Trong tất cả các thông tin đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng hoóc-môn trong sữa không đáng lo ngại như nhiều tin tức đồn đoán trên mạng xã hội, hàm lượng của chúng quá nhỏ để có thể gây hại đến sức khoẻ. Nếu sữa là thực phẩm có hại thì chắc chắn sữa đã bị đưa vào danh mục cấm, nhưng thực tế việc sử dụng sữa phổ biến ở mọi nơi trên thế giới.
Tuỳ thuộc vấn đề sức khoẻ, những gì chúng ta có thể làm là:
1. Nếu bạn đang ăn một lượng lớn thực phẩm từ sữa dưới dạng thức ăn hàng ngày như: pho mát, sữa chua và các chế phẩm sữa khác, VÀ bạn đang bị các vấn đề liên quan đến hoóc môn (mụn trứng cá, đa nang buồng trứng, đau bụng kinh, viếm tuyến tiền liệt, v.v ...) thì có thể giảm lượng sữa của bạn, loại bỏ nó trong một thời gian ngắn hoặc tìm một chất thay thế vĩnh viễn cho sữa. Có thể uống các loại sữa từ hạt như sữa hạnh nhân, sữa gạo, sữa ngô…
2. Nếu bạn nghi ngờ các thực phẩm từ sữa có thể là nguyên nhân cho một vấn đề sức khoẻ nào đó, hãy làm một bài tự kiểm tra: Loại bỏ tất cả các loại thực phẩm từ sữa trong thời gian 10 đến 14 ngày hoặc cho đến khi các triệu chứng được cải thiện. Sau đó thực hiện "thách thức" bằng cách ăn một lượng lớn thực phẩm sữa. Sau cuộc thử thách này, một lần nữa tránh ăn các thực phẩm từ sữa trong khoảng thời gian từ 4 đến 5 ngày để tìm kiếm bất kỳ triệu chứng xấu hoặc tái phát. Ví dụ, nếu bạn bị mụn trứng cá và việc loại bỏ sữa cải thiện được, nhưng thách thức gây tái phát hoặc tồi tệ hơn, bạn nên giảm hoặc loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng sữa. Nếu không có thay đổi nào, có thể sữa không phải là nguyên nhân.
3. Những ai không có vấn đề về sức khoẻ khi uống sữa, ví dụ dị ứng sữa hoặc không dung nạp lactose, thì vẫn có thể uống sữa bình thường. Sữa là nguồn dinh dưỡng rất tốt và có hàng trăm nghiên cứu chứng minh lợi ích của sữa, đặc biệt là người già và trẻ nhỏ. Người dân châu Âu uống sữa và các chế phẩm sữa từ hàng trăm năm và họ rất cao lớn khoẻ mạnh.
4. Với trẻ em, sữa mẹ vẫn là an toàn và phù hợp nhất, trẻ sơ sinh cần được cho bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, trường hợp không có sữa mẹ thì vẫn có thể sử dụng sữa bột công thức dành cho trẻ em. Với trẻ lớn hơn, chỉ nên coi sữa là một trong những thực phẩm bổ sung, không uống quá nhiều sữa (mức khuyến nghị là 500ml/ngày - theo nghiên cứu đăng trên trang Time.com), không uống sữa thay nước. "
Đây là câu trả lời của Trung Tâm Quốc Gia Nghiên cứu Ung Thư UK:
Dùng hormon tăng trưởng bò tiêm vào bò sẽ tăng tiết sữa 15%, nhưng đó là hormone tăng trưởng bò (BST). Ở người cũng có hormone này gọi là HST. Hormone của bò không thể tiếp nhận thụ thể liên quan đến hormone của người. Ở Anh và Châu Âu (trừ Mỹ) đã cấm sử dụng hormone này trên động vật nuôi vì bảo vệ sức khỏe động vật, chứ không có cảnh báo liên quan đến phát triển ung thư. Việc đem sản phẩm ra cho người, cơ quan kiểm định đã quản lý lượng tiết hormone nằm trong danh mục cho phép và được chứng minh là an toàn.
IGF-1 thì cả người và bò đều tiết vào sữa với 1 nồng độ khác nhau. IGF-1 được tạo ra trong cơ thể người cao hơn so với lượng IGF-1 trong 1 hộp sữa tươi. Hiện tại, nghiên cứu cho thấy việc hiện diện IGF-1 cao và lâu dài liên quan đến phát triển ung thư vú, ruột và tuyến tiền liệt. Nhưng bằng chứng về việc dư IGF-1 từ việc uống sữa là chưa có thông tin. Anh và Châu Âu không sử dụng hormon này trong động vật nuôi, nhưng Mỹ thì có.
Đến nay, các vấn đề sức khỏe khác về béo phì, đái tháo đường dậy thì sớm và tim mạch là vẫn chưa đủ bằng chứng thuyết phục để nói liên quan đến sữa ở những bé có cân nặng và sức khỏe bình thường. Nhưng vẫn lưu ý rằng các bé thừa cân béo phì thì nên tư vấn chuyên gia dinh dưỡng để giam các nguy cơ trên.
LỜI KHUYÊN CỦA CHUYÊN GIA DINH DƯỠNG: Cha mẹ nên thay đổi suy nghĩ về sữa để sáng suốt quyết định: Sau 2 tuổi, cha mẹ nên hiểu sữa chỉ là một phần dinh dưỡng, sữa ngày nay chúng ta nên hiểu chỉ là 1 nguồn cung cấp canxi, chất béo, kali và đạm. Không nên hiểu sữa là nguồn duy nhất cho canxi, cho tăng chiều cao. Do đó, cha mẹ có thể sử dụng đa dạng nguồn chứa các chất dinh dưỡng trên nếu không muốn cho bé uống sữa.
Khi chọn sữa, tôi luôn khuyên cha mẹ chọn những công ty lớn và uy tín. Ở Vn, có nhiều công ty sữa lớn và đã xuất khẩu sang nhiều quốc gia Châu Âu. Do đó, các bạn nên yên tâm nếu nồng độ các hormone tăng trưởng và IGF-1 vượt tiêu chuẩn sẽ không thể xuất khẩu.
Nếu bạn chọn mua sữa ngoại, vẫn tiếp lo lắng về hormone tăng trưởng thì chỉ nên chọn dòng sản phẩm của Anh hoặc Châu Âu.
Và điều cuối cùng tôi vẫn luôn khuyên cha mẹ: có một nguồn sữa bạn không phải suy nghĩ sạch hay bẩn, không phải suy nghĩ có ảnh hưởng sức khỏe bé hay không, có đủ chất dinh dưỡng cho bé không, không phải suy nghĩ hôm nay tiết kiệm được bao nhiêu để mua sữa cho con. Đó là sữa mẹ. Tại sao không phải là sữa mẹ chứ ! Hãy cho bé bú sữa mẹ nếu bạn vẫn tin rằng chỉ có bạn cho bé tốt nhất.
Notes: Cancer Research UK (2016) Can the hormones in milk affect breast cancer?
Tara C. Smith (2012) Growth hormones in milk: myth/fact ============================================ ========================================================== Sữa và hormone tăng trưởng https://www.facebook.com/drnguyenvtuan/posts/296331730814151 Một số người tỏ ra lo ngại là trong sữa bò có hàm lượng hormone tăng trưởng (growth hormones). Nhưng có lẽ do họ đọc những thông tin trên mạng từ những website không vì mục đích khoa học và sức khỏe cộng đồng, nên mới lo ngại như thế. Trong thực tế thì chẳng có gì phải lo ngại về hormone tăng trưởng, vì nhiều thanh thiếu niên Việt Nam đang cần chúng. Ít người biết rằng ở Việt Nam hiện đang có 36% trẻ em còi cọc, gần 20% là thiếu cân do thiếu dinh dưỡng (1). Những con số này cho thấy rõ ràng rằng Việt Nam vẫn là nước nghèo và thiếu ăn. Những người này chủ yếu là sống ở vùng quê, nhưng cũng có một số sống ở thành thị nhưng vẫn bị còi cọc do nghèo và thiếu ăn. Những trẻ em còi cọc và thiếu cân là do thiếu hormone tăng trưởng. Thật vậy, IGF-1 (một hormone tăng trưởng) được xem là một chỉ số, một marker về còi cọc. Phần lớn hàm lượng IGF-1 là tiết ra từ gan, và được vận chuyển đến các mô khác để đóng vai trò của một hormone nội tiết. Một số thực phẩm chúng ta ăn uống có thể giúp tăng IGF-1, như protein trong sữa, cá, và gà. Trẻ em thiếu IGF1 là có nguy cơ còi cọc và chết sớm, nhưng trẻ em có quá nhiều IGF1 thì có nguy cơ ung thư khi về già. Riêng sữa thì gần đây ở các nước phương Tây có vài nhóm ăn chay cho rằng thiếu niên uống sữa có nồng độ IGF-1 tăng. Nhưng họ không có chứng cứ khoa học nào cả, mà chỉ suy luận rằng bò được nuôi với một số thực phẩm kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, nghiên cứu trên người cho thấy những người uống sữa bò có nồng độ IGF-1 trong máu cao hơn người không uống sữa bò khoảng 10% (2). Nhưng người uống sữa đậu nành cũng có nồng độ IGF-1 tăng so với người không uống sữa. Do đó, sự gia tăng IGF-1 không phải là do sữa bò, mà có thể do các protein, chất khoáng hay các yếu tố khác liên quan đến rBGH. FDA (Cục quản lí thực phẩm và dược phẩm Hoa Kì) khuyến cáo rằng sữa bò là hoàn toàn an toàn (2). Một nhóm chuyên gia cũng đi đến kết luận tương tự, rằng sữa bò và sản phẩm làm từ sữa có tác động tích cực đến sức khỏe, nhưng cũng có thể có vài tác động tiêu cực nhưng không đe dọa đến sức khỏe. Tính chung, họ vẫn khuyến cáo dùng sữa và các sản phẩm từ sữa để cải thiện sức khỏe (3). Thật ra, ở các nước phương Tây thì sữa được dùng hàng ngày cho hầu hết thực phẩm, từ nấu nướng đến pha cà phê. Trong tình trạng nhiễu thông tin, chúng ta phải dựa vào khoa học, chứ không nên dựa vào những lời đồn đại chẳng có chứng cứ. Những website mà nhìn vào thấy toàn những từ cảm tính là không đáng tin cậy. Thông tin khoa học có nhiều loại, và cũng có khi "thượng vàng hạ cám", nên cần phải sàng lọc. Để sàng lọc và diễn giải thông tin khoa học cần phải có người am hiểu vấn đề. Chỉ có những thông tin được công bố trên các tập san y khoa có uy tín hay các hiệp hội chính thống và từ các nhóm nghiên cứu danh tiếng thì mới đáng trích dẫn, và tôi cố gắng cung cấp cho các bạn những thông tin như thế. == (1) http://siteresources.worldbank.org/…/281846-127…/Vietnam.pdf (2) https://www.cancer.org/…/recombinant-bovine-growth-hormone.… (3) http://onlinelibrary.wiley.com/…/10.11…/1541-4337.12011/full
