images
Thịnh hành
Cộng đồng
Webtretho Awards 2025
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Toa Thuốc Ngâm rượu xoa bóp, nhứt gân, xương rất...
thuốc này có chỉ định tối đa dùng bao nhiêu mỗi ngày không ạ?


Không hạn chế thoa đâu bạn. cảm ơn bạn.
07:54 CH 26/04/2013
Có ai quê Mỹ Tho (Tiền Giang) ?
Hội Tiền Giang Ơi! sao mà điều hiu vậy? đặt sản MT vẫn còn mà!
04:34 CH 14/12/2012
Có ai quê Mỹ Tho (Tiền Giang) ?
Chủ Quán đâu rồi! Bắt đầu từ hôm nay hội đồng Hương Tiền Giang sẽ sôi động và náo nhiệt lại. Hy vọng các ace cùng nhau xây dựng và phát triển Topic. Xin trân trọng cảm ơn Các ACE.
04:19 CH 13/12/2012
Có ai quê Mỹ Tho (Tiền Giang) ?
Tổng chào cả nhà..:Rose::Rose:
Cho tớ tham gia với nhé,tình hình là tớ muốn tìm 1 bạn ở Tiền Giang,bạn ấy tên Phạm thị Ngọc Liên,trước học cấp 3 trường PTTH An Hữu,huyện Cái Bè..mình muốn tìm bạn ý để trả nợ ,mình nợ bạn ý mười mấy năm rùi...

Bạn có nhớ năm nào kg, tiện mình sẽ liên lạc cho, vì Trường An Hữu có họp mặt hàng năm đó, mình thì học Lê Thanh Hiền. chúc bạn thành công.
09:23 SA 12/12/2012
Có ai quê Mỹ Tho (Tiền Giang) ?
Xin chào ACE vậy tạo sao mình kg làm topic Hội đồng hương Tiền Giang. Mình cũng ở TG nhưng làm viẹc học tập TP HCM, xã là nick name Huyện Cái Bè, xin được gia nhập.
09:19 SA 12/12/2012
cach chua benh viem xoang
Bạn làm theo cách này là tốt nhất: bạn lấy muối hột pha với nước với lượng vừa đủ, rửa mũi vào buổi sáng trưa chiều tối sẽ có kết quả tốt lắm. chúc ông xã bạn mau hết bịnh.
05:58 CH 07/12/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
Sưu tầm
TỪ THUỐC BẮC, THUỐC NAM, THUỐC DÂN TỘC,... ĐẾN DƯỢC THẢO

MAI THANH TRUYẾT

Kỳ này, mời quí độc giả đọc một bài viết rất hay của Tiến sĩ Mai Thanh Truyết.
Nguyễn Văn Đức

Những danh từ dùng cho tựa đề của bài viết nầy đều có cùng chung một định nghĩa và ứng dụng tùy theo không gian và thời gian. Thuốc Bắc ở Việt Nam dùng để chỉ các loại thuốc dùng cây, lá, rễ, củ, hột, v.v., đã được biến chế do một Đông y sĩ người Trung Quốc khám bịnh và cho toa. Còn thuốc Nam, tương tự như thuốc Bắc, nhưng do một Đông y sĩ người Việt Nam đảm nhận. Các loại cây lá được biến chế trong thuốc Nam tương đối đơn giản như phơi khô hoặc sấy khô, và cân lượng cũng không có yêu cầu chính xác như một nắm lá khô, một muỗng bột rễ cây, ... thay vì một chỉ, ba ly, … như ở thuốc Bắc.
Người được chẩn bịnh sau khi nhận thuốc xong, mang về nấu trong một cái nồi đất với (thông thường) ba chén nước và đun sôi. Khi nước “xắc” lại còn tám phân, bịnh nhân “chắt” nước ra, để nguội và uống. Một thang thuốc có thể uống được nhiều lần, thường là hai lần.
Thuốc dân tộc chỉ được dân miền Nam nghe đến kể từ sau 30 tháng tư năm 1975 do miền Bắc xâm nhập vào. Thuốc dân tộc không cần có Đông y sĩ chẩn mạch như thuốc Bắc và thuốc Nam. Thuốc đã được bào chế sẵn cũng như được “nhà nước’ công bố công dụng của từng loại cây, lá, hay củ, ... dùng để chữa trị một bịnh nào đó. Và dân chúng cứ thế mà dùng, cho dù có hiệu nghiệm hay không. Nếu chúng ta đã từng sống trong xã hội Việt Nam khoảng năm năm đầu sau khi nước nhà được “thống nhất”, chắc ai cũng còn nhớ cây xuyên tâm liên. Thực sự, người viết chưa từng thấy cây nầy cũng như cung cách chữa trị như thế nào, và trị bịnh gì? Nhưng, trong giai đoạn trên, mỗi lần đi khám bịnh ở phòng y tế phường hay xã, đều được cán bộ chữa trị bằng xuyên tâm liên. Người viết cũng đã từng nghe nhiều câu chuyện kỳ thú về xuyên tâm liên do một anh bộ đội vượt Trường sơn kể như sau: “Nếu vợ chồng không có con trong một thời gian dài, đôi vợ chồng nầy sẽ được cán bộ hướng dẫn là mỗi khi “ăn nằm” với nhau, chỉ cần cột một dây xuyên tâm liên qua bụng người vợ. Thế là sẽ có con sau đó ngay!”.
Còn câu chuyện dài dược thảo ở Hoa Kỳ thể hiện “tính khoa học” còn cao hơn nữa, nhất là trong cộng đồng Việt Nam. Các Đông y sĩ ở đây, nói chung đều mang (được mang, hay tự mang) những danh hiệu rất oai là Bác sĩ Đông y (Oriental Doctor – OD) hay Tiến sĩ Đông Y (Ph.D of Oriental Medicine), cũng như nhiều danh xưng nổ khác nữa. Thật ra, ở đây cũng căn cứ vào rễ, thân, củ, lá, hột như thuốc Bắc và thuốc Nam; tất cả được chế biến có tính cách hoàn chỉnh hơn dược thuốc Bắc và thuốc Nam, gần giống như các loại thuốc của y khoa hiện đại như dạng bột, viên, hay viên bọc nhựa, nước, hay dạng thuốc tể, v.v..
Trong phần trình bày sau đây, chúng tôi sẽ bàn về định nghĩa, nguồn gốc, cách dùng và những vấn nạn có thể xảy ra sau khi dùng thuốc dược thảo. Danh từ “thuốc” dùng ở đây để chỉ tất cả các loại cây, cỏ, rễ, thân, lá, củ, hột, … chứ không nói đến những hóa chất khác được gian thương cho thêm vào để làm tăng một vài đặc tính trị liệu mà không cần lưu tâm đến những di hại về sau, như arsenic, đồng, chì, thủy ngân, selenium, thậm chí vàng (gold) nữa.

