và tích cực, có thể giảm bớt những triệu chúng của ADD/ADHD. Đầu tư cho con bạn vào những lớp thể thao hay văn hóa hấp dẫn. Một số trẻ ADD/ADHD phát triển tốt với những môn thể thao đơn/cá nhân cần sự tập trung tinh thần cao độ, như thể dục, nghệ thuật tạo hình, võ thuật, hay đánh kiếm, hơn là những môn thể thao đồng đội, có thể có nhiều thời gian chết. Các bài tập thể dục có thể tăng cường sự tập trung và sự dẫn truyền thần kinh, cũng như giảm trầm cảm, lo âu và thúc đẩy sự phát triển não bộ.
Stephen C. Putnam đã viết một cuốn sách về thể dục như là một sự lựa chọn điều trị cho ADHD có tên Ritalin tự nhiên cho chú ý maratông: Chăm sóc trẻ ADHD của bạn với những bài tập thể dục. Putnam tin rằng những bài thể dục nhịp điệu có hiệu quả lên não cũng như thuốc Ritalin và những chất tác động tâm thần khác (thuốc khác). Ông đề nghị thiết lập chương trình thể dục hấp dẫn con bạn và có vẻ sẽ tạo ra những thay đổi cho những triệu chứng ADD/ADHD. Tập thể dục là sự lựa chọn điều trị lành mạnh cho ADD/ADHD mà có thể có nhiều tác động tích cực khác tới thể chất và sức khỏe tinh thần của trẻ.
09:09 SA 01/06/2006
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
Kiki D Chang, MD, Director, Pediatric Mood Disorders Clinic, Assistant Professor, Department of Psychiatry, Division of Child Psychiatry, Stanford University School of Medicine. Attention-Deficit/Hyperactivity Disorder, emedince. June 17, 2004.
Kiki D. Chang, Bác sĩ Y khoa, Trưởng chuyên khoa Rối loạn Khí sắc trẻ em, Phó Giáo sư, Khoa Nhi, Khu Tâm thần Nhi, Trường Đại học Y khoa Stranford.
Kiki D. Chang, Bác sĩ Y khoa là thành viên của các hội y khoa sau đây: Viện Tâm thần trẻ em và Thanh thiếu niên Hoa Kỳ, Hội Tâm thần học Hoa Kỳ và Hội Hàn lâm Tâm thần học.

Kiến thức chung:
Rối loạn tăng động/giảm chú ý (ADHD) là một bệnh tiến triển do sự thiếu chú ý và đãng trí, đi kèm hoặc không tăng hoạt động. Trước đây, nhiều thuật ngữ được sử dụng để mô tả bệnh này, bao gồm hội chứng tăng động và, từ Sổ tay Chẩn đoán và Phân loại các Rối loạn Tâm thần, lần thứ ba (DSM-III), “loạn chức năng não nhẹ.” Trong DSM-III điều chỉnh lại, bệnh này được đổi lại tên là ADHD. Trong DSM-IV, người lớn hay trẻ em phải có một triệu chứng khởi phát trước 7 tuổi gây ra sự suy yếu có ý nghĩa về mặt xã hội hay học tập. Gần đây, người ta bắt đầu quan tâm đến các dạng ADHD ở người lớn, hầu như chắc chắn đã được chẩn đoán không đầy đủ.
Bệnh sinh lý (Sinh bệnh học): Vấn đề bệnh học của ADHD không rõ ràng. Những nghiên cứu chỉ ra rằng những chất kích thích tâm thần (làm thuận lợi cho giải phóng dopamine) và sự giải phóng noradrenalin ba vòng để điều trị bệnh này đã dẫn tới suy đóan cho rằng một vài khu vực não liên quan tới sự tập trung bị suy giảm trong dẫn truyền thần kinh. Chất dẫn truyền thần kinh dopamin và sự giải phóng noradrenalin có liên quan đến ADHD.
Vùng dưới vỏ não được cho là chủ yếu và bao hàm vùng trán và vùng trên trán. Trong một nghiên cứu chức năng MRI, trẻ mắc ADHD làm những bài tập về sự hạn chế đã bộc lộ ra có sự hoạt hóa khác nhau ở khu vực nếp nhăn vùng trán so với trẻ bình thường. Người lớn mắc ADHD cũng biểu hiện những hạn chế trong hoạt hóa vành đai phía trước khi làm những bài tập trương tự.
Tỷ lệ:
- Tại Hoa Kỳ: Tỷ lệ mắc ở trẻ trong độ tuổi đến trường ước tính từ 3-7%.
- Thế giới: Tại nước Anh, tỷ lệ mắc được báo cáo là ít hơn 1%. Sự khác nhau về tỉ lệ giữa Anh và Mỹ có thể do văn hóa và do tính không đồng nhất của ADHD (ví dụ, rất nhiều nguyên nhân gây nên không tập trung/giảm chú ý/tăng hoạt động). Hơn nữa, tiêu chuẩn của Bảng phân loại Bệnh Quốc tế, lần thứ 10 (ICD-10) dành cho ADHD được sử dụng ở Anh có thể được coi là chặt chẽ hơn tiêu chuẩn DSM-IV.
Tỷ lệ tử vong/Sự hoành hành của bệnh:
- Không có tương quan giữa tỷ lệ chết tồn tại trong ADHD. Dù sao, những nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tuổi thơ mắc ADHD thì khi lớn lên có nguy cơ lớn với cách cư xử sau này và những vấn đề về hành vi sai trái, điều có thể mang đến cái chết thực sự.
- ADHD có thể dẫn đến những khó khăn học đường hay nghề nghiệp và những khó khăn xã hội có thể ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển bình thường. Dù sao, chính xác sự nguy hại của bệnh cũng chưa được chứng minh.
Giới tính:
- Đối với trẻ em mắc ADHD, nam gấp 3-5 lần nữ. Một số báo cáo về tỷ lệ là 5:1. Phần lớn của dạng giảm tập trung của ADHD được thấy ở nữ nhiều hơn là nam.
- Đối với người lớn, tỷ lệ giới tính là ngang bằng.
Tuổi
- ADHD là một rối loạn phát triển cần có những triệu chứng khởi phát trước 7 tuổi. Sau tuổi trẻ em, các triệu chứng có thể vẫn tồn tại đến tuổi thanh thiếu niên và trưởng thành, hoặc chúng có thể được cải thiện hoặc biến mất.
- Tỷ lệ phần trăm ở mỗi nhóm không được chứng minh rõ ràng, nhưng ước tính ít nhất 15-20% trẻ mắc ADHD vẫn còn nguyên những chẩn đoán bệnh đến khi trưởng thành. Khoảng 65% số trẻ này sẽ mắc ADHD hay những triệu chứng còn lại của ADHD khi trưởng thành.
- Tỷ lệ thường thấy ở người lớn ước tính từ 2-7%.
Thể chất:
- Không có khám phá nào về thể chất có liên quan đến ADHD.
- Kiểm tra trạng thái tâm thần có thể thấy những dấu hiệu sau:
+ Sự xuất hiện: Thường xuyên nhất là nhiệm vụ rất khó cấu được cấu trúc và lưu lại bởi tăng hoạt động và giảm tập trung. Trẻ em với ADHD có thể biểu hiện hay cựa quậy, hấp tấp và không thể ngồi yên, hoặc chúng có thể chạy liên tục quanh phòng. Người lớn bị ADHD có thể hay đãng trí, đứng ngồi không yên và hay quên.
+ Cảm xúc/Khí sắc: Cảm xúc thường xuyên thích hợp và có thể hoan hỉ, nhưng không phải khoái cảm. Khí sắc thường xuyên bình thường, ngoại trừ những giai đoạn ít được tôn trọng và tăng khí sắc (loạn khí sắc). Khí sắc và cảm xúc không phải bị ảnh hưởng chủ yếu bởi ADHD.
+ Lời nói/quá trình suy nghĩ: Lời nói có tốc độ bình thường nhưng có thể to hơn do xung động bên trong. Quá trình suy nghĩ được định hướng nhưng có thể gặp khó khăn với một chủ đề hay nhiệm vụ. Bằng chứng về suy nghĩ hay lời nói nhanh chưa được nói đến. Những triệu chứng này có thể phù hợp hơn với trạng thái vui buồn bất thường (rối loạn lưỡng cực).
+ Nội dung suy nghĩ/tự sát: Nội dung bình thường, không có bằng chứng về tự sát/giết người hay triệu chứng tâm thần.
+ Nhận thức: Sự tập trung và lưu trữ lại trí nhớ tạm thời bị ảnh hưởng. Bệnh nhân ADHD có thể gặp khó khăn với những bài tập tính toán và những nhiệm vụ đòi hỏi trí nhớ tạm thời. Sự định hướng, trí nhớ dài hạn, hay ý nghĩ trừu tượng không bị ảnh hưởng.
Các nguyên nhân:
- Di truyền:
+ Sự giống nhau của ADHD ở những cặp sinh đôi cùng trứng nhiều hơn sinh đôi hai trứng, nêu lên sự đóng góp của di truyền vào nguyên nhân bệnh.
+ Những nghiên cứu về con nuôi cũng nêu lên nguyên nhân di truyền cho ADHD.
+ Không rõ về sự liên quan đến gen hay nhiễm sắc thể.
- Môi trường:
+ Giả thuyết đang tồn tại bao gồm bị lộn dạ con ra ngoài đến chất độc, thực phẩm có phụ gia hay nhiều màu sắc, hay nguyên nhân dị ứng. Dù sao, ăn kiêng, đặc biệt là đường, không phải là nguyên nhân của ADHD.
+ Vai trò của môi trường gia đình dẫn đến phát sinh bệnh ADHD như thế nào là chưa rõ, nhưng chắc chắn nó có thể làm các triệu chứng thêm trầm trọng.
Phân biệt với các bệnh:
Rối loạn lo âu.
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực.
Trầm cảm.
Rối loạn khí sắc
Tăng năng huyết áp
Rối loạn Stress sau sang chấn
Rối loạn giấc ngủ
Những vấn đề khác như:
Làm giảm khả năng hóc môn tuyến giáp
Rối loạn học tập
Kém dinh dưỡng
Tác dụng phụ của thuốc tăng hoạt động
Xáo trộn trao đổi chất

Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm:

- Chẩn đoán ADHD dựa trên đánh giá lâm sàng. Không có trắc nghiệm nào dựa trên thí nghiệm y học có thể chứng thực chẩn đoán.
- Những nghiên cứu cơ bản giúp củng cố chẩn đoán và sự trợ giúp trong trị liệu bao gồm:
+ Đếm huyết thanh CBC.
+ Chất điện phân.
+ Trắc nghiệm chức năng của người bệnh (trước khi bắt đầu trị liệu).
+ Kiểm tra chức năng tuyến giáp.
Chẩn đóan hình ảnh:
+ Hình ảnh não, ví dụ như MRI chức năng hay quét chụp X quang bằng phát ra photon đơn (SPECT) rất hữu dụng trong nghiên cứu, nhưng không có chỉ dẫn lâm sàng nào cho những thủ tục này bởi chẩn đoán phải là lâm sàng.
Những trắc nghiệm khác:
- Test tâm lý
+ Thang đánh giá Conners cho Cha mẹ-Giáo viên là một bộ câu hỏi được dùng cho cả bố mẹ và giáo viên của trẻ.
+ Bộ câu hỏi Tình huống ở nhà Barkley.
+ Thang đánh giá Wender Utah có thể hữu dụng trong chẩn đoán ADHD ở người lớn.
+ Trắc nghiệm Thực thi Tiếp diễn (CPTs) dựa trên những bài tập của máy tính và thường đường dùng để kiểm tra sự chú ý và có thể được dùng kết hợp với những thông tin lâm sàng để đánh giá. Một ví dụ được biết nhiều là Trắc nghiệm Nhiều loại Chú ý (TOVA). Khi những trắc nghiệm này có thể hỗ trợ cho chẩn đoán trong một đánh giá lâm sàng đầy đủ, chúng có tính xúc cảm và tính đặc trưng thấp và không phải là nền tảng cơ bản để đánh giá.
- Thị giác và thính giác nên được kiểm tra.
Dùng thuốc: Những số liệu gần đây đã nói lên rằng liệu pháp y dược hiệu quả hơn liệu pháp hành vi hay chăm sóc tại cộng đồng (thuốc được kê bởi các bác sĩ nhi khoa). Với những khu vực chức năng, như kỹ năng xã hội và trường học, thuốc kết hợp với liệu pháp hành vi được khuyến cáo. Liệu pháp bao gồm những điều sau đây:
- Thuốc (methylphenidate, dextroamphetamine)
+ Đây là liệu pháp số một và chắc chắn là liệu pháp hiệu quả nhất.
+ Tất cả thuốc có hiệu quả như nhau nhưng khác nhau ở liều lượng, thời gian hiệu lực, và tác dụng phụ ở những bệnh nhân riêng lẻ. Nên cẩn trọng bằng việc bắt đầu với liều lượng thấp nhất và chuẩn độ dần cho hiệu lực lâm sàng hay tính không dung nạp thuốc.
+ Triệu chứng nhắm tới bao gồm xung động, giảm tập trung, khó hòan thành bài tập, tăng hoạt động và thiếu chú ý.
+ Một số thuốc được duy trì liên tục, có thể tăng liều lượng hàng ngày. Cách khác, mỗi lần uống nên cách nhau từ 4-6 giờ.
+ Cần lưu ý không uống thuocó quá gần lúc đi ngủ bởi thuốc có thể gây mất ngủ.
+ Những tác dụng phụ khác của thuốc bao gồm mất ngon miệng và giảm cân, nhức đầu, và ảnh hưởng khí sắc (trầm cảm, dễ bị kích thích).
+ Thuốc có thể làm tăng tíc ở trẻ em vốn đã mắc rối loạn tíc.
+ Việc lớn lên có bị ảnh hưởng hay không khi trẻ dùng thuốc vẫn chưa rõ ràng. Dùng thuốc vào ngày nghỉ (nghỉ hè hay cuối tuần) có thể hoặc không được khuyến cáo cho giai đoạn lớn bình thường. Quyết định tùy thuộc vào biểu đồ lớn lên của trẻ và liệu pháp hành vi và nhận thức và không dùng thuốc.
- Magiê pemolin có thể được dùng, nhưng liên quan một chút với hậu quả không tốt có thể gây tổn thương cho gan nên là loại thuốc thứ hai hoặc thứ ba.
- Những số liệu gần đây nói lên rằng pupropion hay venlafaxine có thể có hiệu quả. Liều lượng tương đương như dành cho liều trầm cảm.
- Thuốc chống suy nhược ba vòng (imipramine, desipramine, nortriptyline) được sử dụng cho trẻ ADHD. Nếu những thuốc này được dùng, cần đo ECG bởi những thuốc này có thể ảnh hưởng đến tim. Một vài báo cáo đã miêu tả những cái chết bất ngờ của nam giới dùng desipramine, nhưng nguyên nhân chính xác cái chết vẫn không rõ ràng và có thể không liên quan đến việc sử dụng desipramine.
- Clonidine và guanfacine được sử dụng với những báo cáo tổng hợp về hiệu quả. Những cái chết bất ngờ của trẻ em được báo cáo khi trẻ dùng clonidine với methylphenidate lúc đi ngủ. Nhưng, nguyên nhân cái chết vẫn không rõ, và điều này để lại một chủ đề gây tranh luận.
- Liệu pháp hành vi thường hiệu quả khi được sử dụng kết hợp với chế độ thuốc hiệu quả.
+ Làm việc với bố mẹ trẻ và nhà trường để chắc chắn rằng những môi trường này là có lợi cho sự tập trung và chú ý là điều cần thiết.
+ Liệu pháp hành vi hay chương trình sửa đổi hành vi có thể giúp giảm bớt dự định không chắc chắn và tăng cường sự tổ chức.
+ Đối với người lớn bị ADHD, lao động để thiết lập cách giảm bớt sự sao lãng và tăng cường kỹ năng tổ chức có thể có ích.
- Trong nhiều thập kỷ, nghiên cứu và cả truyền miệng cho rằng thực phẩm còn chất bảo quản hoặc thực phẩm nhiều màu hoặc thực phẩm nhiều đường đơn có thể làm trầm trọng ADHD. Nhiều nghiên cứu kiểm tra đã thí nghiệm với vấn đề này. Đến nay, chưa có số liệu đầy đủ nào chứng minh cho sự suy đoán này.
Mặc dù các bác sĩ nhi khoa, cha mẹ và giáo viên hy vọng vào các liệu pháp hiệu quả và phương pháp đó không bao gồm việc dùng thuốc cho trẻ ADHD, nhưng những bằng chứng cho đến nay nói lên rằng những triệu chứng đặc hiệu của ADHD được điều trị rất kém nếu không có thuốc. Có thể những ca ADHD nhẹ nhất có thể được điều trị với thành công ở mức độ vừa phải với sắp sếp lại môi trường và liệu pháp hành vi, nhưng khác với những tình trạng hạn chế này, liệu pháp dược lý vẫn cần thiết.
Chăm sóc bệnh nhân ngoại trú.
- Việc thường xuyên theo dõi trong thời gian dài là cần thiết với người bị ADHD. Cũng giống như bệnh cao huyết áp hay đái tháo đường, ADHD không phải là một bệnh mà mọi người có thể trao cho người bệnh một đơn thuốc và yên tâm bình phục với thuốc.
