images
Thịnh hành
Cộng đồng
Webtretho Awards 2025
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Các bài tham khảo về dinh dưỡng
Tiếp đãi khách, thăm viếng họ hàng, đi chơi đầu xuân... người lớn rất dễ làm đảo lộn giờ giấc ăn, ngủ của bé. Vì thế, bạn cần lưu ý để đảm bảo sức khoẻ cho con mình.

Với bé còn bú mẹ

Tết sẽ không ảnh hưởng nhiều đến bữa ăn của bé vì sữa mẹ, nguồn dinh dưỡng chính, được duy trì đều đặn. Để đảo bảo đủ lượng sữa cho con, mẹ cần ăn đúng bữa và đủ chất dinh dưỡng.

Thức ăn:
Các món ngày Tết thường nhiều đạm, tẩm ướp gia vị và hương liệu. Vì thế, khi mẹ ăn vào có thể khiến mùi vị sữa thay đổi. Bé sẽ khó chịu và biếng ăn.

Do đó, bạn nên hạn chế những món có nhiều tỏi, tiêu, cà-ri... Một số món lên men như dưa, kiệu, dưa chuột bao tử... không chỉ giúp bạn ăn ngon miệng hơn mà chúng còn chứa vitamin L, có tác dụng kích thích tiết sữa.

Đồ uống:
Cố gắng uống nhiều nước và tránh thức khuya để có đủ sữa cho bé bú. Ngay cả khi gia đình bận rộn, bạn cũng nên tôn trọng giờ giấc sinh hoạt của con. Cho bé ăn và ngủ đúng giờ. Để tiết kiệm thời gian, bạn có thể làm những món chế biến nhanh và vẫn đảm bảo dinh dưỡng cho bé như: bột sữa, trứng, cháo thịt (bò, lợn) hay rau củ...

Nếu cả nhà cùng đi chơi, bạn có thể cho bé ăn bột dinh dưỡng hoặc thức ăn đóng hộp
.

Các bé ở độ tuổi này cũng cần bổ sung nhiều trái cây. Mâm ngũ quả ngày Tết chính là nguồn cung cấp vitamin dồi dào cho bé. Khi mua trái cây, bạn nên ưu tiên chọn các loại: vú sữa, quýt ngọt, đu đủ, xoài cát... Tránh cho con bạn ăn quả lạnh vì bé sẽ bị buốt răng và rất dễ viêm họng.

Với các bé đã có thể dùng thức ăn như người lớn

Bé có thể cùng tham gia những bữa tiệc Tết của gia đình. Tuy vậy, bố mẹ vẫn luôn phải quan tâm đến chế độ dinh dưỡng của con.

Thức ăn:
Những món thường gặp trong ngày Tết là giò chả, bánh chưng, mứt... Đây là các món chứa nhiều mỡ, có độ ngọt, chất béo cao. Những thứ giàu năng lượng này rất dễ gây béo phì cho trẻ, nhất là với bé phàm ăn.

Bé cũng rất thích nhâm nhi bánh kẹo khi đi chúc Tết. Vì vậy, bạn nên hạn chế cho con ăn vặt hoặc ăn quá nhiều đồ béo. Có thể nấu súp, bún hoặc miến để bé dễ tiêu hoá.

Đồ uống:
Ăn nhiều đồ béo, đi chơi và hoạt động nhiều, cơ thể trẻ cần được bổ sung nước
thường xuyên. Hạn chế cho bé uống nước ngọt đóng hộp, các loại nước có ga. Vài miếng hoa quả tươi, cốc nước quả ép hay một ly cocktail trái cây nhiều màu sắc sẽ làm thực đơn ngày Tết của bé hấp dẫn hơn. Như thế, các bé cũng sẽ thích thú và ăn nhiều hơn.

Cho bé ăn đúng giờ: Ngoài việc cố gắng giữ đúng giờ cho những bữa ăn chính vào buổi sáng, trưa và tối, bố mẹ có thể mang theo một ít bánh flan, sữa hộp, sữa chua... để cho bé ăn giữa cuộc dạo chơi, thăm hỏi.

