images
Thịnh hành
Cộng đồng
Bé yêu - Mẹ có quà cả nhà đều vui
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Bị đánh chết sau khi đo nồng độ cồn
TT - Người nhà nạn nhân cho rằng bị cảnh sát giao thông (CSGT) đánh, phía Công an TP.HCM cho rằng lời khai của nạn nhân thiếu nhất quán do say rượu. Nhân chứng khẳng định có người đánh, xô nạn nhân.
Theo lời các nhân chứng thì đây là khu vực ông Chín bị đánh (đường Trường Chinh, Q.Tân Bình, TP.HCM) - Ảnh: G.Minh


Chiều 30-6, thiếu tá Nguyễn Quang Thắng - phó chánh văn phòng Công an TP.HCM - cho biết ban giám đốc Công an TP.HCM đã giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Q.Tân Bình thụ lý điều tra ban đầu vụ ông Nguyễn Văn Chín (44 tuổi, ngụ Q.Gò Vấp) tử vong. Theo thiếu tá Thắng, dựa trên kết quả điều tra ban đầu, nếu có dấu hiệu của việc tác động ngoại lực gây ra cái chết cho ông Chín thì Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Q.Tân Bình có trách nhiệm chuyển hồ sơ cho văn phòng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP để điều tra theo thẩm quyền.
“Nạn nhân bị đánh, bị xô”

Theo tìm hiểu của Tuổi Trẻ, biên bản vi phạm hành chính đối với ông Chín được lập lúc 22g15 ngày 25-6, có cả chữ ký của nhân chứng và đại diện chính quyền địa phương (Công an P.13, Q.Tân Bình). Biên bản tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính thì được lập lúc 22g20 ngày 25-6. Đặc biệt là quyết định tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính của Công an Q.Tân Bình cũng được ban hành, ký, đóng dấu vào ngày 25-6.

Đó là khẳng định của ông Nguyễn Hùng Minh (48 tuổi), người tận mắt chứng kiến cảnh một người đàn ông (mà bây giờ ông cho đó là ông Chín) bị một số thanh niên đánh ngày 25-6 tại vị trí cách tổ công tác của CSGT Công an Q.Tân Bình khoảng 50m. “Lúc đó, tụi tui đang ngồi nhậu, thấy hai thanh niên ngồi trên hai xe máy ở ven đường Trường Chinh nhưng nghĩ nhóm này đang tránh tổ CSGT phía trước nên không chú ý. Bỗng dưng tôi nghe tiếng đổ đánh ầm. Quay qua thì thấy người đàn ông bị té sát cột điện đầu hẻm gần đó, hai thanh niên vừa đánh vừa xô ông này”. Ông Minh cho biết thêm: “Tụi tui thấy người bị đánh đi bộ về phía tổ CSGT nên cũng thôi, để nhóm thanh niên đi. Nếu biết ổng bị gì nặng, hoặc ổng còn nằm đó là tụi tui tóm mấy thằng đó lại rồi”.

Một nhân chứng khác, bà Trần Thị Kim Phượng (47 tuổi), ngồi bán hàng ngay gần cây cột điện - nơi bà và ông Minh tả là vị trí người đàn ông bị đánh té xuống, nói: “Tôi còn nhớ nhóm thanh niên đánh ông đó có hai người cao và hai người gầy hơn đi xe máy. Sau khi bị đánh, ông đó còn ngồi lại một lúc mới đứng dậy đi lại chỗ nhóm CSGT đang làm việc”.

Về phía gia đình nạn nhân, ông Nguyễn Văn Tình, anh trai của ông Chín, cho biết ông Chín kể lại cho ông Tình và gia đình nghe trong trạng thái tỉnh táo, rằng do cự cãi với CSGT về việc không được giao biên bản, ông được hai người mặc thường phục gọi ra chỗ vắng, nói là để đưa biên bản. Nhưng ra đó thì bị đá, bị đánh tới xỉu đi. Khi tỉnh lại phải bò lết ra ngoài, tự gọi taxi đi cấp cứu.

“Chưa có dấu hiệu liên quan”

Thiếu tá Nguyễn Quang Thắng cho biết: Công an TP ghi nhận có nhân chứng cung cấp thông tin là ông Chín có tranh cãi với hai thanh niên đi xe máy cùng chiều trước khi bị CSGT dừng xe kiểm tra nồng độ cồn. Hiện cơ quan điều tra đang truy xét hai thanh niên này. “Chưa có dấu hiệu về quan hệ nhân quả giữa sự kiện ông Chín bị xử phạt vi phạm giao thông và bị chết sau cấp cứu cho dù là do bị đánh” - ông Thắng nói.
Theo thiếu tá Thắng, Công an Q.Tân Bình đã yêu cầu Trung tâm Giám định pháp y TP phối hợp với các cơ quan chức năng giám định tử thi, ban đầu xác định ông Chín bị thủng ruột non, thành bụng có dấu vết tụ máu nhưng chưa thể xác định vết bầm này do ngoại lực hay có thể tụ máu do vết mổ cấp cứu.

Thiếu tá Thắng cho rằng lời tường thuật của nạn nhân cho người thân là thiếu nhất quán, có thể do say rượu. Ông Nguyễn Văn Tình trình báo là được ông Chín gọi điện báo bị CSGT giữ xe. Sau đó, bị hai thanh niên lạ mặt đánh rồi phải tự bò lết từ chỗ bị đánh ra đường gọi taxi vào bệnh viện. Tuy nhiên, tiếp xúc với tài xế taxi - người lái xe chở ông Chín vào viện, tài xế này xác định chính CSGT mặc cảnh phục là người gọi taxi dừng lại để chở ông Chín về nhà, vì CSGT nghĩ ông Chín đã quá say.
GIA MINH

Cần làm rõ những nghi vấn
Thông qua lời kể của gia đình nạn nhân và thông tin ban đầu từ phía công an, theo tôi, có một số nghi vấn cần sớm được làm rõ như sau:
- Nhóm người lạ ở đâu đến không lâu sau lúc giữa nạn nhân và CSGT có sự đôi co khi nạn nhân đề nghị được giao biên bản tạm giữ xe? Họ có phải là “những người chứng kiến được mời ký vào biên bản do nạn nhân không chịu ký tên vào biên bản vi phạm (nồng độ cồn vượt mức quy định)” như báo cáo của CSGT hay là những người khác nữa? Lý do gì mà hai nghi can mặc thường phục lại đánh nạn nhân đến bất tỉnh và sau đó tử vong?
- Dẫu chưa xác định được hung thủ và nguyên nhân xảy ra vụ việc nhưng xem ra vụ việc chết người này có dấu hiệu tội phạm (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hay tội giết người...). Vì sao cơ quan công an không khởi tố vụ án ngay theo khoản 1 điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự để trên cơ sở đó điều tra, quyết định khởi tố bị can, tiến tới xác định sự thật của vụ án?