Tiên lượng
- Tuổi nhỏ bị ADHD có thể mang nguy cơ lớn tiên lượng về những hành vi rối loạn và hành vi xâm hại tới tuổi thanh thiếu niên và người lớn. Có thể có những rối loạn tiên phát cùng tồn tại hoặc những rối loạn thứ phát với những rối loạn ADHD chưa được xử lý hoặc xử lý không được.
- Hầu hết trẻ em mắc ADHD có cuộc sống tâm thần tương đối tốt khi trưởng thành.
- ADHD tiếp tục tồn tại một cách hòan toàn ít nhất 15-20% đến lúc trưởng thành, khoảng 65% có thể tiếp tục có những triệu chứng không rõ ràng của ADHD gây trở ngại đến việc nhận ra đúng bệnh hay công việc của người bệnh.

Việc giáo dục/rèn luyện cho bệnh nhân:

- Việc giáo dục cho người bệnh và các thành viên gia đình họ là rất quan trọng. Các thành viên gia đình bao gồm bố mẹ và anh chị em ruột của trẻ, vợ chồng riêng hay con của người lớn, trẻ lớn hay những bệnh nhân nhiều tuổi hơn. Khuyến khích việc dùng thuốc, giáo dục vào thời điểm đã được kế hoạch hóa và điều khiển hành vi, tập luyện kỹ năng xã hội, cần thường xuyên điều chỉnh lại nhận thức.
Những liên quan đặc biệt:
- ADHD có thể đi cùng với những bệnh tâm thần sau:
+ Các rối loạn học tập khác.
+ Rối loạn hành vi hoặc rối loạn chống đối.
+ Rối loạn lưỡng cực.
+ Hội chứng Tourette.
+ Rối loạn phát triển lan tỏa.
+ Chậm phát triển tâm thần.
- Khi đánh giá một bệnh nhân với những rối loạn trên, cần rất thận trọng cũng như tỉ mỉ khi đánh giá ADHD, ADHD, như rối loạn lưỡng cực, có thể dễ dàng điều trị.
- ADHD là một rối loạn phát sinh dị loại có thể bao gồm cả những bệnh tâm thần khác. Những triệu chứng của ADHD có thể thấy ở những rối loạn khác, hoặc những dấu hiệu và triệu chứng này có thể là điềm báo trước ở tuổi nhỏ đến những rối loạn sau đó như rối loạn lưỡng cực hoặc tâm thần phân liệt.
09:01 SA 01/06/2006
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
Điều trị ADHD
Các thuốc hưng phấn tâm thần, chủ yếu là methylphenidate, hay Ritalin, đã được kê đơn cho ADHD từ đầu những năm 1960 (Sprague & Gadow, 1976). Hiệu quả hoạt động của các loại thuốc này là làm dịu trẻ ADHD và tăng cường khả năng tập trung. Một cuộc khảo sát đã thấy rằng 6% trẻ học sinh các lớp (tiểu học, trung học) cơ sở và 25% ở các lớp giáo dục đặc biệt có sử dụng các thuốc này (Safer & Krager, 1988). Việc kê đơn các loại thuốc này đôi khi tiếp tục khi trẻ đến tuổi thanh thiếu niên và thậm chí tuổi trưởng thành khi vẫn còn những vết tích nhẹ của triệu chứng ADHD không phải sẽ luôn mất đi theo thời gian.
Ritalin có hiệu quả không? Nhiều nghiên cứu đối chứng so sánh thuốc với thuốc vờ (placebo) đã được loại trừ sai sót đã chỉ ra sự tăng cường ngắn hạn sự tập trung, hành vi có mục đích, hành vi trong lớp học, các hoạt động vận động tốt và giảm gây hấn và xung động ở những trẻ mắc ADHD (Hinshaw, 1991; Weiss, 1983). Một nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng Ritalin giúp trẻ chơi bóng chày và chiếm lấy vị trí thuận lợi trong khu vực cửa thành và theo dõi được tình trạng của trận đấu, trong khi trẻ dùng thuốc vờ thường ném hay đá găng tay của mình khi trận đấu đang diễn ra (Pelham và cộng sự, 1990).
Tuy nhiên các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các loại thuốc này không cải thiện thành tích học tập qua một thời gian dài (Whalen và Henker, 1991), hay tăng cường kỹ năng bắt và ném bóng, cho vấn đề đó! Hơn nữa, các thuốc này có tác dụng phụ. Ngoài việc giảm nhẹ sự ngon miệng và giấc ngủ, một nguy cơ tác dụng phụ của việc kê đơn phổ biến của thuốc hưng phấn (kích thích) đã nổi lên: Tuần báo đã báo cáo rằng những trẻ con bắt đầu sử dụng thuốc Ritalin và các thuốc kích thích khác nhận được từ anh chị em ruột hoặc bạn bè như là các thuốc để tiêu khiển (Leland, 1995).
Điều trị trẻ ADHD dựa trên điều kiện hóa thao tác (tạo tác, quan sát được) được chứng minh là ít nhất trong giai đoạn ngắn tăng cường cả hành vi xã hội và học đường. Trong những cách điều trị này, hành vi của trẻ được kiểm soát ở nhà và ở trường học, được củng cố để ứng xử phù hợp hơn, ví dụ, để duy trì việc ngồi yên ở ghế và làm bài tập được giao. Hệ thống cho điểm và mô hình sao là những thành phần đặc trưng của chương trình này. Trẻ giành được điểm và những trẻ nhỏ hơn giành được saokhi ứng xử theo những cách phù hợp; và trẻ có thể đổi điểm, sao lấy phần thưởng. Các chương trình này được tập trung để tăng cường việc học tập, hoàn thành các việc vặt trong nhà, hoặc học những kỹ năng xã hội đặc trưng, hơn nữa làm giảm những dấu hiệu của tăng động, như chạy nhảy hay ngọ nguậy (O’Leary và cộng sự, 1976). Các nhà trị liệu đã sáng tạo ra những can thiệp này dựa trên khái niệm cho rằng tăng động là sự suy yếu ở một số kỹ năng hơn là việc coi là sự thái quá của những hành vi tiêu cực, phá rối. Mặc dù các trẻ tăng động đáp ứng tốt với những chương tình này, nhưng cách trị liệu tối ưu cho rối loạn này nên sử dụng cả thuốc và liệu pháp hành vi (Barkley, 1990; Gittelman và cộng sự, 1980; Pelham và cộng sự, 1993).
Phương thức thưởng điểm và mô hình sao, thường thấy ở trong lớp học, đặc biệt hữu ích cho trị liệu rối loạn tăng động giảm chú ý
08:56 SA 01/06/2006
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
Davison G. C. & Neale J. M. Abnormal Psychology. Senventh Edition. John Wiley & Sons, Inc. 1998. 408-413.

Rối loạn tăng động/giảm chú ý

Từ hiếu động (tăng động) quen thuộc với hầu hết mọi người, đặc biệt là phụ huynh và giáo viên. Trẻ vận động liên tục, gõ các ngón tay, đung đưa chân, làm phiền người khác mà không thấy lý do rõ ràng, nói không biết chờ lượt mình, và cựa quậy nhúc nhích luôn, được gọi tăng động. Những trẻ này, theo cách nói thông thường, dồn cha mẹ và giáo viên vào chỗ khó xử. DSM đã thay sự tập trung từ tăng hoạt động sang khó khăn của trẻ trong tập trung vào các nhiệm vụ sắp tới trong một khoảng thời gian và bao gồm các hoạt động quá mức không mục đích. Thuật ngữ chẩn đoán hiện nay là rối loạn tăng hoạt động/giảm chú ý (ADHD).
ADHD được chẩn đoán một cách điển hình khi trẻ gặp phải môi trường học đường nơi cần chúng thích nghi với môi trường lớp học.
Những trẻ giảm chú ý này dường như khó khăn trong kiểm soát hành vi trong các tình huống yêu cầu phải ngồi yên, như khi ở trong lớp học hoặc giờ ăn. Khi cần đến sự im lặng, chúng thường không thể ngừng nói hay vận động. Chúng thường phá rối, cư xử thất thường, kém lịch sự, bướng bỉnh, và hống hách. Các hoạt động và vận động của chúng dường như bừa bãi, lung tung. Chúng nhanh chóng làm rách giầy và quần áo, đập phá đồ chơi, và làm kiệt sức gia đình và thầy cô giáo. Dù sao, chúng cũng gặp khó khăn khi nhận ra được những quy tắc khi chơi, khi có một vài hạn chế cho hành vi của trẻ.
Nhiều trẻ tăng động có những khó khăn quá mức trong việc hòa nhập với các bạn cùng lứa và kết bạn (Whalen & Henker, 1985), có thể hành vi của chúng thường có tính gây hấn và nói chung làm người khác khó chịu. Mặc dù những trẻ này thường thân thiện và thích nói, chúng vẫn thường kém tinh tế (nhạy cảm), như việc chú ý (để ý thấy) khi bạn cùng chơi tỏ ra chán (hết hứng thú) với hoạt động liên miên của chúng. Chúng cũng thường xuyên hiểu sai ý muốn và mục đích của bạn bè và gây nên những lỗi do vô ý, như là khăng khăng đòi ở lại ăn tối ở nhà một người bạn mà không được mời trong khi trẻ bình thường sẽ hiểu rằng đã đến lúc phải về nhà. (Những lỗi về nhận thức như vậy cũng được nhận thấy ở một số trẻ rối loạn hành vi). Trẻ ADHD có thể biết hành động xã hội đúng nào trong các tình huống giả định (giả thuyết) nhưng không có khả năng chuyển những hiểu biết này thành hành vi thích hợp trong những tương tác xã hội của cuộc sống thực (Whalen & Henker, 1985).
Khoảng từ 20 đến 25% trẻ em ADHD bị loạn hoạt năng học tập (xem trang 420) với các môn toán, tập đọc hay chính tả (Barkley, DuPaul, & McMurray, 1990), và nhiều trẻ ADHD được đưa vào các chương trình giáo dục đặc biệt bởi những khó khăn của chúng trong việc thích nghi với môi trường lớp học điển hình.
Chẩn đoán ADHD không hoàn toàn thích hợp với những người ít tuổi dễ nổi nóng, hoạt động, hay sao nhãng ở mức độ không đáng kể, cho các trẻ trong những năm học đầu tiên cũng thường xuyên như vậy (Whalen, 1983). Việc sử dụng tên gọi một cách chính xác bởi vì đứa trẻ sống động hơn và khó khăn hơn trong việc điệu khiển hơn là phụ huynh hay giáo viên miêu tả sử dụng không đúng thuật ngữ. Chẩn đoán ADHD là để dành riêng cho những trường hợp thực sự nghiêm trọng và kéo dài.
Bởi vì các triệu chứng của ADHD là đang dạng, DSM-IV đã đưa ra ba kiểu phụ: (1) trẻ mà vấn đề chủ yếu là tập trung kém; (2) trẻ có những khó khăn chủ yếu do hành vi tăng động-xung động; và (3) trẻ có cả hai loại vấn đề. Kiểu phụ thứ ba gồm phần lớn trẻ ADHD. Trẻ với những vấn đề chú ý và tăng hoạt động có vẻ sẽ phát triển thành những vấn đề về hành vi và hành vi chống đối, được đưa vào những lớp đặc biệt cho những trẻ rối loạn hành vi, và có những khó khăn trong quan hệ với bạn cùng lứa (Barkley, DuPaul, & Mc Murray, 1990). Trẻ có các vấn đề về chú ý nhưng mức độ hành vi bình thường có vẻ có nhiều vấn đề với tập trung chú ý hoặc tốc độ xử lý thông tin (Barkley, Grodzinsky, & DuPaul, 1990), được giả thuyết là bắt nguồn từ một số vấn đề ở thùy trán phải (Posner, 1992). Các nghiên cứu cũng gợi ý rằng sẽ là tốt hơn nếu cho là hai rối loạn riêng biệt (Barkley, 1990); dù sao, hầu hết các giả thuyết và nghiên cứu đã không đưa ra sự khác biệt.
Sự chẩn đoán phân biệt khó khăn giữa ADHD và rối loạn hành vi, mà chúng ta sẽ xem qua, bao gồm sự phá rối thô bạo các quy tắc xã hội. Có sự trùng lặp từ 30 đến 90% giữa hai loại (rối loạn) (Hinshaw, 1987) là lý do mà một số nhà nghiên cứu quả quyết rằng hai dạng hành vi không thể kiểm soát thực ra là rối loạn cùng loại (Quay, 1979). Dù sao cũng có những sự khác nhau. Tăng động thường liên quan nhiều đến những hành vi bỏ, không hòan thành các nhiệm vụ ở lớp học, suy yếu về nhận thức và hòan thành công việc, và tiên lượng dài hạn tốt hơn. Trẻ rối loạn hành vi biểu hiện ở ngoài trường học và các nơi khác và có vẻ gây hấn hơn và có những nguồn gốc chống đối xã hội; cuộc sống ở nhà của chúng được ghi dấu bởi thái độ chống đối gia đình và tình trạng kinh tế xã hội thấp kém, và chúng có nguy cơ rất lớn phạm tội và duy trì ứng xử xấu ở tuổi thanh thiếu niên (Hinshaw, 1987; Loney, Langhorne, & Paternite, 1978). Khi hai rối loạn này xuất hiện ở cùng một trẻ, những đặc điểm tồi tệ nhất được thể hiện; những trẻ như vậy biểu lộ hành vi chống đối xã hội nghiêm trọng nhất và có tiên lượng xấu nhất (Biederman, Newcorn, & Sprich, 1991; Cadoret & Stewart, 1991; Moffitt, 1990). Trong thực tế, người ta mới đề nghị rằng việc trẻ có kết hợp ADHD/CD hình thành một kiểu phụ riêng rất có thể tiến triển nên những kiểu bệnh tâm thần ở người lớn của rối loạn nhân cách chống đối xã hội (Lynam, 1996). Theo một cách khác thì ADHD có trước, với những hành vi trầm trọng thêm của trẻ do những phản ứng thù địch với bạn cùng lứa và người lớn. Sự leo thang của ngày càng nhiều sự tấn công, phản công, kết quả là những hành vi gây hấn đặc trưng của rối loạn hành vi, như chúng ta sẽ thấy. Để kết luận cho sự xem xét cẩn thận những tài liệu so sánh hai rối loạn này, Hinshaw (1987) đã đề nghị tiếp tục xem xét tăng động và rối loạn hành vi như là những rối loạn khác nhau nhưng có liên quan đến nhau. Thật không may, nhiều nghiên cứu trên trẻ tăng động đã làm lẫn lộn ADHD với các vấn đề hành vi và gây hấn, làm cho những điều đã được tìm ra về tăng động lại ít rõ ràng hơn.
Thật khó để tìm ra tỉ lệ mắc của ADHD bởi những định nghĩa khác nhau qua thời gian và những mẫu dân cư. Ước lượng biến đổi từ 1 đến 20% (DuPaul, 1991; Ross & Ross, 1982, Szatmari và cộng sự, 1989), với sự thống nhất từ 3 đến 5% trẻ đang mắc ADHD (Hội Tâm thần học Hoa Kỳ, 1994). Người ta tin rằng rối loạn này có ở con trai nhiều hơn con gái, nhưng con số chính xác phụ thuộc vào mẫu được nhắc đến trong lâm sàng (con trai có vẻ được nhắc đến nhiều hơn bởi có khả năng cao hơn có những hành vi gây hấn thêm vào các triệu chứng ADHD) hay từ dân số nói chung. Một số nghiên cứu dịch tễ học đã thất bại trong việc tìm ra sự khác nhau giữa tỉ lệ mắc ADHD giữa nam và nữ. Mọt số nghiên cứu trên nữ mắc ADHD, nhưng chỉ một vài sự khác nhau được tìm thấy giữa con gái mắc ADHD và con trai mắc ADHD (Breen, 1989; Horn, Wagner, & Ialongo, 1989; McGee, Williams, & Silva, 1987).
Mặc dù nhiều trẻ chưa đến tuổi đi học bị bố mẹ và giáo viên coi như là giảm chý ý và hoạt động quá mức, phần lớn những trẻ này đang đi qua giai đoạn phát triển bình thường sẽ không bị ADHD (Campbell, 1990). Nói cách khác, hầu hết trẻ em sẽ phát triển thành ADHD biểu hiện những hoạt động quá mức và hành vi thất thường trong giai đoạn đầu của cuộc đời. Tính tò mò không thể thỏa mãn và trò chơi sôi nổi khiến cho sự ngăn ngừa trẻ là cần thiết để tránh những bi kịch như tai nạn bị nhiễm độc, ngã cầu thang, rơi ra khỏi cửa sổ. Mặc dù những năm trước khi đi học là rất căng thẳng cho phụ huynh có trẻ ADHD, nhưng những vấn đề sẽ nổi lên khi trẻ đi học và bất ngờ phải ngồi yên trong thời gian dài, hoàn toàn độc lập, và phải biết hòa hợp với bạn bè.