Như thế, bạn vừa đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, vừa giúp con thoải mái vui chơi trong ngày xuân.
08:47 SA 21/01/2009
Cẩm nang ăn dặm - Giúp trẻ tập ăn dặm
Sữa mẹ là rất tốt cho sự phát triển của trẻ nhỏ, nhưng ăn dặm cũng không kém phần quan trọng trong việc giúp trẻ tăng trưởng và thích nghi với cuộc sống.
Vậy thì thời điểm nào là tốt nhất cho bé tập ăn dặm?
Bé tròn 4 tháng tuổi, ai cũng bảo tới tuổi tập ăn dặm rồi đấy. Nhưng phải bắt đầu ra sao, điều này làm mẹ thật sự bối rối. Nửa tháng nay, bé có vẻ hơi chậm tăng cân, mặc dù vẫn bú mẹ, bú ngoài bình thường. Có trục trặc gì đã xảy ra?
Bạn biết không? Đây chính là thời điểm bạn cần cho bé tập ăn dặm, nhằm đảm bảo cho bé tiếp tục tăng trưởng và phát triển bình thường. Ăn dặm - hay còn gọi là ăn bổ sung, ăn sam được hiểu là sự chuyển từ chế độ sữa hoàn toàn sang chế độ ăn có thức ăn khác sữa.
Tại sao phải cho bé ăn dặm?
Bé sinh ra trong 4-6 tháng đầu tiên chỉ có bú sữa (sữa mẹ hoặc sữa bò) và hoàn toàn không cần cho ăn hay uống thêm bất cứ một loại thức ăn, thức uống nào khác. Bốn tháng nay, bé tăng khoảng 1kg mỗi tháng là tốt, chứng tỏ lượng sữa cung cấp là đủ cho sự phát triển của bé. Với đa số trẻ em thì chỉ cần cho bú sữa mẹ (hoặc sữa bò nếu không thể có sữa mẹ) hoàn toàn trong 4 tháng đầu thì đã đủ cho nhu cầu sống và lớn lên của bé. Trước thời gian này, mẹ không nên cho bé ăn hay uống bất cứ một loại thức ăn, thức uống nào khác; vì không những không cần thiết mà còn gây hại cho hệ tiêu hóa còn non yếu của bé. Tùy theo từng trẻ, sau 4-6 tháng tuổi thì nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng của bé sẽ tăng lên vì bé lớn lên không ngừng, sữa không đủ cho nhu cầu dinh dưỡng của bé nên cần phải cung cấp thêm các loại thức ăn khác. Các chất dinh dưỡng dễ bị thiếu hụt khi chỉ dựa vào chế độ ăn lỏng (sữa) là năng lượng, chất đạm (protein), sắt và kẽm, gây ra bé chậm tăng trưởng, dễ bị thiếu máu, biếng ăn và các rối loạn khác.
Mặt khác, tập cho trẻ ăn lúc này là một cách giúp bé hòa nhập vào gia đình và cách ăn uống của gia đình. Bé sẽ bắt đầu mọc răng vào khoảng 6-8 tháng tuổi nên có nhu cầu nhai để có thói quen ăn uống tốt sau này. Các trẻ bú mẹ đã làm quen với hương vị các loại thức ăn qua sữa mẹ nên dễ dàng trong việc tiếp nhận các thức ăn này ở tuổi ăn dặm.
Một điều cần lưu ý là nếu trẻ được ăn dặm trễ sau 10-12 tháng sẽ khó thích nghi với bữa ăn gia đình, thường ăn uống thiên lệch, không ăn được nhiều loại thức ăn,… ảnh hưởng lâu dài đến tình trạng dinh dưỡng sau này.
Khi nào cần cho trẻ ăn dặm?
Có nhiều người khá bối rối khi đọc được thông tin “Hãy cho trẻ tập ăn dặm từ 4 đến 6 tháng”. Vậy khi nào thì tập ăn lúc 4 tháng và khi nào thì 6 tháng? Có thể cho ăn sớm hơn hay trễ hơn thời gian này hay không?
Thật ra, không có một thời điểm nhất định nào cho mọi trẻ. Thời gian tập ăn dặm phù hợp nhất đối với mỗi trẻ là khi sữa mẹ không còn cung cấp đủ cho nhu cầu của trẻ nữa. Trẻ to con, tăng trưởng nhanh thì có nhu cầu cao hơn những trẻ nhỏ con, cũng như khả năng tiết sữa và sự tự tin nơi sữa mẹ của các bà mẹ là khác nhau.
Các nhà nghiên cứu về nhi khoa cho rằng: thời điểm tối ưu để cho trẻ ăn dặm là lúc 4-6 tháng, khi chức năng tiêu hóa của ruột và khả năng của thận đã khá hoàn thiện, sẵn sàng cho việc ăn uống ngoài sữa. Mặt khác, nhu cầu các chất khoáng như: sắt, kẽm bắt đầu có thể bị thiếu hụt từ khoảng 4 tháng tuổi. Vì vậy, khi bé tròn 4 tháng tuổi, mẹ cần theo dõi sự tăng cân của bé sát sao hơn. Bình thường đến thời điểm này bé sẽ tăng khoảng 150g-200g mỗi tuần. Nếu thấy bé có khuynh hướng hơi chậm phát triển thì có thể tập cho ăn dặm ngay. Nhưng nếu chỉ với sữa mẹ mà bé vẫn tăng nhanh chứng tỏ sữa mẹ vẫn đủ dư, có thể dời thời điểm cho ăn lại đến tháng thứ 5 hoặc thứ 6. Lúc này, nếu bạn thấy trẻ dòm miệng mọi ngưòi khi ăn uống, đòi thức ăn thì có thể thử cho bé uống chút nước súp, nước cháo hoặc trái cây,… từ muỗng. Đây cũng là thời gian tập cho bé ăn dễ dàng nhất.
Trẻ từ 7-8 tháng tuổi trở đi sẽ khó khăn trong việc tập ăn dặm, do đã quá quen với việc bú sữa. Bé sẽ khó chấp nhận các thực phẩm có mùi vị và độ đặc khác sữa, không quen với cách ăn từ muỗng,…
Mặt khác, đặc biệt là trong hoàn cảnh của nước ta, việc cho trẻ ăn dặm sớm có nguy cơ trẻ bị cho ăn các loại thức ăn nghèo năng lượng, không đủ chất, dễ bị tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa nên hết sức tránh cho trẻ ăn dặm trước 4 tháng tuổi.
Ăn dặm trong những ngày đầu
Thức ăn để tập ăn nên đơn giản, dễ làm và bạn đừng chú ý đến thành phần dinh dưỡng vội, vì bé mới chỉ tập cách ăn thôi. Sữa mẹ lúc này vẫn cung cấp đủ cho nhu cầu của bé. Quan trọng là cho bé quen với độ đặc, vị thức ăn mới và ăn bằng muỗng thay vì bú, mút.
Một số thức ăn đầu tiên của bé:
Một muỗng bột ăn liền của trẻ em pha loãng với nước ấm chín hoặc sữa.
Chuối hoặc đu đủ, xoài chín mềm nạo bằng muỗng.
Một miếng khoai lang hoặc khoai tây nhỏ nấu chín mềm, tán nhuyễn trộn với vài muỗng sữa mẹ hoặc loại sữa bò bé đang bú.
Vài muỗng nước cơm hòa với sữa.
Tán nhuyễn vài muỗng bí đỏ, bí xanh từ nồi canh gia đình.
Vài muỗng tàu hũ nước đường…
Tập như thế nào?
Chọn một trong các thứ trên cho bé nếm thử từng chút một. Nếu bé chịu ăn có thể tăng dần lên từ 1-3 muỗng nhỏ. Nên tập lúc bụng đói, ngay sau ăn vẫn cho bú bình thường để bé đủ no.
Bé cần 7-10 ngày để làm quen với một loại thức ăn đặc mới.
Khi bé đã quen với một loại thức ăn này, hãy cho bé nếm loại mới với cách như trên. Dần dần, bé sẽ quen với nhiều mùi vị, độ đặc khác nhau của thức ăn.
Nên tập từ ít đến nhiều, từ loãng đến sệt rồi đặc hơn để bé dần dần thích nghi.
Giai đoạn này cần có sự kiên nhẫn và tỉ mỉ một chút thì mới đạt được thành công vì sẽ gặp nhiều khó khăn.
Ăn dặm bao nhiêu là đủ?
- Bé từ 4-6 tháng: Là giai đoạn tập ăn nên lúc đầu chỉ cần ăn 1 bữa, mỗi bữa ăn chỉ vài muỗng (từ ít đến nhiều) và cho bú thêm cho đủ no ngay sau khi ăn. Đến khoảng 5 tháng rưỡi, 6 tháng có thể tăng lên 2 bữa mỗi ngày khi lượng ăn mỗi bữa được khoảng nửa chén (chén 200ml). Bên cạnh những bữa ăn dặm, các cữ sữa khác vẫn duy trì đủ theo nhu cầu của bé.
- Từ 6-9 tháng: Ăn bột 2 bữa mỗi ngày, mỗi bữa khoảng ½-⅔chén với đủ 4 nhóm thực phẩm trong mỗi bữa. Bên cạnh đó, bé vẫn bú sữa nhiều lần, bú đêm cho đủ nhu cầu tăng trưởng.
- Từ 9-12 tháng: Bé ăn bột, cháo đặc 2-3 bữa mỗi ngày với khoảng ⅔ chén mỗi bữa. Ăn thêm trái cây tươi và các loại thức ăn mềm như: phô-mai, bánh flan, rau câu, đậu hũ đường,… và sữa vẫn không thể thiếu trong khẩu phần hàng ngày của bé.
Nói chung, lượng ăn của mỗi bé là khác nhau ở từng cá thể, tùy theo khả năng tiêu hóa hấp thu. Có trẻ ăn nhiều hơn bú sữa, cũng có trẻ bú nhiều hơn ăn, cho nên bạn cũng phải uyển chuyển một chút. Điều quan trọng là bé đủ no và tăng trưởng tốt.
Làm sao để đủ chất?
Thực phẩm trong thiên nhiên được phân thành 4 nhóm dinh dưỡng chính:
Chất bột đường: bao gồm bột, gạo, bún, mì, nui, bánh phở…
Chất béo: là dầu ăn, mỡ động vật, bơ…
Chất đạm: là thịt, cá, tôm, cua, trứng, đậu hũ…
Rau và trái cây.
Khi cho ăn, mỗi chén bột, cháo của bé phải có đủ cả 4 nhóm thực phẩm mới đảm bảo đủ chất. Không tính giai đoạn đầu ăn dặm chỉ với 1 loại thực phẩm, dần dần bé được tập quen với các thực phẩm khác gồm 2 nhóm, rồi 3-4 nhóm thực phẩm. Lúc đầu ăn ít, sau đó tăng dần lên cho đủ lượng: Với nửa chén bột hay cháo đầy (nửa chén 200ml thì được 100ml) cần có thêm (đong bằng muỗng canh - loại muỗng to bằng 2 muỗng cà phê):
1 muỗng chất đạm băm nhuyễn.
1 muỗng chất rau, củ,… băm nhuyễn, tán nhuyễn.
1 muỗng dầu ăn hay mỡ nước.
Bé phải được cho ăn cả phần cái (phần xác) của thực phẩm thì mới nhận được đủ các chất dinh dưỡng, còn phần nước hầm xương, nước luộc thịt, nước rau,… thì hầu như không có chất bổ gì. Vì vậy, các thực phẩm cần được xắt nhỏ, băm nhuyễn và nấu chín. Nên nấu bữa nào ăn bữa đó thì thức ăn mới được tươi mới, đạt tiêu chuẩn dinh dưỡng và vệ sinh.
Mẹ hãy thay đổi món thường xuyên cho bé trong từng bữa ăn, bé được ăn đa dạng thực phẩm sẽ không bị ngán và không sợ thiếu các vi chất dinh dưỡng.
Các trục trặc có thể xảy ra và cách xử trí
- Bé chống cự lại, không chịu ăn, bạn hãy đổi qua một loại thức ăn khác. Biết đâu bé không thích bột ngọt (bột sữa) mà lại thích bột mặn (bột thịt, tôm,…) thì sao? Thay vì dùng muỗng đút ăn, bạn hãy lấy ngón tay sạch quẹt thức ăn cho bé nuốt. Nếu không thành công, bạn tạm lùi lại 1-2 tuần sau và bắt đầu thử lại. Không nên cưỡng ép bé.
- Nếu bé đi tiêu có hơi lỏng một chút, màu sắc có thay đổi, nhưng bé vẫn ăn, bú tốt, chơi khỏe thì bạn vẫn cứ an tâm cho bé tiếp tục ăn.
- Nếu bé đi tiêu chảy nhiều nước và đi tiêu hơn 3 lần mỗi ngày, kèm theo ói ọc, sình chướng bụng, bỏ bú,... thì nên ngưng cho ăn ngay, dời lại nửa tháng sau hãy tập ăn trở lại và cũng từng chút một như hướng dẫn trong những ngày đầu ăn dặm.
- Tập cho bé ăn đủ chất trong mỗi bữa khi bé đã ăn giỏi. Tuy nhiên phải tuân thủ nguyên tắc kéo dài 3-5 ngày với mỗi loại thức ăn mới để bé quen dần và phát hiện ra loại thức ăn có thể gây dị ứng nơi trẻ để loại trừ.
- Bé ăn trứng bị nổi mề đay, lác sữa,… thì có thể bé đã bị dị ứng trứng, nên tạm ngưng ăn trứng một thời gian. Bạn nên nấu trứng chín kỹ, không cho bé ăn “lòng đào”. Trứng có thể được thay bằng sữa bột, tàu hũ,… ở tháng đầu rồi sau đó là cá, thịt, tép,… ở những tháng kế.
- Nếu bé bị nghẹn, khó nuốt thì xem lại bột có quá đặc, quá lợn cợn không, hãy làm loãng bột hơn với một ít nước chín, nước canh, sữa hoặc tán nhỏ hơn nữa bằng muỗng hay tán qua rây.
- Nếu bé không muốn ăn, có phải do bé chưa đói, bạn hãy chờ đến bữa ăn sau. Lúc đói hãy cho ăn trước, sau đó cho bú thêm ngay để bé đủ no. Không nên gò ép, căng thẳng sẽ làm bé sợ ăn vì quan trọng là thói quen ăn uống hơn là phải ăn cho hết suất.
- Ngoài thức ăn dặm, bạn nên cho bé uống thêm 50-100ml nước trái cây hoặc trái cây tán nhuyễn giữa các bữa ăn để cung cấp thêm các loại sinh tố cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
05:28 CH 15/01/2009
chiều cao tương lai của bé
Chất can xi có nhiều trong các món ăn được chế biến từ gà, trứng, đậu phụ, tôm ... Để chế biến những món cụ thể cho bé. Xin giới thiệu các món ăn giàu can xi, hy vọng các món ăn sẽ giúp các bé ngon miệng và chóng lớn.
1. Bột gạo – Cá
Nguyên liệu: Bột gạo (hoặc bột dinh dưỡng), cá lọc lấy thịt, rau cải mỗi thứ 15-20g, muối ăn một ít.
Cách làm: Cho bột vào nước lã khuấy đều thành hồ, sau đó cho vào nồi, đun sôi khoảng 8 phút thì cho riêng từng loại rau cải, cá đã làm sạch vào. Nấu cho đến khi chín, nêm muối vừa ăn là được.
Trong cá chứa hàm lượng canxi rất cao, giúp ích cho sự phát triển của bé, bên cạch việc giúp chắc xương còn giúp cho quá trình phát triển não của bé. Cung cấp đầy đủ các loại dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Nếu được thì nên thường xuyên cho bé từ 4 tháng trở lên ăn .