"CHUYÊN GIA" có thật sự là chuyên gia??? 24 Tháng 5 2014 lúc 0:13 Nói luôn để ai đọc note khỏi phải đi giải thích lại giùm mình rồi lại bôi 1 ý thành 10 ý mất cái công mình viết bài: note này mình sẽ nói về nhân vật đang tự gọi mình là "chuyên gia tư vấn sữa mẹ quốc tế lấy kiến thức sm và ncsm cập nhật nhất theo WHO, UNICEF, WABA, ABA, LLLLI, IFC". Mục đích của note, thứ nhất là để show rõ rằng những bằng cấp đó ko đầy đủ, chưa chính thống. Thứ hai cũng là để phần nào cung cấp thêm thông tin để các mẹ đang nuôi con bằng sữa mẹ và có kiến thức chuyên môn y khoa có thể xem xét và cân nhắc để trở thành "lactation consultant" - Tư vấn viên về sữa mẹ (chứ cũng chưa đạt đến mức Chuyên gia - expert đc đâu à nha ~) Bắt nguồn từ bài viết này: https://www.facebook.com/groups/betibuti/permalink/493204744115043/mà mình xin tóm tắt lại 1 phần nội dung ở đây như sau: "Chỉ có Hội Sữa Mẹ có chuyên gia tư vấn sữa mẹ quốc tế lấy kiến thức sm và ncsm cập nhật nhất theo WHO, UNICEF, WABA, ABA, LLLLI, IFC cung cấp cho cộng đồng, tuyệt đối k phải kiến thức lượm lặt trên báo mạng." Mình đã tìm lại và thấy được bằng cấp mà "chuyên gia tư vấn sữa mẹ quốc tế" có là bằng cấp này: Theo như "chuyên gia" nói thì đó là "10 Chứng chỉ Tư Vấn Sữa Mẹ Chuyên nghiệp + 4 Chứng chỉ Hỗ trợ của Viện Sữa Mẹ Thế Giới (International Institute of Human Lactation Inc.), đảm bảo các hướng dẫn và tư vấn của BetiButi có đầy đủ cơ sở khoa học, thực tiển và chuyên nghiệp." Link tham khảo: https://www.facebook.com/BeTiBuTi/posts/586624571376369:0. Không phải mỗi mình mình, mà bất cứ mẹ nào cũng chỉ cần dùng google để tìm kiếm, sẽ biết được nội dung của khóa học này là gì ở trang https://www.health-e-learning.com/courses/breasted. Đây là nguyên văn "The aim of this program is to provide students with a comprehensive direction of study that will prepare them for the International Board of Lactation Consultant Examiners' (IBLCE) examination,..." Mà lược dịch ra là " Mục tiêu của khóa học này là hướng dẫn những hướng đi dễ hiểu ĐỂ CHUẨN BỊ CHO KỲ THI LẤY CHỨNG CHỈ TƯ VẤN VIÊN SỮA MẸ QUỐC TẾ..." Và rằng "The BreastEd series meets and exceeds the lactation-specific education prerequisite for those students preparing for the IBLCE examination to become a Lactation Consultant." Lược dịch "các khóa học online này đáp ứng và vượt các điều kiện về học vấn cho các thí sinh đang chuẩn bị cho kỳ thi của IBLCE để trở thành một Tư vấn viên sữa mẹ." Tức là sao? Tức là đây chỉ là khóa học làm nền, VÀ NGƯỜI THAM GIA CÁC KHÓA H ỌC NÀY CHỈ MỚI CÓ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU ĐỂ ĐƯỢC LÀ TƯ VẤN VIÊN SỮA MẸ quốc tế thôi à ~ Và ... 1. Nó không phải và không hề là "chứng chỉ tư vấn sữa mẹ chuyên nghiệp" hay "chứng chỉ hỗ trợ" gì gì như "quảng cáo" của "chuyên gia" cả. 2. Nó ko phải là các chứng chỉ liên hoàn bắt buộc phải có, mà chỉ là các khóa học online nối tiếp nhau, mỗi khóa 1 tháng, để ai thiếu hay yếu hay muốn trau dồi mục nào sẽ học mục đó. 3. Nội dung các khóa học đó CHỈ ĐƠN THUẦN LÀ TẬP TRUNG VÀO NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ 100%, không hề có các kiến thức y khoa thường thức sơ đẳng cơ bản như các BS phải được học ở trường. Vì thế nó ko thể giúp ng tham gia các khóa học này có thể tư vấn những phương cách ảnh hưởng tới các vấn đề sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh được. Để trở thành một Tư vấn viên về sữa mẹ, thật sự là rất gian nan ngay với cả những người có kiến thức chuyên môn y khoa. Vì sao? Đây là một yêu cầu bắt buộc để có thể tham dự kỳ thi trở thành Tư vấn viên sữa mẹ, hay nói cách khác là trở thành thành viên của Hội Đồng Tư vấn Sữa mẹ Quốc Tế (IBCLC) Đây là một chia sẻ của người đã là Tư vấn viên sữa mẹ về các khóa học y khoa cần phải có: " There are three different pathways to become an IBCLC. Pathway 1 is based on clinical experience, pathway 2 is education, and pathway 3 is similar to an apprenticeship. They all have one thing in common though. The educational requirements are the same no matter which pathway you choose. There are 14 core courses that must be completed. The following 8 college (for credit) courses are required:
Biology Human Anatomy Human Physiology Infant and Child Growth and Development Introduction to Clinical Research Nutrition Psychology or Counseling Skills or Communication Skills Sociology or Cultural Sensitivity or Cultural Anthropology"
Nguồn: http://www.taylorbirthservices.com/2013/05/06/so-you-want-to-be-an-ibclc/ hoặc http://iblce.org/certify/pathways/ Lược dịch "Có rất nhiều con đường để trở thành tư vấn viên về sữa mẹ. Cách thức nhất dựa trên những kinh nghiệm y khoa sẵn có (tức là dành cho BS hay y tá, ng có chuyên môn về y học), cách thức thứ 2 là dựa vào học hành, và cách thức thứ 3 thì tương tự như học viên học nghề vậy. Nhưng tất cả đều có một điểm chung. Những kiến thức học thuật yêu cầu phải có là giống nhau cho dù lựa chọn con đường nào. Nó bao gồm 14 khóa học cần phải đc hoàn tất. Trong đó 8 mục là: Sinh học Giải phẫu người Sinh lý học con người Sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ em Giới thiệu về nghiên cứu lâm sàng Dinh dưỡng Tâm lý học hay kỹ năng tư vấn hoặc kỹ năng giao tiếp Xã hội học Ngoài ra còn có thêm 6 khóa học nữa về Hỗ trợ cuộc sống cơ bản,Tài liệu y tế,Thuật ngữ y tế,An toàn lao động và an ninh cho các chuyên gia y tế, Đạo đức nghề nghiệp cho các chuyên gia y tế, v.v... Tóm lại là các khóa học về Y tế. Tại sao phải có những khóa học này? Là vì các Tư vấn viên về sữa mẹ sẽ đến hỗ trợ các bà mẹ tại nhà, thông qua mạng truyền thông hay qua các buổi nói chuyện. Và sẽ rất nhiều bà mẹ, nhất là các bà mẹ trẻ lần đầu có thai và mong muốn nuôi con bú mẹ sẽ nghe theo 100% những tư vấn đó. Để không có kiểu tư vấn "sữa chảy vào tai ko viêm tai" hay "bú mẹ sặc thì ko sao" hay "bú mẹ không cần vệ sinh miệng", và nhất là ko thể tư vấn khơi khơi "Vắt sữa non là ok, là tân tiến, là an toàn". Đây là một vài ví dụ về những tư vấn sai: - Sặc sữa ở em bé không làm sao: - Tư vấn bú mẹ là không cần vệ sinh gì cả: - Tuyên truyền vắt sữa mẹ trước sinh: - và chính vì chưa học về Dinh dưỡng, nên mới có phát biểu "DHA có sẵn trong mô mỡ của cơ thể người!!!" trong khi ai cũng biết rằng DHA chỉ đc tổng hợp từ các chất béo ko no là Omega 3 và Omega 6 mà thôi: Để đạt được tất cả những kiến thức đó, ở VN cần 6 năm học trên ghế nhà trường và 4 năm làm BS nội trú. Tức là phải ít nhất 10 năm, mà cũng chỉ mới là mức "BS" chứ còn chưa dám xưng "chuyên gia", vì ngay cả BS cũng chia ra BS chuyên khoa cấp1, BS chuyên khoa cấp 2 nữa cơ. Chứ ko thể chỉ cần 1 vài khóa học online, hay chỉ tham gia một khóa h ọc 90 giờ với giá 2,5 tr ở Malaysia là có thể tự nhận "chuyên gia" được. Chưa hết, giả dụ ai đó hoặc là có sẵn kiến thức y khoa này, hoặc là bỏ ra 10 năm để học (ở nc ngoài chắc ko lâu hơn nhưng ko thể dưới 1 năm hay mấy tháng đc). Thì sau đó còn cần phải có thời gian tư vấn thực tế. Nếu là BS hay y tá, thì cần 1000 giờ tư vấn về sữa mẹ. Còn nếu là ng chưa có kiến thức y khoa, thì cần 300h làm việc ở 1 phòng khám nào đó. Còn với người học theo kiểu học việc, thì cần 500h đi theo 1 BS hay ng có chuyên môn y khoa làm trong phòng khám để học. Và cuối cùng, sau khi hoàn tất tất cả những gạch đầu dòng trong yc của IBCLC, ccác thí sinh phải tham dự 1 kỳ thi viết có ng coi thi nghiêm ngặt, chấm bài và trả kết quả (mà Kelly - trang Kellymom mà HB đã lược dịch tài liệu là 1 trong số các giám khảo chấm thi). Người có chứng chỉ như vầy: mới được coi là Tư vấn viên về sữa mẹ. Và chứng chỉ này chỉ có hiệu lực trong 5 năm kể từ ngày cấp mà thôi. Tóm lại: 1- Hong Nhat Phuong Le không phải là chuyên gia có bằng cấp của IBCLC. 2- Để trở thành thành viên của IBCLC là một quãng đng gian nan, nhưng hữu ích vì kiến thức đúng đắn thu được là rất lớn. 3 - Sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ là điều tuyệt vời. The end! https://www.facebook.com/notes/nguy%E1%BB%85n-t%C3%BA-anh/chuy%C3%AAn-gia-c%C3%B3-th%E1%BA%ADt-s%E1%BB%B1-l%C3%A0-chuy%C3%AAn-gia/730491083659785/
Ở đâu cũng có anh hùng, ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên. Không phải cái gì mang danh "nước ngoài" thì đều hay ho. Tự sinh tại nhà nhỡ có vấn đề gì thì ai giúp, xử lý thế nào? Nếu liên sinh mà thần thánh đến vậy thì khoa sản ở bệnh viện dẹp hết rồi, cứ như thời xa xưa để chọn lọc tự nhiên làm việc của nó, cần gì bệnh viện với bác sĩ nữa.Trong BV bác sĩ có để nguyên cái bánh nhau trong thau tận 6 ngày như vậy không?
