Ký ức đi cùng năm tháng
(GĐVN) Thế là đã 40 năm có lẻ… Tết dương lịch năm 2012, tôi trở lại quê nhà sau bao năm xa cách. Đứng trên đê nhìn xuống làng Dương tôi sững sờ… Từng ấy năm, bây giờ đây quê nhà bao đổi khác, những mái ngói đỏ au, những ngôi nhà mái bằng khang trang nằm xen từng hàng một, đường đổ xi măng sạch sẽ… quê tôi đấy khác xưa nhiều quá, đẹp lên… một cái đẹp của nông thôn mới ngày nay.
Người đầu tiên tôi gặp là Ánh… tôi như gặp lại anh… vẫn nụ cười hiền, vẫn ánh mặt đượm buồn. Hỏi chuyện về gia đình, về anh Trung, Ánh bảo: Bố mẹ đã mất cả, còn anh Trung sau thời gian nhập ngũ vào chiến trường miền Nam năm 1966 rồi hy sinh ở đó. Trời! Thế là anh đã mất… anh ra đi mãi mãi mà sao giờ tôi mới biết tin… Thời gian trôi đi làm tôi quên anh. Sao tôi lại quên anh như thế?
Hồi ức của quá khứ ập về trong tôi…
Nhà anh cách nhà tôi chừng nửa cây số, vẫn còn đó những Bãi Bồi phù xa của miền quê dọc con sông Hồng có bên bồi, bên lở, bãi dâu xanh biếc không còn nữa mà thay vào đó là cả một màu xanh bạt ngàn của cánh đồng ngô đang thời kỳ trổ bông ra hạt, đi sâu thêm nữa gần triền đê tôi được ngắm không chán mắt với một màu đỏ rực rỡ của vườn quất cảnh quê tôi, thôn Dương giờ đã đổi khác nhiều lắm. Tôi ngỡ ngàng trước cảnh hồi sinh của làng xóm. Trước sự lớn mạnh của quê hương đất nhãn.
Ký ức xa xưa lại ùa về trong tôi…
Đó là vào năm 1964, 15 tuổi, tôi đang sức xuân của một cô gái nông thôn nhút nhát vụng về… Tôi đến nghĩa trang để tìm anh, lần từng danh mục liệt sĩ kê trên đài tưởng niệm, tên anh đây rồi: Nguyễn Kim Trung, sinh năm 1947, nhập ngũ 20/02/1965, hy sinh 25/08/1966.
Hình ảnh năm xưa hiền về trong tôi rõ nét …
Anh, một chàng trai làng Dương vạm vỡ, khỏe mạnh, anh cùng hợp tác xã với tôi, nhớ khi đi làm, sức tôi yếu từng nhát vồ đạp không thấm vào đâu so với sức của anh… anh quay sang đón đầu phía cuối ruộng để gặp tôi… rồi những buổi tra ngô, tỉa bắp, những buổi trồng khoai lang anh xếp đặt những hàng dây khoai thẳng tắp, trông như hàng trăm cơn rắn khổng lồ bò trên ruộng, một màu đỏ của đất, một màu xanh của cây. Rồi vào mùa hanh khô, anh lại cùng tôi tát nước thửa ruộng miếu thời gần đó, trên đất phần trăm mà hợp tác xã chia cho các gia đình nông thôn thời đó…
Từng nhịp, từng nhịp chiếc gầu dai lại đưa lên vực xuống, những dòng nước trắng xóa chảy ào ào… anh và tôi vui lắm… mỗi lần như vậy anh đều ngước nhìn tôi với ánh mắt trìu mến, chứa đầy niềm vui (vậy mà tôi nhát quá, chẳng hiểu tình cảm của anh dành cho tôi) còn tôi ngượng ngùng không dám nói. Bẵng đi hai tuần sau không gặp anh, một hôm tôi đến rủ anh đi tát nước, tự nhiên hôm ấy, tôi thấy anh buồn, hỏi anh, anh chẳng nói, bốn chiếc dây gầu tát nước cứ trùng lên trùng xuống, nước đổ tung tóe ra ngoài. Tôi hỏi: “Sao hôm nay anh buồn thế? Anh toàn làm nước đổ đi thôi”. Im lặng một lúc anh mới nói: “Hân ơi! Có lẽ tuần sau anh nhập ngũ em ạ!”. Giờ thì đến lượt tôi im lặng, vài phút sau tôi hỏi anh: “Vậy bao giờ anh đi?”, anh trả lời tôi: “Vài ngày nữa thôi em ạ”, giờ thì tôi đã hiểu cuộc chiến tranh đang tiếp diễn trên đất nước tôi, giặc Mỹ vừa leo thang ra miền Bắc ngày 05/08/1964. Anh là một thanh niên, phải ra đi làm nhiệm vụ của mình, anh đi, tôi buồn, song tôi cũng hiểu được những gì đang chờ anh, gian khổ, khó khăn, hy sinh, mất mát… Nghĩ đến đây, lòng tôi chợt quặn lại một nỗi buồn sâu lắng với tôi, tôi im lặng nhìn anh, tay cố kéo căng sợi dây tát nước để cho sợi dây trùng xuống rồi cuộn lại. Vẫn câu hỏi như trước: “Bao giờ anh đi?”. Hôm đó chúng tôi về sớm rất nhiều so với mọi ngày, hai đứa lững thững đi trên con đường đất đỏ phù sa, mỗi người theo đuổi dòng suy nghĩ riêng của mình. Để phá tan không khí nặng nề đó, tôi nói: “Hai bác già rồi, anh đi như thế liệu các bác có đồng ý không? Các em anh vẫn còn nhỏ nữa”. “Không, anh đã nói hết với bố mẹ anh rồi, ở nhà còn Ánh, Tú, Nghĩa, mấy cậu con trai và chị Phú của anh, chiến tranh thế này chưa biết bao giờ chấm dứt. Là thanh niên phải ra đi giành độc lập cho Tổ quốc để có tự do, dân mình mới khỏi khổ, anh đi ở nhà đã có bà con cô bác, họ hàng và các em của anh sẽ chăm sóc cha mẹ thay anh… rồi cả em nữa chứ” – anh mỉm cười. Đến lúc này tôi mới thấy anh bớt buồn, anh nắm tay tôi, bàn tay chai sạn đan xen với bàn tay nhỏ bé của tôi, tự nhiên tôi chợt vui.