2. Trứng gà – Đậu phụ (tàu hũ)
Nguyên liệu: trứng gà, đậu phụ (tàu hũ), nước hầm xương 150g, một ít hành thái nhỏ .
Cách làm: Trứng gà đập vỡ, đánh đều, đậu phụ bóp nát, nước xương hầm nấu sôi; sau đó cho đậu phụ (tàu hũ) vào nấu chín, tiếp tục cho gia vị vào ,sau đó cho trứng gà vào. Cuối cùng cho thêm ít hành vào là được .
Trứng gà, đậu phụ (tàu hũ) không chỉ giàu chất canxi, mà còn rất mềm dễ ăn. Đặc biệt dùng cho bé dưới 6 tháng tuổi chưa biết nhai rất tốt.
3. Xương hầm – Mì đũa
Nguyên liệu: Xương ống heo, hoặc xương bò 200g, mì đũa 5g, rau cải 50g, muối ăn một ít, dấm gạo 1 ít .
Cách làm: xương ống đập dập, cho vào nước lạnh hầm chín, sau khi nước sôi cho một ít dấm gạo vào tiếp tục hầm 30 phút cho mềm. Sau đó lọc lấy nước bỏ xương, tiếp tục cho mì đũa vào nồi nấu sôi. Cho sau đã rửa sạch thái mỏng vào nồi nước dùng nấu chín. Cuối cùng cho gia vị vào nếm vừa ăn là được .
Nước xương hầm chứa hàm lượng can xi rất cao, đồng thời cũng rất giàu Protein, chất béo, sắt, và các loại vitamin, bổ sung chất can xin và sắt, phòng bệnh loãng xương và thiếu máu rất tốt cho bé từ 1 tuổi trở lên.
05:23 CH 15/01/2009
Có nên cho bé uống bổ sung Vitamin D không?
Vitamin D - dùng đúng cách