1. "Theo bài viết trên trang Elservier nêu kết quả nghiên cứu của Tạp chí Khoa học Ngành sữa (Journal of Dairy Science - Tạp chí chính thức của Hiệp hội Khoa học Ngành sữa Mỹ), thì khi thử nghiệm trên chuột, cho dù với nồng độ estrogen cao hơn 100 lần nồng độ ở sữa bò, mức hoóc-môn trong máu và các cơ quan sinh sản không hề bị ảnh hưởng. "
Consumption of Natural Estrogens in Cow’s Milk Does Not Affect Blood Levels or Reproductive Health
https://www.elsevier.com/about/press-releases/research-and-journals/consumption-of-natural-estrogens-in-cows-milk-does-not-affect-blood-levels-or-reproductive-health
“Our results suggest that estrogens in milk, even when derived from cows in the third trimester of pregnancy, do not pose a risk to reproductive health,” concluded Dr. Majdic. “Even estrogens at concentrations 100 times higher than usually found in native milk did not cause any physiological effects in the present study.” This is indicative that naturally occurring hormones in milk are found in far too low concentrations to exert any biological effect on consumers.
2. "Trang ScienceDrivenNutrition có bài viết khá dài dẫn nguồn từ nhiều nghiên cứu khoa học khác nhau, khẳng định rằng sữa và hoóc-môn tăng trưởng có trong sữa không đáng sợ như vậy.Theo bài viết, mặc dù sữa bò thực sự có chứa một chút hoóc-môn tăng trưởng, nhưng nó không quan trọng: hoóc-môn tăng trưởng từ bò không có hoạt tính sinh học ở người."
https://bacsinoitru.vn/content/sua-lai-cho-ro-uong-sua-khong-gay-loang-xuong-1700.html
21-02-16, 00:08
Loại bỏ ty thể khỏi tế bào có thể đảo ngược quá trình lão hóa
Cuộc chiến ung thư: Ung thư và sự kì thị
Sữa không gây loãng xương như tin đồn nhưng uống quá nhiều sữa sẽ không tốt cho sức khoẻ. Có nhiều nguồn dinh dưỡng giàu Calcium chứ không riêng sữa bò. Nếu dùng sữa thì nên chọn hàm lượng chất béo thấp. Viện sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ khuyến cáo các bước sau để cải thiện sức khoẻ xương (10): 1) chế độ ăn cân bằng giàu Calcium và Vitamin D bao gồm sữa có hàm lượng chất béo thấp và thức uống bổ sung Calcium; 2)hoạt động thế chất như tạp thể dục; 3) sống lành mạnh không hút thuốc; 4) khám bác sĩ thường xuyên.
Sửa lại cho rõ: Uống sữa không gây loãng xươngBác sĩ Huynh Wynn Tran, MD
bswynntran@vietmd.net
Tổ chức Y khoa VietMD.net, USA
Cách đây hai tuần, trên Vietnamnet có đăng bài "Bác sĩ Harvard: Muốn không bị loãng xương, hãy ngừng uống sữa"(1) của một tác giả ẩn danh. Ngay sau bài viết này, có nhiều ý kiến hỏi tôi về tính xác thật của bài viết. Tôi viết bài này để phân tích bài viết nói trên để chỉ ra nhiều điểm thiếu sót và giải thích uống sữa không gây loãng xương.
Chia sẻ với nỗi băn khoăn trên facebook của một bác sĩ về bài viết “Muốn không loãng xương, ngừng uống sữa” được đăng tải trên báo Vietnamnet. Ảnh chụp màn hình
Điểm thiếu sót đầu tiên cùa bài này là tôi không thể tìm ra vị tác giả. Tôi có liên lạc nơi đăng bài nhưng không thể tỉm ra tác giả. Tôi có viết trên Vietnamnet và VietMD ít lâu rằng một trong những cách đơn giản để kiểm định bài viết về sức khoẻ là xem tác giả là ai, có tên tuổi, bằng hành nghề rõ ràng không. Việc kiếm không ra tác giả khiến tôi vất vả tìm nguồn bài viết tiếng Anh.
Không tìm ra được tác giả, tôi tìm nguồn dựa trên các từ khoá và tên bác sĩ trong bài. Tôi tìm trên mạng và đoán là vị tác giả ẩn danh này đã tích cóp và dịch từ nhiều nguồn khác nhau. Bài thứ nhất là bài "Bạn có cần sữa không?” (Do you need milk?) của bác sĩ David Lugwid và Walter Willett(2). Trong bài này, hai bác sĩ cho ý kiến rằng sữa chỉ là một lựa chọn trong chế độ dinh dưỡng và chúng ta không bắt buộc phải uống sữa để bảo vệ xương. Hai vị bác sĩ này cũng nói rất rõ là "Sữa không liên quan gì đến loãng xương cả" (Câu hỏi số 3: Đúng hay sai sữa gây loãng xương). Quan trong nhất là họ không hề nói sữa gây loãng xương. Điều này rất bình thường vì sữa và loãng xương là một chủ để rất phức tạp, nên không một bác sĩ nào dám mạnh miệng tuyên bố như vậy.
Bài thứ hai vị tác giả ẩn danh này dịch có lẽ là bài "Calcium và sữa: Cái gì tốt nhất cho xương và sức khoẻ bạn?” (Calcium and Milk: What's best for your bones and health?)từ trang của trường Y tế Công Cộng Harvard (3) . Bài này nói rằng Calcium cần thiết cho sức khoẻ của xương. Bảo vệ loãng xương cần nhiều bước bao gồm tập thể dục, dung nạp Calcium và Vitamin D, và có chế độ ăn uống khoẻ mạnh. Bài này cũng nhắc đến một số điểm như sữa bò có thể không phải là nguồn Calcium tốt nhất do mọi người, và quan trọng hơn là sữa bò có thể tăng rủi ro ung thư tuyết tiền liệt và ung thư buồn trứng. Bài viết này không hề nói rằng sữa có thể gây ưng thư mà là tăng rủi ro ung thư nhưng vị tác giả ẩn danh đã khẳng định là sữa có thể gây ưng thư.
Ý kiến sữa gây loãng xương có lẽ là cảm hứng khi vị tác giả này dịch từ bài "Giải mã về thần thoại sữa: Vì sao sữa có hại cho xương của bạn?” (Debunking the milk myth: Why milk is bad for your bone?) (4). Trong bài này, tác giả lý giải rằng trong sữa có sản phẩm tạo ra acid hoá và Calcium là một chất trung hoà acid. Khi uống sữa vào, sữa sẽ làm Calcium mất đi trong xương do phải cân bằng với acid hoá, dẫn đến loãng xương. Việc acid hóa được đo bằng độ pH trong nước tiểu. Tuy nhiên, Fenton và các cộng sự năm 2011 cho thấy không có bất kỳ bằng chứng khoa học nào hỗ trợ lý giải này (5). Nói kỹ hơn, Fenton giải thích rằng việc đo pH nước tiểu không phản ánh được cơ thể bị acid hoá. Nghiên cứu của Fenton đóng dấu chấm hết cho lý thuyết Acid-Base cân bằng và sữa gây loãng xương. Tuy nhiên, lý thuyết Acid-Base này cũng khiến các nhà khoa học cẩn thận hơn trong việc khuyết khích uống sữa như nguồn cung cấp Calcium. Thay vào đó, họ khuyên uống sữa có hàm lượng chất béo thấp và dùng nhiều nguồn dinh dưỡng để cung cấp Calcium. Cuối củng, hình ảnh chú bò với nhiều trụ sinh đươc lấy từ bài báo thuốc trụ sinh tìm thấy trong bò sữa Idaho (6). Bài này chỉ nói rằng tìm trụ sinh và các thuốc khác dùng trong nuôi bò sữa có thể tồn đọng trong sữa. FDA đã vào cuộc trong vụ này. Nói tóm lại, vị tác giả ẩn danh đã trích dịch nhiều bài khác nhau, dùng các từ gây giật tin như bác sĩ, Harvard, và cuối cùng tạo sự ngộ nhận về sữa rằng gây loãng xương. Thật ra, sữa và loãng xương là một chủ đề phức tạp và gây rất nhiều tranh luận. Cả bên ủng hộ lẫn bên chống đều đưa ra nhiều nguồn thông tin khác nhau. Nhưng hiện tại, các bằng chứng khoa học cho thấy Calcium và Vitamin D là cần thiết cho sức khoẻ của xương và Sữa chỉ là một trong những nguồn cung cấp Calcium và Vitamin D dễ dàng. Chúng ta có thể có Calcium từ nhiều nguồn khác nhau (8). Và cuối cùng, các nghiên cứu hiện tại không thấy sữa gây loãng xương.
