“Không phải xấu, mà là cực xấu” Chính thức mà nói, tỷ lệ nợ xấu vừa mới giảm từ 8,8% vào giữa năm ngoái xuống chỉ còn 6% (tức khoảng 179.000 tỷ). Các con số trên đều chưa gần với sự thật. Theo tiết lộ của “một quan chức cấp cao của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)” với nhà báo Hải Lý của Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 260.000 tỷ đồng nợ xấu đã được cơ cấu lại và biến thành nợ tốt nhờ Quyết định 780 do NHNN ban hành hồi giữa năm ngoái. Như vậy trong trường hợp không “cơ cấu lại”, nợ xấu là 439.000 tỷ đồng, chiếm 14,7% tổng dư nợ. “Đây mới là sự thật của nợ xấu!”, Hải Lý viết. Số nợ xấu do Hải Lý tính toán dựa trên hai giả định. Thứ nhất, nợ xấu-biến-thành-tốt nhờ QĐ 780 không tăng kể từ đầu quý IV năm ngoái tới nay. Thứ hai, số nợ xấu theo kết quả giám sát của NHNN đã phản ánh toàn bộ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Tiếc là cả hai giả định ấy đều có vẻ tương đối lạc quan, nói cách khác, số nợ xấu thực sự có thể còn lớn hơn con số 439.000 tỷ đồng kể trên. Tình hình tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam đang ở trong trạng thái rất bi đát và nếu thiếu có sự can thiệp kịp thời, hậu quả là khôn lường. Nhiều người nhắc đến thất nghiệp, đến an sinh xã hội, nhưng cái đáng sợ hơn cả là sự sụp đổ của toàn hệ thống. Riêng thị trường sẽ không cứu được chúng ta Alan Phan không phải người đầu tiên kê đơn thuốc “thị trường” để giải quyết khủng hoảng. Ở trong chính pháo đài của thị trường tự do, Hoa Kỳ, cũng có vài lần người ta “thử thuốc” rồi. Thời Đại suy thoái 1930, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) kê cao gối ngủ với tâm lý rồi một ngày “thị trường sẽ cứu chúng ta”. Chẳng có thị trường nào cả, kinh tế Mỹ vẫn bi đát suốt 10 năm sau đó. Có cái gì đó hơi mỉa mai, nhưng chính Hitler và Thế chiến thứ hai là thứ khiến kinh tế Mỹ hồi phục khi chính phủ Roosevelt buộc phải chi tiêu ồ ạt cho chiến tranh. Sau khi dành gần như cả đời nghiên cứu Đại suy thoái 1930, Chủ tịch FED Ben Bernanke đã kết luận việc ngồi im không can thiệp là sai lầm lớn của FED. Bài học ấy có lẽ nước Mỹ chỉ học một cách ‘ngập ngừng’. Thực vậy, dù hiểu phải ra tay cứu ngân hàng và thực tế đã cứu lần lượt từ Bear Sterns, Fannie Mae tới Freddie Mac (toàn các công ty tư nhân), nhưng Bộ Tài chính Mỹ không chịu nổi sức ép từ Quốc hội và bỏ mặc cho Lehman Brothers sụp đổ. Chứng kiến sự hoảng loạn sau đó, chính giới Mỹ không còn dám để bất kỳ một tổ chức tài chính lớn nào sụp đổ nữa vì chi phí khắc phục hậu quả quá lớn, thà cứu từ đầu còn hơn (dù có phải bỏ tiền thật từ ngân sách để cứu Citigroup và AIG). Bài học Lehman vẫn sống động trong tâm trí giới lãnh đạo Châu Âu, chẳng thế mà ngay cả một nền kinh tế chỉ chiếm có 0,2% GDP khu vực eurozone như CH Síp, họ vẫn không dám “cho phá sản”. Tâm lý người Việt yếu ớt và thông tin trên thị trường Việt nhiễu loạn hơn nhiều so với Mỹ và Châu Âu, nếu ở cương vị ra quyết định, ắt ít ai muốn “thử xem thế nào” trong cái cảnh huống hiện tại. Nếu không để các NHTM “từ từ đối diện với những sai lầm của mình” mà cứ muốn họ “đối diện luôn”, thì người phải “đối diện” tiếp theo sẽ là chính chúng ta. Đòi ngay lập tức tính sổ với giới ngân hàng là mất bình tĩnh và thiếu sáng suốt. Hãy cứu sống chúng, và bắt chúng kéo cày trả nợ cho ta Nếu cứu sống hệ thống tài chính đã là điều bắt buộc phải làm, thì tốt nhất không nên dồn sức để tranh cãi xem có nên làm hay không mà hãy cứ làm đi, và bắt giới tài chính trả một cái giá thật đắt. Trong dài hạn Việt Nam cần một hệ thống quy định mới đủ khả năng đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động vừa an toàn, vừa hiệu quả. Giới tài chính sẽ phản đối kịch liệt một hệ thống như thế, đơn giản vì nó làm họ khó kiếm lời hơn. Nếu sóng yên biển lặng, sức mạnh của nhóm lợi ích ngân hàng là quá lớn và khó ai có thể buộc họ phải cúi đầu. Thế thì tại sao không tận dụng làn sóng giận dữ của công luận hiện nay để buộc họ phải chấp nhận một hệ thống quy định như thế? Hãy đặt lên bàn cả gói cứu trợ lẫn hệ thống quy định mới và nói với giới ngân hàng: “Hoặc anh lấy cả hai, hoặc anh chẳng có gì cả”. Xây dựng một hệ thống quy định như thế mất nhiều công sức và rất tốn thời gian, từ viết ra luật cho tới bảo vệ nó trước đủ chiêu vận động của giới tài chính. Tại sao chúng ta không nuốt luôn con cóc xấu xí mang tên giải cứu ngân hàng, và tập trung vào những việc nhiều ý nghĩa hơn trong dài hạn, thay vì cứ ngắm nghía và tranh luận những chuyện vốn không thể khác. Nuốt luôn con cóc đi, ông Alan à … http://tintuconline.com.vn/vn/batdongsan/20130402111049990/bds-hay-bat-chung-tra-no-cho-ta.html
Về lớp của con mình, có quá nhiều xáo trộn khi đầu năm, cô giáo chủ nhiệm đứng lớp muốn từ bỏ lơp để qua trường khác danh tiếng hơn. Sau khi điều chuyển, thì cô ấy lại làm đơn kiện cô chủ nhiệm mới, xách động một số PH gây gỗ, làm áp lực để cô chủ nhiệm mới phải bỏ lớp. Tuy bị áp lực như vậy nhưng cô giáo CN mới vẫn tận tụy với lớp và cố gắng dạy dỗ các con và do bị tai biến, cô mất cach đây một tháng.
Rất nhiều xáo trộn trong năm lớp 2 của con mình, và cô giáo CN thứ 3 đã nhận lớp trong tình hình lớp hỏng kiến thức, xáo trộn hoàn toàn, và các con rất là tổn thương. Tuy nhiên, vấn đề của bạn Thành này nằm ngoài hết tất cả những vấn đề này.
Bạn ấy có những cử chỉ tăng động từ năm lớp lá, lên lớp 1 đã đánh, cắn bạn, hành hung người khác. Và khi vào lớp 2, thì bạn ấy ngày càng gia tăng những hành vi nguy hiểm:
1/ Đánh vào đầu bạn, lực đánh rất mạnh dù không ai làm gì bạn ấy
2/ Đánh các anh chị lớp lớn, các em lớp 1
3/ Đánh bạn bè trong lớp khi có gì không vừa ý
4/ Đe dọa đòi đánh cô bảo mẫu, phun nước miếng và chửi cô Bảo Mẫu là đồ ăn cướp
5/ Bỏ tiết học, chạy vòng vòng trong lớp, chạy xuống sân, bỏ học
6/ Bẻ tay cô AV, đe dọa và hỗn láo với cô
7/ Ăn cắp đồ đạc tiền bạc của bạn, quăng ném dụng cụ học tập của người khác
8/ Thách thức và khinh thường PH
9/ Ảnh hưởng thói xấu đến rất nhiều bạn.
Đây là những điều thực tế đã xảy ra, và có bằng chứng, nhưng hiện tại mình vẫn chưa biết làm sao để xử lý, và các PH rất bức xúc nhưng vẫn cố kiềm chế.
Các mẹ thông thái xin cho mình lời khuyên, thật sự mình rất buồn và lo mỗi khi con đến trường.
Ông có ví những việc trên cũng khó khăn như “nuốt sống một con cóc xấu xí”, và cách tốt nhất là ‘nhắm mắt bịt mũi mà nuốt ngay vào sáng sớm, để còn thì giờ làm việc khác”. Ông nói thêm: “Ngồi nhìn nó suốt ngày sẽ không làm con cóc đẹp hơn hay ngon hơn.”
Trong con mắt của Alan Phan, có lẽ những thứ như chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở trị giá 30.000 tỷ đồng hay mua lại nợ xấu qua Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) đều là tung tiền cứu nguy cho các “xác chết biết đi” (zombie), và về lâu dài sẽ cản trở sự phát triển của xã hội.
Có lẽ, với Alan, chấp nhận những giải pháp kể trên cũng y hệt như “nuốt sống một con cóc xấu xí”. Thế thì người viết cũng mạn phép khuyên ông, nên “nhắm mắt bịt mũi mà nuốt ngay vào sáng sớm, để còn thì giờ làm việc khác”.
“Không phải xấu, mà là cực xấu”
Chính thức mà nói, tỷ lệ nợ xấu vừa mới giảm từ 8,8% vào giữa năm ngoái xuống chỉ còn 6% (tức khoảng 179.000 tỷ). Các con số trên đều chưa gần với sự thật.
Theo tiết lộ của “một quan chức cấp cao của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)” với nhà báo Hải Lý của Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 260.000 tỷ đồng nợ xấu đã được cơ cấu lại và biến thành nợ tốt nhờ Quyết định 780 do NHNN ban hành hồi giữa năm ngoái.
Như vậy trong trường hợp không “cơ cấu lại”, nợ xấu là 439.000 tỷ đồng, chiếm 14,7% tổng dư nợ. “Đây mới là sự thật của nợ xấu!”, Hải Lý viết.
Số nợ xấu do Hải Lý tính toán dựa trên hai giả định. Thứ nhất, nợ xấu-biến-thành-tốt nhờ QĐ 780 không tăng kể từ đầu quý IV năm ngoái tới nay. Thứ hai, số nợ xấu theo kết quả giám sát của NHNN đã phản ánh toàn bộ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Tiếc là cả hai giả định ấy đều có vẻ tương đối lạc quan, nói cách khác, số nợ xấu thực sự có thể còn lớn hơn con số 439.000 tỷ đồng kể trên.