Nhiều người thường nghĩ rằng các loại vitamin đều lành cả và khi sử dụng sẽ vô hại, uống càng nhiều sẽ càng có lợi cho cơ thể. Nhưng bất cứ một thứ gì khi sử dụng quá liều lượng đều gây tổn hại cho cơ thể, chỉ có mức tổn hại đó nhiều hay ít mà thôi. Thật vậy, ngay cả khi ăn uống quá nhiều cũng có thể sinh nguy hiểm, nhẹ thì bội thực, nặng có thể dẫn đến viêm tụy cấp gây tử vong.

Như chúng ta đều biết vitamin D có tác dụng chống bệnh còi xương, vì mỗi khi thiếu vitamin D thì quá trình chuyển vận calcium từ máu đến xương bị trở ngại, khiến cho bộ xương kém cứng cáp, chậm phát triển. Vitamin D hỗ trợ sự hấp thụ calcium và phosphore để cố định lên xương, vì vậy phòng chống được bệnh loãng xương dễ dẫn tới gãy xương. Vitamin D còn có khả năng tăng cường sức mạnh cho cơ bắp, đồng thời góp phần vào sự hình thành và tái tạo làn da.

Các kết quả nghiên cứu gần đây cho biết vitamin D góp phần bảo vệ cơ thể chống lại một số bệnh ung thư, bệnh lão suy và tăng cường hệ miễn dịch. Trong cơ thể vitamin D hiện diện dưới hai dạng: một là vitamin D2 (ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol) đều do thực phẩm cung cấp. Hai là vitamin D3 nội sinh do tế bào da tổng hợp được từ tia cực tím của ánh nắng mặt trời.