Có một thời gian người ta đã cho rằng tăng động hết hoàn toàn khi đến tuổi thanh thiếu niên. Tuy nhiên, quan điểm này đã bị thách thức bởi nhiều nghiên cứu bổ dọc (theo thời gian) hòan thành vào những năm 1980 (Barkley và cộng sự, 1990; Gittelman và cộng sự, 1985; Mannuzza và cộng sự, 1991; Weiss & Hechtman, 1986). Trong một nghiên cứu đã có hơn 70% trẻ mắc ADHD vẫn có những tiêu chuẩn chẩn đoán khi ở tuổi thanh thiếu niên (Barkley và cộng sự, 1990). Cùng với sự cựa quậy không yên, thiếu tập trung, hành vi xung động, thanh thiếu niên ADHD phải bỏ học nhiều hơn bạn cùng lứa rất nhiều. ở tuổi trưởng thành, mặc dù hầu hết đều có công việc và độc lập về tài chính, nhưng nói chung họ có mức thấp hơn về tình trạng kinh tế xã hội và đổi việc thường xuyên hơn là sự trông đợi thông thường.
Mặc dù hầu hết những người trưởng thành có bệnh sử ADHD tiếp tục biểu hiện một số triệu chứng của rối loạn này, nhưng hầu hết họ cũng học cách thích nghi với những triệu chứng này, có thể là bằng cách tìm kiếm cho mình một chỗ thích hợp trong thế giới công việc.
Các nguyên nhân sinh học của ADHD
Việc tìm kiếm nguyên nhân của ADHD khá phức tạp bởi tính không thuần nhất của những trẻ đã được chẩn đoán này; một vài yếu tố được thấy là kết hợp với hội chứng có thể có sự liên quan với chỉ một vài của những yếu tố chứa đựng chẩn đoán.
Các yếu tố di truyền (gen). Một tố bẩm (bẩm chất) cho ADHD có thể được thừa kế (di truyền). Trong một nghiên cứu trên 238 cặp song sinh, Goodman và Stevenson (1989) đã tìm ra sự phù hợp cho chẩn đoán lâm sàng tăng động ở 51% các cặp sinh đôi cùng trứng và 33% các cặp sinh đôi khác trứng. Người ta vẫn chưa biết chính xác cái gì được di truyền, nhưng những nghiên cứu gần đây đã nêu lên một số khác biệt trong chức năng não. Trao đổi chất ở não thấp hơn mức bình thường ở nữ mắc ADHD, nhưng không phải ở nam (Ernst và cộng sự, 1994), mặc dù điều này có thể là do tình trạng rối loạn nặng nề hơn ở những phụ nữ đã được nghiên cứu (những người tham gia thuộc một tổ chức ADHD). Trong một nghiên cứu quan trọng trong 10 năm của Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia, Catellanos và cộng sự (1996) đã so sánh những lớp chụp cộng hưởng từ MRI (cf. p. 88) ở nam giới bình thường và bị ADHD và đã phát hiện ra thùy trán nhỏ hơn ở những trẻ mắc rối loạn. Bằng chứng từ những nghiên cứu khác đã chỉ ra hoạt động kém hơn của trẻ ADD ở những trắc nghiệm tâm lý-thần kinh về chức năng của thùy trán (như việc kiềm chế những đáp ứng hành vi) đã ủng hộ ý kiến cho rằng một sự suy yếu đáng kể ở phần này của bộ não có thể liên quan đến rối loạn (Barkley, 1997; Chelune và cộng sự, 1986; Heilman, Voeller, & Nadeau, 1991).
Các độc tố từ môi trường. Các lý thuyết phổ biến của ADHD qua nhiều năm đã chú ý tới vai trò của các độc tố từ môi trường trong sự tiến triển của tăng động. Một thuyết về hóa sinh của tăng động được đưa ra bởi Feingold (1973) đã gây nhiều sự chú ý trong nhiều năm. Ông cho rằng thực phẩm có chất phụ gia gây rối loạn cho hệ thần kinh trung ương của trẻ tăng động, và ông quy định một chế độ ăn kiêng tự nguyện cho chúng. Mặc dù không chắc là có một tỉ lệ các trường hợp tăng động bị gây ra bởi sự nhạy cảm với các chất phụ gia thực phẩm. Những nghiên cứu dựa trên đối chứng chặt chẽ theo chế độ ăn của Feingold đã nhận thấy rằng một số trẻ đáp ứng tích cực với điều này (Goyette & Conners, 1977). Tương tự, nhiều người cũng nhận thấy quan điểm đường tinh chế có thể gây ADHD (Smith, 1975) đã không được sự xác nhận của nghiên cứu kỹ lưỡng (Gross, 1984; Wolraich và cộng sự, 1985). Mặc dù một số bằng chứng nói lên rằng nhiễm độc chì có thể kết hợp với một mức độ nhỏ các triệu chứng của tăng động và các vấn đề chú ý (Thompson và cộng sự, 1989), hầu hết trẻ mắc ADHD không có lượng chì cao hơn mức bình thường trong máu.
Nicôtin, đặc biệt là việc hút thuốc ở người mẹ, là một độc tố từ môi trường có thể đón vai trò trong tiến triển của ADHD. Milberger và cộng sự (1996) mới báo cáo rằng 22% người mẹ của những trẻ mắc ADHD hút trên một bao thuốc mỗi ngày trong suốt quá trình mang thai, so với nhóm đối chứng chỉ có 8%. Hơn nữa, những nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng nicôtin làm tăng giải phóng dopamin và gây ra tăng động (Fung và Lau, 1989; John và cộng sự, 1982). Dựa trên nền tảng của những số liệu này, Milberger và những người cộng tác giả thuyết rằng hút thuốc ở người mẹ có thể ảnh hưởng đến hệ thống tiết dopamin của bào thai đang phát triển, để lại kết quả ở mất phản xạ có điều kiện hành vi và ADHD.
Hút thuốc lá trong suốt thời kỳ mang thai được cho là có liên quan đến tăng nguy cơ mắc ADHD cho trẻ.
Các thuyết về tâm lý của ADHD
Nhà phân tâm học trẻ em Bruno Bettelheim (1973) đã đưa ra thuyết tạng nhạy cảm với stress, giải thích rằng tăng động phát triển khi đứa trẻ sinh ra vốn có một bẩm chất hướng đến rôi snhiễu này lại đi kèm với cách giáo dục độc đoán của bố mẹ. Nếu trẻ có tạng (khí chất) hướng tới tăng động và khí sắc thất thường dễ bị stress, do nghiên mẹ sớm trở nên kém kiên trì dễ bực bội thì đứa trẻ có thể mất khả năng thỏa mãn những đòi hỏi buộc phải vâng lời của người mẹ. Và khi người mẹ càng trở nên bực tức cáu bẳn thì quan hệ mẹ-con càng sớm trở nên xung đột. Với mối quan hệ không vâng lời và bị phá vỡ đã được thiết lập, đứa trẻ khó thích nghi với những đòi hỏi của nhà trường, và hành vi của chúng thường xuyên vi phạm các quy định của lớp học.
Việc học tập cũng có thể góp phần vào tăng động. Tăng hoạt động có thể được củng cố bằng việc kém chú ý, theo cách ấy mà tăng lên về tần số hoặc cường độ. Hoặc là, như Ross và Ross (1982) đã nêu ra, hành vi tăng động có thể được mô hình hóa từ hành vi của bố mẹ hay anh chị em ruột.
Mối quan hệ bố mẹ-con cái là mối quan hệ hai chiều. Chỉ cần bố mẹ của những trẻ ADHD ra nhiều mệnh lệnh và có những tương tác tiêu cực với trẻ thì chúng sẽ biểu hiện ít phục tùng mệnh lệnh hơn và có những tương tác tiêu cực hơn với bố mẹ (Barkley, Karlson, & Pollard, 1985; Tallmadge & Barkley, 1983). Như chúng ta sẽ đề cập qua một chút, các thuốc hưng phấn tâm thần đã được chứng minh là giảm tăng động và tăng cường sự nghe lời ở trẻ ADHD. Thật ý nghĩa, khi những thuốc như thế được sử dụng, những mệnh lệnh của bố mẹ và những hành vi tiêu cực cũng sẽ giảm xuống (xem Barkley, 1990), đã gợi ý rằng điều đó, ít nhất là đến phần nào đó, hành vi của trẻ ảnh hưởng tiêu cực đến cha mẹ hơn là ngược lại.
.
08:54 SA 01/06/2006
Tự kỷ (phần 1)
MÔ HÌNH TRỢ GIÚP TRẺ TỰ KỶ, MỘT BIỆN PHÁP MONG ĐỢI CỦA TRẺ EM RỐI LOẠN TÂM LÝ NẶNG
TS . BS Nguyễn Văn Siêm, giảng viên khoa tâm lý học
Đại học khoa học xã hội và nhân văn

Khoa Tâm lý học trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội từ mấy năm nay đã tổ chức giảng dạy đào tạo môn tâm lý học lâm sàng cho sinh viên (môn học này lần đầu tiên được đưa vào chương trình giảng dạy bậc đại học). Thầy và trò khoa tâm lý đã tổ chức toạ đàm về mô hình trợ giúp trẻ tự kỷ( một loại rối loạn tâm lý nặng). Đây là một sáng kiến vì chung quanh hoạt động này đã tập hợp được nhiều trung tâm và nhóm can thiệp sớm cho các trẻ em bị rối loạn này từng hoạt động nhiều năm nay như các trung tâm Hy Vọng, Phúc Tuệ, Sao Mai, trường mầm non Bình Minh, trường tiểu học Bình Minh, trung tâm can thiệp sớm Đại học Sư Phạm, trung tâm hỗ trợ và tư vấn tâm lý, nhóm tương trợ phụ huynh.
Tham gia chương trình này có chuyên gia của nhiều chuyên ngành: Bác sĩ tâm thần, chuyên viên tâm lý, chuyên viên giáo dục đặc biệt, các chuyên viên chỉnh âm, thầy điều trị tâm vận động… Đây là mô hình can thiệp y- tâm lý- giáo dục. Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng vì các trẻ em này sống ở nhà thời gian nhiều hơn là các buổi tiếp xúc tập luyện với các chuyên viên. Mô hình trợ giúp trẻ tự kỷ thực sự là cơ hội để cả một êkip chuyên viên y- tâm lý- giáo dục hợp tác hành nghề, tích luỹ kinh nghiệm và đào tạo cán bộ.
Tôi có 40 năm phục vụ bệnh nhân tâm thần (có hơn 10 năm làm việc với bệnh nhân trẻ em), cũng có dịp tham quan hàng chục cơ sở giảng dạy và lâm sàng tâm thần học nhi của nước ngoài, tôi có ấn tượng sâu sắc với mô hình hoạt động này của khoa tâm lý học trường đại học khoa học xã hội và nhân văn.
Từ lâu, các nhà tâm thần học (Henry Mandsley, 1867) đã chú ý tới các rối loạn tâm thần nặng ở trẻ 1-3 tuổi, trong nhiều thập kỷ trước thường được gọi là các bệnh loạn thần của trẻ nhỏ. Từ “tự kỷ- autisme” do E. Bleuler đưa ra (1911) đã mô tả một trong các triệu chứng chủ yếu của bệnh tâm thần phân liệt với ý nghĩa là mất sự tiếp xúc với thực tế xung quanh, hoàn toàn thu mình khép kín, mất khả năng giao tiếp hay rất khó giao tiếp với người khác. Chứng tự kỷ trẻ nhỏ do Leo Kanner mô tả đầy đủ từ năm 1943 đã được thừa nhận cho đến hiện nay nhưng về nguyên nhân vẫn chưa rõ.
Đó là rối loạn hành vi của tuổi phát triển, các bất thường xuất hiện rõ trước ba tuổi và rất đặc thù trong ba lĩnh vực tương tác xã hội, giao tiếp, hành vi và thích thú thu hẹp, động tác định hình (các thao tác diễn ra dập khuôn theo trình tự như xuất hiện lần đầu tiên, thường lặp lại nhiều lần giống nhau).
Loại rối loạn tự kỷ điển hình, phát triển ngay sau khi lọt lòng mẹ ít gặp. Nhưng loại rối loạn tự kỷ không điển hình với các biểu hiện tự kỷ không đầy đủ và xuất hiện ở trẻ em đã có 2-3 năm phát triển bình thường thì tỷ lệ đến 20- 30 trường hợp trên 10.000 trẻ em. Trẻ em trai có tỷ lệ cao hơn trẻ em gái 3- 4 lần, trẻ em có hoàn cảnh kinh tế- xã hội mức nào cũng có thể mắc bệnh.
Rối loạn tự kỷ điển hình của trẻ nhỏ (tức tự kỷ Kanner) hiện nay được mô tả với ba loại biểu hiện chính. Rối loạn về tương tác xã hội tức là đứa trẻ không có các cử chỉ, hành vi, thái độ thích hợp đáp ứng với cử chỉ, hành vi của những người xung quanh.
Ở trẻ bé, hành vi tương tác phi ngôn ngữ không xuất hiện: trong khi cho ngậm vú mẹ, mẹ nhìn mắt con nhưng con không chăm chú nhìn mặt mẹ và mắt mẹ, không biểu cảm nét mặt, không có cử chỉ và tư thế cơ thể thích hợp để điều chỉnh sự tương tác với cử chỉ và vận động âu yếm của mẹ. Lớn hơn, các trẻ em này không phát triển quan hệ gắn bó với bố mẹ và trẻ em cùng độ tuổi phù hợp với trình độ trưởng thành, không nhìn mẹ, không tỏ vẻ vui khi mẹ đến gần, thích ngồi một mình hơn là được mẹ bế ẵm, không làm bạn với trẻ em khác, cũng không đáp ứng với các cử chỉ thân thiện của các bạn, hầu như không phân biệt người này với người khác, bố mẹ cũng như người dưng. Trẻ em bình thường hay tự nhiên trao đổi cảm xúc, niềm vui, chia sẻ điều thích thú hay kết quả một việc làm với người xung quanh. Trẻ em bị tự kỷ không chỉ cho xem cái gì nó thích, không lôi kéo sự chú ý, không bị đau không tìm sự vỗ về của mẹ, không bao giờ hôn mẹ, không níu bám mẹ vòi vĩnh. Lớn lên, trẻ tự kỷ có thể có tình cảm với bố mẹ nhưng rất ít cải thiện tình cảm với trẻ em cùng lứa tuổi. Trẻ tự kỷ chỉ thích chơi một mình, không tham gia các trò chơi giao lưu với nhiều trẻ khác.
Rối loạn trong giao tiếp cũng rất đặc trưng biểu hiện ở sự không phát triển các kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Trẻ em bình thường ngay cả lúc chưa biết nói đã có thể hiểu một số ý người lớn nói và làm theo lời người lớn như “ vỗ tay hoan hô”, “ vẫy tay chào tạm biệt” lấy một vật nào đó cho mẹ. Trẻ tự kỷ không phát triển kỹ năng bắt chước, một kỹ năng học tập rất cơ bản: không làm theo, không nói theo, không biết gật đầu chào. Chậm tiếp thu ngôn ngữ hay hoàn toàn không phát triển ngôn ngữ nói. Các phương thức giao tiếp phi ngôn ngữ cũng thiếu vắng: không biết thể hiện thái độ, ý muốn bằng nét mặt, cử chỉ, gật đầu hay lắc đầu. Có khi trẻ tự kỷ nói được nhưng nói sai văn phạm, nói những từ khó hiểu và thường lặp đi lặp lại có tính chất dập khuôn, xưng hô dùng đại từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai lẫn lộn. Nghe hiểu kém, nghe hỏi một ý, trẻ tự kỷ lại nói một điều gì lạc đề, như nó đang nói về ai hay nói với ai không có mặt ở đó. Một số trẻ em tự kỷ có phát triển ngôn ngữ nhưng lại có bất thường về giọng nói, ngữ điệu, tốc độ, nhịp hay trọng âm( giọng nói đều đều đơn điệu hay lên giọng ở cuối câu như câu hỏi). Cấu trúc ngữ pháp sai nên lời nói khó hiểu, nói lặp lại các từ hay các câu không có ý nghĩa, lặp lại như vẹt vài câu quảng cáo trên tivi, nói một số từ để thể hiện một ý muốn gì đó nhưng chỉ mẹ trẻ mới đoán biết được. Trẻ em bình thường thích chơi với nhau hai ba người, chơi từng nhóm, với các chi tiết hình khối màu sắc khác nhau lắp ghép thành rất nhiều hình khác nhau theo ý muốn. Trẻ tự kỷ chỉ chơi một mình, chơi không có tính xã hội, không chức năng, không sáng tạo, ngày nào cũng xếp một số chi tiết đồ chơi theo một cách nhất định.
Các hoạt động, hành vi, thích thú thu hẹp, dập khuôn lặp lại theo trình tự không thay đổi. Luôn luôn chỉ bắt chước động tác của một diễn viên trên truyền hình, quay mình vòng tròn mãi không chán, nhìn ngắm một vũng nước trong nhiều giờ. Gắn bó đặc biệt với một vật nào đó như luôn luôn ngửi, hít, liếm một viên sỏi, khăng khăng từ chối các thức ăn thông thường, chỉ chấp nhận bú bình sữa như các trẻ bé hơn, hay nhai giấy. Trẻ tự kỷ chú ý đặc biệt đến sự bất di bất dịch của môi trường quen thuộc, phản ứng kịch lịêt với một thay đổi rất nhỏ trong buồng ngủ như khi di chuyển đôi chút vị trí chiếc đồng hồ để bàn, ai đó đã đặt ngửa chiếc chén chứ không úp chén như thường lệ. Trẻ em này hay có các động tác hay vận động kỳ dị của bàn tay hay thân thể( lắc lư thân mình, vỗ tay, bẻ khục ngón tay, rất thích bật quạt điện cho quay thật nhanh, làm quay các bánh xe ô tô bằng chất dẻo, sập cửa làm phát tiếng kêu, cũng có vẻ thích thú khi tự đập đầu vào thành giường.