Luật sư
TRẦN THỊ MIỀN


Bác sĩ: vỡ ruột non vì ngoại lực rất mạnh
Chiều 30-6, bác sĩ Bùi Văn Duy - khoa cấp cứu Bệnh viện Thống Nhất TP.HCM - kể lại đêm 25-6, ngay từ lúc được taxi đưa đến cửa khoa cấp cứu, nhân viên trong khoa cấp cứu đã nghe thấy ông Nguyễn Văn Chín nói: “Tôi có lỗi. Công an đã đánh tôi đau bụng thế này”. Từ khi được đưa vào khoa cấp cứu đến lúc được chuyển lên khoa ngoại tổng quát để phẫu thuật, ông Chín nhiều lần nhắc lại câu nói này. Nghe ông nói vậy, bác sĩ Duy đã hỏi: “Có dùng dụng cụ gì đánh không?”. Ông Chín trả lời: “Chỉ dùng tay và chân đánh vào bụng tôi và đã làm tôi đau thế này”.
Theo bác sĩ Duy, dù lúc nhập viện ông Chín có mùi rượu bia nhưng bệnh nhân vẫn tỉnh táo. Khi nhân viên y tế hỏi số điện thoại của người thân, ông đọc ngay số điện thoại của vợ ông. Ông Chín nhập viện trong tình trạng đau bụng vật vã, vã mồ hôi. Quần áo ông ướt, dơ, bị bám đầy đất đường. Khi khám, bác sĩ Duy thấy bệnh nhân có một chút bầm ở bụng, những chỗ còn lại không bị sây sát. Bác sĩ Duy cho rằng bệnh nhân không thể bị té vì khi bị té sẽ để lại những vết sây sát.
Bác sĩ Trương Quang Vũ, trưởng phòng kế hoạch tổng hợp Bệnh viện Thống Nhất, cho biết kết quả chụp CT vùng bụng cho thấy bệnh nhân có dịch trong ổ bụng. Do vậy, các bác sĩ đã quyết định phẫu thuật cho bệnh nhân. Trong lúc phẫu thuật, các bác sĩ đã phát hiện bệnh nhân bị vỡ ruột non với lỗ thủng lớn, có đường kính 1,5cm. Bác sĩ Quang Vũ cho rằng bệnh nhân phải chịu một ngoại lực rất mạnh vào vùng bụng mới gây ra vỡ ruột non như vậy.

T.DƯƠNG - Đ.THANH


http://tuoitre.vn/Chinh-tri-xa-hoi/Phap-luat/615396/vu-chet-nguoi-sau-khi-csgt-do-nong-do-con-mau-thuan-kho-hieu!.html
05:04 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (kỳ cuối): Giang hồ Sài Gòn xưa khác nay
Trong số tám khu biệt giam chuồng cọp thuộc trại 7, riêng khu C đúng nhốt tội phạm hình sự “thứ dữ” và bọn du đãng “có vằn có vện”.


Giang hồ Sài Gòn xưa khác nay


Tác giả viết bài này từng bị giam tại chuồng cọp trại 7, khu C, Côn Đảo gần hai năm (từ giữa năm 1973 đến 30/4/1975). Trong số tám khu biệt giam chuồng cọp thuộc trại 7, riêng khu C đúng nhốt tội phạm hình sự “thứ dữ” và bọn du đãng “có vằn có vện”.

Cứ hai người một phòng giam, luân phiên một vài tháng lại đổi người, nên tôi có dịp làm quen, tìm hiểu khá kỹ về giới giang hồ năm xưa. Khi bị giam ở Chí Hoà, tôi còn gặp cả bọn Chương Khùng, Việt Parker - và trước nữa, trong lần ở tù 1965 - 1970 là Đại Cathay, trùm du đãng nổi tiếng nhất hồi đó, nên có thể nói phần nào tôi có điều kiện “thâm nhập” giới này.

Sau ngày miền Nam giải phóng, khoảng giữa những năm 1980, con trai tôi học Taekwondo tại võ đường Hồ Xuân Hương, quận 3, TP.HCM, chung với con trai của Năm Cam. Và nhân một lần tổ chức sinh nhật cho con trai tôi tại nhà riêng (tôi cho phép con mời một số bạn học việc và bạn học võ chung lớp), Năm Cam chở con trai y tới nhà tôi làm quen. Thế là thông qua Năm Cam và đàn em của y, tôi cũng biết thêm khá nhiều về giới giang hồ tại TP.HCM sau này.

Do đó, căn cứ vào hiểu biết cá nhân, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số nhận xét của mình về những điểm khác biệt của giới giang hồ xưa và nay. Tất nhiên những nhận xét của tôi hoàn toàn do chủ quan, rất có thể phiến diện, còn nhiều sai sót và không được nhiều người đồng tình. Tôi xin sẵn sàng tiếp thu những ý kiến khác, kể cả trao đổi bổ sung, thậm chí đối lập với ý kiến của tôi.

Tôi không kể những điểm giống nhau trong giới giang hồ, vì thời nào chẳng vậy, họ là thủ phạm gây nên nhiều vụ án hình sự nghiêm trọng từ cướp của tới giết người, từ đâm thuê chém mướn tới đánh lộn đánh lạo, từ tổ chức sòng bạc, buôn bán ma tuý tới cho vay nặng lãi, bảo kê các vũ trường, quán bar, gầy động mãi dâm…

Mặt khác họ tìm cách hối lộ, mua chuộc các quan chức trong bộ máy nhà nước, nhất là quan chức trong các lực lượng liên quan đến pháp luật như công an, toà án, kiểm sát.

Tuy nhiên, trong giới giang hồ trước đây luôn có một số điều luật bất thành văn mà giới giang hồ sau này không tôn trọng.
Trước hết, giang hồ cũ không bao giờ “đụng” với quan chức thực thi pháp luật. Đại Cathay lẫy lừng là vậy mà sau lần lỡ tay giựt cùi chỏ đánh Cò Ly (Trưởng ty Cảnh sát quận 1) tại vũ trường Tự Do đã phải trốn chui trốn nhủi, nhờ người đứng ra dàn xếp, xin lỗi. Kết cuộc, Đại Cathay phải chịu hình phạt của Cò Ly: Cấm không được lui tới những vũ trường, nhà hàng mà Cò Ly đã có mặt trước. Cò Ly cho rằng Đại Cathay đã phạm tội “khi quân”.
Cũng vì dám động đến đám lính không quân (dù chưa làm ai bị thương chớ đừng nói đến chết) mà nguyên đám giang hồ của Đại Cathay bị xoá sổ vào năm 1966.

Giang hồ sau này khác hẳn; đụng quan chức, kể cả công an cũng “chơi” luôn: Dám dùng dao đâm chết cảnh sát Phan Lê Sơn ngay tại một quán nhậu ở trung tâm thành phố.

Thứ nhì, tuy dân giang hồ thời trước cũng có đủ loại vũ khí, từ dao lê, mã tấu, côn nhị khúc… đến súng, lựu đạn; nhưng “hàng nóng” (tức súng, lựu đạn) chỉ dùng để ăn cướp mà không bao giờ dùng đến khi thanh toán nội bộ hoặc đấu đá, thu phục lẫn nhau.

Thí dụ, khi Đại Cathay muốn thâu tóm băng của Tín Mã Nàm ở khu vực Đại Thế Giới, Chợ Lớn, Đại chỉ huy đám binh hùng tướng mạnh mang theo dao búa gậy gộc tấn công đối thủ. Phe Tín Mã Nàm cũng vậy, chỉ dùng “tay nghề” tức võ thuật và tài sử dụng dao búa để kháng cự, dù cả hai phe súng ống đầy rẫy. Nhiều lần đụng độ bất phân thắng bại, có khi mỗi bên xuất quân tới mấy chục, nhưng chưa khi nào nghe tiếng súng nổ, cũng do đó bình thường đôi bên chỉ bị thương chớ không ai bỏ mạng bao giờ.

Giang hồ khi xưa quan niệm, khi chỉ dùng “tay nghề” thi đấu, bên nào thua mới tâm phục khẩu phục. Cho nên, những “đại ca” thời trước đều phải vừa gan lì, vừa phải thường xuyên thao dợt võ nghệ, tập luyện thân thể, kể cả trong tù. Võ của họ hầu hết không theo một trường phái cụ thể nào, không nhằm múa cho nhuyễn, “đi bài” cho đẹp, nhưng là những đòn thế giang hồ theo kiểu tổng hợp “thập cẩm” chủ yếu là làm bất cứ cách nào hạ được đối thủ, sát thương đối thủ như chơi.