Nguồn Gốc Và Định Nghĩa Dược Thảo
Theo quan điểm của các nhà khoa học Hoa Kỳ, khoa dược thảo chỉ có thể được xem như là một phương cách trị liệu bổ túc (complementary therapy), chuyên dùng các loại cây hay hóa chất ly trích từ cây. Do đó, đây là một ngành y khoa riêng biệt đặt trọng tâm chữa trị bằng cây cỏ có trong thiên nhiên. Và danh từ herbalism dùng để chỉ hệ phái dùng cây cỏ để trị liệu hầu hết các bịnh gần giống như tất cả những bịnh liệt kê trong ngành y khoa hiện đại.
Nguồn gốc của ngành y khoa dược thảo được xem như xuất hiện từ khi có sự hiện diện của con người trên quả địa cầu. Và nếu đi xa hơn nữa, nguồn gốc nầy đã có trước khi loài người xuất hiện (qua sự tiến hóa từ khỉ). Giống khỉ Chimpanzees đã biết ăn một loại lá cây đặc biệt để diệt các ấu trùng trong bao tử. Loài nai đã biết truy tìm các lá dùng để kích thích tâm thần (psycho-active). Một số thú vật khác cũng đã biết tìm đến nấm như penicillin và các loại nấm chống nấm (antifungals) để trị liệu hay tiêu diệt các loại bò chét ngoài da. Sau đó, con người mới biết áp dụng trong trị liệu như những liều thuốc kháng sinh.
Ngành dược thảo đúng nghĩa đã góp phần không nhỏ vào việc trị liệu bổ túc và song hành với ngành y khoa hiện đại. Thuốc phiện (morphine) được trích ly từ cây thuốc phiện (poppies), aspirin từ cây liễu, và digoxin dùng để chữa trị nhịp tim đập không đều đến từ cây đuôi chồn (foxglove).
Ngành dược thảo không ngừng ở mặt trị liệu từng bộ phận hay từng bịnh mà còn có “tham vọng” chữa trị toàn cơ thể con người, và “khuyến khích” cơ thể tự “hoàn chỉnh” hay điều chỉnh qua thuốc cây cỏ. Các nhà chuyên môn của ngành nầy nghĩ rằng, những hóa chất trong một tập hợp cây cỏ sẽ làm cân bằng cơ thể và tạo nên những phản ứng hỗ tương để chữa trị toàn thể con người.

Có thể nói ngành y khoa cây cỏ ngày nay phát triển rất nhanh trên toàn thế giới. Mức tiêu thụ ước tính khoảng 23 tỷ Mỹ kim trong năm 2004 căn cứ vào báo cáo của cuộc triển lãm quốc tế lần thứ hai về dược thảo. Hiện tại, có khoảng 34% người Hoa Kỳ lớn tuổi đã hơn một lần viếng các Bác sĩ Đông y dược vào năm 1990.

Vấn Đề An Toàn Của Dược Thảo
Có một khái niệm hết sức thông thường và tự nguyện của người đời là, dược thảo nghĩa là cây cỏ (herbal), là tự nhiên (natutal), và là an toàn (safe); vì vậy, dược thảo ao toàn hơn các loại thuốc bằng hóa chất hay tổng hợp hóa chất do ngành y dược khoa hiện đại bào chế.
Do có suy nghĩ trên, cho nên một số người Hoa Kỳ và dĩ nhiên, một số không nhỏ người Việt ở hải ngoại vẫn thường dùng các loại thuốc cây cỏ trong công việc phòng bịnh và trị bịnh. Đối với dược thảo, các nhà sản xuất không cần phải khai báo với Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) về cơ cấu của thuốc, cũng như tính hiệu nghiệm, cùng phản ứng phụ, và mức an toàn của thuốc đặc chế. FDA cũng không đòi hỏi thông tin cần được liệt kê trên nhãn hiệu của các lọ thuốc. Do đó, kết quả dù tích cực hay tiêu cực, hay ảnh hưởng dài hạn lên cơ thể hoàn toàn không được biết đến và cũng không có một cuộc nghiên cứu dài hạn nào để thẩm định mức an toàn của thuốc.
Thí dụ như nước trích từ cây nhàu (gingko biloba) đã đưộc quảng cáo rầm rộ trong cộng đồng Việt Nam trước đây, và hiện nay vẫn còn lai rai, là có khả năng trị bá bịnh. Có mấy ai biết được, qua nghiên cứu khoa học, phản ứng của thuốc nầy có thể gây ra hiện tượng chảy máu bên trong cơ thể, và có thể gây ra phản ứng với các yếu tố làm chống đông máu có sẵn trong máu của con người.
Mặc dù Luật Dietary Supplement Health & Education Act năm 1994 cho phép các loại thuốc thực vật trên được ghi trong nhãn hiệu hướng dẫn cách dùng và tính hiệu nghiệm của thuốc, nhưng trên thực tế ngoài thị trường, các nhãn hiệu trên hoàn toàn không ghi rõ về cách định bịnh, chữa trị hay phòng bịnh gì cả!
Thêm một điều nữa là dược thảo không bị đòi hỏi phải cung cấp tỷ lệ các thành phần hóa học cấu tạo ra thuốc, cũng như tính tinh khiết (purity) như các loại thuốc dành cho ngành y khoa hiện đại. Do đó hiệu quả của cùng một loại thuốc, cùng một nhãn hiệu có thể không giống nhau vì do những tạp chất có trong thuốc thay đổi trong lúc sản xuất như phấn hoa, chất gây dị ứng cho cơ thể, bào tử của hoa, v.v.. Và tỷ lệ khác biệt nầy có thể thay đổi tính hiệu nghiệm của thuốc, đôi khi gây ra những phản ứng bất lợi cho bịnh nhân.
Do đó, mặc dù một số dược thảo có thể trợ giúp giải quyết một số bịnh của con người, nhưng điều đó không có nghĩa là dược thảo đạt được mức an tòan. Theo khuyến cáo của ngành y dược khoa tân tiến, phụ nữ đang mang thai không nên dùng dược thảo vì có thể có phản ứng bất ngờ và có thể bị trụy thai.
Đối với các loại thuốc trong ngành dược khoa, dựa vào hóa chất tổng hợp hay một số trích ly từ cây cỏ, hay nấm trong thiên nhiên, nhưng các thuốc nầy đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, với cân lượng chính xác, và được thí nghiệm lên thú vật hay con người trong một thời gian dài trước khi tung ra thị trường. Và dĩ nhiên, những thuốc trên cũng có thể có những phản ứng phụ hay phản ứng khi dùng nhiều loại thuốc khác nhau trong cùng một thời điểm. Điều nầy cũng đã được liệt kê trên nhãn thuốc hay được bác sĩ khám bịnh khuyến cáo và lưu ý bịnh nhân khi kê toa.
Tuy nhiên, điều trên đây không xảy ra đối với dược thảo về các điều kiện bào chế thuốc. Hiện tại, hầu hết các sản phẩm dược thảo đều nằm ngoài tầm kiểm soát của những luật lệ quy định cho ngành y khoa. Điều đó có nghĩa là không có gì bảo đảm cho sự hiệu nghiệm của thuốc, cũng như thành phần cùng cân lượng của những chất hoá học cấu tạo ra thuốc. Ngay cả nhà bào chế thuốc cũng không đạt được tính chính thống của ngành, mỗi nhà bào chế (sản xuất) theo từng trường phái dược thảo khác nhau. Thí dụ thuốc nhàu của nhà bào chế A sẽ khác thuốc của của nhà bào chế B. Một thí dụ khác điển hình là nếu bạn bị bịnh về tim, bị đau ngực do hẹp tắc các động mạch vành tim (angina), cao áp huyết, hay bịnh cao áp suất mắt (glaucoma), một số dược thảo dùng để trị liệu các chứng bịnh kể trên sẽ đưa đến những phản ứng có thể làm chết người đối với bịnh nhân bị tiểu đường loại I hay bị chứng phong giựt (epilepsy). Thêm nữa, các dược thảo quảng cáo cho những bà mãn kinh nguyệt và hay bị chứng nóng mặt (hot flashes) là các loại cỏ và rễ của cây Black Cohosh, Black Snake, Bugwort, Rattle weed. Thực sự nếu dùng các loại dược thảo kể trên, các bà có thể giảm chứng nóng mặt lúc ban đầu nhưng hậu quả sẽ phải trả là một giá rất đắt, đó là bịnh ung thư. Nên nhớ, nếu không dùng thuốc chi cả, chứng nóng mặt sẽ biến mất sau một thời gian.
Từ những nhận định trên, câu hỏi được đặt ra là, chúng ta có nên dùng dược thảo không?