Nhân đây, tôi cũng muốn bàn một chút về các từ giật tin (dạng như bác sĩ, tiến sĩ, Harvard). Trong y khoa, các ý kiến từ chuyên viên (BS, GS, TS) được xem là thấp nhất về mặt bằng chứng (7). Cho dù các vị bác sĩ Harvard góp ý thì chỉ là ý kiến của cá nhân. Trong khoa hoc và đánh giả bài viết, tên tuổi trường là yếu tố sau cùng, thậm chí là không hề có kí lô nào. Chất lượng nghiên cứu mới là quyết định chính. Người Việt Nam thường hay dễ bị những tên tuổi lớn thu hút và thường không kiểm định lại chất lường bài viết. Vậy nếu uống sữa nhiều có thật sự tốt? Không hẳn là vậy. Một nghiên cứu khác năm 2014 tại Thuỵ Điển (9) cho thấy nếu uống nhiều hơn 3 ly sữa một ngày có thể tăng rủi ro về bệnh tim mạch, ưng thu, và tử vong. Nghiên cứu này cũng bị chỉ trích vì không đủ bằng chứng thuyết phục nhưng rõ ràng uống quá nhiều sữa là không tốt.
Tóm lại, sữa không gây loãng xương như tin đồn nhưng uống quá nhiều sữa sẽ không tốt cho sức khoẻ. Có nhiều nguồn dinh dưỡng giàu Calcium chứ không riêng sữa bò. Nếu dùng sữa thì nên chọn hàm lượng chất béo thấp. Viện sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ khuyến cáo các bước sau để cải thiện sức khoẻ xương (10): 1) chế độ ăn cân bằng giàu Calcium và Vitamin D bao gồm sữa có hàm lượng chất béo thấp và thức uống bổ sung Calcium; 2) hoạt động thế chất như tạp thể dục; 3) sống lành mạnh không hút thuốc; 4) khám bác sĩ thường xuyên.
Tài liệu tham khảo
1. http://vietnamnet.vn/vn/suc-khoe/287905/bs-harvard-muon-khong-loang-xuong-ngung-uong-sua.html (link đã gỡ sau khi nhận được góp ý)
2. https://experiencelife.com/article/do-you-need-milk/
3. http://www.hsph.harvard.edu/nutritio...um-full-story/
4. http://saveourbones.com/osteoporosis-milk-myth/
5. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/22081694
6. http://www.fromdusktildawn.org.uk/Ne...airy_cows.html
7. http://www.cebm.net/oxford-centre-ev...ce-march-2009/
8. http://www.hsph.harvard.edu/nutritio...lcium-sources/
9. http://www.webmd.com/osteoporosis/ne...-friend-or-foe
10. http://www.niams.nih.gov/Health_Info...Vietnamese.asp
Sữa, calcium, và loãng xương
https://www.facebook.com/drnguyenvtuan/posts/294943224286335
Mối liên hệ giữa sữa, calcium và loãng xương lại trở thành một vấn đề thời sự. Một chị bạn chuyền cho tôi xem một bài báo tiếng Việt nói rằng uống sữa có hại cho xương. Bài báo đó, cũng như bao nhiêu bài báo viết về khoa học ở VN, trích dẫn một cách có chọn lọc từ những bài báo phổ thông ở nước ngoài, và có vài thông tin chưa đầy đủ. Nói một cách ngắn gọn: người Việt chúng ta cần calcium để xây dựng bộ xương chắc, dẻo và khoẻ mạnh.
Vấn đề
“The countries with the highest rates of osteoporosis are the ones where people drink the most milk and have the most calcium in their diets. The connection between calcium consumption and bone health is actually very weak, and the connection between dairy consumption and bone health is almost nonexistent” (1).
Trên đây là một trích đoạn từ một website mệnh danh là "Cứu xương của chúng ta" (saveourbones). Nhưng các bạn chú ý thấy đoạn văn trên vừa mang tính cường điệu, vừa ngụy biện, rất ư là phản khoa học. Câu văn cho rằng mối liên quan giữa tiêu thụ sữa và sức khoẻ của xương gần như không hiện hữu là không đúng và quá "simplistic". Còn câu văn cho rằng những nước nào mà người dân uống sữa nhiều nhất là những nước bị loãng xương cao nhất (hàm ý nói rằng uống sữa nhiều là nguyên nhân của loãng xương) là một nguỵ biện dạng "ecologic fallacy". Thật ra, toàn bộ nội dung của trang web là những thông tin "chống sữa", với những ngôn từ rất cảm tính, có khi hằn học. Do đó, một người đọc bình tĩnh và có suy nghĩ có thể đoán đây là một "thế lực" có agenda đằng sau nhằm xuyên tạc ảnh hưởng của sữa và calcium đến sức khoẻ.
Thật ra, vấn đề không phải là sữa và loãng xương; vấn đề là calcium và loãng xương. Câu hỏi đặt ra là calcium có lợi hay hại cho xương. Đã từ lâu, calcium được xem là một chất khoáng rất có lợi cho xương (sẽ giải thích dưới đây), nhưng vài năm gần đây có một vài công bố khoa học cho rằng calcium chẳng những không có lợi cho xương, mà còn có hại cho tim. Từ những công bố này, báo chí đại chúng diễn giải lại và gây lẫn lộn trong công chúng về lợi ích và tác hại (nếu có) của calcium. Bài này sẽ giải thích tại sao những gì các nước phương Tây đang tranh cãi về calcium chẳng có liên quan gì đến người Việt chúng ta.
Calcium và sức khỏe xương
Sự thật về mối liên hệ giữa sữa, calcium và xương ra sao? Để trả lời câu hỏi này, tôi phải điểm qua vài thông tin rất cơ bản và đặt thông tin trong bối cảnh để thấy tầm quan trọng của calcium đối với bộ xương chúng ta. Tôi sẽ đánh số những đoạn văn để các bạn dễ theo dõi trong khi đề cập đến những thực tế trong phần sau của cái note này.
1. Calcium là một chất khoáng rất cần thiết không chỉ cho xương mà còn cho các cơ phận khác. Chúng ta cần calcium để xây dựng bộ xương lúc còn trẻ và duy trì bộ xương lúc về già. Chúng ta cần calcium để chuyển tải các tín hiệu thần kinh và kiểm soát nhịp đập của tim và cơ bắp. Ngoài ra, cơ thể chúng ta cần calcium để cùng với vitamin D và fibronogen giúp đông máu. Do đó, cơ thể chúng ta mà thiếu calcium là rất nguy hiểm, không chỉ cho xương mà còn cho sự sống còn.
2. Xương chúng ta được cấu thành từ khoáng chất calcium và chất keo (collagen). Khoảng 60% trọng lượng của xương là do calcium, và phần lớn còn lại la collagen và nước. Có hai loại calcium trong xương là calcium phosphate và calcium carbonate. Calcium giúp cho xương chúng ta chắc. Chất keo giúp cho xương dẻo dai.
3. Xương là "ngân hàng" của calcium. Khoảng 99% hàm lượng calcium trong cơ thể chúng ta nằm trong xương và răng. Cũng có thể ví von rằng xương là một "nhà kho" chứa calcium. Còn 1% còn lại là lưu hành trong máu. Chúng ta không thể nào sống sót mà thiếu 1% đó!
4. Nồng độ calcium trong máu dao động rất thấp, chỉ khoảng 8.5 đến 10 mg/dL, nhưng nếu nồng độ này suy giảm chỉ một chút thôi là chúng ta … rất mệt và chết như bỡn. Khi nồng độ calcium trong máu suy giảm một số triệu chứng sẽ xuất hiện như móng tay dễ bị gãy, co giãn cơ bắp bị suy giảm, hay tê tay tê chân, mất trí nhớ, và ảo giác.
5. Vì vai trò quan trọng của calcium, nên tất cả các hiệp hội về nội tiết, loãng xương, khớp, v.v. đều khuyến cáo mỗi ngày chúng ta nên tiếp thu khoảng 1000 mg calcium. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trung bình mỗi ngày người Việt chỉ tiếp thu khoảng 300-400 mg calcium mà thôi, và đó là một liều lượng quá thấp so với nhu cầu cơ thể chúng ta cần.
6. Chúng ta tiếp thu calcium chủ yếu từ hai nguồn: thực phẩm và bổ sung. Thực phẩm giàu chất calcium bao gồm sữa, rau xanh và đậu. Bổ sung calcium có thể mua từ các tiệm dược phẩm. Sữa là thực phẩm có hàm lượng calcium lớn nhất. Tính chung, cứ 200 ml sữa bò thì tương đương với 240 mg calcium; 200 ml yoghurt thì bằng 260 mg calcium; 200 ml sữa đậu nành tương đương với 210 mg calcium.
Calcium phải đi chung với vitamin D
Đó là những thông tin cơ bản, bây giờ tôi sẽ nói thêm về cơ chế và những mối tương tác giữa calcium, vitamin D, và một loại hormone quan trọng có tên là PTH. Khi nồng độ calcium trong máu bị giảm thì cả một hệ thống nội tiết được kích hoạt. Đầu tiên là tuyến cận giáp tiết ra hormone cận giáp (PTH); PTH kích thích tế bào huỷ xương osteoclasts để lấy calcium từ xương và thải ra hệ thống tuần hoàn. Do đó, khi PTH tăng trong máu thì đó là tín hiệu cơ thể cần calcium và mật độ xương đang suy giảm. Điều này cũng có nghĩa là nếu chúng ta không ăn uống đủ calcium và nếu cơ thể không hấp thu tốt thì chúng ta sẽ mất xương.