Trong khi giới giang hồ bây giờ hở một chút là “chơi hàng nóng”. Cụ thể như Bình Kiểm, mau chóng có số má chỉ nhờ vào mấy khẩu súng. Hoặc Châu Phát Lai Em, nổi lên bước đầu nhờ khích một tay đàn anh đấu võ tay không, riêng Lai Em lén giấu dao trong áo, khi thấy nguy cơ thua liền rút dao đâm diệt đối thủ…

Thứ ba, giang hồ ngày trước, dù đã lên đến hạng “đại ca” vẫn sẵn sàng trực tiếp thi thố tài năng khi cần thiết. Đại Cathay khi cùng một lô tay em lên Đà Lạt, gặp trùm du đãng xứ sương mù là Xi Rỗ, Đại Cathay chơi “pạc co (par corps tức đấu tay đôi) liền, không chút sợ hãi (nếu là Năm Cam hay Hiệp Phò mã, dám chắc cả hai bỏ chạy có cờ).

Giang hồ Sài Gòn 1 thời
Thứ tư, ngày trước đã mang danh dân giang hồ là phải “chơi đẹp”. Tất nhiên không phải hiểu “chơi đẹp” theo nghĩa thông thường là chi tiêu hào phóng, rộng rãi; mà là đối với bạn bè - dù bất cứ thành phần đối tượng nào đã kết thân coi như bạn - phải đàng hoàng, không nói dóc, hứa cuội, mà giữ gìn chữ tín, nể trọng lẫn nhau.

Mãi đến bây giờ tôi vẫn còn ân hận một chuyện: Khoảng đầu 1977 tôi gặp lại Huệ Râu, trước bị giam chúng với tôi tại chuồng cọp khu C, trại 7. Anh em mừng mừng tủi tủi, ôn lại đủ thứ chuyện hồi bị giam chung tại khu C trại 7 ngoài Côn Đảo. Thấy anh gầy và xanh, tôi sực nhớ có nghe một cựu tù nhân kể anh chơi xì ke, tôi hỏi nhưng anh chối. Tôi nói dứt khoát: “Nếu anh không chơi thứ đó thì tốt. Nhưng nếu còn dính đến xì ke thì đừng gặp tôi nữa”. Từ đó tôi không bao giờ gặp lại anh, sau này nghe tin anh chết mà vẫn không bỏ được thứ ma tuý ấy. Phải chi lúc ấy tôi đừng quá “căng” hoặc Huệ Râu cứ nói dối tôi có thể sự việc đã đổi khác. Tôi kết thân với anh em giang hồ cũ chính là nhờ điểm này. Đến tận lúc chết, Lâm Chín ngón vẫn tự coi là “đàn em” của tôi một cách rất thật tình.

Giang hồ
thời nay không thiếu gì kẻ lừa thầy phản bạn, bán đứng anh em, từ “chơi đẹp” gần như đã chìm hẳn vào quá khứ.
Cũng chính một phần nhờ “chơi đẹp” mà giang hồ năm xưa mới nổi đình đám, được cảm tình của một số người, trong đó các doanh nhân, văn nghệ sĩ, và cả một số lính, cảnh sát của chế độ cũ (như Lành là cảnh sát Tổng nha theo làm tài xế cho Đại Cathay; Sáng và Cu Quì là người nhái làm đàn em của Đại…).

Thêm một câu hỏi: Tại sao giang hồ Sài Gòn lại rộ lên, với khá nhiều đồn đại (đôi khi không có thực) vào quãng 1962 - 1967, để rồi tàn lụi? Những thế lực giang hồ về sau này không thể có một vài phong cách hành xử “đẹp” như như Đại Cathay và đàn em trong một số trường hợp, tại sao? Có thể đưa ra hai lý do để tạm giải thích.

Thứ nhất, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, các tướng lãnh chế độ Sài Gòn cũng như các chính trị gia khi ấy chỉ lo đấu đá, hết đảo chính lại “chỉnh lý” rồi bầu cử (dỏm) để tranh chức tranh quyền, không mấy chú ý đến trật tự an toàn xã hội. Tổng nha Cảnh sát chủ yếu lo đối phó với Mặt trận Giải phóng miền Nam và đàn áp sinh viên học sinh xuống đường, biểu tình chống chiến tranh, chống Mỹ, mà lơ là số du đãng quấy phá. Mãi đến khi Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống, thế chính trị đã tạm ổn, mới quay ra lập ra “Uỷ ban bài trừ du đãng trung ương” thì giang hồ đã đủ lông đủ cánh, thành một “thế lực” có tiếng tăm khá vang dội.

Thứ nữa, khoảng giữa những năm 1960 là lúc triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre ảnh hưởng khá nhiều đến miền Nam Việt Nam nói chung, giới thanh niên nói riêng. Rất tiếc, quan niệm “dấn thân” (s›engager) của nhà triết học nổi tiếng người Pháp này lại bị hiểu theo một nghĩa khác là “sống hết mình”, kể cả ăn chơi, trác táng cũng hết mình. Không ít thanh niên - nhất là số có nền văn hoá từ trung bình trở xuống - đã thể hiện quan niệm sai lệch này. Đồng thời đây phải chăng cũng là biểu hiện của không ít thanh niên khi ấy bế tắc trước cuộc sống: Tương lai mình không biết đi về đâu trước tình hình khi ấy, trong khi không dễ gì tự mình tìm đến với cách mạng, và cũng không dễ gì có gan đi theo cách mạng.

Suy cho cùng, giới giang hồ cũng chỉ là một sản phẩm của xã hội. Chính xã hội bát nháo khi đó, với “thượng tầng kiến trúc” là các “chính khứa” xôi thịt đấu đá nhau, tranh giành quyền lực đã tạo ra lớp Tôi còn nhớ đoạn được đoạn mất của một bài thơ sặc mùi “hiện sinh” mà Đại Cathay và Lâm Chín ngón rất mê, học được khi “đoong thóc” (tức nằm hút thuốc phiện) tại tiệm Khang Sinh (nằm gần khu Đại Thế Giới - vốn là nơi nhiều văn nghệ sĩ và dân giang hồ thời trước thường lui tới), từng đọc cho tôi nghe:

Hắn mái tóc nâu vương niềm đau thế kỷ
Quần blue jeans chung thuỷ bạc thời gian
Bastos xanh gắn chặt ngón tay vàng…
Theo thời gian hắn vươn mình cuồng loạn
Lớp trẻ đôi mươi hôm nay cởi mở lòng
Và trọn vẹn cho hắn sống
Dù mất hồn như François Sagan, David Victor,
Tương lai đâu?…
Hai giờ đêm có kẻ mất hồn
Hè đại lộ, bar, show, dồn dập on night
Lê gót giầy nghiến từng lưng phố sá
Crazy love, kêu em về mộng mị đắm say…

Tuy nhiên, cũng chính nhờ hiểu lõm bõm về Sartre, Albert Camus, Andre Gide mà du đãng khi ấy còn ghi được một vài nét được gọi là “đẹp” của giới giang hồ như trên đã viết: Họ muốn tự coi mình vốn là người đàng hoàng, chẳng qua thời thế đưa đẩy mới trở thành giang hồ, và dù là giang hồ vẫn có những hiểu biết nhất định về cách đối nhân xử thế.

Tiếc thay, vài nét được gọi là “đẹp” của giới giang hồ khi ấy cũng mai một dần, biến tướng dần, trong khi những đặc trưng khác của xã hội đen như cướp giật, thủ đoạn, tranh giành địa vị, thanh toán lẫn nhau, kết bè kết phái, mua chuộc hối lộ… hầu như trở thành bản chất của các băng nhóm tội phạm sau đó.