Trước hôm lên đường anh đến chào bố mẹ tôi, tối hôm anh đến tôi làm cỏ đay ở xóm Chùa nên về muộn lắm, anh vẫn chờ tôi ở nhà, chắc anh muốn gặp bằng được tôi, bố mẹ tiếp anh trong lúc chờ tôi về, vác cuốc tới cửa nhà, bố tôi nói: “Trung nó sang chơi một lúc rồi đấy!”. Tôi ngồi đối diện với anh, tay rót nước mà cứ run run, làm nước trào hết cả ra ngoài, anh cứ nhìn tôi chăm chú, tôi khẽ nói: “Em xin lỗi anh! Em vụng quá, còn anh cười hiền: “Mẹ chỉ thích con gái vụng về nhưng thật thà chăm chỉ mà thôi”. Tôi cười bẽn lẽn: “Anh cứ nói vậy”, chuyện trò với nhau dễ chừng đã hơn một tiếng, tôi sốt ruột sợ mẹ la rầy bèn nghĩ cách nói khéo. Tôi tiễn anh về. Trăng hôm nay sao khác hẳn mọi đêm, ánh trăng buồn làm chúng tôi càng thấy sự chia ly đến gần… Bất chợi anh ôm ghì tôi vào người anh thật chặt, chặt lắm, anh nói trong hơi thở gấp gáp và đứt quãng: “Em ơi, ngày mai anh đi Nam chiến đấu rồi, biết bao giờ gặp lại em”, hình như có những giọt nước mắt của anh chảy xuống đầu tôi, xuống môi tôi mặn chát, một chút thoáng qua. “Anh xin lỗi, vì đã làm em phật ý, nhưng em có yêu anh không? Em nói đi”. Tôi không còn bình tĩnh để đáp lại lời anh, người tôi run lên vì sợ… tôi muốn trả lời anh là có, vậy mà sao chẳng nói được lời nào, chẳng hẹn ước được gì. Đến bây giờ nghĩ tới giây phút đó tôi vẫn bàng hoàng tưởng như là mới hôm qua thôi… rồi anh buông tôi ra dứt khoát, mạnh mẽ, người anh lẩn vào đêm tối, lẩn vào ánh trăng vàng đục đó… chẳng biết anh có còn quay lại nhìn tôi không? Anh ra đi như vậy, anh gặp tôi lần cuối cùng là như vậy, không một lời hẹn ước, không cả những lá thư mà tôi hằng mong mỏi, vội vã dứt khoát, để lại cái ôm chưa trọn vẹn.
Hồi đó, một cô gái quê nhút nhát, ngô nghê như tôi làm sao hiểu được nỗi lòng thầm kín của anh và tôi còn buồn cho mãi sau này. Đang mải suy nghĩ thì bỗng có tiếng gọi: “Chị ơi, đến giờ đóng cửa nghĩa trang rồi”. Tôi chợt bừng tỉnh, vái vọng về đài tưởng niệm lần cuối cùng trước khi ra về, nhẩm đọc tên anh như nhắc nhở cho mình những kỷ niệm xa xưa còn đọng lại.