Như vậy chúng ta sẽ hiểu rằng nguồn vitamin D được cung cấp từ ánh nắng mặt trời nên còn được gọi là vitamin của mặt trời vì chiếm tới 50 – 70% nhu cầu vitamin D mỗi ngày đã được da tổng hợp từ tia cực tím trong ánh nắng mặt trời. Tất nhiên sự tổng hợp này còn tùy thuộc mùa hay nhiễm sắc tố của làn da và tuổi tác nữa (ở tuổi 20 tổng hợp nhiều gấp 3 lần tuổi 80). Thực phẩm cũng là nguồn cung cấp nhiều vitamin D như gan cá, sữa bò, lòng đỏ trứng, thịt... Sau khi ăn, thực phẩm vào cơ thể, vitamin D sẽ được hấp thu tại ruột non, rồi vào máu và dự trữ ở gan, cơ bắp và mô mỡ.

Đối tượng cần đến vitamin D như trẻ sơ sinh và trẻ em ít ra ngoài nắng. Phụ nữ đang mang thai, nhất là 3 tháng cuối thai kỳ, tương ứng vào lúc thai nhi đang hình thành bộ xương. Người cao tuổi ăn ít và tiếp xúc với ánh nắng mặt trời không nhiều. Hay những người mắc bệnh đường tiêu hóa gây nên kém hấp thu vitamin D từ thực phẩm. Hoặc những người mắc bệnh da cần phải kiêng ra nắng. Những người phải sử dụng thuốc chống động kinh lâu dài gây trở ngại cho sự biến đổi vitamin D trong gan. Đặc biệt vitamin D rất cần thiết cho trẻ em để phòng chống còi xương và giúp bộ xương phát triển và làm cho xương rắn chắc, chóng mọc răng. Tuy nhiên với người già vitamin D cũng cần thiết bổ sung thích hợp để phòng chống loãng xương, nhuyễn xương, xương gãy chậm lành, hay chứng cơ dễ co giật.

Vậy những biểu hiện nào cho biết tình trạng cơ thể đang bị thiếu vitamin D? Một số hiện tượng như trẻ có hiện tượng co giật, hay trẻ đã được 15 tháng tuổi mà vẫn chưa biết đi. Trẻ thường bị mệt mỏi, đau khi chạy, đau ở xương, chân vòng kiềng. Còn với người lớn thường biểu hiện mỏi cơ bắp, xương đau dẫn đến đi lại khó khăn.

Biện pháp phòng ngừa thiếu vitamin D tốt nhất là hàng ngày đi bộ đều đặn từ 20 – 30 phút dưới ánh nắng ban mai. Thay đổi khẩu phần ăn theo thực đơn giàu calcium và vitamin D, hoặc có thể bổ sung thuốc polyvitamin, trong đó có vitamin D.

Cần thận trọng khi sử dụng vitamin D, vì lạm dụng loại thuốc này sẽ làm tăng calcium trong máu gây nên sự lắng đọng calcium không bình thường tại thận, hay ở động mạch và cơ vân. Có khi còn làm tăng calcium ở nước tiểu dẫn đến thành mạch bị đọng vôi khiến tăng huyết áp. Khi sử dụng liều cao vitamin D có thể gây ngộ độc mà biểu hiện lâm sàng là chán ăn, nôn, mất nước, khát, tăng huyết áp, giảm cân, yếu thận, yếu cơ, đau khớp xương... Trong thời gian mang thai nếu sử dụng quá liều vitamin D có thể dẫn đến rối loạn tăng trưởng, dị dạng bào thai. Không sử dụng vitamin D cho người mắc bệnh lao phổi đang thời kỳ tiến triển hoặc bệnh nhân đang mắc bệnh ở ruột và dạ dày, bệnh cấp và mạn ở gan và thận, bệnh tăng calcium trong máu và suy tim.

Vì những lý do nêu trên mà việc sử dụng vitamin D cần có sự chỉ định của thầy thuốc, chứ không thể uống đại trà, tùy tiện, theo sự mách bảo và lạm dụng.
06:08 CH 10/01/2009
Bệnh huyết áp cao chữa như thế nào và uống thuốc...
Tăng huyết áp là một bệnh phổ biến ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Bệnh tiến triển lâu ngày sẽ làm tổn thương các mạch máu và gây ảnh hưởng xấu tới nhiều cơ quan như tim, não, thận, thậm chí gây nhiều biến chứng nặng nề như chảy máu não, suy tim… ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân và là gánh nặng cho gia đình, xã hội.

Thế nào là tăng huyết áp?


Huyết áp được gọi là tăng khi huyết áp tâm thu lớn hơn hoặc bằng 140mmHg và huyết áp tâm trương lớn hơn hoặc bằng 90mmHg. Người ta không chẩn đoán tăng huyết áp qua một lần đo. Khi người ta đo huyết áp của bạn và thấy từ 140/90mmHg trở lên, thì có thể bác sĩ sẽ yêu cầu bạn trở lại đo huyết áp thêm 2 lần nữa trong thời gian 4 tuần mới có thể khẳng định là bạn có tăng huyết áp hay không.

tăng huyết áp là bệnh thường gặp ở người cao tuổi, trong các bệnh viêm cầu thận cấp và mạn tính; sỏi thận, viêm thận kẽ, hẹp động mạch thận. Các bệnh nội tiết như u tủy thượng thận, Cushing, cường tuyến giáp, cường tuyến yên... Các bệnh tim mạch như hẹp, vữa xơ động mạch, hở van động mạch chủ, hẹp eo động mạch chủ... tăng huyết áp cũng có nguyên nhân do dùng thuốc, dùng cam thảo, ngộ độc thai nghén.

Ai có nguy cơ tăng huyết áp?


Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng trong gia đình có cha, mẹ bị tăng huyết áp thì con cái có nguy cơ tăng huyết áp hơn những người không có cha mẹ mắc bệnh này. Ở người bình thường, không có thừa cân - béo phì và những rối loạn chuyển hóa mắc phải thì tuổi hay bị tăng huyết áp nhất là nam trên 55 tuổi, phụ nữ tuổi mãn kinh. Các chất kích thích dễ làm huyết áp tăng nếu người ta sử dụng thường xuyên là rượu, đặc biệt là nghiện rượu, mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng sự thật là sử dụng thường xuyên cà phê có thể làm nhịp tim tăng và tăng huyết áp. Thuốc lá là một thủ phạm gây tổn thương tim và mạch máu, do thuốc lá làm co thắt các mạch máu dẫn đến làm hẹp lòng mạch là nguyên nhân gây tăng huyết áp. Thói quen ăn mặn (làm giữ muối và nước gây tăng thể tích máu, gây áp lực động mạch lớn dẫn đến tăng huyết áp), thói quen lười vận động cũng là những nguyên nhân gây ra tăng huyết áp.

Hầu hết tăng huyết áp đều gặp ở vòng luẩn quẩn của những người béo phì, đái tháo đường, vữa xơ động mạch, rối loạn lipid máu. Bên cạnh đó thì một số thuốc chống viêm có steroid cũng có thể dẫn đến tăng huyết áp.

Chu
kỳ sinh học của huyết áp có thể gây đột quỵ


Hầu hết những người bị bệnh tăng huyết áp không có triệu chứng gì. Một số người với huyết áp cao nhiều có thể có các triệu chứng như đau đầu, nhìn mờ... Một số triệu chứng của các biến chứng: đau ngực, đột quỵ, nhồi máu cơ tim, rung nhĩ, suy thận, nhìn mờ... Các biến chứng của tăng huyết áp thường đi kèm với các bệnh khác như vữa xơ động mạch, đau thắt ngực ổn định, nhồi máu cơ tim.

Điều đáng chú ý là mối liên hệ giữa chu kỳ sinh học của huyết áp và nguy cơ đột quỵ. Huyết áp thường tăng cao vào buổi sáng sớm, khoảng từ 5 - 7 giờ. Đây là thời gian người bệnh thường thức giấc, do vậy những tai biến rất dễ xảy ra do: Người bệnh thay đổi tư thế đột ngột trong khi huyết áp đang ở mức cao nhất, chóng mặt, nhìn mờ xuất hiện có thể làm người bệnh ngã. Các động mạch khi bị tăng huyết áp thường có áp lực lớn nên rất dễ bị tổn thương nếu chỉ cần một va chạm nhẹ, thậm chí chỉ cần thay đổi tư thế đột ngột. Nhiều trường hợp các cụ già dậy sớm tập thể dục và bị tai biến mạch máu não.

Phòng và điều trị tăng huyết áp


Nếu huyết áp tăng ít thì cũng không cần điều trị nhiều, nhưng cần theo dõi thường xuyên. Nếu huyết áp tăng nhiều, có thể phải nhập viện để điều trị. Thay đổi lối sống là một biện pháp điều trị đầu tiên được các bác sĩ khuyến cáo đối với bệnh nhân tăng huyết áp. Một số thuốc điều trị tăng huyết áp thường dùng là thuốc chẹn beta giao cảm, thuốc chẹn anpha giao cảm, 2 dạng này ở dạng phối hợp, các thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn kênh canxi, thuốc ức chế men chuyển...

Phòng bệnh tăng huyết áp: Luôn luôn giữ chế độ ăn uống, sinh hoạt lành mạnh, đáng lưu ý nhất là không nên ăn quá mặn. tăng huyết áp và xơ vữa động mạch thường song hành thúc đẩy nhau làm bệnh nặng thêm nên chế độ ăn cần điều chỉnh để lượng cholesterol không cao quá, nên thay thế mỡ động vật bằng dầu ăn thực vật. Duy trì chế độ ăn đầy đủ lượng kali khoảng 90mmol/ngày, đặc biệt ở những bệnh nhân cần dùng thuốc lợi tiểu để điều trị tăng huyết áp. Bảo đảm đầy đủ calcium và magnesium. Không nên uống rượu bia, cà phê và đặc biệt là không hút thuốc lá. Tránh tình trạng thừa cân, béo phì. Rèn luyện thể lực, thể dục thể thao. Bảo đảm ngủ đủ, tránh stress. Nếu trong gia đình có bố mẹ hoặc anh chị em ruột bị bệnh tăng huyết áp thì phải tuân thủ các chế độ trên chặt chẽ hơn, cần phải khám sức khỏe định kỳ hằng năm và giải quyết các nguy cơ nếu có, đặc biệt khống chế các yếu tố dễ làm huyết áp tăng cao đột ngột. Đối với những người đã mắc bệnh tăng huyết áp cần điều trị liên tục, có sự theo dõi sát sao của thầy thuốc.

Theo BS. Nguyễn Lê Phương
06:03 CH 10/01/2009
Nấu bột cho con như thế nào?
Bé nhà bạn bước vào tuổi ăn dặm và bạn bắt đầu phải lo thay đổi thực đơn cho bé hàng ngày thay vì chỉ một món duy nhất là sữa như trước. Xin mời các bạn tham khảo 3 món bột dinh dưỡng này nhé.

BỘT SỮA - BÍ ĐỎ (Một chén cung cấp 166 calo)



Nguyên liệu:

Bột gạo 10g (2 muỗng canh gạt)

Sữa bột – loại sữa bé vẫn thường dùng: 12g (3 muỗng canh gạt)

Bí đỏ 30g (3 muỗng canh gạt)

Dầu 2,5g (1/2 muỗng cà phê)

Đường 10g (2 muỗng cà phê)
Nuớc 200ml (lưng 1 chén)

Cách làm:

Bí đỏ luộc chín, tán nhuyễn.

Lấy chút nước lạnh khuấy với 10g bột cho tan đều, thêm bí đỏ, đường và phần nước còn lại vào, bắc lên bếp lửa nhỏ, khuấy đều cho đến khi bột chín.