Hấp thu calcium cần đến một hormone khác: vitamin D. Chúng ta sản xuất vitamin D từ da và thận, nhưng nguồn vitamin D chính vẫn là ánh nắng mặt trời. Khi da chúng ta tiếp xúc ánh nắng mặt trời, vitamin D sẽ qua hai giai đoạn chuyển hóa. Lần thứ nhất là qua gan để thành 25OHD (không active), và lần thứ hai qua thận thành1-25OHD (active). Chính 1-25OHD giúp hấp thu calcium. Tất cả sự tương tác giữa PTH, 1,25D, và tế bào huỷ xương hoạt động nhịp nhàng với nhau và liên tục để đảm bảo cơ thể chúng ta có đủ nồng độ calcium trong máu. Khi hệ thống này bị rối loạn, chúng ta sẽ mắc chứng cường cận giáp (PTH quá cao), hoặc suy cận giáp (PTH quá thấp), hoặc nhuyễn xương (osteomalacia), hoặc loãng xương (osteoporosis).
Những lí giải trên chỉ để nói lên một ý rất quan trọng rằng calcium phải "song hành" cùng vitamin D. Chúng ta có thể ăn uống giàu chất calcium, hay có thể bổ sung calcium, nhưng nếu thiếu vitamin D thì ... cũng như không, vì calcium sẽ bài tiết ra đường nước tiểu hết. Điều này cũng có nghĩa là nếu nghiên cứu khoa học mà chỉ xem xét đến calcium, hay chỉ xem xét vitamin D là sai lầm nghiêm trọng. Trong quá khứ đã có nhiều sai lầm như thế vì người ta (nhà khoa học) quên cái cơ chế sinh học của calcium và vitmin D. Một nghiên cứu khoa học chỉ có ý nghĩa khi xem xét cả hai calcium và vitamin D.
Chứng cứ về calcium và vitamin D đến xương
Trong quá khứ đã có rất nhiều nghiên cứu về tác động của calcium và vitamin D đến sức khỏe xương, nhưng kết quả rất khác nhau. Có nghiên cứu cho thấy calcium và vitamin D có lợi, nhưng cũng có nghiên cứu cho thấy calcium và vitamin D không có liên quan gì đến loãng xương. Lí do cho những khác biệt này thì nhiều, nhưng chủ yếu là do thiết kế nghiên cứu. Nói chung, nghiên cứu quan sát thì không có giá trị khoa học bằng nghiên cứu can thiệp dạng RCT (tức nghiên cứu lâm sàng có đối chứng ngẫu nhiên). Một dạng nghiên cứu khác là phân tích tổng hợp (meta-analysis), tức là tổng hợp tất cả các nghiên cứu RCT để cho ra một kết quả chung, vì mỗi riêng cứu đơn lẻ có thể không đủ cỡ mẫu để kết luận.
Nhưng trong y văn, không phải thông tin nào cũng có giá trị như nhau, mà chúng ta phải biết chọn lọc thông tin. Chỉ có những nghiên cứu công bố trên các tập san chính thống và có impact factor cao mới đáng tin cậy. Đó là những tập san JAMA, BMJ, NEJM, American Journal of Clinical Nutrition, Journal of Bone and Mineral Research, Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, Osteoporosis International, Bone. Còn những tập san có impact factor thấp hay "ngoại đạo" (như Bone Research của Tàu) thì không đáng đọc. Ngoài ra, còn phải xem xét tác giả là ai, xuất phát từ labo nghiên cứu nào trên thế giới. Những phân tích tổng hợp từ Tàu thì phải dè chừng vì họ làm chưa chắc tốt; chỉ có những nhóm nghiên cứu trong "bộ lạc" thì mới đáng quan tâm.
Dựa trên những tiêu chuẩn trên, chúng ta thử điểm qua vài phân tích tổng hợp trên các tập san quan trọng:
(a) Sữa và gãy xương.
Như đề cập trên, sữa là nguồn calcium quan trọng, và được khuyến khích sử dụng hàng ngày ở các nước phương Tây. Các nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu của 6 nghiên cứu đoàn hệ (2). Kết quả cho thấy ở nữ, không có mối liên quan giữa tiêu thụ sữa và nguy cơ gãy cổ xương đùi (tỉ số nguy cơ 0.99; khoảng tin cậy 95% từ 0.96 đến 1.02). Ở nam giới, người uống sữa có nguy cơ gãy cổ xương đùi giảm 9%, nhưng dao động 95% cho thấy sữa có thể giảm nguy cơ 19 đến tăng 1%. Các tác giả kết luận rằng chưa có chứng cứ để kết luận uống sữa làm giảm nguy cơ gãy xương đùi, nhưng ở nam giới thì cần có thêm dữ liệu. Cái khiếm khuyết lớn nhất của nghiên cứu này là không có vitamin D. Và, đây chỉ là những nghiên cứu đoàn hệ, chứ không phải là loại can thiệp RCT.
(b) Calcium và mật độ xương (BMD).
BMD là một chỉ số lâm sàng rất quan trọng cho xương. Người có BMD càng cao thì xương càng chắc. Một phân tích tổng hợp công bố trên BMJ vào năm 2015 (3), tổng hợp 59 công trình nghiên cứu RCT để nhằm trả lời câu hỏi là bổ sung calcium, kể cả uống sữa, có lợi cho mật độ xương hay không. Kết quả cho thấy BMD ở nhóm với bổ sung calcium qua đường thức ăn có BMD cao hơn nhóm chứng từ 0.6 đến 1%. Ngoài ra, các tác giả còn phát hiện bổ sung calcium (qua viên thuốc) tăng BMD 0.7 đến 1.8%.
Điều thú vị là tác giả kết luận rằng tăng calcium qua nguồn thực phẩm chỉ làm tăng một chút xíu BMD và có thể chẳng dẫn đến giảm gãy xương! ("Increasing calcium intake from dietary sources or by taking calcium supplements produces small non-progressive increases in BMD, which are unlikely to lead to a clinically significant reduction in risk of fracture.") Theo tôi, đây là một kết luận sai lầm. Mật độ xương chỉ giảm khoảng 0.5% mỗi năm (ở người cao tuổi), do đó bổ sung calcium làm tăng đến 1% BMD có nghĩa là tương đương với 2 năm trì hoãn giảm BMD. Và, như thế thì ảnh hưởng của bổ sung calcium là tốt, chứ sao lại kết luận là chỉ "small" được. Ngoài ra, tác giả không có số liệu về gãy xương, nên suy luận về gãy xương chỉ là vỏ đoán.
(c) Calcium và gãy xương.
Trong loãng xương, gãy xương là một "outcome" rất quan trọng, quan trọng hơn cả BMD. Nghiên cứu này cũng là một phân tích tổng hợp trên 26 RCT (4), nhằm trả lời câu hỏi bổ sung calcium có giảm nguy cơ gãy xương hay không. Kết quả cho thấy bổ sung calcium giảm nguy cơ gãy xương 11% (hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương dao động trong khoảng 4 đến 19%); giảm nguy cơ gãy xương cột sống 14% (dao động từ 0 đến 26%). Phân tích cho nguy cơ gãy cổ xương đùi thì kết quả không có ý nghĩa thống kê.
Thế nhưng tác giả kết luận rằng calcium qua đường thực phẩm không có liên quan với gãy xương (nguyên văn: "Dietary calcium intake is not associated with risk of fracture, and there is no clinical trial evidence that increasing calcium intake from dietary sources prevents fractures.") Nói cách khác, kết luận này của tác giả không phù hợp với dữ liệu mà họ trình bày trong phần kết quả! Rõ ràng là bổ sung calcium giảm nguy cơ gãy xương 11%, chứ không phải là "not associated".
(d) Calcium và gãy cổ xương đùi.
Đây là một phân tích tổng hợp nhằm trả lời câu hỏi bổ sung calcium có làm giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi? Gãy cổ xương đùi là một outcome quan trọng trong loãng xương, vì bệnh nhân chết sớm sau khi bị gãy xương. Các tác giả phân tích trên 12 nghiên cứu đoàn hệ, 5 RCT (5). Kết quả của các nghiên cứu đoàn hệ cho thấy bổ sung calcium không giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi ở nữ (tỉ số nguy cơ 1.01; 0.97-1.05) hay ở nam giới (tỉ số nguy cơ 0.92; 0.82-1.03). Phân tích trên dữ liệu RCT cho thấy bổ sung calcium giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi 8% nhưng không có ý nghĩa thống kê (tỉ số nguy cơ 0.92; 0.81 - 1.05).
Tuy nhiên, tác giả kết luận rất ư là lệ thuộc vào thống kê. Họ viết bổ sung calcium không làm giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi ("Pooled results from randomized controlled trials show no reduction in hip fracture risk with calcium supplementation, and an increased risk is possible.") Thật ra là có giảm (8%), nhưng mức độ giảm có thể là 20% nhưng cũng có xác suất nhỏ tăng 5%. Nói cách khác, kết quả còn bất định, chưa kết luận có hay không có ảnh hưởng. Phân tích này cũng có vấn đề vì họ không xem xét đến calcium + vitamin D.
(e) Calcium + vitamin D và gãy xương
Như nói trên, nhiều nghiên cứu trong quá khứ phạm phải sai lầm là không xem xét calcium và vitamin D "song hành." Năm ngoái, một nghiên cứu được công bố trên tập san Osteoporosis International (6) nhằm trả lời câu hỏi là bổ sung calcium và vitamin D (viết tắt CaD) có giảm gãy xương hay không. Các tác giả phân tích dữ liệu trên 8 RCT, và kết quả cho thấy bổ sung CaD giảm nguy cơ gãy xương 15% (hiệu quả dao động trong khoảng 2 đến 27%). Ngoài ra, bổ sung CaD cũng giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi 30% (dao động 13 đến 44%).