Tình hình tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam đang ở trong trạng thái rất bi đát và nếu thiếu có sự can thiệp kịp thời, hậu quả là khôn lường. Nhiều người nhắc đến thất nghiệp, đến an sinh xã hội, nhưng cái đáng sợ hơn cả là sự sụp đổ của toàn hệ thống.
Riêng thị trường sẽ không cứu được chúng ta
Alan Phan không phải người đầu tiên kê đơn thuốc “thị trường” để giải quyết khủng hoảng. Ở trong chính pháo đài của thị trường tự do, Hoa Kỳ, cũng có vài lần người ta “thử thuốc” rồi.
Thời Đại suy thoái 1930, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) kê cao gối ngủ với tâm lý rồi một ngày “thị trường sẽ cứu chúng ta”. Chẳng có thị trường nào cả, kinh tế Mỹ vẫn bi đát suốt 10 năm sau đó. Có cái gì đó hơi mỉa mai, nhưng chính Hitler và Thế chiến thứ hai là thứ khiến kinh tế Mỹ hồi phục khi chính phủ Roosevelt buộc phải chi tiêu ồ ạt cho chiến tranh.
Sau khi dành gần như cả đời nghiên cứu Đại suy thoái 1930, Chủ tịch FED Ben Bernanke đã kết luận việc ngồi im không can thiệp là sai lầm lớn của FED.
Bài học ấy có lẽ nước Mỹ chỉ học một cách ‘ngập ngừng’. Thực vậy, dù hiểu phải ra tay cứu ngân hàng và thực tế đã cứu lần lượt từ Bear Sterns, Fannie Mae tới Freddie Mac (toàn các công ty tư nhân), nhưng Bộ Tài chính Mỹ không chịu nổi sức ép từ Quốc hội và bỏ mặc cho Lehman Brothers sụp đổ.
Chứng kiến sự hoảng loạn sau đó, chính giới Mỹ không còn dám để bất kỳ một tổ chức tài chính lớn nào sụp đổ nữa vì chi phí khắc phục hậu quả quá lớn, thà cứu từ đầu còn hơn (dù có phải bỏ tiền thật từ ngân sách để cứu Citigroup và AIG).
Bài học Lehman vẫn sống động trong tâm trí giới lãnh đạo Châu Âu, chẳng thế mà ngay cả một nền kinh tế chỉ chiếm có 0,2% GDP khu vực eurozone như CH Síp, họ vẫn không dám “cho phá sản”.
Tâm lý người Việt yếu ớt và thông tin trên thị trường Việt nhiễu loạn hơn nhiều so với Mỹ và Châu Âu, nếu ở cương vị ra quyết định, ắt ít ai muốn “thử xem thế nào” trong cái cảnh huống hiện tại.
Nếu không để các NHTM “từ từ đối diện với những sai lầm của mình” mà cứ muốn họ “đối diện luôn”, thì người phải “đối diện” tiếp theo sẽ là chính chúng ta. Đòi ngay lập tức tính sổ với giới ngân hàng là mất bình tĩnh và thiếu sáng suốt.
Hãy cứu sống chúng, và bắt chúng kéo cày trả nợ cho ta
Nếu cứu sống hệ thống tài chính đã là điều bắt buộc phải làm, thì tốt nhất không nên dồn sức để tranh cãi xem có nên làm hay không mà hãy cứ làm đi, và bắt giới tài chính trả một cái giá thật đắt.
Trong dài hạn Việt Nam cần một hệ thống quy định mới đủ khả năng đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động vừa an toàn, vừa hiệu quả. Giới tài chính sẽ phản đối kịch liệt một hệ thống như thế, đơn giản vì nó làm họ khó kiếm lời hơn.
Nếu sóng yên biển lặng, sức mạnh của nhóm lợi ích ngân hàng là quá lớn và khó ai có thể buộc họ phải cúi đầu. Thế thì tại sao không tận dụng làn sóng giận dữ của công luận hiện nay để buộc họ phải chấp nhận một hệ thống quy định như thế? Hãy đặt lên bàn cả gói cứu trợ lẫn hệ thống quy định mới và nói với giới ngân hàng: “Hoặc anh lấy cả hai, hoặc anh chẳng có gì cả”.
Xây dựng một hệ thống quy định như thế mất nhiều công sức và rất tốn thời gian, từ viết ra luật cho tới bảo vệ nó trước đủ chiêu vận động của giới tài chính.
Tại sao chúng ta không nuốt luôn con cóc xấu xí mang tên giải cứu ngân hàng, và tập trung vào những việc nhiều ý nghĩa hơn trong dài hạn, thay vì cứ ngắm nghía và tranh luận những chuyện vốn không thể khác. Nuốt luôn con cóc đi, ông Alan à …
http://tintuconline.com.vn/vn/batdongsan/20130402111049990/bds-hay-bat-chung-tra-no-cho-ta.html
Đàn ông họ ngoại tình vì có mục đích nên cái TYĐT được định nghĩa như vậy. Điều em cần làm bây giờ không phải quên đi, vết thương mà mỗi ngày nó hành hạ em và có nguy cơ bị hoại tử, em buộc phải cắt bỏ nó trong nay may dù rằng em hy vọng tương lai sẽ mở ra cho em 1 cơ hội giữ lại và làm vết thương liền sẹo.
Thôi thì em cố gắng phân tích về sự cố của vết thương này và tìm cách chữa lành nó nhé. Với con Virut là NT3 thì chị nghĩ em hoàn toàn sẽ trị được nó nếu em vững tin và mạnh mẽ hơn:
1. Chồng em là người như thế nào, 4 năm qua như em nói thì không phải người tệ để mà 1 phút rời bỏ vợ con nhanh chóng. --> Bị bỏ bùa ngải (nghi ngờ), bị thiếu nợ quá nhiều nên cần mối quan hệ này để lợi dụng....??
2. Người phụ nữ đó là ai? Em biết gì về cô ta, có chồng con, gia đình ntn? Công việc, cơ quan..? Sở thích? Và theo chị 1 người phụ nữ có cuộc sống hay ít nhất là có gia đình cha mẹ tử tế rất ít ai đi lừa tình,phá hạnh phúc người khác mà lại vô tư như vậy
==> Họ đang có những động cơ khác nhau để đến với nhau một cách rất nhanh chóng và rất giả tạo.
Vì vậy, chị nghĩ, sáng suốt và suy nghĩ tận tường vấn đề, mạnh mẽ hơn trong suy nghĩ. Chấp nhận cho anh ta thăm con và đừng nghĩ đến ngày quay về nữa, vì hạnh phúc là em tin rằng ba mẹ em, con em khỏe mạnh, bản thân em sẽ tìm được con đường tốt để cả gia đình em bước tiếp.
Hãy để những người lừa dối, giả tạo yêu nhau, và hủy diệt nhau. Anh ta cần gì sẽ tự tìm đến em, em đừng nặng lòng vì bất cứ điều gì anh ta đang suy tính. Với người phụ nữ kia, em hãy hỏi thăm nếu có cơ hội: Cha mẹ chị có hãnh diện khi chị cướp được chồng tôi hay không? Và chỉ cần 1 câu này cho mỗi lần em buồn hay gặp chị ta, chị nghĩ đó là điều duy nhất em nên nói với riêng con người ấy.
Mong em, và con trai sẽ luôn mạnh khỏe, mong ông bà ngoại của Mít sẽ luôn là chỗ dựa vững vàng cho cả 2 mẹ con. Và chị mong nếu có điều kiện em hãy đi học lại nhé, để có cơ hội hơn trong công việc và tìm được môi trường mới sau này.
Có lẽ chị sẽ rất lâu mới trở lại topic này, vì những gì cần nói, cần trao đổi chị đã nói hết. Cô Anh cũng sắp về hưu rồi, nên việc cô hỗ trợ mọi người sẽ không còn lâu nữa. Một lần nữa thân chúc tất cả các chị em sắp làm mẹ sẽ có những lựa chọn tốt nhất cho việc sinh con, vì không kỷ niệm nào đẹp và đáng nhớ bằng lúc chúng ta tìm cách vượt đớn đau để thấy mặt con mình.
Bạn ơi, bà mình làm vậy từ ngày mình chỉ là con bé 5 tuổi, giờ nhắc đến chuyện bà nhẫn tâm với gia đình mình, mình cũng chỉ muốn quên đi, nhưng mình thèm lắm được báo hiếu cho bà, được ôm bà và trò chuyện. Từ nhỏ mình dẫu biết bà như vậy nhưng mình cố gắng chiều theo bà lắm, nhưng lần nào về thăm bà là bà mắng cho, bà bảo bố mình bỏ mẹ mình đi và cưới vợ khác... bà mắng mình đủ thứ câu từ khó nghe, đến giờ vẫn vậy. Mình không còn ông bà nữa, chỉ còn mỗi mình bà, nhưng mỗi ngày thấy bà vờ đóng kịch, mình chỉ muốn quên bà thôi.
Nếu bạn nói trường hợp 1 nhảm nhí thì bà mình, 87 tuổi là 1 minh chứng. Bà được 9 người con cung phụng như nữ hoàng từ khi bà bước vào tuổi 60, nhưng khi bà được hơn 70 thì suốt ngày đi khắp nơi nói xấu con cháu. Ngày thì ngủ rồi ăn, nước cam, nhân sâm không thiếu, đêm thì bà thức dậy bảo mù mắt do con cháu hãm hại, và gõ cửa hàng xóm nhờ họ cứu và cho cơm nguội ăn. Bà làm khổ và xấu hổ tất cả con cháu trong nhà, bố mình vì chịu không được nên stress và bị đột quỵ suýt chết, giờ thì liệt nữa người. Mỗi khi bố nhìn thấy bà là gào lên liên hồi bà mới tha cho, nếu không là bà bắt bố phải chiều chuộng những thói nết kỳ lạ. Âu là gia đình không có phước nên phải chịu vậy, mình kể ra mà lòng đau lắm
A man once came to see the Buddha to get help with his problems. After the man had told the Buddha one of his problems and asked for help, the Buddha replied: "I cannot help you get rid of that problem."
The man was surprised that the Buddha could not help him in this regard, but he told the Buddha about another problem; he thought to himself that the Buddha should at least be able to help him with that problem. But the Buddha told him "I cannot help you with that problem either."