Hiệu Năng Của Dược Thảo
Đối với ngành y dược khoa, một thuốc mới sắp ra sẽ phải được kiểm chứng qua nhiều giai đọan như vừa kể trên, điều đó không những bảo đảm được tính hiệu nghiệm và an tòan của thuốc, mà còn đi xa hơn nữa là liệu thuốc mới vừa được tung ra thị trường có an tòan hơn (safer), và hiệu nghiệm hơn không khi so sánh với các loại thuốc đã sản xuất trước kia và có cùng một mục đích trị liệu.
Nhưng đối với dược thảo, hoàn toàn không có một nghiên cứu nào cả mà chỉ dựa vào cảm tính (intuition) nhiều hơn. Do đó, nhiều khi bịnh nhân phải trả một chi phí cao cho dược thảo mà không nhận được kết quả trị liệu nào cả, không kể đến những phản ứng phụ có thể xảy ra.
Để trả lời câu hỏi trên, quan điểm của một số nhà y dược học là:
- Một số dược thảo được xem như là một loại thức ăn bổ túc (food additive) như các loại sinh tố thiên nhiên và vô hại cùng những loại muối khoáng, cũng như không ảnh hưởng và phản ứng phụ cho người tiêu dùng.
- Ủy ban An toàn Y khoa (Committee on Safety of Medicine) khuyến cáo bịnh nhân cần phải tham khảo với bác sĩ về các loại dược thảo đang dùng trước khi được giải phẫu, vì có rất nhiều loại dược thảo dị ứng với hóa chất gây mê, chống đông máu, và những thuốc xử dụng trong và sau khi giải phẩu.
- Còn Viện Quốc gia Những Nhà Sưu tầm Dược thảo (National Institute of Medical Herbalists) khuyến cáo nhà dược thảo cần phải theo dõi từ ba đến năm năm ảnh hưởng lên con người của dược thảo đã được bào chế trước khi tung ra thị trường.
Vì những lý do trên cùng những hạn chế thông tin về dược thảo, lời khuyên hay nhất cho người xử dụng dược thảo là cần phải tham khảo bác sĩ gia đình và những bác sĩ chuyên môn về dược thảo (herbal practictioner) trước khi dùng.
Cũng cần nên tham vấn nhà dược thảo trị liệu để họ có thể hiểu rõ hơn điều kiện sức khoẻ tổng quát của bịnh nhân, cùng các loại thuốc đã hay đang xử dụng, cuộc sống thường nhật của bịnh nhân và lịch sử về sức khoẻ gia đình. Và sau một thời gian trị liệu bằng dược thảo, bịnh nhân cần phải đến tham khảo thêm để có thể chận đứng được những phản ứng phụ kịp lúc nếu có.
Sau cùng, Viện Sức khoẻ Quốc gia (National Institute of Health) có một mạng lưới tập trung về những nghiên cứu liên quan đến dược thảo cũng cần được tham khảo thêm qua Trung tâm Quốc gia về Y khoa Bổ túc và Tương ứng (National Center for Complementary & Alternative Medicine).

Thay Lời Kết
Ngày hôm nay, ngoài những bữa ăn chính, nhiều người cần phải có thức ăn dinh dưỡng bổ túc (dietary supplements) tùy theo điều kiện sức khỏe của cơ thể cả về vật chất lẫn tâm sinh lý. Do đó, xử dụng dược thảo cũng phụ giúp một phần nào trong việc trị liệu với điều kiện là bịnh nhân cũng như người chẩn đoán bịnh và cho thuốc cần hiểu rõ căn bịnh và nhu cầu cần phải có dược thảo bổ túc thêm cho việc trị liệu.
Nhưng trên thực tế, nhất là trong cộng đồng người Việt, đặc biệt tại Hoa Kỳ, dược thảo đã trở thành một kỹ nghệ béo bở cho rất nhiều người. Ngành dược thảo ở đây hoàn toàn độc lập, và hoàn toàn tùy thuộc vào người bào chế (?) và hầu như những nhà bào chế Việt Nam là những cá nhân hoạt động riêng rẽ, không nơi nào giống nơi nào.
Qua truyền thông như phát thanh, báo chí, truyền hình, ..., chúng ta hàng ngày nghe ra rả những quảng cáo rất nhiều loại thuốc dược thảo dùng để trị liệu nhiều bịnh khác nhau, cũng như trị “bá bịnh”. Nhiều khi cùng một nguồn gốc dược thảo, những nhà bào chế đã trình bày những phương cách trị liệu và liều lượng khác nhau. Chúng ta dễ dàng kiểm chứng điều nầy qua các quảng cáo về thuốc nhàu Noni, thuốc cây lô hội, v.v..
Thậm chí, có những nhà bào chế không biết lấy từ nguồn nguyên liệu nào gọi là sữa ong chúa rồi chia ra thành lọ thuốc mang những con số vô tình khác nhau như: 7, 9,14, 26, v.v., để trị bách bịnh hay bá bịnh. Giả sử như sũa ong chúa có tính chất trị bá bịnh đúng như quảng cáo, mỗi người trong chúng ta thử đặt một câu hỏi nhỏ cho nhà bào chế nầy là, làm thế nào để có đủ lượng sữa ong chúa để sản xuất hàng trăm ngàn chai lọ thuốc như trên? Nên nhớ, mỗi tổ ong chỉ có một con ong chúa và khả năng chứa sữa (?) của một con ong chúa không đạt được 0.05 cc, tức nhỏ hơn một giọt nước. Người viết không rõ người bào chế định nghĩa chữ “sữa” như thế nào, nhưng qua tài liệu tham khảo đọc được, Honey Bee Venom, tức là nọc của loài ong mật có thể trị được chứng đau cơ sơ hóa tức là Fibromyalgia mà thôi!
Cộng đồng người Việt chúng ta ở hải ngoại quá dễ dãi để cho gian thương lợi dụng mà không có một phản ứng nào cả. Cộng thêm một số đồng bào vì dễ tin và nhẹ dạ cho nên vô hình chung đã tiếp tay cho việc làm bất chính trên. Thiết nghĩ, ngày hôm nay, đã đến lúc chúng ta cần góp bàn tay để làm sạch cộng đồng, ý thức bổn phận dân sự (civic duty) của chính mình để ngăn đừng cho những cung cách làm ăn không đứng đắn được tồn tại trong cộng đồng nữa. Nên nhớ, ảnh hưởng và các phản ứng phụ khi dùng hoá chất không đúng cách có trong dược thảo sẽ diễn ra sau vài thập niên xử dụng chứ không phải là một ảnh hưởng tức khắc.
Khẩn mong quý bà con lưu ý đến những điều trình bày trên đây.
Mai Thanh Truyết
West Covina, 5/2007
05:43 CH 07/12/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
TRỊ BỆNH BẰNG... ỚT