Những kết quả này cũng nhất quán với kết quả của chúng tôi được công bố năm ngoái trong hội nghị loãng xương quốc tế ở Atlanta. Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng bổ sung CaD không làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch hay đột quị. Tính chung, lợi ích CaD vẫn cao hơn nhiều so với tác hại (nếu có). Nghiên cứu của chúng tôi chưa được chính thức công bố trên một tập san y khoa (đang duyệt) nhưng Tạp chí Endocrinology Advisor có đưa tin và phỏng vấn tôi vào năm ngoái (7).
Tình hình ở Việt Nam
Những gì tôi trình bày trên là chuyện bên Tây và chuyện khoa học. Bây giờ, tôi quay lại tình hình ở Việt Nam. Những nghiên cứu của chúng tôi và đồng nghiệp ngoài Bắc (8-9) cho thấy rất nhiều phụ nữ thiếu vitamin D. Ở Sài Gòn, gần 50% phụ nữ thiếu vitamin D, còn ở Hà Nội tỉ lệ này là 70-80%. Đó là một thực tế rất đáng ngại, vì thiếu vitamin D dẫn đến nhiều hệ quả sức khoẻ.
Nghiên cứu của chúng tôi còn chỉ ra là đa số phụ nữ Việt Nam hấp thu rất ít calcium. Tính trung bình lượng calcium từ thực phẩm ở phụ nữ Việt Nam chỉ dao động trong khoảng 300 đế 500 mg/d (8). Như đề cập trong điểm 5 ở trên, mỗi chúng ta cần phải có calcium 1000 mg/ngày để duy trì xương chắc và bền và cho nhiều hoạt động khác của cơ thể.
Như vậy, tình hình ở Việt Nam là đa số người dân vừa thiếu calcium vừa thiếu vitamin D. Điều này giải thích tại sao tỉ lệ loãng xương ở phụ nữ Việt Nam là gần 30% (ở những người sau mãn kinh) và 10% (ở nam giới trên 50 tuổi). Thực tế này nói lên rằng những quan ngại về sữa, calcium ở Việt Nam là ... rất vô lí. Mình đã thiếu (chứ đâu phải thừa) mà sợ calcium làm hại cho xương?! Báo chí phương Tây tỏ ra quan ngại về bổ sung calcium cũng vô lí, vì bằng chứng khoa học tôi trình bày trên cho thấy bổ sung calcium, qua thực phẩm hay viên thuốc, có hiệu quả giảm nguy cơ loãng xương và giảm nguy cơ gãy xương.
Để tóm tắt cái note này tôi sẽ trình bày theo dạng vấn đáp dưới đây:
Hỏi: Calcium có quan trọng cho xương không?
Đáp: Rất quan trọng, vì calcium là một khoáng chất làm nên xương và giúp cho xương chúng ta chắc.
Hỏi: Tôi có thể "tiếp thu" calcium từ đâu?
Đáp: Từ hai nguồn chính là thực phẩm, đặc biệt là sữa, và bổ sung qua viên thuốc. Nhưng calcium phải đi liền với vitamin D.
Hỏi: Nghe nói bổ sung calcium không có hiệu quả giảm loãng xương mà còn tăng nguy cơ đột quị?
Đáp: Không đúng. Bổ sung calcium và vitamin D tăng mật độ xương (làm cho xương mạnh hơn), giảm nguy cơ gãy xương. Bằng chứng về bổ sung calcium và vitamin D và đột quị là chưa thuyết phục.
======
(1) https://saveourbones.com/osteoporosis-milk-myth/
(2) Bischoff-Ferrari H, et al. Milk Intake and Risk of Hip Fracture in Men and Women: A Meta-Analysis of Prospective Cohort Studies. J Bone Miner Res 2011; 26:833-839.
(3) http://www.bmj.com/content/351/bmj.h4183
(4) http://www.bmj.com/content/351/bmj.h4580
(5) http://ajcn.nutrition.org/content/86/6/1780.long
(6) https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4715837/
(7) http://www.endocrinologyadvisor.com/…/asbmr…/article/523272/
(8) Ho-Pham L, et al. Vitamin D status and parathyroid hormone in a urban population in Vietnam. Osteoporosis International, 2011;22:241–248.
(9) Nguyen HTT, et al. Vitamin D deficiency in northern Vietnam: Prevalence, risk factors and associations with bone mineral density. Bone 2012; 51: 1029–1034.
Sữa có ảnh hưởng đến tuổi có kinh?
https://www.facebook.com/drnguyenvtuan/posts/296331730814151
Lại tiếp nối chủ đề calcium, vitamin D và sữa, cái note này sẽ bàn về lời đồn đại về mối liên quan giữa sữa và tuổi có kinh. Một trong những "huyền thoại" hay được lưu truyền ở Việt Nam là uống sữa làm cho thiếu niên (nữ) có kinh sớm. Tuy nhiên, không có bằng chứng khoa học nào để nói như thế. Bằng chứng khoa học cho thấy uống sữa không có liên quan gì đến tuổi có kinh.
Tuổi có kinh lần đầu và tuổi mãn kinh là hai đặc điểm nhân chủng rất thú vị. Tôi làm quen với hai đặc điểm này từ những năm đầu thập niên 1990s khi nghiên cứu về mối liên quan giữa "ovulation" và nguy cơ ung thư. Theo y văn thì những phụ nữ có kinh lần đầu sớm hoặc có tuổi mãn kinh trễ thì có nguy cơ ung thư tăng, nhưng mức độ tăng rất nhẹ. Do đó, tuổi có kinh nằm trong "radar" của giới nghiên cứu y khoa là có lí do từ ung thư, nhưng trong thực tế thì như tôi nói có lẽ chẳng đáng quan tâm.
Tuổi có kinh lần đầu có xu hướng giảm theo thời gian. Vào thời thế kỉ 19 (cụ thể là năm 1840), tuổi trung bình có kinh lần đầu là 16.5. Hiện nay, tuổi có kinh giảm xuống khoảng 13 tuổi, và không có thay đổi đáng kể trong nửa thế kỉ qua. Nói như thế để thấy rằng sự khác biệt về tuổi có kinh rất thấp giữa các cá nhân.
Nhưng tuổi có kinh có vẻ khác biệt giữa các sắc dân. Ở người da trắng, một nghiên cứu kinh điển trên 2510 thiếu niên tuổi từ 8 - 20 cho thấy tuổi trung bình có kinh lần đầu là 12.43 (1). Khoảng 90% thiếu niên có tuổi có kinh thấp hơn 13.75 tuổi. Nghiên cứu ở Tàu cho thấy tuổi có kinh ở thiếu niên Trung Hoa là 12.63 tuổi (2), tức cao hơn một chút so với thiếu niên Mĩ. Những dữ liệu trên đây cho thấy tuổi có kinh lần đầu giữa thiếu niên Âu Mĩ và Á châu chẳng khác nhau mấy.
Còn ở Việt Nam thì sao? Chúng tôi mới xong giai đoạn I của dự án "Vietnam Osteoporosis Study" (VOS), và trong đó cũng có hỏi về tuổi có kinh lần đầu. Kết quả phân tích trên 2712 phụ nữ cho thấy tuổi trung bình có kinh lần đầu là 12.9 (median 13). Khoảng 99% người cho biết tuổi có kinh lần đầu là từ 9 đến 14 tuổi. Tuy nhiên, đây là dữ liệu dựa trên lời khai của các phụ nữ, mà những người trên 70 thì có thể nhớ không rõ mấy. Nhưng nhìn chung thì kết quả này cũng rất nhất quán với y văn.
Quay trở lại vấn đề uống sữa có làm tăng tuổi có kinh lần đầu. Một nghiên cứu trên 5583 thiếu niên Mĩ tuổi từ 9 đến 14 và được công bố trên tập san chính thống cho thấy tuổi có kinh là khoảng 13, nhưng ở bất cứ lượng tiêu thụ nào, sữa không có liên quan đến tuổi có kinh (3). Phân tích chi tiết cho từng loại sữa cũng chẳng có mối liên quan.
Nhưng một phân tích số liệu của NHANES III thì kết luận rằng uống nhiều sữa có liên quan đến có kinh sớm (4). Nhưng khi đọc kĩ số liệu thì thấy tác giả kết luận không đúng. Trong phần kết quả, tác giả viết "Cox regression yielded no greater risk of early menarche among those who drank milk 'sometimes/varied' or daily vs. never/rarely (HR: 1.20, PTuổi có kinh lần đầu là một đặc điểm nhân chủng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Những yếu tố quan trọng là di truyền, thành phần kinh tế, dinh dưỡng, luyện tập thể dục, trọng lượng cơ thể, v.v. Một số nghiên cứu phát hiện vài gen có liên quan đến tuổi có kinh. Một số gen có liên quan đến xương, như gen SPOCK, RANK, RANKL. Nhiều nghiên cứu cho thấy thiếu niên béo phì thường có tuổi có kinh sớm hơn so với thiếu niên không béo phì (và điều này cũng không khó để hiểu vì liên quan đến hormone). Do đó, nếu chỉ đánh giá một yếu tố như uống sữa mà không xem xét các yếu tố khác thì rất khó kết luận gì được.
Nói tóm lại, chứng cứ khoa học cho thấy uống sữa không có ảnh hưởng đến tuổi có kinh lần đầu. Tuổi có kinh lần đầu ở nữ thiếu niên dao động trong khoảng 12-13, và tuổi trung bình là ~12.5 tuổi.
====
(1) Chumlea WC, et al. Age at menarche and racial comparisons in US girls. Pediatrics. 2003 Jan;111(1):110-3.
(2) http://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download…
(3) Carwile JL, et al. Milk Consumption after Age 9 Years Does Not Predict Age at Menarche. J Nutr. 2015 Aug; 145(8): 1900–1908.
(4) http://journals.plos.org/plosone/article…
(5) Dossus L, et al. Determinants of age at menarche and time to menstrual cycle regularity in the French E3N cohort. Ann Epidemiol. 2012 Oct;22(10):723-30.
Đọc thêm: "Sữa, acid, và sức khỏe"
https://www.facebook.com/drnguyenvtuan/posts/295410680906256
"Sữa, calcium, và loãng xương"
https://www.facebook.com/drnguyenvtuan/posts/294943224286335
Chị chân sắt lại đọc báo vớ vẫn rồi. Dưới đây là bài viết của những giáo sư, bác sĩ có chuyên môn và có dẫn chứng tài liệu tham khảo tin cậy.