Buổi tối hôm đó, tôi tìm đến anh Tú (người em trai dưới anh), anh buồn rầu nói: “ Mộ ở nghĩa trang chỉ là tượng trưng thôi, tất cả các liệt sĩ dù tìm thấy hay chưa đều quy tập về xã và ghi trên danh mục thứ tự là như vậy, anh Trung có tên mà không có hài cốt, chẳng biết anh ấy ở đâu mà đưa về”. Trời ơi! Tôi lặng người đi… tôi không tin có sự việc ấy, rồi em anh lại tiếp: “Sau khi anh ấy hy sinh được vài tháng, tôi cũng lên đường nhập ngũ luôn vì nhớ thương và căm giận bọn giặc xâm lược, tôi quyết định vào Nam chiến đấu, thời kỳ đó bộ đội chúng tôi vất vả lắm, ăn chẳng đủ no, chăn chẳng đủ ấm, hành quân từ Bắc vào Nam, đến nơi chiến đấu phải xuyên rừng Trường Sơn, hành quân hơn 2 tháng mới tới nơi, sốt rét, bệnh tật đã làm nhiều chiến sỹ phải rớt lại giữa đường”. Rồi anh Tú thở dài: “Gian khổ là như vậy mà sao vẫn thấy vui và quyết tâm lắm, chẳng ai nản lòng cả, tôi cũng vậy, cứ nghĩ đến cái chết của anh mình, nghĩ đến đất nước còn chiến tranh thì chẳng ai chùn bước, mọi người đều quyết tâm cao, đêm mắc võng dù ra ngủ, ngày đeo ba lô mang tư trang hành lý nặng đến 40 – 50 cân vẫn cứ đi băng băng, rồi sốt rét, rồi ốm đau thế mà chẳng ai lùi bước, nghĩ cũng lạ… chứ cứ như các cô, các cậu trẻ bây giờ không biết chúng nó có chịu nổi không?”. Nói rồi anh Tú nhìn tôi và các con anh bên cạnh như đặt câu hỏi có làm được không? Các cháu cười: “Chúng con phục bố và các bác ngày xưa lắm!”, tôi quay sang hỏi anh: “Thế gia đình thờ anh Trung ở đâu?”, anh bảo: “Còn đâu nữa, tôi là em thứ hai sau anh ấy nên phải có trách nhiệm lớn”.
Ảnh minh họa
Ngày hôm sau, tôi mua ít hoa quả, tiền vàng đặt lên bàn thờ anh. Tấm hình được in rõ nét, một bát hương to đặt cạnh anh, tôi châm nén hương và lầm rầm khấn mong linh hồn anh ở suối vàng nghe thấy liệu anh có hiểu cho lòng tôi không? Anh Trung ơi! Anh có biết không? Sau khi anh đi được vài tháng, em cũng vào thanh niên xung phong nhưng lại ở phía Bắc, Na Hang – Tuyên Quang, làm sao mà gặp anh được. Hôm nay đây, đứng trước bàn thờ của anh, đứng trước tấm bằng ghi công của anh, tôi mới hiểu sự mất mát quá lớn với gia đình anh cũng như sự mất mát của bao liệt sĩ khác đã ra đi cho chúng tôi có cuộc sống hòa bình như ngày nay, thắp nén hương cho anh mà nước mắt tôi cứ tuôn trào… đứng lặng bên tấm hình của anh một lúc lâu, tôi mới trấn tĩnh được: “Anh Trung ơi, anh ở nơi nào về báo mộng cho gia đình của anh, anh nhé!”, em anh đứng bên nói: “Chị khấn như vậy là anh ấy nghe thấy đấy”, tôi cũng mong là như vậy, mong làm sao cho gia đình tìm được anh để đưa anh về nơi quê cha đất tổ, nơi đã sinh ra anh và cũng là nơi anh ra đi mãi mãi, một nỗi buồn nặng trĩu trong tôi, tối ngước nhìn hình anh thầm nói: Em vẫn nhớ anh…
Mới đấy mà đã hơn bốn mươi năm rồi, hôm nay tôi đứng trước mộ ghi tên anh, trên bảng vàng ghi tên anh trong danh mục các liệt sĩ nằm tại nghĩa trang thôn Tầm Tang, Thắng Lợi, Văn Giang, Hưng Yên, anh ra đi mãi mãi, vậy tên anh ở đây, còn anh nằm ở đâu. Cùng bao đồng đội nữa, ai nằm đây, ai phải đi tìm??? Tôi lại thắp nén nhang cho anh lần nữa trước khi trở về tổ ấm của mình.
Tôi nhắc tên anh để giữ cho mình một kỷ niệm đẹp và đáng trân trọng, một thời quá khứ tuy ngắn ngủi nhưng thật đẹp và thơ mộng, không thể nào quên trong ký ức của tôi.
Nguyễn Thị Hồng Hạnh (SN 2 ngõ 116 Nguyễn Lương Bằng, TP. Hải Dương, tỉnh Hải Dương)
http://www.baomoi.com/Home/TinhYeu/giadinhvn.vn/Ky-uc-di-cung-nam-thang/8822740.epi
Chợ Cồn chỉ có một O người Huế bán (người nhỏ nhỏ, da màu ngồi bán).
Ăn cũng ngon, chỉ có điều mình thấy ăn kèm các loại rau ghém, xoài xắc mỏng chứ không cần bỏ cộng dừa vào