DS. TRƯƠNG TẤT THỌ
Ơt hầu như không thể thiếu trong bữa ăn gia đình, từ ớt ngọt sử dụng như rau tươi đến các loại ớt cay làm đậm đà hương vị của món ăn. Và ớt không chỉ là gia vị mà còn được dùng làm thuốc trị bệnh trong cả đông lẫn tây y.
*ỚT DÙNG CHỮA BỆNH THEO ĐÔNG Y
Ớt có vị cay, nóng có tác dụng tán hàn, kiện tì, giải độc, tiêu viêm, tiêu thực, chỉ thống. Trong Đông y có nhiều bài thuốc dùng ớt trị rụng tóc, ăn uống kém tiêu hóa, giảm đau, trị viêm khớp mạn tính, đau dạ dày do lạnh, chữa đau lưng, đau khớp hoặc dùng lá cây ớt tươi đắp chữa bệnh eczema, chữa rắn rết cắn, chữa mụn nhọt…
*ỚT DÙNG CHỮA BỆNH THEO TÂY Y
Hoạt chất chính dùng làm thuốc của ớt là capsicain là một alcaloid chiếm từ 0,05-2%, có cấu trúc hóa học là acid isodexenic vanilylamid, bốc hơi ở nhiệt độ cao. Ngoài ra còn có capsicain là hoạt chất gây cay, đỏ, nóng, xuất hiện khi quả ớt chín, chiếm tỷ lệ 0,01-0,1%. Tỷ lệ này thay đổi tùy theo loại ớt nên có loại ớt cay nhiều, ít.
- Chính capsicain kích thích não bộ tiết ra endo-morphine, chất ma túy nội sinh làm con người khoan khoái, dễ chịu, giảm đau. Vì thế nhiều người “ghiền” ớt, bữa ăn thiếu ớt trở nên mất ngon.
- Ớt là chất bổ dưỡng vì chứa nhiều vitamin và khoáng chất: vitamin A, E, K, B1, B2, B3, B5, B6, B9, beta caroten, calci, sắt, magnesium, phosphor, kali, natri, kẽm, đồng. Đặc biệt ớt chứa một hàm lượng cao vitamin C (100-250mg/100g ớt). Ớt còn giúp máu lưu thông tốt giảm tai biến tim mạch, giảm tình trạng cao huyết áp
*CÁC LOẠI THUỐC TỪ ỚT
- Thuốc chứa trích tinh ớt dùng ngoài da dưới dạng cồn, giúp kích thích tại chỗ, làm giãn mạch, làm tan máu bầm, giảm đau.
- Nghiên cứu dùng kem chứa hoạt chất capsicain để phong tỏa thần kinh dưới vết thương ở da để trị đau thần kinh do bệnh zona gây ra.
Trích tinh từ ớt kết hợp với các hoạt chất khác đã dùng khá nhiều trong Tây y dưới nhiều dạng thuốc như:
- Thuốc ngoài da dạng kem: Baume Saint Bernard crème dùng kháng viêm giảm đau kết hợp với salicylat methyl, long não, menthol.
- Thuốc ống uống: Complex Lehning Euphrasia 115 hoặc 58 dùng trong nhãn khoa.
- Thuốc dạng que chấm lên da: Curoma baton dùng kháng viêm.
- Thuốc viên ngậm dưới lưỡi: Slimum cp sublingual hỗ trợ điều trị béo phì.
NHỮNG NGHIÊN CỨU MỚI VỀ HOẠT TÍNH CỦA ỚT
* Phương thuốc “nóng” trị đau lưng
Cao dán ớt dùng điều trị các cơn đau như đau lưng, viêm khớp và các cơn đau cơ xương khác. Cao dán giúp cải thiện tuần hoàn máu, thư giãn cơ và giảm cơn đau. Sau khi rửa sạch và lau khô chỗ đau, dán tấm dán lên trong 24 giờ. Trước khi dán nên thử test trước ở diện tích nhỏ để đề phòng quá nóng gây kích thích da. Cao dán sẽ lan tỏa hoạt chất dưới sức nóng của da. Chú ý là không nên dùng với làn da nhạy cảm hoặc đang bị bệnh ngoài da.
* Ớt chống ung thư tiền liệt tuyến
Các nhà khoa học thuộc Trung tâm nghiên cứu y khoa Cedars-Sinai (Mỹ) sau khi tiến hành thử nghiệm trên chuột cấy tế bào ung thư của người và được uống dung dịch chứa tinh chất ớt 3 lần/tuần thì thấy tế bào ung thư tuyến tiền liệt dần dần bị hủy hoại đồng thời quá trình phát triển khối u của tuyến tiền liệt cũng chậm lại. Phát hiện này mang hy vọng có thể dùng chất chiết xuất từ ớt làm thuốc chữa trị cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt.Bên cạnh đó các nhà khoa học của viện đại học Pittburg (Mỹ) thì cho rằng ớt có thể làm chậm quá trình phát triển của tế bào ung thư đặc biệt với ung thư tuyến tụy. Phát biểu tại Trung tâm nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ, GS. Srivastava cho biết đã thử nghiệm thành công khả năng chống lại ung thư tuyến tụy của chất cay capsicain trong ớt. Chất cay này giữ vai trò xúc tác làm cho tế bào ung thư tự phá hủy nhưng không gây hại cho các tế bào bình thường khác. Điều này mở ra triển vọng nghiên cứu thuốc trị ung thư tuyến tụy từ ớt trong tương lai.
* Giúp giảm nôn ói sau phẫu thuật
Việc sử dụng tinh chất ớt cũng giúp làm giảm tình trạng nôn ói hậu phẫu sau các ca phẫu thuật cắt bỏ tử cung. Trong một nghiên cứu đăng tải trên tạp chí khoa học Anesth Analg, tháng 10-2002 thì các cao dán được đặt vào những điểm huyệt đạo chính xác theo châm cứu phương Đông trước khi gây mê và lấy ra 8 giờ sau phẫu thuật thì nhận thấy số người bị nôn ói hậu phẫu đã giảm đáng kể (22-26%) so với không dùng cao dán (57%).
Như thế ớt không chỉ là gia vị mà còn là một thực phẩm chức năng đang được nghiên cứu để trị bệnh.
05:39 CH 07/12/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
QUÝT CÓ THỂ GIÚP NGĂN NGỪA UNG THƯ GAN

(BBC) - Ăn quýt thường xuyên có thể cắt giảm nguy cơ phát triển ung thư gan và các căn bệnh khác. Các nhà khoa học Nhật Bản đã tìm thấy mấu chốt là ở chỗ trong quýt có hợp chất vitamin A gọi là carotenoid mang đến cho loại quả này màu vàng cam.
Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học tại Viện khoa học cây ăn quả đã phỏng vấn 1,073 người thường xuyên ăn quýt ở thị trấn Mikkabi, Nhật Bản. Nhóm tìm thấy những người này giảm đáng kể nguy cơ bị ung thư gan, xơ cứng động mạch và kháng insulin.
Trong nghiên cứu thứ hai, nhóm tại Đại học Y khoa Kyoto đã tìm hiểu 30 bệnh nhân có virus viêm gan. Những người này uống mỗi ngày một cốc nước quýt trong vòng một năm.
Sau một năm, không ai trong nhóm này bị ung thư gan. Trong khi đó ở nhóm các bệnh nhân khác có cùng tình trạng nhưng không uống nước quýt, tỷ lệ mắc bệnh là 8.9%.
05:36 CH 07/12/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
NHỮNG CÂU HỎI VỀ GIA VỊ