MỘT SỐ LO LẮNG VỀ HORMONE TĂNG TRƯỞNG VÀ NHÂN TỐ IGF-1 TRONG SỮA
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1130275940439501&set=a.1130275883772840.1073742028.100003713187043&type=3&theater
Một số cha mẹ lo lắng hormone tăng trưởng và igf-1 dư thừa trong sữa sẽ liên quan đến bệnh ung thư, như ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt.
Đây là câu trả lời của Trung Tâm Quốc Gia Nghiên cứu Ung Thư UK:
Dùng hormon tăng trưởng bò tiêm vào bò sẽ tăng tiết sữa 15%, nhưng đó là hormone tăng trưởng bò (BST). Ở người cũng có hormone này gọi là HST. Hormone của bò không thể tiếp nhận thụ thể liên quan đến hormone của người. Ở Anh và Châu Âu (trừ Mỹ) đã cấm sử dụng hormone này trên động vật nuôi vì bảo vệ sức khỏe động vật, chứ không có cảnh báo liên quan đến phát triển ung thư. Việc đem sản phẩm ra cho người, cơ quan kiểm định đã quản lý lượng tiết hormone nằm trong danh mục cho phép và được chứng minh là an toàn.
IGF-1 thì cả người và bò đều tiết vào sữa với 1 nồng độ khác nhau. IGF-1 được tạo ra trong cơ thể người cao hơn so với lượng IGF-1 trong 1 hộp sữa tươi. Hiện tại, nghiên cứu cho thấy việc hiện diện IGF-1 cao và lâu dài liên quan đến phát triển ung thư vú, ruột và tuyến tiền liệt. Nhưng bằng chứng về việc dư IGF-1 từ việc uống sữa là chưa có thông tin. Anh và Châu Âu không sử dụng hormon này trong động vật nuôi, nhưng Mỹ thì có.
Đến nay, các vấn đề sức khỏe khác về béo phì, đái tháo đường dậy thì sớm và tim mạch là vẫn chưa đủ bằng chứng thuyết phục để nói liên quan đến sữa ở những bé có cân nặng và sức khỏe bình thường. Nhưng vẫn lưu ý rằng các bé thừa cân béo phì thì nên tư vấn chuyên gia dinh dưỡng để giam các nguy cơ trên.
LỜI KHUYÊN CỦA CHUYÊN GIA DINH DƯỠNG:
Cha mẹ nên thay đổi suy nghĩ về sữa để sáng suốt quyết định:
Sau 2 tuổi, cha mẹ nên hiểu sữa chỉ là một phần dinh dưỡng, sữa ngày nay chúng ta nên hiểu chỉ là 1 nguồn cung cấp canxi, chất béo, kali và đạm. Không nên hiểu sữa là nguồn duy nhất cho canxi, cho tăng chiều cao. Do đó, cha mẹ có thể sử dụng đa dạng nguồn chứa các chất dinh dưỡng trên nếu không muốn cho bé uống sữa.
Khi chọn sữa, tôi luôn khuyên cha mẹ chọn những công ty lớn và uy tín. Ở Vn, có nhiều công ty sữa lớn và đã xuất khẩu sang nhiều quốc gia Châu Âu. Do đó, các bạn nên yên tâm nếu nồng độ các hormone tăng trưởng và IGF-1 vượt tiêu chuẩn sẽ không thể xuất khẩu.
Nếu bạn chọn mua sữa ngoại, vẫn tiếp lo lắng về hormone tăng trưởng thì chỉ nên chọn dòng sản phẩm của Anh hoặc Châu Âu.
Và điều cuối cùng tôi vẫn luôn khuyên cha mẹ: có một nguồn sữa bạn không phải suy nghĩ sạch hay bẩn, không phải suy nghĩ có ảnh hưởng sức khỏe bé hay không, có đủ chất dinh dưỡng cho bé không, không phải suy nghĩ hôm nay tiết kiệm được bao nhiêu để mua sữa cho con. Đó là sữa mẹ. Tại sao không phải là sữa mẹ chứ ! Hãy cho bé bú sữa mẹ nếu bạn vẫn tin rằng chỉ có bạn cho bé tốt nhất.
Notes:
Cancer Research UK (2016) Can the hormones in milk affect breast cancer?
Tara C. Smith (2012) Growth hormones in milk: myth/fact
============================================
==========================================================
Sữa và hormone tăng trưởng
https://www.facebook.com/drnguyenvtuan/posts/296331730814151
Một số người tỏ ra lo ngại là trong sữa bò có hàm lượng hormone tăng trưởng (growth hormones). Nhưng có lẽ do họ đọc những thông tin trên mạng từ những website không vì mục đích khoa học và sức khỏe cộng đồng, nên mới lo ngại như thế. Trong thực tế thì chẳng có gì phải lo ngại về hormone tăng trưởng, vì nhiều thanh thiếu niên Việt Nam đang cần chúng.
Ít người biết rằng ở Việt Nam hiện đang có 36% trẻ em còi cọc, gần 20% là thiếu cân do thiếu dinh dưỡng (1). Những con số này cho thấy rõ ràng rằng Việt Nam vẫn là nước nghèo và thiếu ăn. Những người này chủ yếu là sống ở vùng quê, nhưng cũng có một số sống ở thành thị nhưng vẫn bị còi cọc do nghèo và thiếu ăn.
Những trẻ em còi cọc và thiếu cân là do thiếu hormone tăng trưởng. Thật vậy, IGF-1 (một hormone tăng trưởng) được xem là một chỉ số, một marker về còi cọc. Phần lớn hàm lượng IGF-1 là tiết ra từ gan, và được vận chuyển đến các mô khác để đóng vai trò của một hormone nội tiết. Một số thực phẩm chúng ta ăn uống có thể giúp tăng IGF-1, như protein trong sữa, cá, và gà. Trẻ em thiếu IGF1 là có nguy cơ còi cọc và chết sớm, nhưng trẻ em có quá nhiều IGF1 thì có nguy cơ ung thư khi về già.
Riêng sữa thì gần đây ở các nước phương Tây có vài nhóm ăn chay cho rằng thiếu niên uống sữa có nồng độ IGF-1 tăng. Nhưng họ không có chứng cứ khoa học nào cả, mà chỉ suy luận rằng bò được nuôi với một số thực phẩm kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, nghiên cứu trên người cho thấy những người uống sữa bò có nồng độ IGF-1 trong máu cao hơn người không uống sữa bò khoảng 10% (2). Nhưng người uống sữa đậu nành cũng có nồng độ IGF-1 tăng so với người không uống sữa. Do đó, sự gia tăng IGF-1 không phải là do sữa bò, mà có thể do các protein, chất khoáng hay các yếu tố khác liên quan đến rBGH.
FDA (Cục quản lí thực phẩm và dược phẩm Hoa Kì) khuyến cáo rằng sữa bò là hoàn toàn an toàn (2). Một nhóm chuyên gia cũng đi đến kết luận tương tự, rằng sữa bò và sản phẩm làm từ sữa có tác động tích cực đến sức khỏe, nhưng cũng có thể có vài tác động tiêu cực nhưng không đe dọa đến sức khỏe. Tính chung, họ vẫn khuyến cáo dùng sữa và các sản phẩm từ sữa để cải thiện sức khỏe (3). Thật ra, ở các nước phương Tây thì sữa được dùng hàng ngày cho hầu hết thực phẩm, từ nấu nướng đến pha cà phê.
Trong tình trạng nhiễu thông tin, chúng ta phải dựa vào khoa học, chứ không nên dựa vào những lời đồn đại chẳng có chứng cứ. Những website mà nhìn vào thấy toàn những từ cảm tính là không đáng tin cậy. Thông tin khoa học có nhiều loại, và cũng có khi "thượng vàng hạ cám", nên cần phải sàng lọc. Để sàng lọc và diễn giải thông tin khoa học cần phải có người am hiểu vấn đề. Chỉ có những thông tin được công bố trên các tập san y khoa có uy tín hay các hiệp hội chính thống và từ các nhóm nghiên cứu danh tiếng thì mới đáng trích dẫn, và tôi cố gắng cung cấp cho các bạn những thông tin như thế.
==
(1) http://siteresources.worldbank.org/…/281846-127…/Vietnam.pdf
(2) https://www.cancer.org/…/recombinant-bovine-growth-hormone.…
(3) http://onlinelibrary.wiley.com/…/10.11…/1541-4337.12011/full
24 Tháng 5 2014 lúc 0:13
Nói luôn để ai đọc note khỏi phải đi giải thích lại giùm mình rồi lại bôi 1 ý thành 10 ý mất cái công mình viết bài: note này mình sẽ nói về nhân vật đang tự gọi mình là "chuyên gia tư vấn sữa mẹ quốc tế lấy kiến thức sm và ncsm cập nhật nhất theo WHO, UNICEF, WABA, ABA, LLLLI, IFC".
Mục đích của note, thứ nhất là để show rõ rằng những bằng cấp đó ko đầy đủ, chưa chính thống. Thứ hai cũng là để phần nào cung cấp thêm thông tin để các mẹ đang nuôi con bằng sữa mẹ và có kiến thức chuyên môn y khoa có thể xem xét và cân nhắc để trở thành "lactation consultant" - Tư vấn viên về sữa mẹ (chứ cũng chưa đạt đến mức Chuyên gia - expert đc đâu à nha ~)
Bắt nguồn từ bài viết này: https://www.facebook.com/groups/betibuti/permalink/493204744115043/mà mình xin tóm tắt lại 1 phần nội dung ở đây như sau:
"Chỉ có Hội Sữa Mẹ có chuyên gia tư vấn sữa mẹ quốc tế lấy kiến thức sm và ncsm cập nhật nhất theo WHO, UNICEF, WABA, ABA, LLLLI, IFC cung cấp cho cộng đồng, tuyệt đối k phải kiến thức lượm lặt trên báo mạng."