The man started to get impatient. He said: "How can it be that you are the perfectly Enlightened Buddha, when you can’t even help people get rid of their problems?" The Buddha answered: "You will always have 83 problems in your life. Sometimes a problem will go, but then another problem will come. I cannot help you with that."
The baffled man asked the Buddha: "But, what can you help me with, then?" The Buddha replied: "I can help you get rid of your 84th problem." The man asked: "But what is my 84th problem?" The Buddha replied: "That you want to get rid of your 83 problems."
SỬA ĐỔI LỖI LẦM
Người ta không phải mới sinh ra đã là Thánh Hiền, nên làm sao tránh được gây tạo lỗi lầm? Khổng tử nói: Có lỗi lầm không sợ sửa đổi, là việc lành không gì lớn hơn. Cho nên, Liễu Phàm tiên sinh sau khi giảng đạo lý lập mệnh xong, lại bàn đến phương pháp sửa lỗi. Ông trình bày một cách tường tận để dạy con mình là Viên Thiên Khải. Lỗi lầm nhỏ còn phải sửa đổi, huống chi là tội ác lớn, đương nhiên quyết không thể phạm.
Vào thời Xuân Thu, các quan cao cấp của các nước thường đoán việc kiết hung họa phúc của một người nào đó thông qua ngôn ngữ hành vi của họ, và kết quả rất là linh nghiệm. Điều này có thể thấy được qua sách Tả Truyện và Quốc Ngữ. Phàm những điềm báo kiết tường hay hung hiểm đều do mầm mống trong tâm phản ứng ra ngoài. Những điềm kiết hung này còn thể hiện qua cử chỉ của người đó nữa. Nếu một người nhân hậu, cử chỉ của họ sẽ chững chạc; còn kẻ bạc bẽo, thì cử chỉ sẽ tùy tiện.
Người sống nhân hậu thì thường được phước; kẻ bạc bẽo nhất định sẽ gặp họa. Người bình thường thiếu hiểu biết, không đủ trí tuệ để xét thấy việc này, nên bảo họa phước không nhất định, không sao biết trước được.
Một người có thể sống hết sức thành thực, không một chút giả dối, thì tâm họ khế hợp đạo lý. Do đó, nếu đem tâm chân thành ra đối đãi với người, thì phước báo tự nhiên sẽ đến. Cho nên, xét một người nào đó, chỉ cần nhìn thấy họ toàn làm việc thiện, thì biết trước rằng phước của họ sắp đến.
Trái lại, xét một người mà thấy hành vi của họ toàn làm điều ác, thì biết rằng họ sắp gặp họa. Người ta muốn tránh họa được phước, phải tự mình cải đổi lỗi lầm trước khi làm thiện.
Phương pháp cải đổi lỗi lầm, trước hết là phải phát khởi tâm hổ nhục.
Chúng ta nên suy nghĩ: Thánh Hiền đời xưa như ta không khác, đều là nam tử hán, đại trượng phu. Thế tại sao các vị ấy có thể lưu lại tiếng thơm muôn đời, làm gương sáng cho hậu thế; còn chúng ta lại luống qua một đời, hay thân bại danh liệt?
Đó là vì chúng ta quá đam mê huởng thụ, bị hoàn cảnh vật dục bên ngoài ô nhiễm, lén làm những việc không nên làm. Càng ngày chúng ta càng trầm luân trong bể dục, không khác gì cầm thú, mà tự mình chẳng biết chẳng biết chẳng hay.
Cái hổ nhục trên đời không có gì lớn hơn như vậy. Mạnh tử nói: “Việc lớn nhất,quan trọng nhất của một người không gì hơn chữ nhục”. Vì sao? Vì hiểu được chữ “nhục” này, ta có thể sửa đổi được tất cả lỗi lầm, trở nên Hiền Thánh. Nếu không hiểu được chữ “nhục” này, thì sẽ phóng túng làm càn, đánh mất nhân cách, không khác gì cầm thú. Những lời trên chính là bí quyết chân chánh để sửa đổi.
Phương phát thứ hai để sửa lỗi là phải khởi tâm lo sợ thận trọng.
Chúng ta phải biết Chư Thiên Hộ Pháp luôn ở bên cạnh chúng ta. Chư Thiên Hộ Pháp thấy được tất cả những hành vi của mình, nên ta không thể lừa dối họ được. Chúng ta có thể giấu được mọi người làm điều sai trái, qua mặt pháp luật, nhưng không sao qua mắt được Chư Thiên Hộ Pháp. Việc ác của chúng ta đối với họ như soi kính, đều hiện ra rõ ràng không sót. Chúng ta cho dù dấu kín được tội, song Chư Thiên Hộ Pháp nhìn thấy rõ tâm can phế phủ của mình. Chúng ta khởi tâm động niệm như thế nào, các vị ấy đều biết rõ. Cho nên, mình biết rõ tâm niệm hành vi của mình như thế nào, Chư Thiên cũng biết rõ như vậy.
Nếu chẳng may hành vi xấu xa của chúng ta bị người khác biết được, thì chẳng phải mình mất hết giá trị, bị người ta xem thường phỉ nhổ hay sao? Cho nên, ta lúc nào cũng phải có tâm lo sợ, thận trọng.
Cho nên, gây tạo tội nặng sẽ rước lấy tai họa, gây tạo tội nhẹ sẽ tổn phước giảm đức. Tội lỗi đối với thần minh, long thiên Hộ Pháp không sao che giấu được, như vậy ta lẽ nào không biết sợ hay sao?
Chúng ta chỉ cần còn một hơi thở, cho dù phạm tội lớn đến đâu, đều có thể sám hối. Thuở xưa có người cả đời làm ác, đến khi lâm chung tỉnh ngộ ăn năn, khởi lên niệm lành rất lớn, liền được an ổn vãng sinh.
Nói như vậy có nghĩa, nếu người ta khi đối diện cửa ải tử sinh, chỉ cần thống thiết, dũng mãnh khởi lên niệm thiện, ăn năn tỉnh ngộ, thì có thể rửa sạch nghiệp tội tích chứa trong suốt trăm năm. Ví như hang tối ngàn năm, chỉ cần thắp lên một ngọn đèn sáng, thì lập tức sẽ quét sạch bóng đen, chỉ còn ánh sáng rỡ ràng. Cho nên, không luận làm ác bao lâu, nhiều ít như thế nào, chỉ cần thống thiết ăn năn, sửa đổi lỗi lầm, nhất định sẽ được thanh tịnh.
Tuy nói có lỗi chỉ cần biết ăn năn cải đổi là được, song tuyệt đối không được vì thế mà ỷ lại, cho rằng thường phạm lỗi không sao. Người như thế có tâm phạm lỗi, tội càng sâu nặng hơn.
Trong thế gian bất tịnh này, vạn vật đều huyễn hóa vô thường, tấm thân huyết nhục này nay còn mai mất không sao liệu trước được. Chẳng phải một hơi thở ra mà không hít vào là đã qua đời khác sao? Đến lúc đó có muốn sửa đổi lỗi lầm cũng không sao kịp nữa. Khi cái chết đến mọi thứ đều bỏ lại, chỉ có nghiệp tội đi theo chúng ta mà thôi.
Do đó, kẻ làm ác báo ứng ở dương gian là phải chịu tiếng xấu trăm ngàn năm, cho dù có con hiếu cháu hiền cũng không sao rửa sạch được vết nhơ này. Còn quả báo đời sau là phải trầm luân trong địa ngục, chịu vô lượng vô biên khổ não, đọa đày trong ngàn muôn ức kiếp. Lúc đó dù gặp được Phật, Bồ tát, Thánh nhân, cũng không cách nào cứu chúng ta được. Như vậy há không đáng sợ sao?
Thứ ba là phát khởi tâm dũng mãnh tiến lên.
Người ta sở dĩ làm lỗi mà không sửa đổi được là do tâm dễ duôi, lần lữa qua ngày mà không chịu lập chí tiến thủ, dũng mãnh kiên quyết. Đây chính là nguyên cớ đọa lạc, thối lui.
Phải biết nếu muốn sửa đổi lỗi lầm nhất định phải lập chí kiên quyết, lập tức cải đổi, quyết không nên chần chừ, do dự. Không nên ngày nay lại hẹn đến mai, mai lại hẹn đến mốt, cứ thế kéo dài, lần lữa đến chết. Lỗi lầm nhỏ hãy xem như gai đâm vào xương thịt, để lâu một ngày là nhức nhối một ngày, nên phải gấp rút nhổ ra. Lỗi lầm lớn hãy xem như rắn độc cắn phải, để chậm môt giây là nguy hiểm đến tánh mạng một giây. Như quẻ Ích trong Kinh Dịch nói: Gió thổi sấm nổ, vạn vật sinh truởng, lợi ích lớn lao như vậy. Đây là dụ cho người đổi ác làm lành, được ích lợi lớn như vạn vật nhờ mưa thuận gió hòa mà sinh truởng tốt tươi.
Sửa lỗi phải phát tâm, phát tâm là tâm gì? Một, tâm biết hổ nhục, hai, tâm biết sợ tội, ba là tâm dõng mãnh. Đầy đủ ba tâm này, sẽ sửa được lỗi ngay, sẽ sửa được lỗi ngay!
Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm, nếu có đầy đủ ba tâm hổ nhục, sợ tội và dũng mãnh, thì có thể lập tức sửa được lỗi lầm; như lớp băng mỏng mùa Xuân gặp phải ánh dương quang, lo gì không tan rã? Song sửa đổi lỗi lầm có ba góc độ dụng công. Một là từ trên thực tế để sửa đổi. Hai là từ trên đạo lý để sửa đổi. Ba là từ trên tâm niệm để sửa đổi. Do ba cách dụng công khác nhau, nên kết quả cũng bất đồng. Trước hết, nói về từ trên thực tế sửa đổi lỗi lầm.
Ví dụ như hôm qua sát sinh, hôm nay chấm dứt không sát sinh nữa. Hôm trước nổi giận mắng người, hôm nay bỏ qua không giận nữa. Đây là phương pháp chấm dứt lỗi lầm không tái phạm, bằng cách sửa đổi lỗi lầm khi sự việc đã phát sinh. Song sửa lỗi như vậy là miễn cưỡng dằn lòng, tuy qua được một lúc song mầm mống lỗi lầm vẫn còn trong tâm. Chỉ cần có cơ hội thích hợp là nó lại tái phát, đôi khi còn mãnh liệt hơn nữa. Người ta bảo tức nước vỡ bờ là vậy. Nên đây không phải là phương pháp sửa lỗi lầm một cách triệt để.