Ai cũng biết gia vị và thảo dược rất tốt cho sức khỏe. Vậy cụ thể là nó tốt như thế nào? Dùng bao nhiêu thì đạt được lợi ích đó? Quá trình chuẩn bị và chế biến có làm hao hụt các chất “tinh túy” có trong gia vị?
Từ “chống ôxy hóa” thường được gắn với hoa quả, rau xanh, trà và thậm chí là cả sô-cô-la. Nhưng bạn có biết rằng, các loại thảo dược và gia vị cũng “đậm đà” các loại hợp chất được cho là rất tốt cho sức khỏe này?
Sức mạnh của chất chống ôxy hóa: Nghiên cứu cho thấy các chất chống ôxy hóa là những hợp chất bao gồm beta-carotene, lutein, lycopen, selen và các vitamin A, C, E. - được tìm thấy trong nhiều thực phẩm như hoa quả và rau xanh - có thể bảo vệ các tế bào trong cơ thể chống lại các gốc tự do.
Các gốc tự do là những phân tử được tạo ra khi cơ thể tiêu hóa thực phẩm hay phản ứng với sự ô nhiễm do hút thuốc và tiếp xúc với các tia phóng xạ...
Các chất chống ôxy hóa có thể bảo vệ cơ thể khỏi các bệnh tim, ung thư và các bệnh khác.
Đặc tính kháng viêm: Các nhà nghiên cứu đã tiến hành tìm kiếm khả năng bảo vệ vô song của các loại gia vị - thảo dược và họ phát hiện ra nó có tính kháng viêm.
Viêm nhiễm được cho là tiền đề của nhiều căn bệnh mãn tính như bệnh tim, dị ứng và Alzheimer. Các loại gia vị và thảo dược có thể được coi là những thực phẩm có khả năng kháng viêm và không chỉ làm tăng hương vị mà còn trợ giúp đắc lực trong việc “hàn gắn” những vết thương trong cơ thể.
Giảm cân: Các nhà nghiên cứu đã thăm dò khả năng tiềm tàng của các gia vị trong việc tăng cường chuyển dưỡng, đẩy nhanh cảm giác no nê và kiểm soát cân nặng cũng như nâng cao chất lượng bữa ăn.
Chất capsaicin trong ớt được cho là giúp tăng cường khả năng chuyển hóa chất trong cơ thể. Thêm vào đó, nếu thực phẩm bạn ăn có hương vị và đem lại sự hài lòng, thì cũng có nghĩa là bạn sẽ ăn ít hơn và nạp vào cơ thể ít calo hơn.
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, để giảm cân, nên dùng thêm nhiều gia vị và thảo dược vào các món ăn hằng ngày.
Những đầu bếp coi trọng sức khỏe và các chuyên gia luôn khuyến nghị rằng nên thêm gia vị vào thảo dược vào các món ăn để vừa có tác dụng tăng hương vị, vừa không phải thêm chất béo, muối hay đường.
Những nghiên cứu mới nhất cho thấy các loại gia vị và thảo dược rất giàu các chất chống ôxy hóa và có thể coi là một trong những dược phẩm tại gia giúp nâng cao sức khỏe qua từng bữa ăn. Ví như 1 thìa bột quế vàng có lượng chất chống ôxy hóa tương đương với nửa cốc việt quất và 1 ly nước lựu ép.

*Cần bao nhiêu gia vị để mang lại những lợi ích cho sức khỏe?
Chỉ cần nêm chút xíu trong mỗi bữa ăn là đủ nhưng định lượng cụ thể trên lý thuyết thì cho tới nay chưa có.
Giống như thực phẩm, không thể có 1 “đơn kê” cụ thể nào cho các loại gia vị hay thảo dược. Lượng dùng hoàn toàn phụ thuộc vào khẩu vị của mỗi người.
Nó làm tăng hương vị và dinh dưỡng, đồng thời cũng cung cấp 1 dạng muối, giúp giảm lượng muối, chất béo và cả đường trong các món ăn.

*Đun nóng gia vị và thảo dược có làm giảm các giá trị dinh dưỡng?
Các nhà nghiên cứu đã quan sát những ảnh hưởng của sức nóng cũng như quá trình chuẩn bị đối với các loại gia vị và một số nghiên cứu cho thấy sức nóng làm tăng các yếu tố sinh học (tăng khả năng hấp thụ và giá trị dinh dưỡng) của các hợp chất có trong một số gia vị; trong khi sức nóng lại làm giảm các giá trị dinh dưỡng của một số gia vị khác.
Ví như nhiều nghiên cứu tìm hiểu về sự thất thoát của các chất như curcumin, capsaicin và piperine, đây là những hoạt chất chính trong nghệ vàng, ớt đỏ và tiêu đen lần lượt qua các quá trình chế biến trong nước: đun sôi trong 10 phút, 20 phút và đun 10 phút trong nồi áp suất.
Kết quả là lượng curcumin bị hao hụt do quá trình đun nóng là từ 27-53%. Chất capsaicin trong ớt đỏ bị hao hụt là từ 18-36%. Lượng piperine trong hạt tiêu đen bị hao hụt là 16-34%.
Và để khởi động một sức khỏe tốt và cách dùng gia vị trong món ăn, hãy tham khảo 7 loại siêu gia vị - thảo dược!

7 LOẠI "SIÊU" GIA VỊ VÀ THẢO DƯỢC

Mỗi loại gia vị và thảo dược đều mang lại những ảnh hưởng tích cực nhất định. Theo quan niệm của các nhà dinh dưỡng châu Âu, có 7 loại gia vị và thảo dược được cho là tốt nhất cho sức khỏe và nên nêm vào món ăn hằng ngày.
Các loại gia vị và thảo dược được xếp vào nhóm thực vật giống như hoa quả và rau xanh. Và vì chúng không chứa nước và là những gì tinh túy nhất của các loại tươi ngon nên chúng hàm chứa lượng chất chống ôxy hóa rất cao. Thêm vào đó, gia vị và thảo dược cũng rất giàu chất phytonutrients chẳng hạn như carotenoid, flavonoid và các phenolic khác, tất cả đều có tác dụng cải thiện sức khỏe.
*Quế vàng
Quế rất dễ sử dụng, nhiều tác dụng, hương vị lại thơm ngon. Chỉ cần một nửa thìa quế vào cốc cà phê hay trà mật ong; trộn bột quế vào sữa chua hay rắc nhẹ lên món cháo yến mạch; có thể trộn với bí ngô hay cho vào các loại kem… là đủ mang lại giá trị dinh dưỡng tuyệt vời.
Theo các chuyên gia, ngoài các chất chống ôxy hóa, nghiên cứu cho thấy quế đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết mức đường huyết và giảm cho cholesterol trong cơ thể.
*Lá thơm Oregano
Đó là một loại sa lát mini. Chỉ cần 1 thìa bột lá oregano là đủ bảo đảm lượng chất chống ôxy hóa tương đương với việc ăn 3 tách súp lơ xanh thái nhỏ. Tuy nhiên, đừng vì thế mà không ăn súp lơ xanh đấy nhé!
Oregano giàu chất chống ôxy hóa nhất trong các loại thảo dược khô.
Các chuyên gia y tế khuyên nên thêm bột oregano vào các loại pasta, sốt pizza hay thậm chí là có thể cho vào món bánh sandwich phô mai nướng.
*Gừng
Bạn ngạc nhiên ư? Nhưng đúng là 1 thìa cà phê gừng sẽ có lượng chất chống ôxy hóa tương đương với 1 cốc rau chân vịt.
Để làm tăng vị ngọt nên rắc loại gia vị cay này vào các lát quả tươi hoặc trộn cùng sữa chua lạnh hay kem.
Với các món ăn mặn, gừng tươi có thể cho vào canh rau họ cải hay các loại nước sốt.
Các nhà khoa học cũng nhận thấy các hợp chất trong ngừng có tác dụng giảm buồn nôn… cũng giúp giảm đau.
*Ớt đỏ khô
Loại gia vị có nguồn gốc từ ớt đỏ tươi này có thể giúp tăng thêm vị cay, làm cho món ăn trở nên ngon miệng và dễ ăn hơn.
Ớt đỏ cũng giúp nâng cao khả năng chuyển dưỡng của cơ thể, tăng cảm giác no và cũng giúp “đốt cháy” chất béo.
Các chuyên gia cũng khuyến nghị dùng ớt khô cho các món ăn như gà tái chanh hay các món cá để làm món ăn thêm hấp dẫn.
*Lá hương thảo
Các hợp chất trong lá hương thảo giúp giảm sưng viêm trong cơ thể và các chứng viêm là các yếu tố khởi phát và gián tiếp gây ra nhiều bệnh mãn tính.
Nghiên cứu về lá hương thảo cho thấy nó rất tốt cho sức khỏe tim mạch.
Nên ướp thịt với lá hương thảo; sốt khoai tây, bánh mỳ, bánh cuộn cũng nên bổ sung gia vị này.
*Lá cỏ xạ hương
Các nghiên cứu cho thấy các hợp chất có trong lá cỏ xạ hương có khả năng hỗ trợ cho chức năng hô hấp.
Để thêm nhiều lá cỏ xạ hương vào chế độ ăn, hãy rắc nó lên món sa lát và các loại kem, các món rau nấu, cá và trộn ướp cả các món rán.
*Củ nghệ
Loại gia vị có màu vàng sáng này là thành phần chính của bột cari. Các nhà nghiên cứu nhận thấy nghệ đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe bộ não và giúp chống suy giảm nhận thức do tuổi tác. Thêm vào đó, cari còn là một gia vị tốt cho tim.
Trộn nghệ vào các món trứng, gà xé phay, sa lát cá ngừ. Thêm cari vào các món thịt lợn, canh khoai.
Để có thể tận dụng được các giá trị dinh dưỡng trong gia vị và thảo dược, hãy cho nửa thìa 1 trong 7 loại siêu gia vị, thảo dược trong mỗi bữa ăn. Hãy thực hiện đều đặn mỗi ngày hoặc mỗi tuần!
(sưu tầm)
05:34 CH 07/12/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
Sưu tầm
NÊN UỐNG THUỐC VỚI NƯỚC GÌ?