VŨ QUANG HÙNG
04:43 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ sài gòn (Kỳ 12): Lời cầu nguyện cho Lâm Chín Ngón

Sau vụ bảo kê quán nhậu ở Tân Sơn Nhất, đụng độ với băng giang hồ Hải Phòng, Lâm lo tu tỉnh làm ăn thật, nhưng cũng không có gì khấm khá.

Lâm Chín Ngón - ngày tàn của đại ca

“Dẹp loạn” giang hồ Campuchia?

Khoảng đầu năm 1994, khi ấy tôi đang làm Tổng Biên tập một tạp chí, sáng một bữa nọ Lâm tìm đến tôi ở toà soạn. Lâm bắt tay tôi, giọng hơi bất bình thường:
- Anh ạ, bữa nay em tới tạm biệt anh, mà cũng có thể là vĩnh biệt!

Tôi ngạc nhiên:
- Sao Lâm nói kỳ vậy?

- Nếu hơn một tháng nữa mà anh không gặp em, không nghe tin tức gì về em tức là em đã chết, bỏ xác ở Campuchia.

Tôi còn tưởng mình nghe lộn:
- Lâm làm gì mà qua tận Campuchia?

- Em nói thiệt. Ở đây làm ăn thất bại quá. Bên Campuchia hồi này người Việt qua làm ăn đông lắm, giang hồ cũng kéo qua đó, chia băng chia phái kèn cựa nhau. Chúng nhờ em qua…

- Sao Lâm hứa với tôi rút khỏi dân chơi rồi mà?

- Không. Chúng nhờ em qua hoà giải, vậy thôi. Em chỉ tin có anh, nên anh là người duy nhất em nói về việc đi Campuchia và chào tạm biệt. Ở bên này mãi, tiền bạc không có…

- Như vậy Lâm qua đó, lạ nước lạ cái, làm sao đi lại, làm sao sống?

- Có người bảo đảm chi cho em ăn, ở, luôn cả lộ phí. Miễn sao em thu xếp cho anh em giang hồ người Việt bên đó đỡ kình chống nhau. Nhưng bọn xã hội đen bây giờ cũng tráo trở lắm, em qua cũng có thể bỏ xác quê người…

Tôi nghe Lâm nói tự nhiên thấy bùi ngùi, móc ví sau túi quần, thấy trong ví còn hơn 300 ngàn đồng, liền đưa Lâm hết số tiền chẵn:
- Lâm cầm đỡ ít tiền qua đó sinh sống.

Lần đầu tiên tôi thấy Lâm rơm rớm nước mắt khi đưa tay nhận tiền:
- Nếu còn sống, thế nào em cũng về gặp anh. Còn một điều nữa… Em có đứa con gái mới sinh…

(Tôi không tiện viết thêm về cô con gái này cũng như người phụ nữ đã sinh con với Lâm, người này sau đã yên bề gia thất, không muốn ai biết nhiều về quan hệ trước đây của mình; và cô con gái riêng của Lâm, nếu nay còn sống, cũng đã gần 20 tuổi, hẳn cũng muốn sống cuộc đời êm thấm)

Khoảng hơn một tháng sau, bữa nọ Lâm lại đến gặp tôi cũng tại toà soạn, gương mặt vui tươi:
- Em vừa về tới, vội đến gặp anh ngay.

Tôi tò mò:
- Chuyện ra sao rồi?

- Coi như xong. Tốt đẹp cả, vì bọn chúng đôi chút cũng nể mặt em. Nhưng ở bên ấy dễ bỏ mạng lắm, em chẳng thà về lại Việt Nam.

Sự thật chuyện “tay không hạ gục hàng chục côn đồ Vũng Tàu”

Bẵng đi một thời gian, Lâm từ biệt tôi, nói ra Vũng Tàu để làm ăn. Đang lúc bận rộn công việc, tôi không mấy để ý, cũng chẳng tò mò hỏi Lâm ra đó làm ăn cụ thể ra sao.

Thời gian mới ra Vũng Tàu và sau đó khoảng nửa năm, Lâm làm ăn có vẻ khấm khá, mỗi lần về lại TP. HCM gặp tôi thường gởi tiền, quà cho con gái. Mãi sau này nhân một lần vui miệng, Lâm mới kể tôi nghe anh ta ra Vũng Tàu nổi đình đám ra sao. Theo lời Lâm thì “em ra Vũng Tàu; cầm đầu bảo vệ cho một nhà máy thu mua cá, mực, tôm; ốc… nói chúng là hải sản, vựa rất lớn. Nhà máy ngày càng ăn nên làm ra khiến một nơi cạnh tranh bực mình, muốn giành mối. Chiều nọ, một tốp có đến cả chục tên đầu trâu mặt ngựa, đứa nào cũng mang theo vũ khí; đứa dao, đứa kiếm, đứa thanh sắt, đứa côn nhị khúc… xông vào cổng nhà máy của em.

Em bước ra, chặn chúng lại, hỏi:
- Các anh muốn gì?

Một tên mặt mày bặm trợn, ra vẻ đầu sỏ, quát:
- Đây là địa bàn làm ăn của bọn tôi; anh muốn sống thì cút đi chỗ khác!

- Nói vậy đâu được, chúng tôi ở nhà máy bên này, đâu đụng chạm gì tới mấy anh?

- Vậy là thằng này muốn chết!

Và bọn chúng hò hét, vung vẩy dao, kiếm như muốn ăn tươi nuốt sống em.

Em ngó lui: Mấy đứa bảo vệ chung với em nháo nhác lo chuồn ngay khi em bước ra nói chuyện với bọn này.

Với anh là người đầu tiên em mới nói thật, lúc này em muốn chuồn thì cũng đã quá muộn vì mười mấy đứa hình như có bàn tính trước, đã vây quanh em. Em tính quơ đại thứ gì làm vũ khí cũng không thể kịp; vả lại, dù có vũ khí cũng không cách nào một mình chống đỡ nổi số địch thủ đông như vậy. Karate không bằng karabu, tức bu lại mà đánh. Vô kế khả thi, đằng nào cũng chết, em xuống tấn thủ thế, đánh nước liều:
- Chưa chắc thằng nào chết!

Vừa lúc em tính mình từ chết đến bị thương thì bỗng phía bên trong có nhiều tiếng la hét, hàng mấy chục công nhân tay cầm cây khiêng cần xé thủy sản, hoặc dao làm cá bén ngọt xông ra. Thì ra mấy đứa bảo vệ chung với em chạy vô báo lại tình hình, công nhân thấy động đến miếng cơm manh áo thiệt thân với họ, họ hè nhau nhất tề ra đánh đuổi bọn du đãng. Lúc này tình thế đã đảo ngược, nhân số phe ta đông hơn hẳn, áp đảo phe địch, hơn nữa ai cũng có vũ khí. Bọn đầu trâu mặt ngựa vội bỏ chạy có cờ…

Mới biết hay không bằng hên. Mọi người đâu ai biết em nhát gan chỉ được nước liều mạng, khen em hết cỡ, nào là “một mình dám chống lại cả hơn chục đứa”, nào là “tay không đánh với kiếm, dao, tuýp sắt,” nào là “đứng giữa đám đông côn đồ vây quanh vẫn tỉnh bơ,”… Rồi họ còn thêm mắm dặm muối”. Dù sao, sau vụ đó em trở nên có “uy” nhưng cũng bị không ít kẻ ganh ghét”.