Cho bột ra chén, thêm 1/2 muỗng cà phê dầu trộn thật đều sau đó mới cho từ từ sữa bột béo vào.

Bé ăn từ 1/3 đến 1 chén mỗi ngày.

BỘT TRỨNG - CÀ RỐT (Một chén cung cấp 150 calo)



Nguyên liệu:

Bột gạo 10g (2 muỗng canh gạt)

Trứng gà 15g (1/2 lòng đỏ)

Cà rốt 30g (3 muỗng canh)

Đường 2g (1/2 muỗng cà phê)

Dầu 5g (1 muỗng cà phê)
Nước 200ml (lưng 1 chén nước)

Cách làm:

Cà rốt nấu chín tán nhuyễn

Trứng gà: đánh đều lòng đỏ

Cho 10g bột vào ít nước quậy tan đều, thêm vào phần nước còn lại cùng với trứng, bí đỏ, đường.

Bắc lên bếp lửa nhỏ, khuấy đều tay đến khi bột chín, cho ra chén thêm vào 1 muỗng cà phê dầu trộn đều.

BỘT ĐẬU HŨ - BÍ XANH (Một chén cung cấp 122,5 calo)



Nguyên liệu:

Bột gạo 10g (2 muỗng canh gạt)

Tàu hũ trắng 30g (3 muỗng canh)

Bí xanh 30g (3 muỗng canh)

Đường 2g (1/2 muỗng cà phê)

Dầu 5g (1 muỗng cà phê)
Nước 200ml (lưng 1 chén nước)

Cách làm:




bí xanh nấu chín tán nhuyễn

Tàu hũ trắng tán nhuyễn
Hòa 10g bột gạo với chút nước, thêm vào hỗn hợp trên với phần nước còn lại, bí xanh, tàu hũ, đường, bắc lên bếp lửa nhỏ, khuấy đều đến khi chín.

Cho ra chén thêm vào 1 muỗng cà phê trộn đều, nêm nước mắm ngon hoặc muối iốt vừa ăn.

Có thể thay thế bí xanh bằng rau dền, rau muống, rau mồng tơi...
05:55 CH 10/01/2009
Sữa đậu nành - Đậu phụ
Các sản phẩm đậu tương có tác dụng ngăn ngừa bệnh loãng xương ở phụ nữ mãn kinh, khi mà sự thay đổi hoóc môn làm mỏng xương nhanh chóng và tăng nguy cơ gãy.

Tốc độ mất xương xảy ra đặc biệt nhanh trong 5 tới 7 đầu mãn kinh. Nguyên nhân là do lượng hoóc môn oestrogen giảm mạnh, có thể gây mất tới 5% khối xương mỗi năm. Trong khi đó, liệu pháp hoóc môn thay thế lại tiềm ẩn nhiều nguy cơ cho sức khỏe như chứng đột quỵ. Do đó, protein đậu tương được xem là giải pháp thay thế hiệu quả.

Trong nghiên cứu mới nhất trên khoảng 24.000 phụ nữ trong vòng 3 năm, những phụ nữ mãn kinh hấp thu nhiều protein đậu nành nhất có nguy cơ gãy xương thấp hơn 37% so với nhóm ăn ít nhất.

"Các thực phẩm từ đậu tương làm giảm đáng kể nguy cơ gãy xương, đặc biệt ở phụ nữ trong những năm đầu sau khi mãn kinh", tác giả Xianglan Zhang, Đại học Vanderbilt (Mỹ) cho biết.

Số phụ nữ tham gia nghiên cứu được chia thành 5 nhóm theo các mức tiêu thụ đậu nành, trong đó mức cao nhất là 13 g mỗi ngày và thấp nhất là 5 g, còn trung bình là 8,5 g. Các sản phẩm đậu nành được ưa chuộng là sữa đậu nành, đậu phụ, giá làm từ đậu tương và đậu tương tươi.

Một số nghiên cứu trước đây đã công nhận protein đậu tương có ảnh hưởng tích cực đối các triệu chứng mãn kinh, đặc biệt làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và các dạng ung thư liên quan đến hoóc môn. Tuy nhiên, cũng giống như hoóc môn oestrogen, nó có thể kích thích sự tăng trưởng một số tế bào gây bệnh ung thư vú.

Theo Cục quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA), ngoài đậu tương, cách làm chậm quá trình mất xương khác là tăng cường luyện tập và tăng hấp thu canxi và vitamin D.
07:01 CH 09/01/2009
Huyết áp thấp - các mẹ giúp mình với
Huyết áp thấp là khi huyết áp tối đa dưới 90mmHg, huyết áp tối thiểu dưới 50mmHg (< 90/50). Bệnh nhân ý thức lơ mơ hoặc mất hoàn toàn do thiếu oxy não. Nguyên nhân đôi khi chỉ do quá xúc động, như trông thấy tai nạn, chảy máu hoặc đau khi tiêm, nhổ răng.

Huyết áp thấp đột biến: là tình trạng huyết áp đang bình thường hay cao từ trước, nay hạ xuống đột ngột (hạ chừng 30-40mmHg). Trường hợp này thường là do một bệnh lý. Hạ huyết áp đột ngột gây ra tình trạng suy tuần hoàn cấp. Huyết áp có thể rất thấp hoặc mất, mạch nhanh, nhỏ hoặc không bắt được. Ý thức lơ mơ hoặc mất hoàn toàn do thiếu oxy não.


Các mức độ suy tuần hoàn từ nhẹ đến nặng như sau:


- Choáng váng, xây xẩm, thoáng ngất, nằm xuống một lúc thấy đỡ.


- Ngất: xảy ra nhanh, mất ý thức, ngừng thở, ngừng tim rồi phục hồi nhanh chóng.


- Truỵ mạch: xảy ra đột ngột, ý thức lơ mơ, huyết áp hạ, mạch nhanh, nhỏ. Thường gặp ở các bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc. Bệnh tim mạch giai đoạn nặng.