Đối với nhiều người, uống thuốc với bất cứ nước gì có vẻ không quan trọng, thậm chí có người lựa chọn hẳn một loại nước có mùi vị thích hợp, nhằm loại trừ cảm giác khó chịu do dùng thuốc. Như có người uống thuốc với nước trà (chè) hoặc với nước trái cây (nước cam, nước chanh…) hay với nữ, thậm chí với bia rượu là loại thức uống đang có sẵn hay chỉ đểu có cảm giác dễ chịu!
Điều vừa kể thật ra có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị của thuốc, vì nếu dùng loại nước không thích hợp sẽ ảnh hưởng đến sự hấp thu của thuốc ở hệ tiêu hóa, đưa đến thuốc bị giảm tác dụng hay không còn tác dụng điều trị.
*Nước gì tốt nhất?
Nước lã đun sôi để nguội hoặc nước lọc hợp vệ sinh là loại nước tốt nhất dùng để uống thuốc. Uống thuốc với loại nước này với lượng nước đủ sẽ giúp đưa thuốc viên (viên nén hoặc viên nang) từ miệng xuống nhanh đến dạ dày, tan rã và hòa tan tạo dung dịch thuốc, sau đó trôi xuống ruột là vị trí dược chất sẽ hấp thu vào máu cho tác dụng.
Đối với thuốc là viên nang hay còn gọi là viên nhộng là dạng dễ nuốt, một số người uống khan, không uống chung với nước (đặc biệt là người cao tuổi do rối loạn tiểu tiện thường đi tiểu lắt nhắt rất ngại uống nước), viên nang uống khan có thể dính lại ở thực quản gây viêm loét thực quản rất tai hại. Vì vậy, uống thuốc với lượng nước đủ là cần thiết, thậm chí có một số thuốc đòi hỏi phải uống nước thật nhiều (như thuốc chứa dược chất sulfamid) để thuốc được lọc, bài tiết nhiều theo nước tiểu không gây đóng sỏi hại thận.
Có thể dùng nước đóng chai nhưng phải là nước tinh khiết chứ không nên dùng nước chứa các chất khoáng (còn gọi nước suối) để uống thuốc, bởi vì chất khoáng như: canxi, natri… có thể tương kỵ gây ảnh hưởng đến thuốc.
*Các loại nước không nên dùng?
Tùy trường hợp, có loại nước hoàn toàn không thích hợp vì nếu uống với thuốc sẽ làm mất tác dụng của thuốc hay gây hại đối với cơ thể, cụ thể như sau:
Sữa: trong sữa có chứa canxi có thể kết hợp với một số kháng sinh (như tetracyclin) tạo thành phức hợp không tan, làm kháng sinh không hấp thu được vào máu để cho tác dụng. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp thuốc nên uống chung với sữa. Như dùng thuốc gây bào bọt dạ dày (aspirin), hay dễ nôn ói (thuốc ngừa thai phải uống hàng ngày dễ gây buồn nôn ở một số phụ nữ), hay cần chất béo để thuốc dễ hấp thu (vitamin A, vitamin D) thì cần uống chung với sữa. Như vậy, để lựa chọn đúng thức uống uống với thuốc nên hỏi bác sĩ hay dược sĩ để được tư vấn.
Cà phê, trà, nước giải khát có ga: trong các loại nước này, đặc biệt nước ngọt, nước tăng lực đều có chứa caffein (là chất kích thích giúp tỉnh táo) sẽ kết hợp với thuốc bổ chứa sắt, tạo thành chất kết tủa không hấp thu được. Ngoài ra, caffein còn làm giảm tác dụng các thuốc được dùng nhằm an thần gây ngủ nếu uống cùng lúc.
Nước ép trái cây: nhiều loại nước ép trái cây hiện nay đã được chứng minh là gây hại nếu uống chung với thuốc. Nước cam, nước táo dùng uống thuốc có thể làm giảm sự hấp thu một số thuốc, do làm chất sinh học ở ruột đảm nhận việc chuyển vận thuốc vào máu không hoạt động được. Nghiêm trọng nhất là nước bưởi chùm (grape-fruit, là loại bưởi dùng nhiều ở phương Tây, nhưng thận trọng cũng nên lưu ý cả nước bưởi trồng ở ta). Khi uống chung với một số thuốc (như thuốc statin trị rối loạn lipid huyết, thuốc atenolol trị tăng huyết áp…) nước bưởi chùm sẽ làm tăng độc tính của thuốc, do ức chế men chuyển hóa thuốc ở gan, làm tăng nồng độ thuốc quá đáng ở trong máu.
Bia rượu: đây là loại thức uống không nên uống chung với thuốc. Rượu làm tăng độc tính hại gan của paracetamol, tăng độc tính hại dạ dày của aspirin, tăng độc tính gây mê của thuốc an thần gây ngủ. Riêng với kháng sinh như: metronidazol, các cephalosporin… nếu uống chung với rượu bia sẽ gây phản ứng antabuse gây vật vã, hạ huyết áp rất khó chịu làm người dùng thuốc cứ tưởng sắp chết đến nơi.
Trong thời gian dùng bất cứ loại thuốc nào, an toàn hơn hết là kiêng hẳn, không nên uống rượu bia.
(Dược sĩ Nguyễn Hữu Đức)
05:33 CH 07/12/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
Sưu tầm
CÁC THUỐC CHỮA TIỂU ĐƯỜNG