Thế nào là dựa trên đạo lý cải đổi lỗi lầm?
Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm, trước khi ngăn giữ không làm một điều sai quấy nào đó, phải hiểu rõ đạo lý tại sao ta không nên làm. Ví dụ như một người đối với lỗi lầm của việc sát sinh, trước hết anh ta phải nghĩ rằng: Đức hiếu sinh là đạo lý tự nhiên. Phàm là loài só sinh mệnh ai lại chẳng tham sống sợ chết? Thế mà ta lại giết loài vật để nuôi thân mình, thử hỏi trong tâm có yên ổn không? Những con vật mà ta cắt cổ, nhổ lông, lột da, xào nấu v.v..., chúng phải chịu bao đau đớn khổ sở lúc lâm chung, như vậy có phải tội lỗi lắm không? Ăn uống trên sự tướt đoạt sinh mệnh, gây tạo khổ đau cho chúng sinh, song miếng ngon khi qua khỏi miệng lập tức trở thành đồ dơ mà ai cũng nhờm, cũng gớm! Như Vậy có đang cho chúng ta vì thế mà gây tạo sát nghiệp, chàđạp trên quyền được sống còn của sinh vật, khiến phải chịu tội báo, tổn giảm phước đức không? Ăn chay đạm bạc, thực ra cũng đủ no và dinh dưỡng.
Lại suy nghĩ rằng: Phàm loài có sinh mệnh huyết khí đều có tri giác tánh linh. Đã có tri giác tánh linh, thì có khác gì chúng ta đâu? Ngày xưa bậc Thánh như vua Thuấn, nhờ đạo đức cao thượng mà được voi cày ruộng giúp, chim nhổ cỏ giùm. Ta nay tuy chưa thể tu dưỡng được như người xưa, khiến loài vật đến tôn trọng, thân cận, song cũng không thể tàn hại sinh mệnh của chúng, khiến kết nên nhân duyên oán thù. Mối hận này đeo đuổi chúng ta đến lúc nào mới hết?
Người biết suy nghĩ như thế, không thể nào nuốt trôi những cá thịt trên bàn.
Ví dụ như tánh tình của ta của ta trước kia hay nổi sân, nên suy nghĩ rằng: Ai cũng có điều tốt, ai cũng có chỗ xấu. Khi gặp chỗ xấu của người, xét về tình lý, nên thương cho họ, mà tha thứ chỗ xấu đó, vì chính họ cũng là nạn nhân, chịu khổ não bởi thói xấu bản thân. Nếu có người ngang ngược, vô lý mạo phạm đến ta, thì lỗi đó ở họ có dính dáng gì đến ta, vậy tại sao ta phải nổi giận?
Lại nghĩ rằng: Trên đời này không có ai dám tự cho rằng mình là hoàn hảo, không chút lỗi lầm. Một người cho rằng mình là hoàn hảo, mới chính là kẻ ngu nhất. Trên đời cũng không có đạo lý nào dạy chúng ta oán hận người xung quanh. Người càng có học vấn thì càng phải khiêm tốn, nghiêm khắc với mình, khoan dung với người, sao lại oán hận người khác?
Cho nên, một người làm việc không được vừa lòng đắc ý, đều do đạo đức của mình không tu dưỡng tốt, còn thiếu công đức, không đủ sức cảm động lòng người. Vì vậy phải phản tỉnh, kiểm điểm lại mình, xem có chỗ nào có lỗi với người không?
Người có thể suy xét được như vậy, dụng công sửa mình, thì người khác phỉ báng sẽ trở thành sự trui rèn, thành tựu phẩm cách cho ta, bằng những bài học phản diện. Ta nên hoan hỉ tiếp nhận sự giáo huấn, phê bình của người khác, còn oán hận điều gì?
Lại nữa, nghe người khác nói xấu mà ta không nổi giận, dầu lời nói đó ác độc đến đâu; khác nào như đem lửa đốt trời, hư không vẫn rỗng rang, không có gì để cháy, lửa cuối cùng cũng tắt. Nếu người ta nghe người khác hủy báng mà tìm cách biện hộ, thì khác nào như tằm nhả tơ, tự trói buộc lấy mình. Đó là tự mình chuốc lấy khổ. Cho nên, nổi giận không những vô ích mà còn có hại.
Đó là nói về hậu quả của nóng giận. Còn như những lỗi lầm và tội ác khác, cũng nên y theo đạo lý này mà suy xét, thì tự nhiên sẽ không phạm phải lỗi lầm.
Thế nào là cải đổi lỗi lầm từ tâm niệm?
Người ta gây tạo lỗi lầm vốn nhiều vô số, song tất cả đều từ tâm niệm mà ra. Nếu tâm ta không động niệm, thì không có tạo ra bất cứ nghiệp gì. Như vậy lỗi lầm từ đâu mà sinh? Phàm người ta thường có nhiều lỗi lầm như tham đắm nữ sắc, danh tiếng, tiền của, hoặc hay nóng giận, v.v... Chúng ta không cần tìm hiểu phương pháp để cải đổi từng lỗi lầm một, mà chỉ cần nhất tâm nhất ý khởi niệm lành, làm việc thiện, lúc nào cũng chánh niệm hiện tiền, thì không có ý niệm tà ác nào xen khởi, làm ô nhiễm tâm ta được.
Ví như mặt trời soi sáng giữa từng không, tất cả những hắc ám đều không chỗ dung thân. Đây chính là yếu quyết tu tâm, sửa lỗi chân chánh duy nhất. Phải biết tất cả lầm lỗi tội ác đều do một tâm này gây tạo, nên chỉ cần ngay nơi tâm này sửa đỗi lỗi lầm. Đây giống như trừ cây độc, phải đốn tận gốc, trốc tân rễ, mới không sợ mọc trở lại, mà đâu cần phải chặt từng nhánh, bẻ từng lá!
Phương pháp cải đổi lỗi lầm cao minh nhất vẫn là tu tâm. Nếu biết tu tâm thì sẽ lập tức khiến tâm thanh tịnh. Vì tất cả sai lầm đều do tâm khởi niệm bất chánh mà ra. Nếu biết tu tâm, chánh niệm tỉnh giác, khi khi tà niệm vừa khởi liền phát giác. Tà niệm ngay đó sẽ không còn, tâm trở lại thanh tịnh bất động. Nếu ta không làm được như vậy, khi tà niệm khởi lên phát giác muộn màng , và không đủ sức giác chiếu để khiến nó tiêu diệt, thì phải dùng đạo lý để suy xét, thống trách, thì sẽ hóa giải được tà niệm đó. Còn như không biết dùng đạo lý để suy xét thống trách, thì cố gắng dằn lòng, tránh xa duyên phạm lỗi.
Cả ba phương pháp này tuy có cao có thấp khác nhau, song đều có giá trị riêng, và bổ túc cho nhau. Ta cần phải biết rõ mình, để có thể tùy cơ, tùy lúc vận dụng cả ba phương phá một cách thích đáng tu sửa lỗi lầm, ắt sẽ công hiệu. Song phương pháp tu tâm, chánh niệm tỉnh giác vẫn là chánh yếu, không nên bỏ qua.
Lập chí sửa đổi lỗi lầm cũng cần có trợ duyên để dễ thành tựu. Về phương diện thấy được, đó chính là bạn tốt, khuyên bảo, nhắc nhở ta lúc hồ đồ, nông nổi. Về phương diện không thấy được, đó là đối trước Phật, Bồ tát, chư thiên, v.v... cầu chứng minh gia hộ, thành tâm sám hối, từ sáng đến tối không dám buông lung. Như tôi đã từng sám hối bảy ngày, mười bốn ngày, cho đến một tháng, ba tháng. Cứ sám hối như vậy nhất định sẽ có chứng nghiệm.
Sửa lỗi phải phát nguyện, lại phải nhờ trợ duyên. Một mặt nhờ bạn lành, mặt khác nhờ Bồ tát, để chứng minh gia trì. Phải một lòng một ý, sám hối mọi lỗi lầm, sám hối mọi lỗi lầm.
Nói chứng nghiệm của sự sám hối lỗi lầm là gì? Ví dụ như ta bỗng cảm thấy tinh thần rất thư thới, trong lòng an vui, hay cảm thấy trước đây tối dạ, giờ bỗng mở mang trí tuệ; hay dù là trong hoàn cảnh rộn ràng phiền phức, mà tâm mình vẫn sáng suốt, tất cả đều thông tỏ. Hay lúc gặp phải kẻ oan gia thù địch, có thể an ổn hoan hỉ, hóa giải cơn giận nỗi hận trong lòng. Hoặc khi nằm mộng, mơ thấy ói ra thứ màu đen. Đây chính là những tư niệm tà, tích chứa thành uế khí, trong mơ ói ra, thì tâm địa trở nên thanh tịnh. Hay trong mơ trông thấy Phật, Bồ tát đến nâng đỡ, dắt dìu ta; hoặc thấy mình bay lên không trung, tiêu dao tự tại. Hay mơ thấy các loại phan lọng được trang sức bằng các loại châu báu nhiều màu. Những việc ít thấy ít nghe như vậy, đều là những điềm tiêu trừ tội chướng trong quá khứ. Song cũng không nên vì gặp được những điềm lành này, liền tự cho rằng mình có sở đắc, tu hành hơn người mà khởi tâm ngã mạn, không chịu vươn lên, tiếp tục nỗ lực.
Vào thời Xuân Thu trước đây, quan đại phu nước Vệ là Cừ Bá Ngọc vào năm hai mươi tuổi đã biết xét lại những lỗi lầm trong quá khứ của mình để kiểm điểm, cải đổi. Đến năm hai mươi mốt tuổi, lại cảm thấy trước đây sửa đổi lỗi lầm vẫn chưa triệt để. Đến năm hai mươi hai tuổi, nhìn lại năm hai mươi mốt tuổi, vẫn giống như ở trong mộng. Cứ như vậy mỗi năm trôi qua, mỗi năm lại sửa đổi lỗi lầm. Cho đến năm năm mươi tuổi, vẫn cảm thấy bốn mươi chín năm qua mình vẫn lỗi lầm! Người xưa đối với việc sửa đổi lỗi lầm cẩn thận coi trọng đến mức như vậy.
Đại phu Cừ Bá Ngọc, người tài đức khiêm cung, hai mươi tuổi xét lỗi, mỗi năm đều kiểm điểm, đến lúc tuổi năm mươi, vẫn thấy còn lầm lỗi. Sửa lỗi quan trọng thay! Quan trọng thay!