Trên đây là bản mô tả đầy đủ của hội chứng tự kỷ trẻ nhỏ, phần lớn là các biểu hiện đã rõ ràng, dễ quan sát ở trẻ em đã 2-3 tuổi. Trong thực hành, các nhà lâm sàng quan tâm tìm kiếm các triệu chứng và dấu hiệu tự kỷ còn thô sơ ở trẻ nhỏ từ 2-3 tháng đến 1 tuổi. Phát hiện sớm, can thiệp sớm, tiên lượng sẽ khả quan.
Phát hiện sớm rối loạn tự kỷ ở trẻ nhỏ
Từ việc tham gia nuôi dạy con, nuôi dạy cháu cộng với sự quan sát các bà mẹ chăm sóc con nhỏ cùng với kinh nghiệm thực hành, chúng tôi đã hình thành cách khám tâm lý cho trẻ nhỏ( tóm tắt trong bảng sau đây). Nguyên tắc là đưa ra các kích thích và quan sát sự đáp ứng của bé về các mặt thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác, khứu giác, giấc ngủ, bữa ăn, so sánh với các đáp ứng thông thường ở trẻ em cùng độ tuổi. Trẻ càng có nhiều đáp ứng bất thường, việc chẩn đoán càng chắc chắn. Cũng xin lưu ý rằng ngay các trẻ nhỏ sinh thường cũng cần các kích thích như vậy để phát triển.
Bảng tóm tắt các đáp ứng tâm lý vận động bất thường của trẻ 1-8 tháng
Biện pháp kích thích
Thị giác
Mặt mẹ, mắt mẹ nhìn con; đưa ngón tay hay một vật có/ không có màu sắc trước mặt bé; các hình trên tivi; chìa cho một vật mẹ giang tay để ẵm
Đáp ứng của bé bất thường về tâm lý
Không nhìn chằm chằm mặt hay mắt mẹ, không đưa mắt nhìn theo ngón tay hay vật. Không chăm chú nhìn; không giơ tay để cầm; không ngả mình dang tay theo
Thính giác
Tiếng mẹ nựng con, chuyện trò với con, tiếng mẹ gọi, lời mẹ dạy
Đáp ứng của bé bất thường về tâm lý
Không “hóng chuyện” mấp máy môi hay không phát ra tiếng “ ư ư” và có các vận động thân thể tỏ ra tương tác với mẹ; không hướng nhìn về phía có tiếng mẹ
Xúcgiác
Khi ẵm con, mẹ có các vận động cơ thể để cho con nằm thoải mái trong lòng mẹ, vuốt ve con
Tắm rửa
Quần áo ẩm ướt. Con không có các vận động thân thể đối ứng với mẹ (“đối thoại trương lực”), tỏ ra khó chịu. Bé không thích
Đáp ứng của bé bất thường về tâm lý
Không khó chịu
Vị giác
Quệt một chút nước đường hay mật ong vào lưỡi
Đáp ứng của bé bất thường về tâm lý
Bé không thích liếm láp với vẻ thoả mãn như trẻ bình thường, có thể nhăn nhó
Khứu giác
Mùi mẹ, hơi mẹ
Giường nằm, quần áo, chăn chiếu bắt hơi thuốc lá, khói than. Bén hơi mẹ rất chậm hay không có.
Đáp ứng của bé bất thường về tâm lý
Không tỏ ra bứt rứt khó chịu
Giấc ngủ
Bé dưới 10 tháng có giấc ngủ dài đến 10h mỗi ngày. Tiếng ru “ à ư” của mẹ
Đáp ứng của bé bất thường về tâm lý
Bé nằm yên, mắt mở thao láo, không ngủ, như là không có nhu cầu gì
Không biểu hiện theo lệ thường: ngủ là no bụng, thức là đói bụng
Bữa ăn
Mẹ đưa vú vào miệng con
Đáp ứng của bé bất thường về tâm lý
Không có cử chỉ tìm vú mẹ và mút vú hào hứng
Về bệnh căn, ngày càng có nhiều bằng chứng về cơ sở sinh học của rối loạn tự kỷ. Các nhân tố thường được kể ra làm căn cứ cho các biện pháp can thiệp là
- Các tổn thương thần kinh trong các bệnh Rubella bẩm sinh, bệnh Phenylceton- niệu, bệnh xơ cứng não cũ
- Các biến chứng giai đoạn mẹ mang thai ba tháng đầu và thời kỳ chưa sinh
- Não tăng sản xuất chất serotonin, chất amin sinh học có tác dụng điều chỉnh giác ngủ và kiểm soát lượng thông tin lưu truyền trong các đường giác quan
Việc điều trị cần một chương trình chăm sóc toàn diện nhằm giảm nhẹ các rối loạn hành vi, phát triển các chức năng bị chậm hay không có như các kỹ năng học tập hay tự chăm sóc, tư vấn cho bố mẹ trẻ tự kỷ. Chương trình này cần một êkíp điều trị bao gồm: bác sĩ tâm thần nhi, chuyên viên tâm lý lâm sàng, chuyên viên tâm- vận động, chuyên viên chỉnh âm, chuyên viên giáo dục đặc biệt và cán sự xã hội. Tư vấn là việc đặc biệt quan trọng. Cần giúp bố mẹ trẻ tự kỷ hiểu bản chất và đặc điểm của bệnh, hợp tác chặt chẽ, thực hiện tích cực và kiên nhẫn các mục tiêu trên. Bố mẹ là người hiểu trẻ nhất và khẳng định là có khả năng giúp trẻ đắc lực nhất. Một số bậc cha mẹ đã khẳng định rằng tuy thật sự có khó khăn nhưng kiên trì tập luyện, dạy học- chữa bệnh có phương pháp đã thu được một số kết quả.
Liệu pháp điều trị cùng với cha mẹ trẻ tự kỷ lập một kế hoạch lựên tập với các mục tiêu và biện pháp khả thi để cùng phấn đấu thực hiện
Liệu pháp giáo dục (dạy học- chữa bệnh), liệu pháp hành vi (dùng các kỹ thuật thao tác luyện tập) được dùng nhiều nhất hiện nay trên thế giới. Các chuyên viên luyện tập các kỹ năng thay đổi hành vi, kỹ năng bắt chước, nói theo từng tiếng từng từ lâu dần đến từng câu ngắn (mỗi lần làm đúng, có lời khen và một quà thưởng để kích thích); Luyện tập về hành vi cũng vậy, cho tương tác, giao tiếp cũng vậy, cứ từ từ từng động tác nhỏ, đần dần bước tiếp (chú ý lời khen và phần thưởng). Thỉnh thoảng tổ chức họp các bậc bố mẹ để trao đổi kinh nghiệm.
Về hoá dược, không có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ có thuốc để phụ trợ chương trình điều trị toàn diện.
Haloperidol có thể giúp giảm nhẹ các hành vi bất thường và làm cho trẻ tự kỷ tiếp thu học tập tốt hơn. Thuốc này làm dịu rối loạn tăng động, các động tác dập khuôn định hình, trạng thái bồn chồn không yên, cảm xúc không ổn định, dễ cáu gắt. Được dùng hợp lý, haloperidol cho kết quả lâu dài. Fenfluramin (Pondimin) làm giảm hàm lượng serotonin trong máu cho kết quả ở một số trẻ em tự kỷ
Lời tâm huyết: Tôi có 40 năm phục vụ bệnh nhân tâm thần (có hơn10 năm phục vụ trẻ em bị rối loạn tâm lý), tôi rất thấu cảm với gia đình có trẻ em bị bệnh. Tôi mong muốn người đọc hiểu được ý tôi, có biện pháp nâng đỡ trẻ em từ khi còn thai nghén, quá trình thái sản; khi trẻ em lọt lòng mẹ biết cách nuôi dạy hợp lý; chú ý phát hiện bệnh sớm
(xem bảng trên) cho các em chữa chạy sớm, cha mẹ trẻ em hợp tác thật tích cực chủ động với êkip điều trị.
Tài liệu tham khảo
APA. Autistic disorder. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Dosorders. Fourth Edition. American Psychiatrie Association. Washington DC, 1994, pp. 65-78
Jo Godefroid. Autisme. Les chemins de la psychologie et sciences humaines. Collection publie’e sous la direction de Marc Richelle pp. 625-627
Harold I. Kaplan, Benjamin J. Sadock Autistic Disorder. Synopsis of Psychiatry. 7th Edition. Williams& Wilkins. Baldmore 1994. pp. 699-674
Nguyễn Văn Siêm. Hội chứng Kanner. Bài giảng tâm bệnh học trẻ em và thanh thiếu niên. Khoa tâm lý học. Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, 2005, Tr 104-116.
WHO. Kanner’s syndrome. The ICD_10 Classification of Mental and Behavioural Disorders. World Health Organization. Geneva, 1992, pp. 252-259
06:58 CH 30/03/2006
Rối loạn tăng động-giảm chú ý ở trẻ em
2.1.3. Chì trong máu
Một nghiên cứu gần đây (Thomson và cộng sự, 1989) trên 500 trẻ Fdimburg thông báo phát hiện về mối quan hệ phản ứng nhanh giữa mức chì trong máu và mức đánh giá hành vi trên thang đo cho giáo viên, thấy điểm tổng và điểm đo mục hành vi công kích, chống đối xã hội và tăng động. Nghiên cứu đã chứng thực rằng, mức chì trong máu cao có khả năng gây các vấn đề hành vi và nhận thức ở trẻ.
2.1.4. Vai trò của thùy trước:
Các nhà khoa học cùng tập trung quan tâm nghiên cứu vai trò ảnh hưởng của thùy trước đối với hội chứng. Thùy trước, bằng cách điều chỉnh
adrenegic sử dụng những tác dụng ức chế lên các cấu trúc thể vân dưới, được điều chỉnh bởi dopamine. Điều này có thể giải thích được nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến việc cải thiện những triệu chứng của hội chứng vỏ não trước, thuộc quỹ đạo có khả năng liên quan đến các hành vi xung động và hung tính. Một số nghiên cứu gần đây sử dụng chụp cắt lớp bằng dòng positon (PET) đã chứng minh được những thay đổi về phát triển trong suốt thời thơ ấu và vị thành niên, theo mật độ của thụ thể dopamine, lượng máy não và sử dụng glucose ở thùy trước, như PET đo đạc trong một số nghiên cứu chỉ ra là có sự khác biệt giữa trẻ tăng động và trẻ bình thường. Hơn nữa, những sự phân phối methylphenidate dẫn đến có sự tăng lượng máu chảy tới não giữa và hạch cơ sở, trong khi những khu vực vỏ não vận động cho thấy sự giảm đi, điều này có thể giải thích được ảnh hưởng trị bệnh của chất kích thích đối với hội chứng. Trong khi rất nhiều những nghiên cứu vẫn đang trong thời kỳ khởi đầu, các nghiên cứu PET trong tương lai sẽ cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin hơn về loạn chức năng vỏ não ở trẻ TĐGCY.
2.2.Thuyết nguyên nhân tâm lý xã hội:
Bởi vì các bằng chứng sinh học quyết định trên của hội chứng TĐGCY là yếu, hơn nữa những nguyên nhân sinh học mang tính thăm dò này có thể không đặc trưng cho TĐGCY, nhiều nghiên cứu đã quan tâm đến các yếu tố tâm lý xã hội.
Một số báo cáo chỉ ra sự liên quan giữa stress gia đình và địa vị kinh tế xã hội thấp với tỷ lệ mắc phải cao và hành vi có vấn đề ở nhóm trẻ tham khảo 3 tuổi trước tuổi đến trường. Hơn nữa, mối quan hệ mẹ - bé không được gắn bó, thu được qua lời thuật của mẹ cũng như quan sát của người phỏng vấn, dự đoán sự dai dẳng của vấn đề được xác định ở tuổi nhỏ. Điều này khiến nảy sinh ý kiến là những nhân tố gia đình cũng đóng góp vào sự nghiệm trọng của rối loạn cũng như thời gian kéo dài. Sự hiện diện của tình trạng dễ bị thương tổn sinh học (ví dụ những khó khăn kiểm soát ức chế) mà bản chất của nó chưa được thiết lập, có thể làm cho trẻ dễ gặp nguy hiểm hơn trẻ bình thường, những trẻ bị ảnh hưởng xấu bởi bất kỳ dạng gia đình và stress ở trường học nào. Những trẻ như vậy có thẻ sẽ trở thành nơi trút giận, chịu báng cho những cơn tức giận của cha mẹ hoặc cô giáo hơn là những trẻ bình thường có tính khí phức tạp hơn.
Trong xã hội cạnh tranh và đẩy nhanh khoa học kỹ thuật của chúng ta, việc học tập kém của trẻ (hành vi của chúng lại càng làm cho tình huống xấu đi) gây chấn sang, lo âu cho cha mẹ, nảy sinh sự sợ hãi rằng trẻ sẽ không thể xin được việc làm thích hợp khi lớn lên. Cùng lúc đó, với sự gia tăng ly hôn, cha (mẹ) độc thân, gia đình pha tạp và cha mẹ làm việc suốt ngày, cha mẹ và cô giáo ít thời gian và ít quan tâm, chăm sóc những trẻ mà vẻ ngoài là có tiềm năng tốt nhưng không tỏ ra cố gắng vươn lên, những trẻ tăng động. Một nghiên cứu 25 năm về trẻ em Kawai bị biến chứng lúc gần sinh phát hiện ra rằng những gia đình hạnh phúc, nguyên vẹn - những gia đình có thể tạo ra được các tác nhân gia đình trong nhà có thể hoàn toàn bù đắp được những rủi ro khi gần sinh, chỉ trừ trường hợp trẻ bị tổn thương quá nặng (như: chậm phát triển) (Wernen, 1989). Trong một nhóm trẻ giống như nhóm trẻ bị TĐGCY, sự bền vững gia đình và chất lượng làm cha mẹ tác động với các yếu tố ở trẻ để dự đoán những hậu quả lâu dài (Weiss và Hechtman, 1986). Sự tương tác này và quyền lực được dự đoán bố mẹ là sự phát hiện được thiết lập chắc chắn.
Mối quan hệ giữa mất chức năng gia đình, cha mẹ đơn, tình trạng chăm sóc và tăng động (không bị rối loạn đạo đức) đã được tìm ra trong nhiều nghiên cứu khác ngoài nghiên cứu sức khoẻ trẻ em Ontario gần đây.
Tóm lại, sự dễ tổn thương sinh học và tâm lý xã hội, nhân tố kinh tế (đó là môi trường tổng thể của trẻ) tương tác vòng tròn gây ra nguyên nhân, tính phức tạp và hậu quả của rối loạn.
http://www.tamlyhoc.net/forum/index.php?PHPSESSID=58a9788391bb5a849a8b0d01fced2e6d&topic=188.0
09:19 SA 27/03/2006
Tự kỷ (phần 1)
1. Dạy bằng hình ảnh:- Bất cứ khi nào muốn trẻ làm điều gì, hãy dùng hình ảnh (hoặc vật thật), bởi trẻ không hiểu lời nói.
- Trẻ có vẻ không nghe lời người lớn nhưng thực ra chúng không hiểu người lớn nói gì.
- Bù lại, trẻ tư duy bằng hình ảnh rất tốt, nên có thể sử dụng lợi thế này.
- Phải dùng hình ảnh kèm theo thay vì chỉ nói bằng lời.
- Giúp bé biểu đạt nhu cầu của mình bằng những hình tương ứng.
- Đòi hỏi kiên trì và rất nhiều thời gian.
- Nhiều trẻ tự kỷ suốt đời không nói được câu nào hoặc không có ngôn ngữ hữu dụng, nhưng cũng có nhiều trẻ khác nói được sau một thời gian áp dụng các biện pháp giáo dục thích hợp.
- Tất cả sinh hoạt của trẻ được thể hiện bằng hình ảnh.
- Tập cho bé đi từ nhà đến trường: hình vẽ dán lên tường nhà gốc cây cho trẻ nhìn theo…
2. Đi học ở trường bình thường chưa chắc là tốt cho trẻ, vì môi trường đó không phù hợp với đặc tính của trẻ, chúng sẽ hoảng sợ.
3. Vấn đề chậm nói: trong hội chứng tự kỷ, đa số các gia dình phát hiện được do thấy con chậm nói, vì vậy thường hay quá quan tâm, tập trung vào vấn dề ngon ngữ của trẻ. Thực ra vấn dề lón hơn lại là vấn đề hành vi. Trẻ vẫn có thể hòa nhập khi không biết nói (nhưng vẫn hiểu, vẫn nhận thức đước thế giới, hiểu ngôn ngữ). Đa số các nhà khoa học qua nghiên cứu thống nhất là bộ não trẻ tiếp tục phát triển và định hình từ 0-5 tuổi.
4. Có hai trường phái lớn giải thích nguyên nhân tự kỷ : các nhà tâm lý học theo trường phái của Pháp: Tự kỷ là hậu quả sau vài cú sốc tâm lý. Vd::sau sốt cao, sau tai nạn, chứng kiến cảnh tượng kinh khủng, sống trong moi trường tâm lý không tốt, bố mẹ bỏ nhau,bị hành hạ, bị lạm dụng.... vì vậy cách giải quyết cũng theo hướng logic đó.