Sau một thời gian, Lâm lại dạt về Sài Gòn. Năm 1994, Lâm gá nghĩa với một phụ nữ chí thú làm ăn, đã qua một đời chồng - chị Liên, người mà Lâm gắn bó đến tận cuối đời, người chăm sóc, lo lắng cho Lâm những khi Lâm gặp hoàn cảnh khó khăn nhất. Mà lạ, ngay cả những người con riêng của chị Liên cũng thương yêu Lâm, chăm chút ông dượng.

Những ngày Lâm ra toà (với tư cách nhân chứng và người bị hại) trong vụ xử án Năm Cam và đồng bọn, chị Liên luôn dìu dắt Lâm, đứng cạnh Lâm. Khi ấy, thần kinh Lâm đã bị khủng hoảng (từ sau vụ bị tạt axit), thậm chí chị còn hỏi trước Lâm sẽ khai những gì để khuyên nhủ Lâm khai sao cho có lợi.
Đến tận bây giờ, mỗi khi gặp chị Liên, nhắc lại những kỷ niệm về Lâm, chị vẫn bùi ngùi. Ngay khi viết bài báo này, thoạt đầu chị cũng ngại ngần muốn mọi việc chìm vào dĩ vãng, chuyện đã qua cho qua. Tôi thuyết phục mãi, cuối cùng chị đồng ý, lại còn cung cấp hình ảnh và một số tư liệu về Lâm.

Giang hồ giúp cảnh sát phá án


Có lần Lâm giúp tôi. Đúng ra không phải giúp tôi, mà là giúp một người bạn của tôi, bác sĩ Bê công tác tại bệnh viện Nguyễn Trãi, có nhà riêng ở huyện Bình Chánh.

Chuyện liên quan đến giới giang hồ nên phải nhờ Lâm giúp.

Số là, bác sĩ Bê mở quán ăn tại nhà riêng, thường bị bọn côn đồ địa phương đến quấy phá, như đòi tiền bảo kê, ăn uống thiếu nợ, đòi thu “thuế”. Bác sĩ Bê biết tôi quen một số tay “anh chị”, nhờ xem có cách nào giúp. Tôi tìm Lâm, kể lại mọi việc, giới thiệu Lâm với bác sĩ Bê. Lâm nói “bạn của anh cũng như anh của em,” và bắt tay vào việc.

Hơn một tuần sau, bác sĩ Bê vui ra mặt, nói với tôi mọi việc đã ổn thoả đâu vào đấy, nhờ tôi gởi lời cảm ơn Lâm, nhưng tình tiết cụ thể Lâm làm cách nào thì anh ta không rõ.

Gặp lại Lâm, tôi nhắn lời cám ơn của bác sĩ Bê, vui miệng hỏi Lâm giải quyết cách nào mà ổn thoả nhanh và hiệu quả vậy. Lâm cười cười:
- Đối với em việc dễ như trở bàn tay.

Và theo lời Lâm, anh ta xuống ngay địa bàn nơi bác sĩ Bê có quán ăn, hỏi thăm những kẻ có “số má” cầm đầu tại đây. Xong, Lâm trực tiếp gặp những tên sừng sỏ, côn đồ miệt vườn này. Vừa nghe tên tuổi Lâm chín ngón, bọn chúng đều muốn diện kiến đại ca. Lâm nhắn nhủ với cả bọn: “Đây là bạn đại ca của tao, tụi mày vuốt mặt phải nể mũi, không được léng phéng ở quán của bác sĩ Bê, nghe chưa?”. Đơn giản vậy thôi.

Cũng nhân vụ giải quyết “tép riu” này, Lâm kể tôi nghe một việc Lâm giúp mấy anh công an giải quyết một vụ việc lớn hơn, phức tạp hơn nhiều, xảy ra vào khoảng giữa thập niên 1990, vụ một nhân vật quan trong bị giật chiếc ca táp có đựng tài liệu quan trọng ngay trước cổng trụ sở cơ quan công an tại TP.HCM.

Chuyện đại loại như sau, chiếc xe hơi sang trọng đỗ trước văn phòng cơ quan công an tại đường Nguyễn Trãi). Người đàn ông xách cặp táp ngồi trên băng sau vừa mở cửa xe bước xuống; bỗng một xe gắn máy chạy ngang, tên ngồi phía sau giật phăng cặp táp, ngọt sớt, và xe gắn máy tăng tốc mất hút. Gay go là trong cặp có nhiều tài liệu mật. Chuyên án lập tức được mở. Các trinh sát giỏi nhất được tung vào cuộc. Một ngày… hai ngày… rồi một tuần vẫn chưa lần được manh mối nào. Lâm Chín ngón được mời tới giúp. Sau đây là lời Lâm kể với tôi: “Em kêu ngay bọn ba binh ba tướng thường giật dọc quanh khu vực Cộng Hoà, Đồng Tiến, Mả Lạng, nhắn: “Tụi bay muốn sống phải đưa ngay chiếc cặp giật được lúc… ngày… Tụi bay đụng vào hang cọp rồi đó”. Thì ra bọn chúng ngỡ trong cặp có tiền, đô-la, về giở ra coi mới hay toàn thứ tụi chúng không biết dùng vô làm việc gì, chỉ có nước bán… giấy vụn. Nay bọn chúng muốn trả lại cũng chẳng biết đường đâu mà trả, thêm nỗi sợ tù tội. Nghe em nói tụi chúng đưa ra chiếc cặp táp còn nguyên vẹn. Sau đó anh em công an mở bữa tiệc nho nhỏ ăn mừng, kêu cả em tới”. Không biết lời Lâm kể có thể tin được bao nhiêu phần trăm, nhưng chắc chắn Lâm không thể dựng đứng hoàn toàn câu chuyện.


Ngày tàn của một “đại ca”


Không ít lần Lâm tâm sự với tôi: “Anh biết không, thằng Năm Cam thời anh Đại (Đại Cathay) chỉ là tà lọt ngồi gác sòng bài bên quận 4, học hành chẳng ra sao, không có số má gì, thế mà bây giờ chỉ nhờ khéo nịnh, giỏi hối lộ mà thành trùm”. (Lâm từng theo học chương trình Pháp tại trường Trung học Taberd, Sài Gòn cũ - góc Hai Bà Trưng - Ly Tự Trọng, nay một phần thành trường Trần Đại Nghĩa). Lần nào tôi cũng đáp: “Thôi thì gặp thời thế mà. Chuyện người khác mặc họ, miễn là mình đàng hoàng…”.

Nói vậy chứ tôi biết Lâm không những nói xấu Năm Cam với tôi mà còn tỏ vẻ khinh bỉ, ghét Năm Cam ra mặt với khá nhiều dân chơi cũ cũng như mới. Và thế nào tin này chẳng đến tai Năm Cam.

Cũng có lẽ vì vậy Năm Cam sai đàn em “khử” Lâm chín ngón. Nhưng bọn chúng biết, nếu chơi theo kiểu đấu tay đôi với Lâm khó đứa nào chơi lại (Lâm cao 1,7m, chắc nịch nhờ thường xuyên tập tạ, nổi tiếng sát thủ với các ngón võ giang hồ). Và thế là chúng nghĩ ra chiêu độc: Tạt axit.

Tôi nghĩ không gì trung thực bằng lời kể của chị Liên, nên xin ghi lại nguyên văn: “Tối hôm 14/1/1999, lúc 7g30’, vừa mới bán hết hàng, cu Bi con trai em đòi ăn phở nên anh Lâm chở hai mẹ con đi ăn tại tiệm phở Lợi ở cư xá Bắc Hải. Đến nơi, hai mẹ con xuống trước, em dắt con em đi vào quán còn anh Lâm dựng xe trước cửa quán. Lúc sau em nghe tiếng anh Lâm hét lên; quay lại em thấy đồ anh mặc lủng nhiều chỗ, mặt mũi bị cháy xém, em kêu lên anh bị tạt axit rồi anh ơi. Lúc đó trong quán rất đông người nhưng hỗn loạn em không thể biết ai đã tạt axít vào anh. Lúc đó anh còn hỏi: “Em và con có bị sao không?”. Em nhìn anh lòng đau đớn sợ hãi, em vội kêu taxi chở anh đến bệnh viện”.