Chúng ta đều là kẻ phàm phu, lỗi lầm dẫy đầy, như lông trên mình nhím. Song ta lại cảm thấy dường như mình không có lầm lỗi gì lắm. Đó là do ta hời hợt, không biết phản tỉnh tự xét. Giống như con mắt có bịnh, không nhìn thấy mình mỗi ngày đang tạo tội. Song một người làm lỗi tạo ác, đến một mức nào đó sẽ có triệu chứng hiện ra. Như tâm tư hỗn loạn trệ ngăn, tinh thần suy sụp, hay quên; hoặc việc không đáng phiền não lại cảm thấy vô cùng phiền não; hoặc thấy người phẩm hạnh cao quý, cảm thấy hổ thẹn không vui; hay nghe được những lời đạo đức quang minh chính đại, lại không thích; hoặc đem ân huệ cho người, đối phương không nhận còn trở lại oán hận; hoặc tối ngủ thấy những giấc mơ xấu đáng sợ; hoặc nói năng không thứ lớp, không bình thường. Những hiện tượng bất bình thường như vậy, đều là biểu hiện của việc làm ác.
Giả sử có những hiện tượng như trên, ta phải đề khởi tinh thần, phấn phát hướng thượng, sửa đổi những sai lầm cũ, mở ra con đường nhân sinh sáng tỏ cho mình. Hy vọng mọi người không nên tự làm lỡ mình!
MÔN HỌC LẬP MỆNH
Lập mệnh chính là sáng tạo ra vận mệnh, không để bị vận mệnh trói buộc. Chương Lập Mệnh này, chính là bàn đến cái học lập mệnh, giải giải đạo lý an thân. Viên Liễu Phàm tiên sinh đã đem kinh nghiệm bản thân, cùng nhiều nghiệm chứng trong việc cải đổi vận mệnh để dạy cho con trai. Ông muốn con trai mình là Viên Thiên Khải không nên bó tay trước vận mệnh, mà phải gắng hết sức cải đổi vận mệnh, bằng cách hành thiện, đoạn ác, như người xưa nói: Đừng chê điều thiện nhỏ mà không làm, đừng khinh điều ác nhỏ mà làm. Nếu làm được như vậy, nhất định sẽ cải đổi vận mệnh, như người xưa từng nói: Đoạn ác tu thiện, dứt trừ tai ương, phước thọ miên trường. Đây chính là nguyên lý cải đổi vận mệnh.
Ngàn người ngàn số mệnh, mỗi mệnh mỗi khác nhau. Viên Liễu Phàm đời Minh, vận mệnh vốn bình thường, gặp được Khổng tiên sinh, đoán số đều trúng cả. Chết yểu lại tuyệt hậu, công danh chẳng có đâu, do đời trước nghiệp sâu. Suốt hai mươi năm dài, sống theo dòng nghiệp xoáy, đúng số mệnh chẳng sai. Gặp thiền sư Vân Cốc, khai thị cho pháp lành, Viên Liễu Phàm cư sĩ, mới chuyển đổi mệnh mình, mới chuyển đổi mệnh mình.
Cha thuở nhỏ mất cha sớm. Bà nội bảo cha bỏ học, không nên đi thi đeo đuổi công danh, mà đổi học ngành y làm thầy trị bệnh. Bà nội bảo: “Học nghề thuốc vừa có thể kiếm tiền nuôi thân, vừa có thể cứu giúp người khác. Nếu y thuật đến mức cao minh, cũng có thể trở thành y sư danh tiếng. Đây chính là tâm nguyện của cha con khi còn sinh tiền”.
Về sau cha ở chùa Từ Vân tình cờ gặp được một ông lão tướng mạo phi phàm, râu dài phất phới, có vẻ tiên phong đạo cốt. Cha do đó cung kính vái chào. Ông lão bảo: “Ngươi là người trong chốn quan trường năm sau có thể đi thi, bước vào hàng trí thức cao, thế tại sao không chịu đi học?”
Cha trả lời vì ý của bà nội muốn cha bỏ học để đeo đuổi ngành y. Kế đó cha lại hỏi tính danh, nơi cư trú của cụ, cụ đáp: “Ta họ Khổng, người Vân Nam, được chân truyền của Triệu Khương Tiết tiên sinh, người tinh thông về dịch số Hoàng Cực. Tính theo số định, ta phải tuyền môn dịch số này cho ngươi”.
Do đó, cha đưa vị tiên sinh này về nhà, thưa lại mọi việc với bà nội. Bà nội bảo cha phải tiếp đãi cụ chu đáo. Lại còn dạy rằng: “Vi tiên sinh này tinh thông dịch số vận mệnh. Vậy con thử nhờ cụ tính cho một quẻ xem sao. Thử coi có linh nghiệm hay không”.
Kết quả thật không ngờ, Khổng tiên sinh tính số mệnh cha, dù là việc nhỏ cũng vô cùng chính xác. Cha nghe theo lời cụ, có ý định đi học lại, nên bàn với người anh họ tên là Thẩm Xưng. Anh họ bảo: “Tôi có một người bạn thân tên là Úc Hải Cốc mở lớp dạy học ở nhà Úc Hữu Phu. Tôi đưa cậu đến đó ở trọ theo học, rất tiện”.
Từ đó cha bắt đầu theo tiên sinh Úc Hải Cốc học tập. Một lần Khổng tiên sinh tính số cho cha bảo: “Lúc ngươi chưa có công danh, còn là học sinh, thi Huyện đứng hạng mười bốn, thi Phủ đứng hạng bảy mươi mốt, thi Đề Học đứng hạng chín”.
Đến năm sau, cha đi thi ba nơi, thứ hạng quả nhiên đúng như lời Không tiên sinh nói. Khổng tiên sinh lại tính cho cha một quẻ kiết hung họa phúc suốt đời. Cụ bảo: “Ngươi vào năm nào đó sẽ thi đậu hạng mấy, vào năm nào đó sẽ bổ chức Lẫm sinh, vào năm nào đó lên chức Cống sinh, và năm nào đó được chọn làm Huyện truởng một huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Làm chức Huyện truởng được ba năm rưỡi, bèn từ quan về quê. Vào giờ sửu ngày mười bốn tháng năm năm mươi ba tuổi, ngươi sẽ từ trần tại nhà. Tiếc rằng số của ngươi không có con trai”.
Những lời này cha đều ghi lại, và nhớ kỹ trong lòng. Từ đó về sau mỗi khi thi cử, thứ hạng đều đúng như lời Khổng tiên sinh đã đoán. Chỉ có điều cụ đoán số thóc mà cha lãnh khi làm chức Lẫm sinh là chín mươi mốt thạch năm đấu, sau đó mới thăng chức. Không ngờ khi mới nhận được bảy mươi mốt thạch thóc, quan Học Đài là Đồ tông sư phê chuẩn cha được bổ chức Cống sinh. Cha nghĩ thầm trong bụng: Khổng tiên sinh đoán số cũng có chỗ không linh nghiệm.
Không ngờ sau đó giấy phê chuẩn thăng chức của cha bị quan Học Đài thay thế là Dương tông sư bác bỏ, không cho làm chức Cống sinh. Mãi đến năm Đinh Mão, Ân Thu Minh tông sư xem thấy bài dự thi tuyển của cha, thấy không được chấm đậu, nên lấy làm tiếc, than rằng: “Năm bài văn sách làm trong quyển thì nàykhác nào tấu điệp dâng lên cho vua. Người có học thức như thế này lẽ nào lại để cho mai một đến già?”
Do đó ông dặn quan huyện đưa hồ sơ của cha lên chỗ ông, phê chuẩn cha bổ chức
Cống sinh. Trải qua sự trắc trở này, cha huởng thêm một số thóc của chức Lẫm sinh, cộng với bảy mươi mốt thạch thóc đã ăn khi trước, vừa đúng chín mươi mốt thạch năm đấu. Sau khi xảy ra sự việc này, cha càng tin tuởng: Công danh tiến thoái thăng trầm của một đời người đều do số mạng định sẵn. Sự thành đạt đến sớm hay muộn, đều có thời gian nhất định. Do đó cha xem mọi thứ bình thường, không còn có lòng tranh cầu gì nữa.
Khi được tuyển làm chức Cống sinh, theo quy định phải đến trường Quốc Tử Giám ở Bắc Kinh để học. Cho nên cha ở kinh thành một năm, suốt ngày ngồi yên, không nói chuyện, cũng không khởi tư tuởng. Tất cả sách vở đều không xem đến. Đến năm Kỷ Tỵ, cha trở về học ở trường Quốc Tử Giám tại Nam Kinh, tranh thủ thời gian trước khi nhập học, đến núi Thê Hà bái kiến thiền sư Vân Cốc. Ngài là một vị cao tăng đắc đạo.
Cha ngồi đối diện với thiền sư trong một gian thiền phòng suốt ba ngày ba đêm, không hề chợp mắt. Vân Cốc thiền sư hỏi: “Người ta sở dĩ không thể trở nên thánh nhân chỉ vì vọng niệm trong tâm khởi lên không ngừng. Ngươi tịnh tọa ba ngày, ta chưa từng thấy ngươi khởi lên một niệm vọng tuởng, đó là vì sao?”
Cha đáp: “Số mệnh của tôi đã được Khổng tiên sinh xem rõ rồi. Lúc nào sinh, lúc nào chết, lúc nào đắc ý, lúc nào thất ý đều có số định sẵn, không cách gì thay đổi được. Vậy cho dù có nghĩ tuởng mong ước cái gì đi nữa cũng vô ích. Cho nên tôi chẳng thèm nghĩ tuởng, do đó trong tâm cũng không có vọng niệm.”
Vân Cốc thiền sư cười bảo: “Ta vốn cho rằng ông là bậc trượng phu xuất chúng, nào ngờ chỉ là kẻ phàm tu tục tử tầm thường!”
Cha nghe xong không hiểu, bèn thỉnh giáo tại sao lại như thế. Vân Cốc thiền sử bảo: “Một người bình thường không sao tránh khỏi tâm ý thức vọng tuởng xáo trộn. Đã có tâm vọng tuởng không dừng, thì phải bị âm dương khí số trói buộc. Đã bị âm dương khí số trói buộc, sao có thể bảo là không có số mệnh được? Tuy nói rằng có số, song chỉ người bình thường mới bị số mệnh trói buộc. nếu là một người cực thiện, thì số mệnh không sao ảnh huởng được đến anh ta.