Theo trường phái của Mỹ: nguyên nhân của bệnh Tự kỷ hiện vẫn chưa được xác định nhưng người ta khẳng định rằng hoàn toàn không phải là nguyên nhân từ việc nuôi dạy trẻ trong gia đình, từ môi trường sống, từ yếu tố tâm lý mà là nguyên nhân xuất phát từ não bộ, tức là trẻ Tự kỷ thường gặp một số trục trặc ở não (cụ thể như thế nào thì khoa học ngày nay vẫn chưa tìm ra được). Nhân lúc thầy nói như vậy, mình có trình bày là ở Vn, nếu gia đình ai có con bị bệnh gì liên quan đền thần kinh thì hay nghĩ rằng tại kiếp trước cha mẹ không ở hiền, tại cha mẹ không quan tâm đúng mức đến con, tại cha mẹ không có cách giáo dục đúng....
5. Mọi lý thuyết và nguyên tắc vẫn là lý thuyết và nguyên tắc chung, cái chính là áp dụng và xây dựng chương trình như thế nào cho có hiệu quả.
6. Đối với trẻ tự kỷ, điều chỉnh hành vi là thách đố lớn nhất trong việc nuôi dạy con. Cử chỉ lạ lùng lặp đi lặp lại như đập tay, vung vẫy tay, cáu giận la hét có thể làm bạn muốn bỏ cuộc và thấy cô lập hơn bất cứ khuyết tật nào khác. Trong nhà, hành vi của con có thể làm bạn kiệt sức, ra ngoài xã hội bạn có thể cảm thấy người khác xét đoán khả năng làm cha mẹ của một đứa trẻ phá phách mà bề ngoài bình thường. Đừng để hành vi của con bạn phá rối gia đình.
Đặt ra luật lệTrẻ nào cũng cần có kỷ luật, kể cả con bạn. Đặt ra kỷ luật rõ ràng và cho biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu phá luật. Áp đặt tính kỷ luật và thông lệ này công bằng cho tất cả mọi người trong nhà. Luật phải dễ hiểu ở mức phát triển của con bạn. Có cha mẹ chống lại việc áp dụng kỷ luật đối với trẻ tự kỷ vì họ thấy tội nghiệp cho trẻ, hay thấy có lỗi đã sinh ra con khuyết tật, họ cho rằng những đứa trẻ này không thể học được hành vi tốt. Cũng có những cha mẹ khác thì xem kỷ luật là trừng phạt thay vì hướng dẫn để trẻ học hỏi và có thể phát triển vui tươi lành mạnh. Con bạn cần kỷ luật để cảm thấy an toàn trong thế giới của mình, y như bạn cần chỉ dẫn để lo việc nhà hay tuân theo qui định nơi làm việc.
Nhất quán trước sau như một
Nhiều trẻ tự kỷ gặp khó khăn trong việc nhận ra các dấu hiệu tinh tế của môi trường xung quanh. Chúng có thể học được hành vi nhưng không thể thích ứng hay tổng quát hóa trong hoàn cảnh mới hay môi trường mới. Vậy hãy xếp đặt các tình trạng sao cho chúng xảy ra theo dự liệu để giúp trẻ thực hành cách đáp ứng thích hợp. Khi các thành viên trong gia đình phản ứng theo cùng một cách, bằng cùng một chữ hay hành động thì trẻ xem đây là dấu hiệu để lặp lại một số hành vi. Thực tập hành vi tới lúc trở thành tự động.
Người nhà mà cho phản ứng không nhất quán thì trẻ cho rằng hành vi không thể chấp nhận được lại được phép có và hành vi không đúng này sẽ lại được củng cố. Ví dụ khi trẻ khóc đòi sự chú ý của người lớn, trong gia đình có người lờ và mặc kệ hành vi của trẻ, lại có người thương trẻ bế ẵm trẻ lên, như vậy sẽ củng cố hành vi tiêu cực. Vì vậy, tuy đơn giản nhưng đòi hỏi mọi người trong gia đình phải có hành động nhất quán.
Khích lệ con sửa đổi hành vi
Trẻ tự kỷ thường không biết chắc là nên hành xử ra sao, nhưng giống như các trẻ khác, chúng lặp đi lặp lại hành vi nào làm chúng thấy thoải mái. Một cách để hướng dẫn việc học tập của con là khen ngợi, hay có thưởng cho các hành vi tốt mà bạn muốn con lặp lại. Sự thỏa mãn của con sẽ làm tăng cách cư xử này, tâm lý gia gọi đây là sự khích lệ tích cực.
Phương pháp hữu hiệu nhất để thay đổi hành vi trong chứng tự kỷ là có kế hoạch thứ tự để uốn nắn lối cư xử của con. Hệ thống dùng phần thưởng để cũng cố những hành vi tốt và trừng phạt để hạn chế những hành vi không chấp nhận được. Nguyên tắc là mọi hành vi đều dẫn đến một kết quả hay một hậu quả nào đó. Kết quả tích cực hay hậu quả tiêu cực này sẽ dẫn đến việc hành vi có được lặp lại nữa hay không
• Xác định hành vi bạn muốn thay đổi. Chỉ nên chọn một hay hai việc cần làm một lúc mà thôi, có thể bạn muốn giảm hành vi lặp đi lặp lại nào đó, hãy dạy con ngồi yên ở bàn ăn 15 phút. Giới hạn hành vi muốn sửa đổi giúp bạn làm việc thống nhất hơn và cho con cơ hội nhiều hơn để thành công mà ko bị rối trí hay lo quá nhiều chuyện.
• Ghi chép khi nào và hành vi xảy ra thường như thế nào. Nhờ quan sát này bạn có thể phân tích chuyện gì gây ra hành vi của con hay mô thức mà con cư xử. Ví dụ bạn có thể thay đổi khung cảnh như đẩy ghế ra xa khỏi bàn mà con bạn leo lên, làm thay đổi hành vi theo cách tích cực.
• Chọn phần thưởng tích cực làm thúc đẩy con. Chuyện này có thể tế nhị đối với chứng tự kỷ. Ban đầu con bạn có thể cần nhiều hơn là một nụ cười, giọng nói vui vẻ hay cái ôm hôn để chịu làm theo ý bạn, vậy nên nghĩ đến phần thưởng như xoa bóp người trẻ, vỗ đầu, hay đồ chơi không đắt tiền. Có trẻ nói được và cho bạn biết chúng muốn gì, trẻ lớn hơn có thể thích sưu tập đồng cắc, stickers và được miễn làm chuyện nhà chúng ko thích. Hãy nhớ rằng mục tiêu là biến phần thưởng cụ thể thành phần thưởng có tính cách xã hội hơn như lời khen. Theo với thời gian con sẽ cư xử một cách dễ chấp nhận hơn vì trẻ thấy thoải mái khi làm vậy.
• Đặt ra thời biểu để thưởng. Bạn có thể thưởng con ngay khi làm xong một chuyện, hay vào lúc đi ngủ. Giờ giấc ấn định tùy theo khả năng của con bạn trong việc nối kết phần thưởng với hành vi đúng đắn, và thưởng con thường hơn nếu trẻ ko hiểu được ý bạn muốn gì. Ban đầu thưởng mỗi lần trẻ làm hành vi nên có, hay cách quãng đều đặn trong lúc hành vi xảy ra, cùng lúc ngỏ lời khen con. Bạn muốn con hiểu là hành vi đang được thưởng.
• Soạn ra một bản ghi lại những lần trẻ được thưởng cho một hành vi nào đó. Bảng như vậy giúp trẻ theo dõi được tiến bộ của mình, và cho bạn lượng xét là kế hoạch có thành công hay ko. Khởi đầu thì hành vi bất hảo có thể gia tăng, đây là cách trẻ thử thách bạn và học về luật. Trong vòng vài tuần thì hành vi sẽ giảm xuống. Tăng dần dần khoảng cách mỗi lần bạn thưởng cho con và chuyển từ phần thưởng cụ thể sang cái ôm hôn và lời khen.
• Làm ngơ hành động muốn được chú ý. làm ngơ là kỹ thuật khác nhầm loại trừ hành vi muốn được chú ý của trẻ, bạn cắt đi phần thưởng là sự chú ý của bạn đối với con bằng cách làm ngơ. Nhất định ko nhìn vào mặt con, đụng chạm hay chiu noi mỗi lần con có hành vi mà bạn muốn loại trừ như la nu hay la hét. Ban đầu hành vi có thể gia tăng để thử thách quyết tâm của bạn nhưng cuối cùng hành vi sẽ chấm dứt. Khi khó mà làm ngơ hành vi thì tìm chuyện khác để chú tâm vào, bằng không thì ra khỏi phòng.
• Giờ trống. Vài hành vi tệ hại đến mức ko thể làm ngơ được, và bạn có thể cần phải am con lại để làm chúng yên hay để được an toàn. Theo đó bạn bình tĩnh đem con ra khỏi nơi xáo trộn vào một phòng khác, hay cái ghế khác, hay nơi dành riêng cho việc này. Giờ trống cho bạn lấy lại hơi sức và cho trẻ cơ hội dịu xuống. Khi giúp con bạn cải thiện hành vi là bạn thực sư cho con cách sống công bằng và đáng yêu hơn.
Nuôi dưỡng tính độc lập
Trẻ dù rất nhỏ cũng nên biết là chúng phải nhận trách nhiệm về hành vi của mình, và chứng tự kỷ không phải là cái cớ để không học cách đóng góp vào gia đình, nhưng chứng tự kỷ có thể có nghĩa là bạn cần xếp đặt chi tiết việc học những công việc nhà mà đa số các gia đình thấy là tự nhiên, VD như: Đặt ra lệ hàng ngày rửa mặt, gội đầu, đánh răng và mặc quần áo để khuyến khích việc chăm sóc đầu tóc và tự mặc y phục. Xếp đặt một chỗ đặc biệt cho các đồ đạc của con bạn, xem chắc là trẻ biết cách cất vật vào chỗ sau khi dùng hay chơi xong. Tập cho con càng sớm càng tốt thói quen dọn dẹp, những thói quen này có thể cần một thời gian dài mới thành tự động. Việc thành thạo những sinh hoạt tự lo cho bản thân khiến con bạn thấy hài lòng về chính mình và cuối cùng khiến bạn đỡ được trách nhiệm.
Xếp đặt những buổi sinh hoạt chung tốt đẹp
• Nên ý thức rằng bạn là thầy cô đầu tiên và quan trọng hơn hết của con. Việc bạn nói chuyện và tương tác với con đóng một vai trò then chốt trong cách trẻ phát triển, ngay cả khi trẻ tỏ ra dửng dưng thì trẻ cũng phấn khởi khi được bạn ôm hôn, xoa đầu và nói năng âu yếm.
• Cách bạn chăm sóc và sự kiên trì sẽ khiến con bạn có lòng tự tin học tập, tất nhiên đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng nơi bạn.
• Học nhận ra những dấu hiệu riêng của con, trẻ nào dù biết nói hay không cũng cho ra ý tưởng về cảm xúc của mình. Có thể con bạn vung vẩy tay mạnh hơn lúc bực dọc hay khóc lúc đói. Những dấu hiệu này cho bạn biết để xếp đặt lại sinh hoạt trước khi cử chỉ của trẻ gây ra vấn đề. Khi bạn nhận ra được nỗ lực đơn giản muốn liên lạc của trẻ và đáp lại, bạn khiến trẻ thấy tự tin hơn để liên lạc nhiều hơn.
• Bắt chước con bạn, chứng tự kỷ có thể phá mất khả năng tự nhiên của trẻ là bắt chước người khác, nhưng bắt chước là đường lối chính mà thông qua đó trẻ học hỏi. Hãy đi vào thế giới của con bạn bằng cách bắt chước âm thanh và cử chỉ của trẻ, một khi làm con bạn chú ý thì trẻ lại có thể bắt chước lại bạn và lúc đó bạn có thể dạy trẻ điều muốn trẻ học.
• Mở rộng tính hiếu kì của con, nếu con chú tâm quá đáng vào chuyện gì thì biến nó thành sinh hoạt chấp nhận được về mặt xã hội. Cũng có thể trở thành chuyện kể trước giờ đi ngủ cho con.
• Sẵn sàng làm lại hoạt động, bạn có thể cần vài buổi để khiến con bạn chú ý và chịu học. Nhắc đi nhắc lại làm trẻ chú ý và giúp trẻ thoải mái với ý niệm hay sinh hoạt. Tuy nhiên bạn có thể chán nản, nhưng tránh đừng thay đổi sinh hoạt cho tới khi con tỏ dấu hiệu là tới lúc có thể thay đổi.
• Cho con có sinh hoạt đa dạng, tại nhà thì khuyến khích con khám phá hình ảnh, mùi vị, âm thanh, xúc giác khác nhau. Tăng cường việc học hỏi bằng cách đi chơi bên ngoài, hay đi chợ, vào các cửa hàng, sân chơi, viện bảo tàng... Trẻ tự kỷ có thể gặp khó khăn trong việc tổng quát hóa điều chúng học trong hoàn cảnh mới, hãy nên nói chuyện trước với con về chuyện gì sẽ làm, sẽ thay đổi trong ngày.
• Nhìn nhận rằng đôi lúc bạn thấy không muốn dạy con và nghỉ ngơi một lúc. Đừng thấy có lỗi khi bạn cần thì giờ để tái tạo lại mình, cha mẹ nào cũng có lúc phải làm như vậy.
• Tỏ ra tích cực khi dạy con, ý tưởng lạ khiến việc dạy dỗ trở thành trò chơi vui vẻ và kinh nghiệm xã hội thích thú. Khuyến khích con là chuyện vui, đừng nên coi đó là gánh nặng. Nên giữ một tập nhật ký về những thành công của con bạn, và theo định kỳ duyệt lại sự tiến bộ của con, cùng nhau ăn mừng những thành quả đạt được. Giúp con có cảm nghĩ tích cực về chính mình qua những thành đạt này và dành thời giờ để nghỉ ngơi, học hỏi vui chơi với nhau.
Xác định nhu cầu của con bạn
Đặc điểm của chứng tự kỷ thay đổi khi trẻ lớn dần và trưởng thành. Mỗi giai đoạn phát triển của trẻ dẫn tới những thách đố mới đòi hỏi các quyết định của bố mẹ cần phải được suy nghĩ cân nhắc. Bạn sẽ phải hỏi là chương trình chữa trị có hiệu quả không, liệu có nên thay đổi cách trị liệu hay lớp học hay có cách nào khác để sửa đổi hành vi của con. Vì bạn là người hiểu rõ con nhất nên phần việc của bạn là thẩm định cách trẻ đáp ứng với những điều trên để xem các đáp ứng này có lợi cho tiến bộ chung của trẻ không.
Trước hết, quan tâm chính yếu của bạn là làm sao hiểu ra hành vi không tiên đoán được của con, tính dửng dưng và cách liên lạc bày tỏ ý nghĩ của con. Bạn muốn con học cách đi vệ sinh, biết nói chuyện, biết những kỹ năng mà cha mẹ nào cũng muốn con mình biết làm. Ở mỗi giai đoạn đa số trẻ bình thường có thêm trách nhiệm trong việc tự quyết đinh lấy một số chuyện, nhưng trẻ tự kỷ và rồi người lớn tự kỷ có thể cần được hướng dẫn cả đời, luôn phải có hỗ trợ cho họ không ít thì nhiều và bằng cách này hay cách kia. Quyết định của bạn chi phối khả năng sống độc lập của con vì vậy bạn cần phải có thông tin cập nhật chương trình nào thích hợp nhất cho cá tính và kỹ năng của con bạn.
Thêm về định bệnh
Cần tham khảo các nhà thính âm, chỉnh âm, trị liệu ngôn ngữ….
Chuyên gia này sẽ thẩm định về thính giác và xem xét coi khó khăn về giọng nói cũng như ngôn ngữ của con bạn là do chứng tự kỷ hay tật nào khác. Điều này có được do phân tích giọng nói và ngôn ngữ của trẻ như:
- Ngôn ngữ biểu lộ, là khả năng dùng chữ, biểu tượng cà cử chỉ để liên lạc với người khác.
- Ngôn ngữ tiếp nhận, là khả năng hiểu được chữ biểu tượng và cử chỉ.
- Cử động miệng khi nói, là việc con bạn dùng lưỡi, môi và hàm.
- Phẩm chất giọng nói, như vâm vang, cao độ, mức lưu loát, trôi chảy hay ác liên lạc khác bằng lời.
- Ký ức thícnh giác, là việc con bạn có khả năng nhớ tới mức nào thông tin mà trẻ được nghe.
- Khả năng tổng quát về chơi đùa và làm việc, như mức chú ý được bao lâu, và cách trẻ liên hệ với người khác và đồ vật.
07:59 CH 24/03/2006
Tự kỷ (phần 1)
2.7. Giáo dục và điều trị cho trẻ tự kỷ.
Trên thế giới đã hình thành các hiệp hội, trung tâm giáo dục đặc biệt dành riêng cho trẻ tự kỷ. Người ta đã đưa ra những phương pháp giáo dục và trị liệu cho trẻ tự kỷ bước đầu có hiệu quả, trong đó nhấn mạnh đến liệu pháp hành vi. Do đặc trưng của trẻ tự kỷ là sự thu mình không giao tiếp với người khác nên sử dụng liệu pháp hành vi bước đầu đã dạt hiệu quả, tạo điều kiện cho trẻ hoà nhập cộng đồng và có những kỹ năng tối thiểu của cuộc sống.