- Sốc: xảy ra từ từ, mạch nhanh, huyết áp hạ, trán vã mồ hôi.


- Chết đột ngột: là tình trạng không có huyết áp, không mạch. Không hồi phục mặc dù cấp cứu hồi sức tốt.


Nguyên nhân gây huyết áp thấp đột biến gồm:


Cường phó giao cảm: còn gọi là cường phế vị, người xanh xao, mệt mỏi, hay ngáp, nhịp tim chậm. Huyết áp hạ đột ngột xảy ra khi lo sợ, khi quá xúc động, như trông thấy tai nạn, chảy máu hoặc đau khi tiêm, khi nhổ răng…


Một số bệnh tim mạch: viêm cơ tim cấp, nhồi máu cơ tim, viêm tim toàn bộ… Nhồi máu cơ tim thường có cơn đau thắt ngực dữ dội hoặc có cảm giác nằng nặng trước ngực từ lâu, làm điện tâm đồ sẽ thấy có tổn thương điển hình.


Chảy máu cấp: do chấn thương vỡ tạng đặc biệt (gan, lách, thận) do xuất huyết nội như chảy máu dạ dày tá tràng, chảy máu do vỡ tĩnh mạch thực quản trong xơ gan, ho ra máu, vỡ thai ngoài dạ con…


Mất nước nhiều: do tiêu chảy, nôn liên tục.


Hạ đường huyết: do bị đói, dùng quá liều thuốc điều trị đái tháo đường. Bệnh nhân cảm thấy chân tay bủn rủn, chóng mặt, lờ đờ, buồn ngủ, trán vã mồ hôi.


Phản ứng thuốc hay sốc phản vệ: các loại kháng sinh penicilline, streptomycine, aspirin… Sốc có thể xảy ra tức thì hoặc muộn hơn vài giờ. Bệnh nhân thấy tê môi, người bứt rứt khó chịu, mắt có thể sưng húp, mạch nhanh. Không cấp cứu kịp thời có thể chết.


Sốc khi hút dịch: ở màng phổi, màng tim, màng bụng. Do hút tốc độ nhanh hoặc hút nhiều dịch trên bệnh nhân sẵn có cơ địa cường phế vị. Có khi chỉ mới chọc kim qua da, bệnh nhân đã thấy choáng váng, mặt tái nhợt, muốn nằm, vã mồ hôi trán, mạch nhanh.


Các trường hợp huyết áp hạ đột biến, cần xử trí rất khẩn trương để cứu sống người bệnh.


Huyết áp thấp liên tục: là huyết áp luôn luôn thấp hơn mức bình thường. Hiện tượng này thường gặp ở người có cơ địa huyết áp thấp và ở một số bệnh gây huyết áp thấp.


Huyết áp thấp liên tục có hai thể:


Huyết áp thấp tiên phát: do cơ địa hay do cấu tạo của cơ thể, thường xuyên có huyết áp thấp, nhưng không có trở ngại gì trong sinh hoạt. Loại này không có triệu chứng, không cần dùng thuốc điều trị, trừ trường hợp bị ngất, nhất là do lao động chân tay nặng.


Huyết áp thấp hậu phát: thường do một nguyên nhân nào đó gây ra. Bệnh nhân thấy mệt mỏi, thoáng ngất, ngón tay, ngón chân lạnh, có khi tím da. 8 nguyên nhân gây huyết áp thấp hậu phát gồm:


- Cơ thể suy mòn lâu ngày do ung thư, lao, đái tháo đường, xơ gan.


- Nhiễm trùng, nhiễm độc kéo dài.


- Thiếu máu mạn tính: Do giun móc, do các bệnh mạn tính.


- Suy tim: thường hạ huyết áp tối đa.


- Do uống thuốc điều trị huyết áp liều cao hay điều trị kéo dài. Cần kiểm tra huyết áp khi uống thuốc, nhất là loại thuốc methyldopa.


- Addison: suy vỏ thượng thận, sạm da, người mệt, chóng mỏi các cơ, không làm được các việc gắng sức.


- Bệnh suy giáp trạng: phù cứng, ấn lõm, mặt béo, môi dày, lưỡi to, các ngón chân, ngón tay cũng mập, chậm chạp, lười suy nghĩ. Huyết áp hạ, mạch nhỏ chậm.


- Do các bệnh thần kinh: Tabét, rỗng tủy sống…


Hạ huyết áp tư thế đứng: xảy ra khi đang nằm mà đứng dậy, huyết áp vẫn cố định hoặc giảm đi 10-20mmHg, còn huyết áp tối thiểu tăng lên. Người hạ huyết áp tư thế đứng là người có huyết áp bình thường, khi chuyển từ tư thế nằm sang tư thế đứng, huyết áp tối đa giảm quá 20mmHg và huyết áp tối thiểu bình thường hay hạ, tức là < 90mmHg/50mmHg.


Triệu chứng: khi đứng dậy, huyết áp hạ, chóng mặt, người loạng choạng, muốn ngất, tim đập nhanh. Thể nặng thì ngất, ngã gục xuống. Nếu người bệnh được nằm thì sẽ hồi phục bình thường.


Nguyên nhân: thường do dùng thuốc làm mất nước ngoài tế bào như dùng thuốc lợi tiểu, do chế độ ăn kiêng muối; Đang dùng thuốc hạ huyết áp, thuốc trầm cảm. Bị cắt đoạn thần kinh giao cảm thắt lưng, người giãn tĩnh mạch chi quá mức. Có thai, nhược cơ, thiếu máu... Hạ huyết áp thế đứng còn gặp ở người làm việc trong các ngành nghề phải đứng liên tục nhiều tiếng đồng hồ (đứng gác, đứng máy, làm tiếp viên).
06:55 CH 08/01/2009
l
le petit chat
Bắt chuyện
670Điểm·8Bài viết
Báo cáo