Bởi vì người cực thiện, cho dù số mệnh vốn có chú định phải chịu khổ sở, nhưng nhờ làm được điều thiện cực lớn, sức mạnh của việc thiện lớn này, có thể chuyển khổ thành vui, nghèo hèn đoản mệnh thành phú quý trường thọ.
Còn người cực ác, số cũng không ảnh huởng được họ. Vì cho dù số mệnh họ chú định được huởng phước, song vì họ gây tạo việc ác lớn, chính sức mạnh của việc ác này khiến phước trở thành họa, giàu sang trường thọ trở nên nghèo hèn chết yểu.
Số mệnh của ông trong hai mươi năm được Khổng tiên sinh đoán trước, không từng biết cải đổi một chút, trái lại còn bị số mệnh buộc chặt. Một người bị số mệnh buộc chặt chính là phàm phu tục tử. Vậy ông không phải là kẻ phàm phu tục tử hay sao?”
Cha hỏi Vân Cốc thiền sừ rằng: “Theo như thiền sư nói, thì số mệnh có thể cải đổi được chăng?”
Thiền sư trả lời: “Mệnh do tự mình tạo, phước do chính mình tìm. Ta làm ác tự nhiên bị tổn phước; Ta tu thiện tự nhiên được phước báo. Sách vở mà cổ nhân để lại xưa nay, đã chứng minh tính chính xác của đạo lý này. Trong kinh Phật nói: Muốn cầu phú quý được phú quý, muốn cầu con trai con gái được con trai con gái, muốn cầu trường thọ được trường thọ.
Chỉ cần tu tạo việc lành, thì số mệnh không sao trói buộc được chúng ta. Nói vọng ngữ là đại giới của nhà Phật, chẳng lẽ Phật và Bồ tát lại lừa dối chúng ta sao?”
Cha nghe xong trong lòng vẫn chưa hoàn toàn minh bạch, mới hỏi thêm rằng: “Mạnh tử từng nói: Bảo rằng cầu mà có thể được, là chỉ những gì ở trong lòng ta có thể làm được. Nếu không phải là những gì ở trong lòng, thì làm sao có thể nhất định cầu được? Ví như nói đạo đức nhân nghĩa, toàn là những thứ ở trong tâm chúng ta, ta lập chí làm một người nhân nghĩa đạo đức, thì tự nhiên trở thành người nhân nghĩa đạo đức. Đây là cái mà ta có thể tận lực để cầu. Còn như công danh phú quý, là cái không ở trong tâm, vốn ngoài thân chúng ta, nếu người khác chịu cho, ta mới có thể được. Còn như người ta không chịu cho, ta không cách nào có được, vậy ta làm sao có thể cầu?”
Vân Cốc thien sư bảo: “Lời nói của Mạnh tử không sai, song ông giải thích lại sai! Ông không thấy Lục Tổ Huệ Năng nói sao: Tất cả các loại phước điền đều quyết định trong tâm chúng ta. Phước không lìa tâm, ngoài tâm không có phước để cầu. Cho nên trồng phước hay gieo họa, đều do nơi tâm chúng ta. Chỉ cần từ tâm mình đi cầu phước, không có gì mà không cảm ứng ra.
Nếu biết từ tâm mình mà cầu, thì không những cầu được nhân nghĩa đạo đức trong lòng, mà công danh phú quý bên ngoài cũng cầu được. Đó gọi là trong ngoài đều được. Nói cách khác, dùng cách gieo trồng ruộng phước để cầu, thì nhân nghĩa, phước lộc chắc chắn sẽ được.”
Một người số mệnh có công danh phú quý, cho dù không cầu cũng có; còn như số mệnh không có công danh phú quý, cho dù có cầu cũng vô ích. Cho nên chúng ta nếu không biết kiểm điểm xét lại mình, chỉ hướng ngoại tìm cầu công danh phú quý một cách mù quáng, thì không chắc chắn có được, vì nó còn lệ thuộc vào phước báo sẵn có của mình. Đó là khế hợp với ý hai câu nói của Mạnh tử: “Cầu phải có đạo lý, còn được hay không là do số mệnh”.
Phải biết rằng, cho dù chúng ta cầu mà được, thì đó cũng là phước báo sẵn có của chính chúng ta, mà không phải chỉ do cầu mà có hiệu nghiệm! Cho nên cái gì đáng cầu mới cầu, mà không nên cầu một cách vô nguyên tắc, không có đạo lý!
Nếu như phước báo không có mà khăng khăng muốn cầu, thì không những công danh phú quý cầu không được, mà còn do vì tâm tham cầu quá đáng, không có mức độ, bất chấp thủ đoạn, nên đánh mất cả nhân nghĩa đạo đức trong tâm. Như vậy chẳng phải trong ngoài đều mất cả sao? Vì vậy cầu mà không có đạo lý là vô ích.
Cầu phú quý, được phú quý; cầu trường thọ, được trường thọ; Cầu gái trai, được gái trai. Điều gì nguyện ước tất xong ngay; điều gì nguyện ước tất xong ngay. Chỉ cần làm việc thiện, cầu ngay tại tâm mình, tâm chính là ruộng phước, đó đạo lý nguyện cầu; tâm chính là ruộng phước, đó đạo lý nguyện cầu!
Vân Cốc thiền sư tiếp đó hỏi: “Khổng tiên sinh đoán số mệnh cả đời của ông như thế nào?”
Cha thuật lại tường tận những gì Khổng tiên sinh đã tính, vào năm nào thi đậu hạng mấy, năm nào làm quan, bao nhiêu tuổi mất v.v... Vân Cốc thiền sư bảo: “Ông tự suy xét sem, mình có thể thi đậu được công danh không? Có thể có con trai hay không?”
Cha xét lại những việc làm của mình đã qua, suy nghĩ rất lâu mới trả lời: “Tôi không có phước tướng, nên biết phước báo không có bao nhiêu; lại không biết tích công đức, làm việc thiện để vun bồi phước báo. Lại thêm tôi không biết nhẫn nại, chịu gánh vác những việc phức tạp, nặng nề. Tôi lại có tánh hẹp hòi, nóng nảy, ai làm gì sai không thể bao dung. Có lúc tôi còn tự cao tự đại, đem tài năng, trí thức của mình ra lấn lướt người khác. Tôi muốn làm gì thì làm, nói năng tùy tiện. Những biểu hiện trên là tướng bạc phước, làm sao có thể thi đậu được công danh?
Sạch sẽ là một đức tính tốt, song nếu quá mức sẽ trở thành tánh khí khó chịu. Nên người xưa bảo: Chỗ nào nhiều phân rác, cây cối lại tốt tươi; nơi nào nước quá sạch, tôm cá không thể sống. Tánh tôi thẳng thắn, trong sạch quá mức, thành ra bất cận nhân tình. Đây là nguyên nhân thứ nhất tôi không có con trai.
Vạn vật phải nhờ vào ánh dương quang ấm áp, gió mưa mát mẻ thấm nhuần mới sinh truởng được. Tánh tôi lại nóng nảy giận hờn, không có hòa khí tươi mát làm sao có thể sinh được con trai? Đây là nguyên nhân thứ hai.
Nhân ái là cội rễ của sự sống. Nếu tâm tàn nhẫn, không có từ bi thì khác nào như trái cây không hạt, làm sao nảy mầm mọc thành cây khác? Cho nên người xưa bảo: Tàn nhẫn là gốc của tuyệt tự. Tôi chỉ biết yêu tiếc danh tiết của mình, không chịu hy sinh bản thân để thành toàn cho người khác, làm điều thiện, tích công đức. Đó là nguyên nhân thứ ba tôi không có con trai.
Nói nhiều dễ dàng hại đến khí. Tôi lại nhiều lời, nên thân thể không được khỏe mạnh, làm sao mà có được con trai? Đây là nguyên nhân thứ tư tôi không có con trai.
Người ta sống là nhờ tinh, khí, thần. Tôi thích uống rượu. Rượu làm tiêu tấn tinh thần. Một người tinh lực không đầy đủ, cho dù sinh ra con trai cũng không được trường thọ. Đây là nguyên nhân thứ năm tôi không có con trai.
Người ta ban ngày không nên ngủ, ban đêm không nên thức. Tôi thường ngồi suốt đêm, không chịu ngủ sớm. Đó là không biết bảo dưỡng nguyên khí tinh thần. Đây là nguyên nhân thứ sáu tôi không có con trai. Ngoài ra còn có nhiều sai lầm, không sao nói hết.
Vân Cốc thiền sư bảo: “Ông như vậy không những không có được công danh, mà nhiều thứ khác cũng không có được. Nên biết có phước hay không phước, đều do tâm ta tạo. Người có trí tuệ biết rằng đó là tự mình làm, tự mình nhận lấy kết quả. Người không hiểu biết, lại đổ thừa cho vận mệnh.
Ví dụ như trên thế gian có người giàu sang, sản nghiệp ngàn lượng vàng, đó là họ có phước báo ngàn lạng vàng. Người có sản nghiệp trăm lạng vàng, đó là họ có phước báo trăm lạng vàng. Còn người nghèo cùng chết đói, là họ có quả báo chết đói. Ví dụ như người lành tích đức, trời sẽ cho họ huởng phần phước báo tương ứng; kẻ ác tạo tội, trời sẽ bắt họ chịu tai họa tương ứng. Nói trời, là chỉ thiên lý, tức luật nhân quả tự nhiên, mà không phải có ai ban phước hay giáng họa.”
Tiếp theo là Vân Cốc thiền sư mượn cái thấy của người thế tục để khuyên cha tích đức hành thiện: “Còn việc sinh con trai, giống như chúng ta gieo hạt vậy. Nhân tốt sẽ gặt quả tốt, nhân xấu sẽ có quả xấu. Một người tích chứa công đức được một trăm đời, thì có con cháu trong một trăm đời gìn giữ phước báo của họ. Một người tích chứa công đức được mười đời, thì có con cháu trong mười đời gìn giữ phước báo của họ. Tích chứa công đức được hai ba đời, thì có con cháu trong hai ba đời giữ gìn phước báo của họ. Còn người chỉ huởng phước trong một đời, đến đời sau lại tuyệt hậu, đó là vì công đức tích chứa chỉ bấy nhiêu. Song tội nghiệp của người đó có lẽ lại không ít!
Ông đã tự biết khuyết điểm của mình, thì phải hết lòng hết sức cải đổi những tính xấu, biểu hiện bạc phước khiến không được công danh và con trai đó. Ông nhất định phải làm lành tích đức, đối với người hòa khí từ bi, bao dung độ lượng và quý tiếc gìn giữ tinh thần của mình.