Bệnh tiểu đường nguy hiểm, nên gần đây, các tài liệu y khoa khuyên chúng ta mạnh tay với nó hơn trước, dùng thuốc ngay khi định ra bệnh tiểu đường, không chờ một thời gian xem ăn kiêng và vận động có đưa được đường máu xuống lại mức bình thường, nếu không mới dùng thuốc.
Xin nhắc lại một chút, có hai loại tiểu đường: loại 1, thường xảy ra ở người dưới 40 tuổi (loại thiếu chất insulin trong cơ thể), và loại 2, thường xảy ra ở người trên 40 (loại vẫn có insulin trong cơ thể, song insulin không thể tác động, đưa đường từ máu vào trong các tế bào). Chữa trị tiểu đường loại 1, phải dùng thuốc chích chứa chất insulin (nay sắp có thêm thuốc xịt), để thay thế cho insulin thiếu trong cơ thể. Chữa tiểu đường loại 2, có nhiều cách thế hơn: ăn kiêng để xuống cân nếu nặng cân quá, vận động, dùng thuốc uống hoặc thuốc chích. Mọi chữa trị đều nhắm mục đích cố đưa đường máu trở về mức bình thường: giữ đường máu sáng chưa ăn trong khoảng 70-130 mg/dl, trị số đường máu trung bình 3 tháng HbA1C dưới 7 (tuy nhiên, ở các vị cao niên, HbA1C có thể giữ ở mức từ 7 đến 8).
Trong sự chữa trị căn bệnh, chúng ta cũng nên để ý đến yếu tố tài chánh, theo đúng 4 tôn chỉ chữa trị của y khoa: hữu hiệu, ít tác dụng phụ, tiện lợi, tiết kiệm. Nhiều thuốc tiểu đường rất đắt, chúng ta cố chọn thuốc nào vừa tiền, hữu hiệu, ít gây tác dụng phụ và cũng tiện lợi, không phải dùng nhiều lần trong ngày.

Các thuốc chữa tiểu đường loại 2

Các thuốc uống chữa tiểu đường loại 2 tác dụng qua nhiều cơ chế khác nhau: có thuốc thúc tụy tạng tiết thêm insulin (ba nhóm thuốc sulfonylureas, meglitinides, sitagliptin), có thuốc giúp insulin hoạt động hữu hiệu hơn (hai nhóm thuốc biguanides và thiazolidinediones), có thuốc ngăn ruột bớt hấp thu chất đường khi chúng ta ăn (nhóm thuốc alpha-glucosidase inhibitors).
1. Thuốc nhóm biguanides:
Nhóm này có một thuốc metformin (Glucophage), khiến insulin tác dụng mạnh hơn, đưa đường từ máu vào các cơ quan nhiều hơn. Thuốc còn ngăn sự tạo đường máu từ gan (đường trong máu một phần được tạo từ gan). Glucophage cũng làm giảm khẩu vị, giúp xuống cân.
Thuốc nên tránh dùng ở các vị trên 80, người suy thận (có trị số creatinine hơn 1.5 mg/dl ở đàn ông và hơn 1.4 mg/dl ở đàn bà), người bệnh gan, bệnh tim, uống rượu nhiều.
Glucophage có thể làm tiêu chảy. Để tránh phản ứng tiêu chảy do thuốc, ta dùng thuốc từ từ thôi, tăng chầm chậm cho đến khi lên đến lượng ta muốn. Ăn kém ngon, mau no, đầy hơi, buồn nôn là những phản ứng phụ khác của thuốc, hay xảy ra khi ta mới dùng nó, sau sẽ giảm dần, hoặc khi ta giảm bớt lượng thuốc đang dùng.
Thuốc Glucophage không nên uống lúc bụng đói. Lượng tối thiểu của thuốc là 500 mg mỗi ngày, tối đa 2550 mg mỗi ngày.
Thuốc metformin thường được dùng đầu tiên khi bệnh tiểu đường được định ra, vì thuốc hữu hiệu, không làm lên cân, và giá cũng vừa phải.
2. Thuốc thuộc nhóm sulfonylureas:
Thuốc thuộc nhóm sulfonylureas được dùng để chữa tiểu đường gần 40 năm qua. Các thuốc cũ ra đời từ lâu: Diabenese, Orinase, Tolinase, Dymelor; các thuốc mới hơn, được dùng nhiều trong thời gian gần đây: Micronase, Diabeta, Glynase, Glucotrol, Amaryl.
Cơ chế tác dụng chính của thuốc là thúc đẩy tuyến tụy tạng ráng tiết thêm insulin, để cơ thể có thêm insulin đưa đường từ máu vào các tế bào, giúp đường trong máu giảm xuống. Thuốc thuộc nhóm sulfonylureas có thể gây buồn nôn, đầy hơi vùng bụng trên, nóng ngực, lên cân (2-7 cân), làm các trị số của gan tăng cao (liver enzyme elevations).
Đa số người bị tiểu đường loại 2 (khoảng 2/3), khi dùng thuốc sulfonylureas, đường trong máu sẽ xuống. (Với một số vị, ngay từ đầu, thuốc đã không có tác dụng, dùng cũng như không, đường máu cao vẫn hoàn cao). Tiếc thay, ở nhiều người (đến 20%), sau một thời gian dùng thuốc có kết quả tốt, đường máu từ từ lên lại.
Trong sự chữa trị, khi thuốc metformin đã uống đến lượng tối đa song vẫn không hữu hiệu, các bác sĩ thường dùng thêm thuốc thuộc nhóm sulfonylureas.
3. Thuốc thuộc nhóm troglitazones:
Gồm hai thuốc Actos và Anvandia, khá đắt tiền (có thể đến trên 200 đô-la một tháng thuốc).
Thuốc thuộc nhóm troglitazones có tác dụng làm các tế bào bắp thịt và tế bào mỡ của người tiểu đường loại 2 nhạy cảm hơn với insulin, khiến insulin tác dụng mạnh hơn, đưa đường từ máu vào trong các tế bào này khỏe hơn, đánh đúng vào cơ chế “lờn insulin” của tiểu đường loại 2.
Dùng đến hai thuốc metformin và thuốc thuộc nhóm sulfonylureas mà đường vẫn chưa xuống đến mức chúng ta mong muốn, các bác sĩ thêm vào thuốc thuộc nhóm troglitazones (Actos hay Avandia), hoặc chuyển sang thuốc chích insulin (nếu thấy đường còn quá cao, có uống thêm thuốc Actos hay Avandia cũng không ích gì, hoặc vì Actos, Avandia quá đắt, người bệnh không đủ tài chánh để dùng).
4. Thuốc nhóm meglitinides:
Gồm hai thuốc Prandin và Starlix, tác dụng giống các thuốc thuộc nhóm sulfonylureas, có thể dùng để thay cho các thuốc sulfonylureas, trường hợp vị nào không dùng được thuốc sulfonylureas vì nhạy ứng với chất sulfa. Thuốc tác dụng nhanh, uống ngay trước hoặc trong lúc đang dùng bữa ngày 2-4 lần.
Nhóm thuốc này đắt tiền, so với thuốc sulfonylureas cũng không lợi hơn, nên thường ít được dùng.
3. Thuốc nhóm sitagliptin:
Nhóm này có hai thuốc Januvia và Onglyza ra đời thời gian gần đây, tác dụng tương tự các thuốc thuộc nhóm sulfonylureas, làm tăng sự tiết insulin. Thuốc có thể dùng riêng hoặc dùng chung với các thuốc thuộc các nhóm khác.
Hai thuốc này khá đắt tiền, tác dụng cũng nhẹ, nên ít được dùng hơn thuốc metformin và thuốc thuộc nhóm sulfonylureas.
6. Thuốc thuộc nhóm alpha-glucosidase inhibitors:
Gồm hai thuốc Precose và Glyset, hoạt động ngay trong ruột non, ngăn cản những diếu tố (enzymes) có nhiệm vụ phân hóa chất đường (carbohydrates) ta ăn vào. Như vậy, chất đường trong ruột chậm được hấp thụ vào cơ thể, khiến đường ngay sau khi ta ăn không lên cao trong máu.
Thuốc hay gây đầy hơi, tiêu chảy. Thuốc không nên dùng cho người có những xáo trộn đường ruột: viêm ruột (inflam matory bowel disease), tắc ruột bán phần (partial intestinal obstruction), lở ruột già (colonic ulceration), ... Thuốc cũng có thể độc cho gan, trong năm đầu khi mới dùng thuốc, nên thử máu mỗi 3 tháng xem gan có sao không, sau đó lâu lâu cần thử lại.
Hai thuốc Precose và Glyset không làm đường máu xuống quá thấp (hypoglycemia), song nếu cho dùng chung với thuốc thuộc nhóm sulfonylureas, thuốc có thể làm đường máu xuống thấp dưới 70 mg/dl, gây nguy hiểm. Khổ cái, nếu chỉ dùng thuốc sulfonylureas không thôi, khi đường máu xuống thấp quá, ta có thể mau chóng giúp nó lên lại bình thường bằng cách uống ngay nước trái cây (fruit juice) hoặc ăn thức ngọt, nhưng khi dùng thêm thuốc Precose hoặc Glyset, ta không chữa biến chứng đường xuống thấp bằng những cách giản dị này được. Mà phải dùng những viên thuốc hoặc nước chứa chất đường gọi là “glucose tablets”, “glucose liquid”, hoặc chích một thuốc có tên “glucagon”, để đưa đường máu lên lại mức bình thường.
6. Thuốc chích insulin:
Về lâu về dài, ở nhiều người tiểu đường loại 2 dùng thuốc uống, căn bệnh đâm lờn thuốc. Thuốc uống hết mức song đường máu vẫn cao, không chịu xuống, chúng ta dùng đến thuốc chích insulin. Hoặc có vị đường máu cao quá, từ đầu, bác sĩ đã quyết định dùng ngay thuốc chích để nhanh chóng đưa đường máu xuống.
Quyết định sử dụng thuốc chích insulin còn tùy thuộc vào một số yếu tố khác nữa: thuốc uống quá đắt, tuổi tác người bệnh, các triệu chứng đang có, các biến chứng muốn tránh, các bệnh khác đang bị, và tuổi thọ tiên đoán (overall life expectancy).