May Lâm đeo kính nên hai mắt không bị hỏng hoàn toàn, nhưng thị lực giảm có đến hơn 90%. Lâm phải nằm nhiều bệnh viện để điều trị, mà thời gian lâu nhất là ở Bệnh viện chấn thương chỉnh hình, qua nhiều lần phẫu thuật, tốn cả mấy trăm triệu.

Thời gian này Lâm sinh ra chán đời, không muốn gặp bất cứ ai. Vợ Lâm, chị Liên, mua cho Lâm căn hộ chung cư ở Tân Bình, giấu tất cả bạn bè thân thuộc, để Lâm tĩnh dưỡng.

Tâm trạng Lâm trong thời gian ấy khá hoảng loạn, thậm chí hoang tưởng, lúc nào cũng nghĩ có ai đó muốn hại mình, nên đôi khi nghi ngờ cả tôi cũng muốn hại anh ta (sau nay chị Liên mới kể tôi nghe, đến cả chị cũng không ít phen bị Lâm nghi).

Tuy nhiên, lâu lâu, không gặp tôi, Lâm lại nhờ chị Liên nhắn tôi lên gặp gỡ, tâm sự. Thoạt đầu, Lâm không chút nghi ngờ kẻ hại mình lại là Năm Cam, mà nhất định đổ riệt cho băng giang hồ ngoài Vũng Tàu, hận Lâm vì phá đất làm ăn của chúng nên rắp tâm trả thù (trước cảnh sát điều tra, mới đầu Lâm cũng khai như vậy. Khi họ cho Lâm biết thủ phạm là đàn em Năm Cam và kẻ chủ mưu chính là Năm Cam, Lâm vẫn kể với tôi cũng chưa chắc đã đúng; tôi phải nói “chớ Lâm không tin nhân viên điều tra, không tin lời khai của Năm Cam hay sao? Ngu gì Năm Cam tự vơ thêm tội vào mình?” Lâm mới chịu từ bỏ ý nghĩ ban đầu đã trở thành định kiến).

Từ khi trở thành người không còn lành lặn như xưa, Lâm đổi tính, không còn vui vẻ, cởi mở với mọi người; mà trở nên lầm lì, ít nói.
(Tôi cũng xin mở ngoặc thêm chuyện đi tu của Lâm: Lúc này Lâm và chị Liên đã có một bé trai kháu khỉnh, cu Bi, đang học tiểu học).

Để phần nào giúp Lâm vừa tránh gặp mặt mọi người, vừa có việc làm nhẹ nhàng giết thời gian hầu lãng quên quãng đời lắm gian truân trước đây, chị Liên mua một mảnh đất tuốt bên huyện Nhà Bè, sát mé sông. Tại đây, chị xây nhà, làm chuồng heo, đào ao nuôi cá, cất rượu lấy hèm cho heo ăn, đưa Lâm về bên đó sống biệt lập, xa lánh tất cả…

Ba lần tự vẫn mới “giải thoát” được cuộc đời

Những vết sẹo trên mặt do bị tạt axít tuy đã lành vẫn thỉnh thoảng khiến Lâm vô cùng đau đớn, cả theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, nhất là những khi trái gió trở trời. Không ít lần Lâm nói với tôi “Em nghĩ thà chết cho bớt đau”.

Và quả Lâm nói sao làm vậy.

Phải nói ngay, không mấy người có cái gan như Lâm Chín ngón, kể cả gan tìm đến với cái chết.

Lần đầu Lâm tự tử bằng cách uống thuốc ngủ, dễ có tới hàng trăm viên. Chị Liên vội chở Lâm vào bệnh viện kịp thời súc ruột cứu sống Lâm. Theo chị Liên, một phần nhờ thời gian gần đây Lâm thường xuyên mất ngủ nên hầu như tối nào cũng phải dùng loại thuốc này do đó lờn thuốc.
Trước khi uống thuốc ngủ, Lâm để lại lá thư tuyệt mạng cho vợ:

“Liên yêu quý,
Anh rất mãn nguyện vì yêu em.
Anh vĩnh biệt em vì muốn bảo vệ danh dự gia đình em và xã hội.
Con anh sẽ không buồn tủi vì có một người cha có quá khứ xấu xa.
Em yêu thương con như đã yêu anh…”

Lần thứ hai, Lâm nhảy từ trên nóc nhà bên Nhà Bè xuống đất. Lần này Lâm bị chấn thương cột sống khá nặng, phải nằm điều trị gần 3 tháng ở Trung tâm chấn thương chỉnh hình, nhưng rốt cuộc cũng thoát chết.

Lần cuối cùng. Lâm nhảy vào thùng kháp rượu đang sôi sùng sục, và lần này, Lâm ra đi vĩnh viễn. Chuyện xảy ra vào quãng 12h trưa ngày 30/8/2006.
Đâu khoảng 1h trưa hôm ấy, chị Liên hốt hoảng gọi điện thoại cho tôi, báo tin. Chị cũng kêu tôi sang ngay Nhà Bè để nhờ lo liệu mối thủ tục.

Tôi còn nhớ như in, khi tôi tới nơi, hiện trường còn nguyên vẹn, nhưng tôi không thể nào diễn đạt. Đến tận bây giờ, những hình ảnh phút cuối đời của Lâm Chín ngón vẫn còn như in trong óc tôi, nhất là mỗi lần nghĩ đến người em kết nghĩa năm nào.

Tôi chỉ biết cầu nguyện cho người quá cố được sống an lành bên kia bờ thế giới. Nếu có sống lại kiếp sau, xin đừng trở lại cuộc đời giang hồ đầy bất trắc.

Lâm đã không ít lần tâm sự với tôi muốn trở lại cuộc đời lương thiện, làm ăn đàng hoàng, tử tế. Và, từ trong thâm tâm, tôi biết Lâm cũng rất muốn vậy. Nhưng nhiều khi cây muốn lặng mà gió chẳng muốn dừng, có thể một phần lỗi do Lâm tư tưởng không mấy vững vàng, thêm tác động của bè bạn, xã hội đưa đẩy.

Khi đến một tờ báo đưa tin buồn về Lâm, tôi cũng nhớ lời chị Liên dặn, yêu cầu đừng nói gì thêm, thậm chí không viết rõ Lê Ngọc Lâm là tên thật của Lâm chín ngón.

Mới đó thấm thoắt đã gần 8 năm kể từ ngày Lâm mất…
04:23 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ sài gòn (Kỳ 11): Bữa nhậu hy hữu

Vừa nói Lâm vừa chìa tay đưa lại khẩu súng cho đối thủ, thêm: - “Chó lửa” của các anh đây. Thử sức cho vui vậy thôi, chớ tôi biết các anh nói giỡn...

Lâm chín ngón - đại ca thứ thiệt 1 thời

Tôi quen Lâm Chín ngón đã lâu, viết về nhân vật này đã khá nhiều, nhưng chưa bao giờ viết về những ngày cuối đời của Lâm, cũng như cái chết của anh ta. Nay, trước hương hồn người đã mất, xin viết lại chuyện chưa bao giờ viết này. Và để bạn đọc nắm được toàn bộ nội dung, xin lược qua lại những gì tôi biết về tay giang hồ cộm cán nổi tiếng từ thập niên 1960 này.