Hãy coi tất cả những việc trước kia như hôm qua đã chết đi; còn những việc về sau như hôm nay mới sinh ra. Biết sống trong hiện tại. Làm được việc này là ông đã có một sinh mệnh mới. Đó là sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức. Thân huyết nhục của chúng ta còn có khí số nhất định; song còn sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức không bị số mệnh trói buộc, có thể cảm đến thiên lý. Thiên Thái Giáp trong Kinh thư nói: Trời giáng xuống tai họa còn có thể tránh; tự mình gây ra tai họa thì không thể tránh, ắt phải chịu khổ.
Kinh thi cũng nói: Người ta phải thường xét nghĩ đến hành vi của mình có hợp với đạo trời hay không? Nếu hợp đạo trời, thì phước báo không cầu cũng tự nhiên đến. Cho nên phước hay họa đều là do mình.
Kinh Thư nói: Trời giáng họa tránh được; Mình gây hoạ, khó tránh. Kinh thi nói: Thường phản tỉnh, xét lại mình, hợp hay trái với đạo trời. Gặp phước hay gặp họa, tất cả là do ta. Tất cả là do ta.
Khổng tiên sinh tính số cho ông bảo không có công danh, lại thêm không con thừa tự. Tuy là bảo số trời định sẵn, song vẫn có thể cải đổi. Ông chỉ cần mở rộng lòng đạo đức nhân nghĩa sẵn có, gắng sức làm lành, tích chứa âm đức. Đó là ông tự mình tạo ra phước báo cho mình, người khác muốn cướp giật cũng không được, làm sao mà không huởng được phước?
Kinh Dịch cũng vì những người giữ lòng nhân đức mà tính trước nên đi hướng nào sẽ kiết tường, tránh được những việc hung hiểm, những người hung hiểm, những chổ hung hiểm.
Nếu nói vận mệnh nhất định không thể thay đổi, thì làm sao có thể đến chỗ kiết tường, tránh nơi hung hiểm? Chương mở đầu của Kinh Dịch đã nói: Gia đình nào hành thiện, ắt sẽ dư nhiều phước báo, để lại cho con cháu. Đạo lý này ông thực sự có tin không?”
Cha tin lời Vân Cốc thiền sư, đảnh lễ tạ ơn và theo lời chỉ giáo. Cha đồng thời đem những việc sai lầm tội lỗi lúc trước, không luận là lớn nhỏ nặng nhẹ, ra trước Đức Phật phát lộ sám hối. Cha cũng làm một bài văn, trước hết tỏ lòng nguyện cầu có được công danh, kế đó phát thệ nguyện làm ba ngàn việc thiện, để đền đáp đại ân, đại đức của trời đất tổ tiên cha mẹ đã sinh thành ra cha.
Vân Cốc thiền sư nghe cha lập thệ làm ba ngàn việc thiện, liền đưa cho xem quyển sổ ghi lại việc tội hay phước. Ngài dạy phải làm theo những lời dặn trong đó. Phàm những việc làm của mình, không luận là thiện hay ác, mỗi ngày đều phải ghi vào quyển sổ đó. Việc thiện thì ghi vào phần phước, còn việc ác ghi vào phần tội.
Song việc ác phải xem là lớn hay nhỏ, có thể dùng phần việc thiện đã ghi để giảm trừ. Ngài còn dạy phải trì chú Chuẩn Đề, nhờ sức gia trì của chư Phật để giúp nguyện ước sớm thành tựu.
Do đó vận mệnh là tự mình tạo lấy. Nếu phân tách một cách tỉ mỉ để giảng, thì dù giàu hay nghèo cũng không khác, đều phải làm theo đạo lý lập mệnh này. Khi giàu không thể cậy tiền cậy thế hống hách, hiếp đáp người khác; mà phải khiêm cung, chia sẻ giúp đở mọi người. Như vậy vận mệnh phú quý càng thêm phú quý và có thể bảo tồn lâu dài. Khi nghèo vẫn giữ khí tiết, không làm việc trái với lương tâm. Dù nghèo vẫn an phận thủ thường, làm một người lương thiện. Như vậy mới có thể chuyển đổi vận mệnh bần cùng thành vận mệnh phú quý. Cho nên, dù giàu hay nghèo đều phải bỏ ác làm lành, gieo trồng ruộng phước.
Đoản mệnh hay trường thọ cũng vậy. Không nên cho rằng mình vắn số, sống chẳng bao lâu mà tranh thủ huởng thụ, mặc tình làm ác, vào đường đọa lạc. Nên biết, vì nghiệp báo mình phải đoản mệnh, nên gắng sức làm lành, hy vọng đời sau sẽ được trường thọ. Như vậy có thể đời này được sống lâu thêm.
Còn người trường thọ cũng không nên ỷ lại mà mặc sức tạo ác, gian dối phạm pháp, đắm mê tửu sắc. Nên biết trường thọ có được không dễ, nên biết phải trân trọng, làm thêm điều lành để giữ gìn phước báo trường thọ này. Hiểu được đạo lý này, mới có thể cải đổi đoản mệnh thành trường thọ; mệnh trường thọ càng thêm lâu dài, càng thêm khỏe mạnh. Người ta sống trên đời, việc hệ trọng nhất là sống và chết. Nếu có thể xem đoản mệnh và trường thọ không khác, thì tất cả thuận cảnh, nghịch cảnh, giàu sang nghèo hèn, đều bao quát trong đó.
Mạnh Tử nói đến cái học về lập mệnh chỉ bàn đến đoản mệnh và trường thọ, mà không nói đến giàu và nghèo, thành đạt và khốn cùng, cũng chính vì lý do này.
Vân Cốc thiền sư lại bảo: “Mạnh Tử có câu “Tu thân để đợi đó”, là bảo: Tự mình phải luôn luôn tu dưỡng đức hạnh, không nên làm ác gây tội dù là mảy may. Còn như vận mệnh có cải đổi được hay không, đó là tùy thuộc việc tích đức nhiều ít, hợp hay không hợp đạo trời.
Nói đến chữ “tu thân”, là bảo sửa đổi những sai lầm, tội ác của chúng ta, như uống thuốc trị bệnh. Còn bảo “đợi”, là chỉ phải đợi đến công phu tu thân sâu dày, phước báo vun đắp đầy đủ, tội nghiệp tương ứng tiêu trừ, thì vận mệnh sẽ tự nhiên chuyển đổi, trở nên tốt đẹp. Không nên có tư tuởng mong muốn những gì vượt quá phận mình, để cho vọng tâm, dục tuởng làm mờ ám tâm trí, mà phải giữ tâm bình thường, buông xuống mọi vọng niệm sinh diệt. Đến trình độ này, đã đạt đến cảnh giới tâm như như bất động. Công phu này là cái học chân chánh mà thế gian thọ dụng”.
Vân Cốc thiền sư nói tiếp: “Hành vi của người bình thường tùy thuộc vào ý niệm. Phàm việc gì còn khởi tâm phân biệt để làm thì không phải là tự nhiên, còn có dấu vết. Ông hiện nay chưa thể đạt đến trình độ không động tâm. Khi ông trì chú Chuẩn Đề không cần dụng tâm ghi nhớ, hay đếm bao nhiêu biến, cứ niệm liên tục, không cho gián đoạn. Niệm đến lúc cực kỳ thuần thục, tự nhiên miệng niệm mà tâm không cảm thấy niệm. Đó gọi là niệm mà không niệm. Khi không niệm, trong tâm vẫn tự nhiên niệm. Đó gọi là không niệm mà niệm. Niệm chú đạt đến trình độ đó, thì cả ba: người, chú và niệm đều hợp thành một khối, không còn tạp niệm xen vào, như vậy không chú nào mà chẳng linh nghiệm. Song công phu này, phải kinh qua thực hành, mới lãnh hội được.
Cha ban đầu tên hiệu là Học Hải, song từ ngày đó trở đi đổi hiệu là Liễu Phàm. Bởi vì sau khi hiểu rõ đạo lý lập mệnh, cha không muốn sống như kẻ phàm phu, mà phát nguyện quét sạch kiến giải phàm phu, nên gọi là Liễu Phàm.
Từ đó về sau, cả ngày cha đều chánh niệm tỉnh giác, cẩn thận từ lời nói, việc làm cho đến ý nghĩ. Cha cảm thấy mình như thay đổi hẳn, trở thành con người khác.
Lúc trước cha sống tùy tiện, hồ đồ, không có kiềm thúc; đến nay trở nên cẩn thận, cung kính, cảnh giác những điều bất thiện.
Cho dù trong nhà, buổi tối không có ai đi nữa, cha cũng không dám tùy tiện, vì biết có trời đất quỷ thần xét soi. Gặp người ganh ghét, hủy báng, cha vẫn an nhiên, không chấp nhất, tranh luận với họ.
Năm thứ hai sau khi tham kiến Vân Cốc thiền sư, cha đến bộ Lễ thi cử. Khổng tiên sinh đoán số cha sẽ đậu hạng ba, không ngờ lại đậu được hạng nhất. Lời của Khổng tiên sinh bắt đầu hết linh nghiệm. Khổng tiên sinh không nói cha sẽ đậu cử nhân, song trong kỳ thi Hương mùa thu, cha lại thi đậu cử nhân. Đây là do làm phước tích đức khiến số mệnh thay đổi. Vân Cốc thiền sư bảo: “Vận mệnh có thể thay đổi”. Lời nói này đến nay đã được chứng nghiệm, khiến cha càng thêm tin tuởng.
Cha tuy sửa đổi lỗi lầm khá nhiều, song khi gặp việc nên làm, vẫn không thể chuyên tâm nhất ý làm. Cho dù làm, vẫn còn miễn cưỡng, không được tự nhiên. Cha phản tỉnh kiểm điểm, thấy lỗi lầm vẫn còn rất nhiều.
Ví dụ như thấy việc thiện, tuy chịu làm, song không mạnh dạn nổ lực làm. Hoặc là gặp lúc cứu người, trong lòng vẫn còn chần chờ, do dự, không kiến quyết thực hiện. Việc thiện tuy tôi có thể miễn cưỡng làm được, song lại hay nói những lời lầm lỗi. Khi tỉnh táo còn có thể tự chủ, song khi say rượu lại phóng túng, làm càn. Cho nên cha tuy làm lành có tích chứa chút công đức, song lỗi lầm vẫn còn rất nhiễu. Nếu lấy công đức để trừ đi lỗi lầm e còn chưa đủ. Thời giờ chỉ luống uổng đi qua.