Ở Việt Nam hiện nay cũng đã xuất hiện nhiều mô hình trợ giúp cho trẻ tự kỷ, như các trung tâm (trung tâm Phúc Tuệ, trung tâm Hy Vọng, trung tâm Sao Mai, trường Bình Minh,…) chuyên về chăm sóc, dạy và trị liệu cho trẻ, Khoa Giáo dục đặc biệt thuộc Đại học Sư phạm I, Câu lạc bộ gia đình trẻ tự kỷ, Khoa phục hồi chức năng ở Viện Nhi Quốc gia, ở Bệnh viện Bạch Mai… Cho đến nay đã có những kết quả bước đầu trong việc trợ giúp cho sự phát triển của trẻ tự kỷ, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế bởi chưa có sự kết hợp hiệu quả liên ngành, nhiều lĩnh vực như y tế, tâm lý, giáo dục, công tác xã hội…
Trẻ tự kỷ hoàn toàn có thể giáo dục được, với những điều chỉnh và cách tổ chức phù hợp với nhu cầu của từng trẻ. Một số trẻ có thể học được trong những trường phổ thông dành cho trẻ bình thường, một số khác có thể được giáo dục trong môi trường giáo dục chuyên biệt dành cho những trẻ khó khăn về học. Tuy vậy, dù trẻ học ở môi trường nào đi nữa thì các mô hình này cũng đều luôn có sự thay đổi về cấu trúc, nội dung và phương pháp nhằm đáp ứng nhu cầu và khả năng của trẻ.
2.7.1. Can thiệp sớm.
Can thiệp sớm là hướng dẫn giáo dục sớm cho trẻ khuyết tật và cho gia đình chúng. Sự hướng dẫn chú trọng đến: đứa trẻ, cha mẹ của trẻ, những người trong môi trường gần nhất của trẻ (ông bà, chú bác, giáo viên - gia sư,…). Can thiệp sớm trong những năm đầu của trẻ bao gồm những dịch vụ tổng hợp với mục đích là để phát triển hết tiềm năng học hỏi ở đứa trẻ, để đứa trẻ sống một cuộc sống càng bình thường càng tốt, để đứa trẻ trở thành một thành viên của cộng đồng.
2.7.2. Giáo dục chuyên biệt.
Giáo dục chuyên biệt hay giáo dục tách biệt trẻ khuyết tật là giáo dục theo kiểu tách biệt trẻ cùng loại tật vào một cơ sở (trường hoặc trung tâm). Tại đây, trẻ được học theo phương pháp riêng, với những nội dung riêng, trên các nguyên tắc giáo dục riêng.
Giáo dục chuyên biệt ra đời dựa theo mô hình y tế. Bản chất của mô hình này là trẻ em được chia ra làm các loại khác nhau: lành và trẻ khuyết tật. Trẻ khuyết tật giống như các bệnh nhân cần được chữa trị để lành. Nếu chưa trở thành trẻ lành thì chưa được tham gia học cùng trẻ lành. Trẻ em có cùng loại tật phải được học chung với nhau để có thể chữa trị như nhau.
2.7.3. Giáo dục hội nhập.
Giáo dục hội nhập, về bản chất dựa vào mô hình y tế- mô hình phục hồi chức năng, chỉnh trị. Trẻ được phân loại qua các trắc nghiệm y tế, tâm lý, trí tuệ và được xếp vào các nhóm, mức độ tật khác nhau. Trẻ được tiến hành phục hồi chức năng để có thể tiếp cận đến sự phát triển như trẻ bình thường trong các trường chuyên biệt hoặc trẻ được học tại các lớp chuyên biệt trong trường phổ thông. Sau khi "xét thấy" đã có sự tiến triển gần với trẻ bình thường, trẻ được đưa vào học trong truờng phổ thông ở một số tiết học hoặc tham gia vào một số hoạt động cùng với trẻ bình thường.
Các mức độ hội nhập (theo Ture Johnson):
Hội nhập về thể chất: Trẻ bình thường và trẻ khuyết tật được giao lưu với nhau hay cùng chơi với nhau ở một địa điểm trong một thời gian nhất định.
Hội nhập về chức năng: Trẻ bình thường và trẻ khuyết tật được tham gia cùng nhau trong một số hoạt động như thể thao, hội hoạ.
Hội nhập xã hội: Trẻ bình thường và trẻ khuyết tật cùng học với nhau trong một trường nhưng theo các chương trình khác nhau, có giờ học chung và có giờ học riêng tuỳ theo môn học và khả năng học của trẻ.
Hội nhập hoàn toàn: Trẻ học như trẻ lành theo một chương trình cứng bắt buộc.
2.7.4. Giáo dục hoà nhập.
Mô hình giáo dục hoà nhập là mô hình giáo dục trẻ khuyết tật trong môi trường giáo dục bình thường, trẻ không bị tách biệt, được học tập, vui chơi cùng trẻ em bình thường trong khu vực nơi trẻ em sinh sống.
Trẻ tự kỷ cần có hiểu biết chung về tình trạng hiện tại, về những điều sẽ đến và ảnh hưởng tới chúng. Trong khi trẻ chậm phát triển trí tuệ cần sự đơn giản hoá thì trẻ tự kỷ lại cần có sự rõ ràng để trẻ có thể hiểu được thế giới xung quanh. Phương châm quan trọng nhất trong hướng dẫn trẻ tự kỷ là: làm mọi thứ trở nên rõ ràng bằng cách tạo ra cho trẻ một mô hình cần thiết trong cuộc sống của chúng. Việc biết được những điều sẽ đến và nhận thức được mô hình cuộc sống quen thuộc này sẽ là cơ sở an toàn cho rất nhiều trẻ tự kỷ. Khi nhu cầu dự đoán trước và mô hình này bị phá vỡ, trẻ tự kỷ thường rơi vào tình trạng lo lắng cao độ.
Một đặc điểm của trẻ tự kỷ là chúng không hiểu và rất kém thích ứng đối với sự thay đổi và những tình huống mới lạ. Do vậy, trong giáo dục đặc biệt cho các trẻ này, giáo viên thông thường phải xây dựng một chương trình mang tính cấu trúc hoá cao. Tính cấu trúc hoá thể hiện ở các mặt: không gian, thời gian, hoạt động và con người. Thông thường, ở các lớp học dành cho trẻ tự kỷ, phòng học cần được phân chia thành các góc với các hoạt động khác nhau: ví dụ góc chơi xây dựng, góc làm quen với toán, góc tạo hình… Có thể sử dụng các mảng màu khác để phân biệt các góc. Về mặt thời gian, giáo viên thường phải phân chia một cách cụ thể thời gian cho từng hoạt động, và cách tốt nhất để phân biệt các hoạt động này là sử dụng các ảnh hoặc tranh biểu tượng. Các hoạt động cần được diễn ra một cách trình tự, tránh thay đổi thường xuyên.
07:48 CH 24/03/2006
Tự kỷ (phần 1)
2.5. Sự phát triển của trẻ tự kỷ.
Khi mới chào đời, hầu hết các trẻ tự kỷ không biểu lộ ngay các đặc điểm của hội chứng này. Có hai điểm giúp cha mẹ hoặc người chăm sóc có thể nhận biết là trẻ thường hay uốn cong lưng tránh khỏi người chăm sóc để tránh tiếp xúc cơ thể và trở lên mềm nhũn khi được bế lên. Khi còn nhỏ, chúng là những đứa trẻ luôn bị động hoặc dễ bị kích động quá mức. Những em bé bị động thường ngồi im lặng suốt cả buổi và hầu như không có hoặc rất ít khi có những đòi hỏi đối với cha mẹ. Còn những trẻ bị kích động quá mức thì thường có những cơn hờn dỗi kéo dài, đôi khi không ngừng nghỉ, chỉ trừ những lúc ngủ. Trong suốt thời kỳ ấu nhi, nhiều trẻ bắt đầu có những hành vi như lắc lư thân mình hay đập đầu vào các vật cứng khác, ví dụ như tủ hoặc bàn ghế. Tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng những hành vi này không phải lúc nào cũng là biểu hiện của tự kỷ.
Trong vài năm đầu đời, một số trẻ tự kỷ vẫn đạt được những mốc phát triển nhất định, như hóng chuyện, bò và đi gần như những trẻ bình thường. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ ấu nhi, nhiều trẻ tự kỷ có thể bị chậm phát triển. Các chuyên gia về tự kỷ có thể phát hiện ra các điểm bất thường trong cử động khi trẻ được 04 tháng tuổi. Trẻ tự kỷ kém giao tiếp bằng mắt với người khác, biểu hiện qua nét mặt và kém khả năng dùng tiếng nói để thể hiện mong muốn của mình so với trẻ bình thường.
Khoảng một nửa số trẻ tự kỷ vẫn phát triển bình thường cho tới giai đoạn từ một tuổi rưỡi tới ba tuổi. Đến thời điểm này, các triệu chứng của tự kỷ mới bắt đầu bộc lộ ra bên ngoài. Những trẻ này bắt đầu xuất hiện sự thoái lui.
Trong thời kỳ thơ ấu, các trẻ tự kỷ có thể phát triển chậm hơn so với các bạn cùng trang lứa ở một số lĩnh vực như giao tiếp, các kỹ năng xã hội và nhận thức. Ngoài ra có thể xuất hiện thêm các hành vi bất thường như hành vi tự kích thích, hành vi rập khuôn, ít nhìn vào mắt người khác khi giao tiếp, ngưỡng cảm giác đau khá cao (có trẻ chỉ cần người khác chạm nhẹ vào da là thấy đau), có vấn đề về khả năng chú ý. Các trẻ tự kỷ đôi khi gặp rất nhiều khó khăn ở giai đoạn chuyển tiếp sang tuổi dậy thì. Khoảng 25% các thanh thiếu niên tự kỷ bị lên cơn động kinh lần đầu tiên trong giai đoạn dậy thì nhưng đây có thể là do sự thay đổi hoóc-môn trong cơ thể. Ngoài ra các vấn đề liên quan đến hội chứng tự kỷ có thể xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn trong giai đoạn này. Tuy nhiên không phải trẻ tự kỷ nào cũng như vậy mà ngược lại có nhiều thanh thiếu niên tự kỷ trải qua tuổi dậy thì một cách tương đối bình thường.
Một công trình nghiên cứu ở Mỹ đã cho thấy, trái ngược hoàn toàn với cách đây 20 năm khi mà nhiều trẻ tự kỷ phải sống trong các cơ sở từ thiện, sự sắp xếp cuộc sống cho trẻ giờ đây đã trở nên mềm dẻo hơn. Ngày nay, thông thường, chỉ những trẻ mắc tự kỷ quá nặng mới phải sống trong các trung tâm nuôi dưỡng. Khi đến tuổi trưởng thành, những người tự kỷ có thể sống tại nhà cùng với gia đình, một số khác lại sống trong những căn hộ với đầy đủ tiện nghi, một số có thể sống bán độc lập (như sống trong tập thể với sự giúp đỡ của mọi người xung quanh), một số khác lại có thể sống hoàn toàn độc lập. Công trình nghiên cứu này cũng cho thấy ở Mỹ đã có những người tự kỷ tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng, một số khác có thể xây dựng và phát triển những mối quan hệ với bạn khác giới và có thể lập gia đình. Trong môi trường làm việc, nhiều người tự kỷ có thể là những người thợ chăm chỉ và đáng tin cậy. Tuy nhiên những người tự kỷ thường khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm. Do nhiều người trong số họ chậm chạp về mặt xã hội và nhìn hình dạng có vẻ lập dị, “khác người” nên họ thường gặp thiệt thòi trong các buổi phỏng vấn tuyển người làm.
2.6. Một số đặc điểm ở trẻ tự kỷ.
2.6.1. Hành vi của trẻ.
Khi trẻ mắc hội chứng tự kỷ, những vấn đề về hành vi có thể liên quan trực tiếp hoặc không trực tiếp tới rối loạn tự kỷ. Ngoài những vấn đề về hành vi mà chúng tôi nêu ở phần trên, những vấn đề về hành vi khác thường gặp ở trẻ tự kỷ là ăn không bình thường (ví dụ như chỉ ăn một loại thức ăn, chỉ ăn cơm với muối vừng lạc mà không ăn với một loại thức ăn nào khác), hay một số thói quen kỳ quặc khác như chỉ đi trên một tuyến đường nhất định mà không chịu đi trên các con đường khác. Một trong những lí do lí giải cho điều này là do trẻ không có khả năng hiểu và kém thích ứng trong những tình huống mới lạ. Ngoài ra, chúng sẽ rất dễ nổi cơn giận dữ khó dập tắt nếu như người lớn can thiệp hoặc thay đổi các thói quen của chúng. Trẻ tự kỷ cũng gặp những vấn đề về giấc ngủ: có nhiều trẻ thường ngủ vào lúc mọi người thức và thức vào lúc mọi người ngủ. Điều này gây rất nhiều phiền toái cho gia đình. Tâm trạng của chúng không ổn định và đôi khi không bình thường (chúng có thể cười khúc khích một mình mà không có lí do nào rõ ràng). Khi bị ở vào tình trạng nguy hiểm thực sự, ví dụ ở ngoài đường phố có nhiều xe cộ, chúng không hề tỏ ra sợ hãi. Nhưng trước một sự vật hoặc một tình huống hoàn toàn vô hại (ví dụ như tiếng xe ô tô, tiếng mèo kêu), chúng lại tỏ ra sợ hãi một cách thái quá. Không chỉ có vậy, trẻ tự kỷ thường có các hành vi tự lạm dụng, hành vi tự kích thích như tự làm tổn thương. Nhiều trẻ liên tục chọc tay vào mắt hoặc cắn, mút tay đến khi trợt da, chảy máu.
Nói chung, trẻ tự kỷ có thể có một số trong những biểu hiện sau:
- Tính liên tục lặp lại, chống đối lại sự thay đổi.
- Khó khăn thể hiện nhu cầu, dùng cử chỉ hoặc chỉ tay thay vì nói lên từ ngữ.
- Nhắc lại một số từ, một vài đoạn các từ ngữ thay vì đáp ứng ngôn ngữ bình thường.
- Cười phá lên, khóc, thể hiện sự căng thẳng vì một lý do nào đó không giống người bình thường.
- Thường thích ở một mình, tính cách cô lập.
- Cáu giận.
- Khó khăn khi chơi hoà nhập với trẻ khác.
- Không muốn được vuốt ve âu yếm và ngược lại không thích vuốt ve âu yếm người khác.
- Không có giao tiếp bằng mắt hoặc rất hạn chế.
- Không đáp ứng với các phương pháp giáo dục bình thường.
- Kỹ năng chơi không phù hợp.
- Bẻ vỡ đồ vật.
- Kết dính bất thường với các đồ vật.
- Biểu hiện quá nhạy cảm hoặc kém nhạy cảm với đau.
- Không sợ hãi với điều nguy hiểm.
- Tăng động hoặc kém vận động.
- Kỹ năng vận động thô, vận động tinh không bình thường.
- Không đáp ứng với lời nựng, giả điếc, tỏ ra như là bị điếc mặc dù kết quả đo thính lực bình thường.
2.6.2. Khả năng điều hoà cảm giác.
Đối với trẻ tự kỷ, rối loạn điều hoà cảm giác là một vấn đề phổ biến, các giác quan của trẻ tự kỷ có thể quá mức hoặc dưới mức hoạt động bình thường. Vị ngọt hoặc mùi thơm có thể gây khó chịu cho một số trẻ. Một số trẻ quá nhạy cảm với tiếng động, tiếng động bình thường hàng ngày có thể gây đau đớn. Các chuyên gia cho rằng một số hành vi bất thường ở trẻ tự kỷ có thể do trẻ khó khăn điều hoà cảm giác.
2.6.3. Khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ.
Nhiều trẻ tự kỷ không nhận thức được rằng những người khác có những suy nghĩ, dự định khác nhau… hơn là bản thân chúng. Ví dụ khi cô giáo yêu cầu một trẻ tự kỷ giơ bức tranh một con vật cho các bạn khác trong lớp cùng xem. Thay vì giơ bức tranh theo các hướng để các bạn khác có thể nhìn thấy thì em học sinh lại giơ ra mặt sau của bức tranh. Trong ví dụ này, đứa trẻ có thể xem được bức tranh nhưng nó lại không nhận thức được là các bạn khác cũng có quan điểm và khả năng khác nhau.
Khoảng 10% số trẻ tự kỷ có kỹ năng và khả năng siêu việt. Những kỹ năng này thông thường là bẩm sinh, ví dụ như khả năng về âm nhạc hay nghệ thuật. Một khả năng nổi bật cũng thường thấy ở trẻ tự kỷ là khả năng toán học, trong đó có một số trẻ có thể nhân nhẩm các số lớn trong đầu và đưa ra kết quả trong thời gian rất ngắn. Trong khi đó, những trẻ khác khi được người khác nêu một thời điểm đặc biệt đã xảy ra trong quá khứ, chúng có thể nói chính xác ngày đó là ngày thứ mấy trong tuần, hoặc một số trẻ lại ghi nhớ chính xác và đầy đủ lịch trình của hãng hàng không. Ví dụ, một trẻ tự kỷ có thể tính nhẩm được các phép tính khó một cách chính xách nhưng lại không có khả năng sử dụng tiền.