Tôi quen biết Lâm Chín ngón

Tôi biết Lâm Chín ngón khi ở tù tại khu C, trại 7, Côn Đảo - thường gọi Chuồng cọp. Thời gian ở tù ngoài Côn Đảo (tôi bị án tù chung thân năm 1972, ra đảo đầu năm 1973), tuy tôi là tù chính trị nhưng lại bị nhốt chung một khu với tù hình sự.

Riêng Lâm ra đảo khoảng đầu tháng 4/1975, được đưa ngay vào khu C, một mình một phòng. Thời gian này tôi mới ở bệnh xá về, thêm bị liệt chân phải đi lại khó khăn nên chỉ loáng thoáng biết có Lâm, tiếp đó là giải phóng 30/4, nên chưa thể nói quen Lâm.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiều tù thường phạm bị nhốt trong khu C lợi dụng những ngày đầu giải phóng, công tác canh gác tù nhân còn sơ hở, trốn ra khỏi trại, phá kho tang vật, lấy cắp nhiều món đồ có giá trị trong kho như đồng hồ, nữ trang, tiền mặt… và bị trừng trị hết sức nghiêm khắc. Lâm Chín ngón không nằm trong số này, nhưng do án quá nặng (hai án chung thân về tội giết Vũ Định Cường, em Sơn Đảo; và Hoàng Đầu lâu) nên không được tha về hoặc lưu lại Côn Đảo như tất cả các tù thường phạm khác, mà tiếp tục chuyển về trại giam tại đất liền, mãi đến năm 1988 mới được tha.

Tha về chưa được bảo lâu, qua số tù hình sự ở khu C trại 7 Côn Đảo trước đây, Lâm Chín ngón hỏi thăm, tìm tới tôi, kể cho tôi nghe suốt thời gian từ sau 30/4/1975 đến giờ anh ta đã sống ra sao. Nhắc lại thời gian ở chuồng cọp Côn Đảo, Lâm bùi ngùi kể số phận không may của những “dân chơi” cũ.
Nói ngay, người em kết nghĩa này chưa khi nào nói dối, qua mắt tôi, luôn trước sau như một xưng hô cung kính anh em. Ngay cả đối với bà xã tôi, Lâm cũng luôn hễ gặp là vòng tay chào hỏi, nói chuyện thường chắp hai tay, gọi chị xưng em hết sức đàng hoàng. Nghe Lâm kể quãng thời gian ngồi tù, tôi chỉ biết an ủi Lâm, khuyên anh ta từ nay nên cố sống lương thiện.

Còn có một câu chuyện bây giờ tôi mới kể khi Lâm ở trong trại đã lừa đánh cán bộ cải huấn…

Theo lời Lâm, có một cán bộ trong trại cải tạo không hiểu sao luôn tìm đủ mọi cách gây khó dễ cho Lâm khiến Lâm rắp tâm trả thù, nhưng phải đợi thời cơ.

Thời cơ đến khi một sáng sớm nọ, trước giờ vác cuốc lên đường trồng cây, cán bộ từ phía sau Lâm bước đến, mà ánh mặt trời in rõ bóng ông ta chiếu dài theo bước chân. Lâm đang vác cuốc thấy vậy liền sửa lại thế, hơi kéo cán cuốc đang vác trên vai về phía trước, theo dõi bóng đối thủ. Đợi “nạn nhân” đến đúng tầm, Lâm bất ngờ làm như sửa lại thế vác, xô mạnh nguyên lưỡi cuốc ra phía sau, đúng vào mặt người vừa bước đến, khiến ông ta ngã khuỵu, gãy một hơi mấy chiếc răng cửa.

Tất nhiên Lâm chịu kỷ luật, nhưng đó Lâm khai “tôi đâu ngoảnh đầu lại mà biết cán bộ đang đi tới, chỉ vô tình sửa lại thế vác cuốc” và tại hiện trường quả đúng như vậy, nên kỷ luật tương đối nhẹ.

Rồi Lâm Chín ngón kể tiếp từ ngày được tha, anh ta buôn bán thuốc tây ở khu đường 3 tháng 2, quận 10; cuộc sống chỉ tạm đủ vá víu qua ngày. Sau Lâm hùn với một tay đàn em cũ là Mười đen ra chợ Huỳnh Thúc Kháng buôn bán hàng điện tử (nghe đâu do Năm Cam giúp đỡ). Thấy Mười đen phò Năm Cam, và không muốn mang tiếng nhờ vả núp bóng đàn em, Lâm tách ra toan trở lại nghề bảo kê cho một số quầy bar quanh khu vực Tân Sơn Nhất. Có lẽ đây là quãng thời gian tuy ngắn ngủi nhưng lại có nhiều kỷ niệm đối với Lâm Chín ngón cũng như một số dân chơi khác. Nào mấy ai ngờ một “ông tướng” nay lại lại phải kiếm sống qua ngày. Nhưng thôi, cuộc đời ai chẳng có lúc lên voi xuống chó.

Và Lâm kể cho tôi nghe một kỷ niệm “nhớ đời” của anh ta trong quãng thời gian ngắn ngủi này…

Đại ca thứ thiệt

Một tối nọ, có bọn thanh niên lực lưỡng, mặt mày bặm trợn, chỉ cần liếc qua tướng tá, quần áo, cử chỉ cũng biết ngay là dân giang hồ không phải loại tầm thường vô quán đòi ngồi ở phòng riêng, kêu bọn em gái bia ôm hầu bàn. Ăn đã đời từ hơn 7h tối gần 11h đêm, uống hết hơn một thùng bia, bọn họ mới gọi tính tiền. Nhưng khi giấy tính tiền đưa tới bàn, họ thậm chí không thèm liếc nhìn qua tờ giấy, mà một vị khách thọc tay vô bụng rút luôn ra… khẩu súng ngắn, dằn mạnh lên mặt bàn, buông thõng một câu xanh rờn:

- Không có tiền, trả bằng thứ này được không?

Các “em gái” hoảng hồn la oai oái, tranh nhau chạy ra khỏi phòng. Chủ quán nghe mấy em cấp báo, lính quýnh vừa run vừa kêu Lâm Chín ngón đến giải quyết. Lâm mở cửa bước vô phòng, việc đầu tiên là nhào đến chụp ngay khẩu súng, tất nhiên khôn ngoan cầm phía bá súng. Gã thanh niên hớt tóc ngắn to con nhất trong bọn, có vẻ là tay cầm đầu, cũng nhanh như chớp vung tay chộp súng, kéo lại, miệng quát:

- Ê, mày làm gì vậy?

Lâm bình tĩnh:
- Các anh nói trả thứ này thay cho tiền nên tôi lấy!

Nghe đối thủ trả lời cứng cựa, gã không thèm đáp mà ra sức giành lại vũ khí. Hai bên cùng nín thở thi triển 10 thành công lực, gồng hết cơ bắp, thử sức một phen cho rõ tài cao thấp. Kéo qua kéo lại, một lát sau Lâm Chín ngón dần dần thắng thế thấy rõ, có thể một phần do anh ta nắm ngay bá súng nên chiếm lợi thế nhờ có điểm tựa chắc chắn hơn. Dù sao, với dân chơi thứ thiệt, hễ thua thì nhận thua. Gã tóc ngắn đành buông súng ra, kêu:

- Khá lắm, khá lắm. Mày làm gì ở đây mà dám can thiệp vào chuyện của bọn tao?

- Đây là quán của người quen tôi, nhờ tôi coi giúp. Nuôi quân ba năm nhờ đến một giờ. Đây là nồi cơm của tôi nên tôi phải giựt. Nếu tôi tới quán mấy anh quấy, chắc chắn mấy anh cũng phải làm như tôi thôi.