Từ năm Kỷ Tỵ nghe lời khai thị của Vân Cốc thiền sư, cha phát nguyện làm ba ngàn việc thiện, đến năm Kỷ Mão, đã hơn mười mấy năm mới hoàn thành ba ngàn việc thiện này.
Lúc đó, cha vừa cùng với Lý Tiệm Am tiên sinh từ Quan ngoại trở về Quan nội, chưa kịp đem ba ngàn việc lành này ra hồi hướng. Đến năm Canh Thìn, cha trở về phương Nam, mới thỉnh hai vị đại lão Hòa thượng đức độ là ngài Tánh Không và Tuệ Không, mượn thiền đường Đông Tháp để hoàn thành tâm nguyện hồi hướng này. Lúc đó, cha lại khởi lên tâm nguyện cầu sinh con trai, và phát đại nguyện làm ba ngàn việc lành lớn. Đến năm Canh Tỵ sinh ra con, đặt tên là Thiên Khải.
Cha mỗi khi làm được một điều thiện đều ghi lại. Mẹ con không biết viết chữ, mỗi khi làm được một việc lành, như cho người nghèo cơm ăn, hay phóng sinh v.v... đễu lấy bút lông ngỗng, in một khuyên tròn màu đỏ lên lịch. Có lúc một ngày in cả mười mấy dấu đỏ lên lịch, đại biểu cho ngày đó làm được mười mấy việc thiện.
Như thế mãi đến tháng tám năm Quý Mùi, mới hoàn thành ba ngàn điều thiện đúng như nguyện. Cha lại thỉnh các vị như Hòa thượng Tánh Không v.v... về nhà làm lễ hồi hướng. Đến tháng chín năm đó, cha lại khởi lên lời nguyện thi đậu Tiến sĩ, và phát nguyện làm một vạn điều thiện để hồi hướng. Đến năm Bính Tuất, lại thi đậu Tiến sĩ. Bộ Lại bổ cho cha làm chức Huyện truởng huyện Bảo Để đương khuyết. Lúc cha làm huyện truởng huyện Bảo Để, có chuẩn bị một quyển sổ kẻ ô để trống. Quyển sổ này cha gọi nó là Sổ Tay Trị Tâm. Nói Trị Tâm là e tâm mình khởi lên tà niệm hay ác niệm, dùng phương tiện này để đối trị.
Mỗi ngày thức dậy vào lúc sáng sớm, lúc thăng đường xét xử, cha đều cho người để quyển sổ trị tầm này trên bàn làm việc. Mỗi ngày, việc lành hay vie6.c ác dù là rất nhỏ cũng ghi vào đó. Bà nội thấy cha làm việc thiện không nhiều, thường chau mày bảo: “Mẹ lúc trước ở nhà giúp con làm việc thiện, cho nên lời nguyện ba ngàn việc thiện có thể hoàn thành. Nay con phát nguyện làm mười ngàn việc thiện, trong nha môn thực khó mà thực hiện được, biết đến bao giờ mới làm xong đây?”
Sau đó, vào một đêm cha bỗng nằm mơ thấy một vị thiên thần xuất hiện. Cha bèn đem việc khó mà hoàn tất mười ngàn việc thiện này thưa lại với thiên thần. Thiên thần bảo: “Chỉ một việc ông làm Huyện truởng giảm thuế ruộng đất cho dân là đủ để bù vào mười ngàn việc thiện”.
Thì ra lúc trước, ruộng của huyện Bảo Để mỗi mẫu đáng lẽ phải thu thuế là hai đồng ba hào bảy xu. Cha cảm thấy nhân dân chịu thuế quá nặng, nên thanh lý hết tất cả số ruộng trong huye6.n, mỗi mẫu chỉ đóng thuế một đồng bốn hào sáu xu. Cha cảm thấy thật là lạ, tại sao việc này thiên thần lại biết được. Vả lại cũng nghi ngờ, sao việc này có thể đủ bù vào mười ngàn việc thiện?
Đúng lúc đó có thiền sư Huyễn Dư từ núi Ngũ Đại đến huyện Bảo Để. Cha thưa lại chuyện trong mộng với thiền sư, và hỏi có tin được chuyện này không? Huyễn Dư thiền sư đáp: “Làm việc thiện phải có tâm chân thành khẩn thiết, không thể giả dối qua loa, có tâm cầu báo đáp. Như vậy cho dù một việc thiện cũng có thể bằng mười ngàn việc thiện. Huống chi ông giảm thuế cho toàn huyện, nông dân toàn huyện đều huởng được ân huệ này. Cả ngàn vạn người nhờ đó mà giảm đi nỗi khổ vì thuế má nặng nề, đó thực là phước báo to lớn”.
Cha nghe xong lời dạy của thiền sư, liền đem tiền bạc bổng lộc của mình ra, nhờ thiền sư cúng trai tăng mười ngàn vị trên núi Ngũ Đài và hồi hướng công đức.
Khổng tiên sinh tính số mạng cho cha bảo năm năm mươi ba tuổi phải gặp tai nạn. Cha tuy không có cầu trời cho sống thọ, song năm năm mươi ba tuổi lại không có chút đau bịnh gì. Năm nay cha đã sáu mươi chín tuổi rồi. Kinh Thư nói: Thiên đạo là điều người ta khó mà tin được, mệnh của con người không có nhất định. Lại nói: Mệnh con người không có nhất định, đều do tự mình tạo.
Những lời này không sai chút nào. Cha do đó mới biết, phàm nói đến họa phúc, đều do tự mình tạo ra. Đó là lời của Thánh Hiền. Còn như bảo họa phúc do trời chú định, đó là lời nói của kẻ dung tục trên đời.
Đạo trời khó thể tin, mệnh người không nhất định, mệnh người không nhất định, họa phước vốn do mình. Nếu bảo trời chú định, là lời kẻ phàm dung, Thánh Hiền đâu có dùng, Thánh Hiền đâu có dùng.
Vận mệnh của Viên Thiên Khải con không biết rồi sẽ như thế nào. Song cho dù là vinh hoa phú quý, con cũng phải giữ tâm như lúc thất chí nghèo hèn. Cho dù gặp may mắn tốt đẹp, con cũng phải giữ lòng như lúc trắc trở khó khăn. Cho dù trước mắt có dư ăn dư mặc, con cũng phải cần kiệm như lúc thiếu thốn nghèo hèn. Cho dù được người ta yêu thích, kính trọng, con phải luôn khiêm tốn, cẩn trọng. Cho dù gia thế có danh vọng đến đâu, con cũng phải thấy mình thấp kém. Cho dù học vấn có cao thâm bao nhiêu, con phải thấy mình còn thô thiển.
Sáu cách suy tuởng này, là từ phản diện để nhìn vấn đề. Nếu biết khiêm cung như vậy, đạo đức dần dần nâng cao, phước báo cũng tự nhiên tăng truởng.
Xa thì con nên truyền nối và mở rộng đức khí của tổ tiên; còn gần thì phải biết hiếu kính cha mẹ. Trên thì con nên báo đáp ân huệ của đất nước; còn dưới thì phải tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Ngoài thì con nên cứu tế cấp nạn cho người khác; trong thì con phải luôn đề phòng niệm tuởng tà ác.
Sáu cách trên là từ chánh diện để khẳng định vấn đề. Nếu con thường phản tỉnh, suy xét như vậy, nhất định sẽ trở thành bậc chánh nhân quân tử.
Người ta mỗi ngày cần phải biết được lỗi lầm của mình, mới có thể sửa đổi mỗi ngày. Bằng không, cứ ngỡ là mình không có lỗi lầm, không chịu tu sửa, không làm sao tiến bộ được. Người xinh đẹp thông minh trên thế gian không ít, song phần lớn lại không biết dụng công tu dưỡng đạo đức, không biết dụng công xây dựng sự nghiệp, đều chỉ vì thói lần lữa qua ngày, đến đâu hay đến đó, không có chí phấn đấu cầu tiến, mới làm lỡ cả một đời của họ.
Những lời Vân Cốc thiền sư dạy về đạo lý lập mệnh, thật là tinh thâm nhất, chân chánh nhất. Cha mong con đọc và suy nghĩ kỹ, lại phải tận tâm tận lực thực hành, quyết không để ngày tháng quý báu luống qua vô ích!
Em gái mình và bạn mình vừa sinh ở NTP xong. Cả 2 đều sinh mổ, bạn mình có bảo hiểm thì chi phí hết 1 triệu 2, còn em gái thì sinh mổ nằm phòng thường, tổng cộng là 2 triêu 5. Phòng thì do năm nay nhiều người sinh quá nên cũng không được rộng rãi, tuy nhiên vẫn sạch và ổn hơn Từ Dũ rất nhiều.
Vấn đề này cũng như vấn đề ma da, khi ai đó chết chìm oan ức lại muốn kéo người khác chết theo để thế mạng là điều sai lầm.
Hoàn toàn không có chuyện thế mạng ở đây, khi một vong hồn thoát khỏi thể xác thì trong 49 ngày vong hồn đó sẽ tùy theo nghiệp cảm mà đi đầu thai. Do sự thương tiếc, quyến luyến, níu kéo của gia đình thân nhân và sự uất ức nuối tiếc cuộc sống của chính vong hồn khiến việc đi đầu thai trở nên khó khăn, vì thế thời gian tồn tại ở cõi trần trong trạng thái vô thân khiến vong hồn nghĩ rằng mình cần kéo theo người khác chết mới được đầu thai.
Cõi địa ngục không phải bất cứ ai mất đi cũng vào đó, mà khi phạm tội nặng mới bị vào, mà như các vong hồn khi còn sống cứ nghĩ ai chết oan cũng phải tìm người thế mạng thì vong hồn đó sau khi hại người khác chết thì không những không được siêu thoát mà còn phải vào địa ngục vì đã hại chết người vô tội.
Khi còn sống ta tin tưởng điều gì, hiểu biết những gì thì khi ta chết đi cái suy nghĩ cái biết được trước đây sẽ đi theo ta, vì thế phải hiểu đúng thì mới làm đúng. Những vong hồn hiểu sai và làm sai vẫn phải trả nghiệp cho hành động của mình vì thế họ rất tội nghiệp.
Vì thế trên cung đường thường xuyên xảy ra tai nạn như vậy không nên lập miếu thờ cúng vong linh mà nên lập đền thờ phật như đức quán thế âm bồ tát. Cúng phât và niệm phật sẽ giúp cho các vong linh buông xả mà siêu thoát và sẽ không còn làm những việc sai trái như xô xe hay hãm hại người khác chết oan như mình.