Nhiều trẻ tự kỷ có phạm vi chú ý hẹp hoặc tập trung, được gọi là “lựa chọn kích thích một cách thái quá”. Thông thường, trẻ chỉ tập trung chú ý vào một khía cạnh nào đó (thường là không phù hợp) của một đồ vật. Ví dụ, khi trông thấy các dụng cụ ăn như thìa, dĩa…, trẻ thường tập trung một cách thái quá đến màu sắc của chúng mà bỏ qua những đặc điểm khác như hình dạng, cách sử dụng của chúng. Trong trường hợp như vậy, trẻ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phân biệt giữa cái thìa và cái dĩa, vì trẻ chỉ chú ý đến màu sắc của chúng mà thôi. Chú ý là bước đầu tiên trong quá trình xử lý thông tin. Do vậy, nếu thiếu sự chú ý đến những khía cạnh thích hợp của đồ vật hoặc con người, trẻ có thể bị hạn chế về khả năng nhận thức đồ vật, về con người trong môi trường xung quanh.
2.6.4. Rối loạn tự kỷ và các hội chứng liên quan.
Cho đến nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu và mô tả rất nhiều các thể khác nhau của tự kỷ và các rối loạn liên quan. Nhìn chung tự kỷ là một dạng rối loạn tâm trí có biểu hiện đa dạng, phong phú và với nhiều cấp độ. Có thể giới thiệu một số hội chứng và thể rối loạn tự kỷ sau:
Hội chứng Asperger được đặc trưng bởi tư duy thực tế, ám ảnh bởi một số chủ đề nhất định, trí nhớ tốt và tính cách kỳ quặc. Những cá nhân mang triệu chứng này được đánh giá là có khả năng làm việc và sống độc lập.
Hội chứng dị tật X là một dạng chậm phát triển trí tuệ trong đó nhiễm sắc thể X có nhánh bị ngắn. Gần 15% người có hội chứng X fragile có những biểu hiện tự kỷ: chậm phát triển ngôn ngữ, tăng động, thiếu tiếp xúc mắt và hay vỗ tay. Phần lớn những cá nhân này hoạt động ở mức trung bình. Khi trưởng thành, những người có hội chứng này có những nét mặt đặc trưng nội bật (Ví dụ: mặt và tai dài) và có thể mắc bệnh tim.
Hội chứng Landan - Kleffner cũng mang những biểu hiện tự kỷ như sự thu mình, sự rập khuôn và vấn đề về ngôn ngữ. Những cá nhân này thường được đánh giá là chứng tự kỷ “thoái lui” vì họ có vẻ phát triển bình thường cho đến khoảng từ 3 đến 7 tuổi. Họ thường có kỹ năng ngôn ngữ tốt trong thời kỳ trẻ thơ nhưng dần mất đi khả năng nói. Họ có những sóng điện não bất thường.
Hội chứng Rett là một rối loạn thoái hóa thường tác động đến giới nữ và phát triển giữa một năm tới một năm rưỡi tuổi. Một số biểu hiện đặc trưng của hội chứng này là: Mất ngôn ngữ, thói quen vặn vẹo tay, lắc lư cơ thể và thu mình với xã hội. Hội chứng này thường kèm theo sự chậm phát triển trí tuệ nặng.
Hội chứng William được đặc trưng bởi một số biểu hiện như: Chậm phát triển ngôn ngữ, nhạy cảm âm thanh, giảm chú ý và vấn đề xã hội. Hơi trái ngược với nhiều người mắc tự kỷ, những người có hội chứng William thích giao du và có vấn đề về tim mạch.
Ngoài ra, trẻ tự kỷ còn có nhiều các chứng tật khác về thần kinh như: khuyết tật về thị giác, khuyết tật về thính giác, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn về ngữ nghĩa thực dụng, rối loạn về khả năng tập trung chú ý (tăng động), phối hợp vận động tri giác, chứng câm tùy lúc, chứng tâm bệnh,…
07:46 CH 24/03/2006
Tự kỷ (phần 1)
2.2. Đặc điểm chẩn đoán rối loạn tự kỷ.
Không có trắc nghiệm y tế nào để chẩn đoán tự kỷ. Tuy nhiên do có nhiều vấn đề về hành vi của trẻ tự kỷ giống phổ triệu chứng của một số hội chứng khác nên cần tiến hành một số xét nghiệm y tế để chẩn đoán phân biệt.
Chẩn đoán tự kỷ một cách chính xác thường dựa và sự quan sát về mức độ giao tiếp, hành vi và phát triển của từng trẻ. Những nguồn thông tin này do cha mẹ hoặc người chăm sóc cung cấp rất quan trọng cho chẩn đoán đúng.
Chẩn đoán sớm (Early Diagnostic)
Các nghiên cứu cho thấy việc chẩn đoán sớm liên quan chặt chẽ với sự tiến bộ tuyệt vời của trẻ tự kỷ. Trẻ tự kỷ càng được chẩn đoán sớm bao nhiêu, càng được can thiệp sớm bằng nhiều hướng khác nhau mang lại hiệu quả càng tốt.
Các triệu chứng không đặc hiệu: trước 12 tháng tuổi
(1) Tăng động: trẻ kích động khó ngủ, khóc nhiều, khó dỗ dành, hay bị “cơn đau quặn” bụng no đầy hơi, khó chịu không lý do.
(2) Hoặc trẻ thờ ơ, yên lặng, dường như thích ở một mình, ít đòi hỏi cha mẹ chăm sóc.
(3) Khả năng tập trung kém: không chú ý hoặc tập trung như các trẻ cùng tuổi khác.
Các triệu chứng đặc hiệu hơn (sau 12 tháng tuổi) có liên quan đến kỹ năng giao tiếp và xã hội.
(1) Mất đáp ứng với âm thanh (có thể bị điếc hoặc khiếm thính).
(2) ít hoặc không cười trong giao tiếp.
(3) Không có hoặc giảm kỹ năng giao tiếp không lời (không hoặc ít bập bẹ).
(4) Khó tham gia vào các trò chơi.
(5) Các tác động qua lại bằng phát âm, hoạt động giảm.
(6) Hành vi quan sát bằng mắt đặc biệt (có thể quay đi, tránh không nhìn chăm chăm, ánh mắt đờ đẫn trống vắng, chán không nhìn…)
(7) Giọng nói với âm thanh lặp đi lặp lại đơn điệu.
(8) Bị cuốn hút mạnh mẽ với một vật nhất định.
(9) Tham gia kém vào những hoạt động thông thường mang tính xã hội.
Công cụ chẩn đoán tự kỷ - Diagnostic Tools
Các đặc điểm về hành vi của trẻ tự kỷ có thể có hoặc chưa biểu hiện rõ cho đến 18 - 24 tháng tuổi song lại rõ nét ở 24 tháng đến 6 tuổi.
Viện Sức khoẻ Trẻ em Quốc gia và Sự phát triển con người Mỹ đã đưa ra 5 vấn đề về hành vi nếu trẻ có thì đó là dấu hiệu cần đưa trẻ đi khám:
- Trẻ không bập bẹ khi 12 tháng tuổi.
- Trẻ không ra dấu hiệu (chỉ tay, vẫy tay, nắm tay) khi 12 tháng tuổi.
- Không nói từ đơn khi 16 tháng tuổi.
- Không tự nói câu 2 từ khi 24 tháng tuổi.
- Mất kỹ năng ngôn ngữ hoặc kỹ năng xã hội ở bất cứ lứa tuổi nào.
Khi trẻ có một trong 5 vấn đề trên không có nghĩa là trẻ bị tự kỷ. Song trẻ cần được đánh giá bởi nhiều cán bộ chuyên khoa khác nhau như: bác sỹ thần kinh, bác sỹ phục hồi chức năng nhi, kỹ thuật viên ngôn ngữ trị liệu, kỹ thuật viên về giáo dục,…
Hiện nay đã có một số bộ công cụ sàng lọc đã được phát triển dùng để chẩn đoán trẻ tự kỷ như CARS rating system (Childhood Autism Rating Scale) - Thang điểm đánh giá tự kỷ ở trẻ em của Eric Schopler (những năm 1970), The Checklist for Autism in Toddlers (CHAT) - Bảng liệt kê tự kỷ ở trẻ tập đi của Simon Baron - Cohen (vào những năm đầu 1990), The Autism Screening Questionnaire - Bộ câu hỏi sàng lọc tự kỷ gồm 40 mục, The Screening Test for Autism in Two - Years Olds - Trắc nghiệm trẻ tự kỷ 2 tuổi của Wendy Stone và Tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ của DSM - IV, Hội Tâm thần học Mỹ.
Những đặc điểm để chẩn đoán rối loạn tự kỷ chính là sự xuất hiện tình trạng đặc biệt bất thường hoặc khuyết tật trong phối hợp và giao tiếp xã hội cũng như sự xuất hiện của một tập hợp các hành động và sở thích đặc biệt hạn hẹp. Dạng biểu hiện của tình trạng rối loạn này rất khác nhau, phụ thuộc vào mức phát triển và tuổi của cá nhân. Thông thường những trẻ em tự kỷ có thể được phát hiện qua những biểu hiện ở một số mặt như sau:
- Những vấn đề trong thiết lập tương tác xã hội: khiếm khuyết trong tương tác xã hội mang tính qua lại có thể được biểu hiện trong các tình huống như không thích được âu yếm, thờ ơ hoặc ghét tiếp xúc cơ thể (không hưởng ứng khi bố mẹ bế lên), thiếu sự tiếp xúc bằng mắt, không đáp ứng lại lời của cha mẹ (khiến lúc đầu cha mẹ có thể lo lắng rằng con mình bị điếc). Các trẻ này thường có cách xử sự với người lớn một cách máy móc, không có khả năng và cũng không quan tâm tới việc thiết lập các mối quan hệ tay đôi phù hợp với tuổi phát triển (chứ không phải là tuổi đời). ít hoặc không quan tâm tới việc kết bạn. Thích ngồi xa các trẻ khác, thích các hoạt động một mình, hoặc nếu tham gia hoạt động với trẻ khác thì chỉ xem chúng là người trợ giúp máy móc hoặc như công cụ chơi của mình (ví dụ như đẩy bạn chỉ vì muốn nhìn thấy bạn khóc hay ngã). Khi muốn chơi cùng các bạn thì lại không hiểu luật chơi và cách phối hợp qua lại. Không nhận thức được việc cần giao tiếp với người xung quanh và cũng không nhận thức được sự đau khổ của người khác.
- Những vấn đề trong giao tiếp: những vấn đề trong giao tiếp có thể được biểu hiện như chậm hoặc hoàn toàn không có ngôn ngữ (không đi kèm với nỗ lực sử dụng các phương pháp thay thế, ví dụ như cử chỉ. Những cá nhân nói được thì lại gặp khó khăn trong việc bắt đầu và duy trì cuộc hội thoại (thường chỉ nói chuyện theo cách rất hạn chế, ví dụ như đòi vật gì đó bằng cách gọi tên vật, phản đối bằng cách nói “không” nhưng lại không đưa ra các dạng giao tiếp qua lại), mắc chứng nhại lời (chỉ nhại lại đúng những gì chúng vừa nghe được một cách vô nghĩa). Ví dụ, khi người khác hỏi: “Con có muốn uống nước không?”, thay vì trả lời một câu có nghĩa, các trẻ này thường trả lời bằng cách lặp lại đúng câu hỏi vừa rồi. Ngoài ra, chúng thường nhại lại một bài báo nào đó hoặc một đoạn quảng cáo. Giọng của chúng thường cao một cách bất bình thường và không có khả năng hiểu những câu hỏi, các chỉ dẫn hay những câu chuyện cười đơn giản. Đồng thời, chúng thiếu các kỹ năng bắt chước xã hội, thiếu những kỹ năng đa dạng dể tạo lòng tin.
Tại Mỹ, những cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy 83% số trẻ em Tự kỷ có thể có ngôn ngữ và các nhà khoa học ở nước này cho rằng con số này sẽ ngày càng tăng vì ngày càng có nhiều trẻ Tự kỷ nhận được sự giáo dục và đạo tạo được cấu trúc hoá và có chất lượng ngay từ khi còn nhỏ.
- Những kiểu hành vi sở thích hay mối quan tâm và những hoạt động rập khuôn hoặc lặp lại: ví dụ như: bận tâm quá mức tới các bộ phận của một vật thể nào đó (ví dụ như chiếc cúc áo, hoặc một chiếc bánh xe ô tô đồ chơi), thích thú sự chuyển động và kiên định với mọt hoạt động lặp đi lặp lại (ví dụ như chỉ ăn một món ăn hay mặc chỉ một bộ quần áo), có những cử động rập khuôn (ví dụ như lắc người liên tục, hoặc liên tục đưa tay dụi mắt), có những tư thế bất thường (mặt và mắt chuyển động bất thường), có các kỹ năng vận động toàn thân cứng nhắc, đi trên các đầu ngón chân, kiên định với sự giống nhau và phản đối hoặc nổi cơn giận dữ thái quá mỗi khi có sự thay đổi, chăm chú nhìn vào một vật bất động nào đó.
Khi trẻ có nhiều biểu hiện rối loạn của tự kỷ nhưng không mang tất cả các tiêu chí trên thì trẻ thường được chẩn đoán là “Phổ tự kỷ” (autistic - like) hoặc thông thường gọi là rối loạn phát triển diện rộng chưa xác định (pervasive developmental disorder not otherwise specified, viết tắt là PDD - NOS).
*. Theo ICD - 10 (Bảng phân loại bệnh của Tổ chức Y tế thế giới WHO): Thường không có giai đoạn đầu phát triển bình thường rõ rệt, nhưng nếu có, những bất thường biểu hiện trước 3 tuổi. Luôn luôn có những tật chứng về chất lượng trong các mối quan hệ xã hội qua lại. Những biến đổi này dưới dạng một sự đánh giá không thích hợp các biểu hiện cảm xúc xã hội, như thiếu đáp ứng với những cảm xúc của người khác và không có tác phong biến đổi cho thích ứng với bối cảnh xã hội, kém sử dụng các tín hiệu xã hội và kém chỉnh hợp các tác phong giao tiếp, xã hội và cảm xúc, và đặc biệt thiếu cảm xúc xã hội qua lại. Tương tự như vậy, các tật chứng về chất lượng trong giao tiếp cũng luôn luôn có. Chúng ở dưới dạng thiếu sót trong cách sử dụng về mặt bất kể kỹ năng ngôn ngữ nào; có tật chứng trong lĩnh vực trò chơi bắt chước xã hội, hoặc trò chơi giả vờ; trong khi trò chuyện trao đổi thiếu tính đồng thời và tính qua lại; kém mềm dẻo trong biểu hiện lời nói và tương đối thiếu tính sáng tạo và tính tưởng tượng trong các quá trình tư duy; thiếu đáp ứng cảm xúc đối với những đề nghị bằng lời hay không bằng lời của những người khác; giảm sút trong việc sử dụng các biến đổi về nhịp và sự nhấn mạnh để biểu hiện các biến thái trong sự giao tiếp; và một thiếu sót tương tự các cử chỉ kèm theo nhằm nhấn mạnh và giúp thêm ý nghĩa trong khi giao tiếp bằng lời nói.
Trạng thái bệnh cũng có đặc trưng là các mô hình tác phong, thích thú và hoạt động định hình, lặp lại và thu hẹp. Các rối loạn này ở dưới dạng một khuynh hướng làm cho nhiều khía cạnh của hoạt động thường ngày trở nên cứng nhắc, đầy thủ tục; thông thường các rối loạn này xuất hiện trong những hoạt động mới cũng như trong những thói quen thường ngày và trong các trò chơi. Đặc biệt trong thời kỳ trẻ em nhỏ có thể xuất hiện một sự gắn bó đặc biệt đối với các đồ vật không thông thường, điển hình là những đồ vật rắn. Những đứa trẻ này có thể yêu cầu thực hiện các nghi lễ đặc biệt không có tính chất chức năng; có thể có những mối quan tâm định hình như ngày tháng, những đường đi hay những thời gian biểu; thường có những định hình vận động; thường có một sự quan tâm đặc biệt đối với nhân tố không chức năng của đồ vật (như mùi vị, hay cảm giác xúc giác); cũng có thể có sự chống lại với các thay đổi có liên quan đến thói quen hay đến những chi tiết của môi trường cá nhân (như di chuyển bàn ghế hay đồ trang trí trong nhà ở).
Ngoài các nét chẩn đoán đặc hiệu, thường những đứa trẻ tự kỷ có những vấn đề khác không đặc hiệu như sợ/ ám ảnh sợ, các rối loạn giấc ngủ hay ăn uống, các cơn nổi giận vô cớ và xâm phạm. Tự gây thương tích (cắn vào cổ tay) cũng khá phổ biến, đặc biệt khi có thêm chậm phát triển tâm thần nặng. Đa số trẻ em tự kỷ thiếu tính hồn nhiên, sáng kiến và tính sáng tạo trong việc tổ chức thời gian nhàn rỗi của chúng và có khó khăn khi áp dụng các khái niệm để ra quyết định trong công việc (cả khi các nhiệm vụ phù hợp với khả năng của chúng). Biểu hiện của các thiếu sót đặc trưng cho tự kỷ biến đổi khi trẻ lớn lên nhưng các thiếu sót này vấn tiếp tục biểu hiện cho đến tuổi thành niên với những loại vấn đề tương tự về xã hội hoá, giao tiếp và mô hình thích thú. Các nét bất thường của sự phát triển phải xuất hiện trước 3 tuổi để có thể làm chẩn đoán, nhưng chẩn đoán này vẫn có thể làm bất cứ lứa tuổi nào.