Mình đã tìm lại và thấy được bằng cấp mà "chuyên gia tư vấn sữa mẹ quốc tế" có là bằng cấp này:
Theo như "chuyên gia" nói thì đó là "10 Chứng chỉ Tư Vấn Sữa Mẹ Chuyên nghiệp + 4 Chứng chỉ Hỗ trợ của Viện Sữa Mẹ Thế Giới (International Institute of Human Lactation Inc.), đảm bảo các hướng dẫn và tư vấn của BetiButi có đầy đủ cơ sở khoa học, thực tiển và chuyên nghiệp."
Link tham khảo: https://www.facebook.com/BeTiBuTi/posts/586624571376369:0.
Không phải mỗi mình mình, mà bất cứ mẹ nào cũng chỉ cần dùng google để tìm kiếm, sẽ biết được nội dung của khóa học này là gì ở trang https://www.health-e-learning.com/courses/breasted.
Đây là nguyên văn "The aim of this program is to provide students with a comprehensive direction of study that will prepare them for the International Board of Lactation Consultant Examiners' (IBLCE) examination,..."
Mà lược dịch ra là " Mục tiêu của khóa học này là hướng dẫn những hướng đi dễ hiểu ĐỂ CHUẨN BỊ CHO KỲ THI LẤY CHỨNG CHỈ TƯ VẤN VIÊN SỮA MẸ QUỐC TẾ..."
Và rằng "The BreastEd series meets and exceeds the lactation-specific education prerequisite for those students preparing for the IBLCE examination to become a Lactation Consultant."
Lược dịch "các khóa học online này đáp ứng và vượt các điều kiện về học vấn cho các thí sinh đang chuẩn bị cho kỳ thi của IBLCE để trở thành một Tư vấn viên sữa mẹ."
Tức là sao? Tức là đây chỉ là khóa học làm nền, VÀ NGƯỜI THAM GIA CÁC KHÓA H ỌC NÀY CHỈ MỚI CÓ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU ĐỂ ĐƯỢC LÀ TƯ VẤN VIÊN SỮA MẸ quốc tế thôi à ~
Và ...
1. Nó không phải và không hề là "chứng chỉ tư vấn sữa mẹ chuyên nghiệp" hay "chứng chỉ hỗ trợ" gì gì như "quảng cáo" của "chuyên gia" cả.
2. Nó ko phải là các chứng chỉ liên hoàn bắt buộc phải có, mà chỉ là các khóa học online nối tiếp nhau, mỗi khóa 1 tháng, để ai thiếu hay yếu hay muốn trau dồi mục nào sẽ học mục đó.
3. Nội dung các khóa học đó CHỈ ĐƠN THUẦN LÀ TẬP TRUNG VÀO NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ 100%, không hề có các kiến thức y khoa thường thức sơ đẳng cơ bản như các BS phải được học ở trường. Vì thế nó ko thể giúp ng tham gia các khóa học này có thể tư vấn những phương cách ảnh hưởng tới các vấn đề sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh được.
Để trở thành một Tư vấn viên về sữa mẹ, thật sự là rất gian nan ngay với cả những người có kiến thức chuyên môn y khoa. Vì sao? Đây là một yêu cầu bắt buộc để có thể tham dự kỳ thi trở thành Tư vấn viên sữa mẹ, hay nói cách khác là trở thành thành viên của Hội Đồng Tư vấn Sữa mẹ Quốc Tế (IBCLC)
Đây là một chia sẻ của người đã là Tư vấn viên sữa mẹ về các khóa học y khoa cần phải có:
"
There are three different pathways to become an IBCLC. Pathway 1 is based on clinical experience, pathway 2 is education, and pathway 3 is similar to an apprenticeship. They all have one thing in common though. The educational requirements are the same no matter which pathway you choose. There are 14 core courses that must be completed. The following 8 college (for credit) courses are required:
Biology
Human Anatomy
Human Physiology
Infant and Child Growth and Development
Introduction to Clinical Research
Nutrition
Psychology or Counseling Skills or Communication Skills
Sociology or Cultural Sensitivity or Cultural Anthropology"
Nguồn: http://www.taylorbirthservices.com/2013/05/06/so-you-want-to-be-an-ibclc/ hoặc http://iblce.org/certify/pathways/
Lược dịch "Có rất nhiều con đường để trở thành tư vấn viên về sữa mẹ. Cách thức nhất dựa trên những kinh nghiệm y khoa sẵn có (tức là dành cho BS hay y tá, ng có chuyên môn về y học), cách thức thứ 2 là dựa vào học hành, và cách thức thứ 3 thì tương tự như học viên học nghề vậy. Nhưng tất cả đều có một điểm chung. Những kiến thức học thuật yêu cầu phải có là giống nhau cho dù lựa chọn con đường nào. Nó bao gồm 14 khóa học cần phải đc hoàn tất. Trong đó 8 mục là:
Sinh học
Giải phẫu người
Sinh lý học con người
Sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ em
Giới thiệu về nghiên cứu lâm sàng
Dinh dưỡng
Tâm lý học hay kỹ năng tư vấn hoặc kỹ năng giao tiếp
Xã hội học
Ngoài ra còn có thêm 6 khóa học nữa về Hỗ trợ cuộc sống cơ bản,Tài liệu y tế,Thuật ngữ y tế,An toàn lao động và an ninh cho các chuyên gia y tế, Đạo đức nghề nghiệp cho các chuyên gia y tế, v.v...
Tóm lại là các khóa học về Y tế.
Tại sao phải có những khóa học này? Là vì các Tư vấn viên về sữa mẹ sẽ đến hỗ trợ các bà mẹ tại nhà, thông qua mạng truyền thông hay qua các buổi nói chuyện. Và sẽ rất nhiều bà mẹ, nhất là các bà mẹ trẻ lần đầu có thai và mong muốn nuôi con bú mẹ sẽ nghe theo 100% những tư vấn đó. Để không có kiểu tư vấn "sữa chảy vào tai ko viêm tai" hay "bú mẹ sặc thì ko sao" hay "bú mẹ không cần vệ sinh miệng", và nhất là ko thể tư vấn khơi khơi "Vắt sữa non là ok, là tân tiến, là an toàn".
Đây là một vài ví dụ về những tư vấn sai:
- Sặc sữa ở em bé không làm sao:
- Tư vấn bú mẹ là không cần vệ sinh gì cả:
- Tuyên truyền vắt sữa mẹ trước sinh:
- và chính vì chưa học về Dinh dưỡng, nên mới có phát biểu "DHA có sẵn trong mô mỡ của cơ thể người!!!" trong khi ai cũng biết rằng DHA chỉ đc tổng hợp từ các chất béo ko no là Omega 3 và Omega 6 mà thôi:
Để đạt được tất cả những kiến thức đó, ở VN cần 6 năm học trên ghế nhà trường và 4 năm làm BS nội trú. Tức là phải ít nhất 10 năm, mà cũng chỉ mới là mức "BS" chứ còn chưa dám xưng "chuyên gia", vì ngay cả BS cũng chia ra BS chuyên khoa cấp1, BS chuyên khoa cấp 2 nữa cơ. Chứ ko thể chỉ cần 1 vài khóa học online, hay chỉ tham gia một khóa h ọc 90 giờ với giá 2,5 tr ở Malaysia là có thể tự nhận "chuyên gia" được.
Chưa hết, giả dụ ai đó hoặc là có sẵn kiến thức y khoa này, hoặc là bỏ ra 10 năm để học (ở nc ngoài chắc ko lâu hơn nhưng ko thể dưới 1 năm hay mấy tháng đc). Thì sau đó còn cần phải có thời gian tư vấn thực tế.
Nếu là BS hay y tá, thì cần 1000 giờ tư vấn về sữa mẹ. Còn nếu là ng chưa có kiến thức y khoa, thì cần 300h làm việc ở 1 phòng khám nào đó. Còn với người học theo kiểu học việc, thì cần 500h đi theo 1 BS hay ng có chuyên môn y khoa làm trong phòng khám để học.
Và cuối cùng, sau khi hoàn tất tất cả những gạch đầu dòng trong yc của IBCLC, ccác thí sinh phải tham dự 1 kỳ thi viết có ng coi thi nghiêm ngặt, chấm bài và trả kết quả (mà Kelly - trang Kellymom mà HB đã lược dịch tài liệu là 1 trong số các giám khảo chấm thi).
Người có chứng chỉ như vầy:
mới được coi là Tư vấn viên về sữa mẹ.
Và chứng chỉ này chỉ có hiệu lực trong 5 năm kể từ ngày cấp mà thôi.
Tóm lại:
1- Hong Nhat Phuong Le không phải là chuyên gia có bằng cấp của IBCLC.
2- Để trở thành thành viên của IBCLC là một quãng đng gian nan, nhưng hữu ích vì kiến thức đúng đắn thu được là rất lớn.
3 - Sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ là điều tuyệt vời.
The end!
https://www.facebook.com/notes/nguy%E1%BB%85n-t%C3%BA-anh/chuy%C3%AAn-gia-c%C3%B3-th%E1%BA%ADt-s%E1%BB%B1-l%C3%A0-chuy%C3%AAn-gia/730491083659785/
VỤ SẢN PHỤ CHẾT DO SINH TẠI NHÀ - NGƯỜI TRONG CUỘC NÓI GÌ?
Ở đâu cũng có anh hùng, ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên. Không phải cái gì mang danh "nước ngoài" thì đều hay ho. Tự sinh tại nhà nhỡ có vấn đề gì thì ai giúp, xử lý thế nào? Nếu liên sinh mà thần thánh đến vậy thì khoa sản ở bệnh viện dẹp hết rồi, cứ như thời xa xưa để chọn lọc tự nhiên làm việc của nó, cần gì bệnh viện với bác sĩ nữa.Trong BV bác sĩ có để nguyên cái bánh nhau trong thau tận 6 ngày như vậy không?
LQ hát bolero như đi xe bị xóc ổ gà liên tục vậy, giọng cứng quá không hợp mà dáng điệu lại uốn éo như con rắn, cái miệng do dảnh mắc mệt. Bolero mình chỉ nghe mấy ca sĩ xưa hát thôi, như Phương Dung, Thanh Tuyền, Hương Lan, Như Quỳnh.