Các cách chữa phối hợp

Ngày xưa, chữa tiểu đường loại 2, các thuốc thuộc nhóm sulfonylureas (Diabenese, Orinase, Tolinase, Dymelor, Micronase, Diabeta, Glynase, Glucotrol, Amaryl) thường được các bác sĩ đem ra thử trước. Nhưng nay, với những kiến thức mới, việc chữa trị đã được đổi lại, thuốc metformin thường được dùng trước.
Dùng đến lượng tối đa thuốc metformin, đường chưa xuống đến mức mong muốn, ta có thể dùng thêm thuốc thuộc nhóm sulfonylureas, hoặc thuốc thuộc nhóm troglitazones đắt hơn (Actos hay Avandia), nếu vì lý do nào đó, không thể dùng được thuốc sulfonylureas.
Dùng đến hai thuốc metformin và thuốc thuộc nhóm sulfonylureas mà đường vẫn cao, chúng ta thêm vào thuốc thuộc nhóm troglitazones (Actos hay Avandia), hoặc chuyển sang thuốc chích insulin (nếu thấy đường còn quá cao, có uống thêm thuốc Actos hay Avandia cũng không ích gì, hoặc vì Actos, Avandia quá đắt, chúng ta không đủ tài chánh để dùng).
Các thuốc đắt tiền như Prandin, Starlix, Januvia, Onglyza có khi cũng phải dùng đến, nhưng nếu vì chúng quá đắt, bảo hiểm, Medicare không cho, chúng ta dùng thuốc chích insulin lợi hơn.
Một cách phối hợp khác: dùng thuốc uống, kèm thuốc chích insulin ngày một lần.
Dẫu vậy, chung cuộc, nếu đã phối hợp nhiều thuốc uống, hoặc uống ban ngày, chích insulin ban tối, nhưng tiểu đường vẫn cứng đầu, đường máu vẫn cao, thì rồi cũng đành trông nhờ vào thuốc chích insulin vậy. Đôi khi cần dùng đến 100-200 đơn vị insulin mỗi ngày.
Với những thuốc uống mới, cuộc chiến chống tiểu đường của chúng ta đã bớt phần gay go. Khéo léo phối hợp các thuốc uống, sự sử dụng thuốc chích insulin có thể tránh được trong nhiều trường hợp, hoặc số lần chích insulin trong ngày sẽ giảm thiểu.
Mặc cho những quảng cáo trên trời dưới biển, bệnh tiểu đường chưa thể chữa khỏi đâu bạn. Mặt trận chống tiểu đường vẫn chưa yên tĩnh, các khảo cứu vẫn không ngừng tiếp diễn. Hy vọng, vào một ngày đẹp trời, tin vui sẽ đến, các nhà y học sẽ bảo: đã tìm ra thuốc trị tuyệt tiểu đường. Từ giờ đến ngày ấy, bạn đừng tin vào những tiên tri giả khiến bạn tốn tiền vô ích.
05:30 CH 07/12/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
Bạn mua ở Tiệm thuốc bắc là đđược về ngâm. Chúc mẹ của bạn mau hết sau khi dùng khoản 1 tuần.
04:07 CH 01/12/2012
Cây thuốc chữa bệnh Tiền Đình
Nếu mẹ bạn kg hết đến gặp mình, sư phụ mình điều trị FREE, điều trị kg dùng thuốc. nếu ở TP.HCM
01:36 CH 29/11/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
Bạn cứ ra mua về ngâm dùng thiệt đi. mình đảm bảo rất hiệu quả.
01:32 CH 29/11/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
Đã dùng và có kết quả. nhứt và đau đi đứng kg được khi dùng làm việc lại bình thường. Cách ngâm khoản 3 tuần là dùng được. nhớ ăn no nha. chúc mọi người mau chóng bình phục.
08:47 SA 27/11/2012
Toa thuốc điều trị nhứt,phong thấp và nâng cao...
Nhở mod xóa dùm bài trên dùm, lý do sai chính tả tiêu đề và trình bày còn lung tung. Thanks
TOA THUỐC GIA TRUYỀN – TỐT CHO NHỨT MỎI PHONG THÁP NÂNG CAO TUỔI THỌ
TOA THUỐC CÓ 27 VỊ
1. Đỗ Trọng 3 chỉ
2. Xuyên khung 2 chỉ
3. Cương Hoạt 2 chỉ
4. Tần Giao 2 chỉ
5. Sa Sâm 5 chỉ
6. Ngọc Trúc 2 chỉ
7. Cam Thảo 2 chỉ
8. Phòng Phong 2 chỉ
9. Táo Nhơn 5 chỉ
10. Bắc Cao Kỷ 5 chỉ
11. Tục Đoan 2 chỉ
12. Thục Địa 3 chỉ
13. Tiền Hồ 3 chỉ
14. Phục Linh 3 chỉ
15. Trần Bì 2 chỉ
16. Đại Táo 6 chỉ
17. Mộc Hoa 2 chỉ
18. Ngưu Tất 3 chỉ
19. Bạch Thược 3 chỉ
20. Linh Tiên 5 chỉ
21. Nhục Quế 3 chỉ
22. Đại Hồi 3 chỉ
Năm vị trợ lực người già
23. Dương Dâm Hoát 1 lượng
24. Chánh Dương Qui 4 chỉ
25. Song Trực ( Sao) 3 chỉ
26. Đọt Hoạt 3 chỉ
27. Bạch Trực 3 chỉ
DÀNH CHO NGƯỜI KHÔNG UỐNG RƯỢU ĐƯỢC Đường phèn
-Rượu ngâm Pha 3 lit rượu 40o
-Ban đêm trước khi đi ngủ uống 1 muỗng cà phê.
08:31 SA 27/11/2012
m
myductay
Hóng
499Điểm·3Bài viết
Báo cáo