2.3. Nguyên nhân của tự kỷ.
Không có một nguyên nhân đơn lẻ nào gây ra tự kỷ, song nhìn chung người ta chấp nhận rằng Tự kỷ gây nên bởi bất thường về chức năng của cấu trúc não hoặc bất thường về chức năng của não. Chụp cắt lớp vi tính sọ não cho thấy một số bất thường về hình dáng, cấu trúc của não trẻ tự kỷ so với trẻ bình thường.
Giả thuyết cho rằng tự kỷ có liên quan đến di truyền: Những nghiên cứu hiện đại đã tìm thấy một số chỉ báo cho thấy những ảnh hưởng của gen đối với bệnh tự kỷ. Theo các nhà nghiên cứu thì trong số anh em của các trẻ mắc chứng tự kỷ có gần 3% mắc chứng tự kỷ và gần 3% khác mắc các chứng rối loạn phát triển lan tỏa. Ngoài ra một cặp sinh đôi đồng hợp tử có nhiều khả năng bị tự kỷ hơn so với cặp sinh đôi khác trứng.
Giả thuyết về bệnh lý ở não: Các nghiên cứu cho thấy rằng chất dẫn truyền thần kinh Serotonin rất quan trọng đối với sự vận hành của não có nhiều ở một số nhóm tự kỷ hơn người bình thường. Bên cạnh đó, một số trẻ mắc chứng tự kỷ và những rối loạn liên quan có nhiều vấn đề về hệ miễn dịch và sinh hóa.
Giả thuyết về rối loạn chức năng tâm lý: Các nghiên cứu đã tiến hành nhiều công trình khảo sát các dạng rối loạn chức năng tâm lý để xác định các chứng tật gây hành vi tự kỷ. Các công trình này khảo sát về ngôn ngữ, tập trung, chú ý, trí nhớ và kỹ năng thị giác - không gian. Có những trẻ bị tự kỷ do cách chăm sóc của cha mẹ, đặc biệt là do sự thiếu quan tâm của người mẹ.
Cùng có những bằng chứng cho thấy virus có thể gây ra tự kỷ. Nguy cơ trẻ mắc chứng tự kỷ sẽ tăng cao nếu người mẹ bị bệnh sởi trong 3 tháng đầu tiên của thời kỳ mang thai. Virus cytolomegalo cũng có liên quan đến tự kỷ. Ngoài ra hiện nay một số quan niệm tin rằng virus liên quan đến các loại vaccin như vaccin MMR dành cho bệnh sởi cũng có thể gây ra chứng tự kỷ.
Sự ô nhiễm và chất độc trong môi trường cũng được coi là nguyên nhân có thể gây ra tự kỷ. Năm 2001, các nhà nghiên cứu bang Texas - Mỹ phát hiện ra rằng số trẻ mắc bệnh tự kỷ tỷ lệ thuận với lượng thuỷ ngân được thải ra môi trường. Một ví dụ khác là thị trấn nhỏ Leomenster, Massachusetts với tỉ lệ tự kỷ cao. Nơi đây đã từng có một nhà máy sản xuất kính mát. Điều đặc biệt là tỉ lệ tự kỷ cao nhất ở những hộ nằm dưới hướng gió từ các cột khói của nhà máy.
Tuy nhiên, hiện nay càng có nhiều bằng chứng cho rằng tự kỷ là do nhiều vấn đề gây nên. Theo một số chuyên gia trong lĩnh vực tự kỷ ví dụ như tiến sĩ Edward Ritvo của đại học California, Los Angeles đưa ra giả thuyết rằng tồn tại một tố bẩm về gen liên quan đến tự kỷ. Tố bẩm này được mã hóa trong một số gen nhất định và dưới sự tương tác với một số nhân tố về môi trường hiện vẫn chưa xác định và gây nên sự thay đổi của hệ thống miễn dịch, hệ thống thần kinh cảm giác, não và cả cơ quan tiêu hóa. Những sự thay đổi này gây ra những triệu chứng lâm sàng ở cá nhân đó.
2.4. Phân loại tự kỷ.
Theo phân loại quốc tế DSM - IV và ICD - 10 tự kỷ được chia thành 2 loại:
- Tự kỷ điển hình: Tự kỷ bẩm sinh (phát hiện ngay sau sinh hoặc rất sớm sau sinh) chậm phát triển và có các triệu chứng xuất hiện ngay sau sinh đến trước 3 tuổi.
- Tự kỷ không điển hình: Tiền sử phát triển bình thường tới 12 - 30 tháng tuổi, sau đó ngừng phát triển đột ngột hoặc thoái triển (mất các kỹ năng đã có) và các triệu chứng khác của tự kỷ xuất hiện.
Nếu xét ở góc độ mức độ chủ động trong giao tiếp của trẻ tự kỷ, chúng ta có thể chia thành ba nhóm trẻ tự kỷ.
- Nhóm không phản ứng: hoàn toàn từ chối giao tiếp, kể cả giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ.
- Nhóm thụ động: chấp nhận giao tiếp nhưng không bao giờ chủ động.
- Nhóm chủ động nhưng kỳ quặc: có thể chủ động trong giao tiếp nhưng lại giao tiếp một cách hết sức kỳ quặc, lập dị.
07:42 CH 24/03/2006
Tự kỷ (phần 1)
Tự kỷ trẻ em là một trong những rối loạn phát triển ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hiện tại và cả sau này của trẻ. Những thông tin từ chuyên đề này được tham khảo từ các tài liệu chính thức và không chính thức về Tâm lý trẻ em, tâm bệnh trẻ em, giáo dục đặc biệt, các bài luận chuyên ngành, diễn đàn Webtretho... và cả kinh nghiệm thực tế. Xin lưu ý, tất cả chỉ mang tính chất tham khảo, cha mẹ cần xem xét kỹ lưỡng, lựa chọn thông tin phù hợp, bởi mỗi trẻ là một thế giới riêng, không trẻ nào giống trẻ nào cả.
----------------------------------------------------
1. Tổng quan về tự kỷ.
Theo các thống kê dịch tễ học, tự kỷ là một rối loạn tâm trí sớm ở trẻ em chiếm tỷ lệ 4 - 5/10000 trẻ trong đó có 1/2 trẻ có bệnh cảnh tự kỷ điển hình và 3/4 có giới tính nam.
Ngay từ đầu thế kỷ 19 đã có những báo cáo về trường hợp đơn lẻ của những trẻ rất bé mắc các bệnh rối loạn tâm trí nặng có liên quan đến một biến dạng rõ của quá trình phát triển và Maudsley (năm 1876) đã là nhà tâm bệnh học đầu tiên chú ý đến những nghiên cứu về những trạng thái này.
Tuy nhiên, mãi rất lâu về sau này thì các rối loạn này mới được khoa học thừa nhận. Ban đầu, chúng được xếp vào một dạng của tâm thần phân liệt. Đến năm 1911, nhà tâm thần học Bleuler đã là người đầu tiên nói đến các rối loạn này dưới khái niệm “tự kỷ”. Theo ông đó là một trong những triệu chứng tiên phát cơ bản của tâm thần phân liệt người lớn và tính tự kỷ là thể hiện một sự tập trung toàn bộ đời sống tâm lý của một con người vào thế giới bên trong của mình cùng với sự mất đi tiếp xúc, sự cắt rời với thế giới bên ngoài.
Đến năm 1943 Leo Kanner đã có những nghiên cứu mô tả cụ thể về tự kỷ với rất nhiều sắc thái khác nhau trong hành vi như:
- Sự cách biệt, thiếu hụt trong tương tác xã hội, thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với người khác.
- Một số thói quen hàng ngày kỳ dị, tỉ mỉ.
- Thiếu hụt giao tiếp bằng ngôn ngữ, không nói hoặc cách nói năng khác thường rõ rệt.
- Hạn chế trong hoạt động tập trung và chú ý, nhưng lại có một khả năng cao kỳ lạ ở một số lĩnh vực, trái ngược với tình trạng khó khăn trong lĩnh vực khác.
- Hình thức bên ngoài có vẻ hấp dẫn, nhanh nhẹn.
Những nghiên cứu của Kanner là một trong những nghiên cứu đầu tiên và hoàn chỉnh nhất về tự kỷ và cho đến ngày nay vẫn còn được công nhận. Những kết luận đó của ông có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm về tự kỷ hiện nay trên thế giới.
Tiếp sau Kanner đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu khác liên quan đến tự kỷ như nghiên cứu của các nhà tâm thần học Anh, Mỹ Fudith Gouth, Christopher Gillberg, nghiên cứu của các nhà phân tâm… và cho đến nay thì đã có rất nhiều tên gọi và cách phân loại khác nhau dùng để mô tả tự kỷ như “Loạn tâm cộng sinh” (Mahler và Gosliner, năm 1955), “Nhân cách bệnh tự kỷ” (Asperger, năm 1943), “Rối loạn kiểu tự kỷ” (Lornaving, năm 1998)…
Bắt đầu từ năm 1967, Bảng phân loại bệnh quốc tế (ICD - 8) đã đưa tự kỷ vào mô tả ở chứng Idiotis, tâm thần chậm phát triển nặng nhất. Cho đến nay cách xếp loại chứng tự kỷ trong các bảng phân loại bệnh quốc tế và Hoa Kỳ đã có nhiều thay đổi. Theo bảng phân loại bệnh Hoa Kỳ (DSM - IV) ra đời gần nhất, năm 1994, thì hiện tượng tự kỷ nằm trong rối loạn phát triển lan tỏa mục 299.00.
Nhìn chung, hiện nay vấn các vấn đề xung quanh chứng tự kỷ đã được quan tâm nghiên cứu và đã có những sự thống nhất nhất định. Tuy nhiên, tình hình ở Việt Nam không được thuận lợi như vậy. Đã có một số khoá luận tốt nghiệp của sinh viên Khoa Tâm lý học (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) và sinh viên Khoa Giáo dục đặc biệt (Đại học Sư phạm I Hà Nội) nghiên cứu về hội chứng tự kỷ. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta chưa có một công trình lớn, chính thức nào nghiên cứu toàn diện về tình hình tự kỷ ở Việt Nam.
2. Hội chứng tự kỷ.
2.1. Khái niệm tự kỷ.

Trong gần một thế kỷ qua, trên thế giới đã có rất nhiều các nghiên cứu và kết luận khác nhau về tự kỷ. Những khái niệm cũng như các phân loại của loại rối nhiễu này rất đa dạng và đã trải qua nhiều thay đổi theo thời gian. Xin được trích dẫn một số quan niệm cổ điển và hiện đại của các nhà khoa học về tự kỷ.
Quan niệm của Bleuler năm 1911: “Tự kỷ là khái niệm dùng để chỉ những người bệnh tâm thần phân liệt không còn liên hệ với thế giới bên ngoài nữa mà sống với thế giới của riêng mình, bệnh nhân chia cắt với thực tế bên ngoài và lui về thế giới bên trong, khép mình trong ham muốn riêng và tự mãn”.
Quan niệm của Kanner: “Tự kỷ là sự rút lui cực đoan của một số trẻ em lúc mới bắt đầu cuộc sống, triệu chứng đặc biệt của bệnh là một sự hiếm thấy, là sự rối loạn từ cội rễ, là sự không có khả năng của những trẻ này trong công việc thiết lập các mối quan hệ bình thường với các tình huống từ lúc chúng bắt đầu cuộc sống”.
Theo bộ bách khoa của Collie: “Tự kỷ là một rối loạn rất nặng về sự phát triển tâm lý của trẻ em dặc tính chủ yếu là không đáp ứng với người khác và thiếu sự giao tiếp”.
Quan niệm của Freud: “Tự kỷ là sự đầu tư vào đối tượng quay trở lại trong cái tôi, có nghĩa là đã trở thành tự yêu, là sự ẩn náu của trẻ em trong thế giới bên trong huyễn tưởng và ảo ảnh để hỏi rằng cái tự trị ảo tưởng chỉ có thể được một thời gian, đối với chủ thể với điều kiện phải thêm vào đó sự chăm sóc của người mẹ”.
Quan niệm của M. Mahler và Franes Tustin: “Tự kỷ là biểu hiện cho sự không bình thường xuất phát từ mối quan hệ mẹ con, đó là một cách thức phòng vệ như một cái vỏ bọc gắn với xu hướng bẩm sinh tự bảo vệ khỏi những kinh nghiệm lo hãi ghê sợ từ sự chia cắt với cơ thể mẹ”.
Quan niệm của trường phái nhận thức: “Tự kỷ là những sự thiếu hụt liên quan tới các quá trình tượng trưng hóa, nhất là về trí nhớ và những suy yếu trong sự bộc lộ hoặc trong sự thấu hiểu tình cảm”.
Quan niệm của André Guillain và Réné Pry: “Tự kỷ là một rối loạn của sự phát triển, các dấu hiệu chẩn đoán của nó thể hiện sự bất thường trong lĩnh vực giao tiếp có chủ định, trong hoạt động biểu tượng và trong lĩnh vực vận động (tính rập khuôn, lặp lại, tái diễn)”.
Theo tác giả Lê Khanh trong thì “Chứng tự tỏa (hay tự kỷ), gọi chung là hiện tượng tự tỏa theo nguyên nghĩa là Tự mình phong tỏa các khả năng quan hệ của mình với bên ngoài. Việt Nam còn gọi là Tự kỷ hay Tự bế… Tình trạng này có thể xảy ra cho bất kỳ một đứa trẻ nào, không lệ thuộc vào dân tộc, xã hội hay trình độ phát triển của cha mẹ.”
Theo ICD - 10 (Bảng phân loại bệnh của Tổ chức Y tế Thế giới lần thứ 10)
Mục F84.0

Một rối loạn lan toả phát triển được xác định bởi một sự phát triển không bình thường và hay giảm sút biểu hiện rõ rệt trước 3 tuổi, và bởi một hoạt động bất thường đặc trưng trong 3 lĩnh vực: tác động xã hội qua lại, giao tiếp, và tác phong thu hẹp, lặp lại. Rối loạn này xuất hiện ở con trai nhiều hơn con gái 3, 4 lần.
Hiện nay định nghĩa tự kỷ được công nhận và sử dụng rộng rãi là định nghĩa của Hội Tâm thần học Hoa Kỳ:
Mục 299.00 Rối loạn Tự kỷ

A. Một tập hợp gồm sáu hoặc nhiều hơn các tiêu chí của Nhóm (1), (2) và (3), trong đó có ít nhất 2 tiêu chí từ nhóm (1) và một tiêu chí từ mỗi nhóm (2) và (3).
(1). Giảm khả năng định tính trong tương tác xã hội thể hiện ở ít nhất hai trong số các biểu hiện sau:
(a) Giảm khả năng rõ rệt trong việc sử dụng các hành vi phi ngôn ngữ đa dạng như ánh mắt, nét mặt, các tư thế của cơ thể và các cử chỉ để tạo ra sự liên hệ mang tính chất xã hội.
(b) Không có khả năng xây dựng các mối quan hệ đối với bạn đồng trang lứa phù hợp với mức độ phát triển.
(c) Thiếu sự đòi hỏi tự nhiên đối với việc chia sẻ niềm vui, sở thích, các mối quan tâm hay các thành tích đạt được với người khác (ví dụ như không bao giờ mang hay chỉ cho người khác xem thứ mình thích).
(d) Thiếu sự trao đổi qua lại về tình cảm hoặc xã hội.
(2) Giảm khả năng định tính trong giao tiếp thể hiện ở ít nhất một trong số những biểu hiện sau:
(a) Chậm hoặc hoàn toàn không phát triển kỹ năng nói (không có ham muốn bù đắp lại hạn chế này bằng các cách giao tiếp khác, ví dụ như những cử chỉ điệu bộ thuộc kịch câm).
(b) Với những cá nhân có thể nói được thì lại suy giảm khả năng thiết lập và duy trì hội thoại.
(c) Sử dụng ngôn ngữ trùng lặp và rập khuôn hoặc sử dụng ngôn ngữ khác thường.
(d) Thiếu những trò chơi đóng vai đa dạng, tự phát và bắt chước mang tính xã hội phù hợp với mức độ phát triển.
(3) Những kiểu hành vi, những mối quan tâm và những hoạt động lặp lại và rập khuôn, và thể hiện ít nhất ở một trong các biểu hiện sau:
(a) Quá bận tâm đến một số những mối quan tâm có tính chất rập khuôn và bó hẹp với một mức độ tập trung hoặc cường độ bất thường.
(b) Gắn kết cứng nhắc với những thủ tục hoặc nghi thức riêng biệt và không mang tính chức năng.
(c) Những biểu hiện vận động mang tính lặp lại hoặc rập khuôn (ví dụ gõ tay hoặc vặn tay, hoặc có kiểu di chuyển cả thân người một cách phức tạp), đi trên các đầu ngón chân.
(d) Bận tâm dai dẳng với các bộ phận cơ thể.
B. Chậm hoặc thực hiện một cách không bình thường các chức năng ở ít nhất một trong các lĩnh vực sau, với mốc khởi đầu trước tuổi lên 3: (1) - tương tác xã hội, (2) - sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội, (3) - chơi/ hoạt động mang tính biểu tượng hoặc tưởng tượng.
C. Hội chứng không phải do rối loạn Rett hay Rối loạn Bất hoà nhập Thời kỳ ấu thơ.
07:36 CH 24/03/2006
t
tuongtrophuhuynh
Bắt chuyện
872Điểm·2Bài viết
Báo cáo