Vừa nói Lâm vừa chìa tay đưa lại khẩu súng cho đối thủ, thêm: - “Chó lửa” của các anh đây. Thử sức cho vui vậy thôi, chớ tôi biết các anh nói giỡn, vì đây là đồ làm ăn, vật bất ly thân của các anh đời nào các anh trả cho quán; và lại nếu tính trị giá, nó hơn hẳn tiền ăn nhậu từ tối đến giờ.

Tên tóc ngắn dịu giọng:
- Nói nghe có lý lắm. Nếu vậy cũng là anh em trong nhà cả, không lẽ chơi quỵt nhau. Được rồi. Không nhận súng thì lấy thứ này vậy!

Nhanh hơn cả làm trò ảo thuật, hắn rút trong túi ra một trái lựu đạn đặt cái “cộp” lên mặt bàn.
Nhiều tiếng la oai oái nổi lên phía ngoài cửa phòng và tiếng chân chạy rầm rập. Thì ra nãy giờ chủ quán và mấy “em gái” thập thò ngoài cửa theo dõi diễn biến tình hình, nay hoảng quá tranh nhau co giò manh ai nấy chuồn cho lẹ.

Lâm vội quay người một vòng, đưa chân đá cánh cửa. “Sầm” một tiếng, cánh cửa khoá tự động đã đóng lại. Lâm Chín ngón cố giở giọng thản nhiên:
- Lỡ chơi thì chơi luôn! Một đổi bốn còn lời chán! Và lại đời tôi sống cũng đủ lắm rồi. Cứ cho nổ!

Tính dằn mặt đối thủ, ai dè gặp thứ thiệt, đám thực khách không còn cách nào khác hơn là chấp nhận xuống nước. “Trời không chịu đất thì đất đành phải chịu trời”. Tên có hàm râu quai nón trong bọn lên tiếng, đổi giọng:
- Thấy anh nãy giờ tôi nghĩ không phải thứ mới vào nghề chưa có số má gì. Anh nói thật cho tụi tôi biết anh là ai?

Lâm thở dài:
- Từ lâu lắm tôi đã cố quên tên của mình. Nay các bạn hỏi tôi cũng xin nói thiệt. Cách nay hơn mười năm tôi cũng tạm gọi là có chút danh vọng. Anh em trong giới giang hồ khi ấy quen gọi tôi là Lâm Chín ngón.

Cả bốn tên đều bất giác đứng bật dậy, gã tóc ngắn hỏi:
- Anh là Lâm Chín ngón? Đâu, anh cho xem bàn tay trái thử coi.

Lâm Chín ngón vốn là biệt danh của Lâm sau một trận đụng độ ác liệt giữa hai nhóm dân chơi của Đại Cathay và Tín Mã Nàm tại ngay trước khu Đại Thế Giới. Trong trận kịch chiến này, khi cố giải cứu Ba Thế, một trong “tứ đại ca” (Đại, Tỳ, Cái, Thế), Lâm bị một thanh mã tấu xớt mất ngón tay cái của bàn tay trái. Nãy giờ, khi thử sức Lâm dùng tay phải nên chưa ai thấy bàn tay trái của anh ta.

Khi Lâm vừa xoè bàn tay trái với bốn ngón ra thì cả bọn đưa đưa cả hai tay ôm vai anh ta, đứa cấm tay lắc lấy lắc để, đứa chắp hai tay xá lia lịa:
- Xin lỗi đại ca, xin lỗi. Nãy giờ tụi em không biết lỡ xúc phạm đến đại ca. Anh em trong nhà cả, đại ca không nói sớm. Đâu, chủ quán đâu?
Thì nãy giờ chủ quán nấp ngay sau cánh cửa chớ đâu. Vừa nghe gọi lập tức chủ quán bước vô phòng…

Tên hớt tóc ngắn bảo:
- Đưa hoá đơn tính tiền coi!

Chủ quán đã lấy lại bình tĩnh:
- Đã đưa khi nãy đưa rồi mà.

Tên râu quai nón cúi xuống gầm bàn lượm tờ giấy lên, đọc:
- Một triệu bốn trăm năm mươi ngàn. Tưởng nhiều, nhiêu đó nhằm gì!

Gã móc túi lấy ra chiếc khăn, mở ra, bỗng gói vội lại, kêu “Lộn rồi!”. Nhưng Lâm đã kịp nhìn thấy một đống nhẫn, dây chuyền, đồng hồ… trong khăn, đoán chừng bọn này vừa “ăn hàng” về, vô quán ăn mừng. Gã móc túi bên kia, phen này thì đúng là một bọc tiền. Tên hớt tóc ngắn giọng xởi lởi:
- Trả luôn một triệu năm trăm ngàn cho chẵn. Ủa, còn mấy em gái khi nãy đâu?

Thấy tình hình đã lắng dịu, “phe mình” thắng thế, mấy em gái bia ôm thập thò ngoài cửa phòng, chỉ chờ cơ hội là ăn theo, nhanh nhen bước vô. Một tên khác bảo:
- Bo mỗi em một trăm ngàn chịu không?

Thì mấy em chịu quá đi chớ! Tiền bạc xong xuôi, tên hớt tóc ngắn thân mật bắt tay Lâm Chín ngón:
- Tụi em khi nãy không biết, lỡ đắc tội, đại ca bỏ quá cho. Khi nào có dịp ra Hải Phòng, đến bến Sau Kho, đại ca cứ hỏi Thanh bếp là ai cũng biết, tụi em xin tiếp đón trọng thế.

Kể xong câu chuyện, Lâm Chín ngón thở dài tâm sự: “Anh ạ, từ sau tối hôm ấy em nghĩ cái mạng mình sống chết bất cứ lúc nào nếu còn theo cái nghề bảo kê ấy mà chết lãng xẹt. Nên em quyết bỏ bằng được”.
04:18 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ sài gòn (Kỳ 10): Mối thù giữa Năm Cam và Lâm Chín ngón

Báo chí đã đăng nhiều bài nói về mối thù giữa hai tay giang hồ cộm cán này. Theo đó, Lâm Chín ngón luôn tỏ vẻ “khi dễ” Năm Cam...

Mối thù giữa Năm Cam và Lâm Chín ngón

Báo chí đã đăng nhiều bài nói về mối thù giữa hai tay giang hồ cộm cán này. Theo đó, Lâm Chín ngón luôn tỏ vẻ “khi dễ” Năm Cam vì tên này khi xưa là đàn em “dưới cơ” Lâm xa lắc, nay chẳng qua gặp thời thế phất lên mà lại được lắm kẻ a dua theo bợ đỡ; còn Năm Cam bực bởi Lâm dám cả gan không chịu phục tùng mình như bao dân chơi khác, lại ngông nghênh có những lời nói xúc phạm đến “ông trùm” xã hội đen; đã vậy đến cả vợ của Lâm cũng coi Năm Cam không ra gì thì thật là quá quắt.
Rốt cuộc Năm Cam sai đệ tử trừng phạt Lâm Chín ngón bằng cách tạt a-xit vào ngay mắt đối thủ khiến Lâm gần như bị mù. Tất cả những thông tin trên đều không sai, tuy nhiên có một điều vẫn chưa được làm rõ: Mối thù này đã bắt đầu từ thời gian nào?
Tôi quen Năm Cam

Đúng hơn là Năm Cam làm quen với tôi, qua sự quen biết giữa con út của Năm Cam - Trương Hiền Vũ - và con trai tôi, cũng tên Vũ, Lê Vũ. Số là cả hai Vũ (để phân biệt, võ đường kêu con Năm Cam là Vũ lớn và con tôi là Vũ nhỏ do nhỏ tuổi hơn nhiều) đều cũng theo học một lớp tại võ đường Taekwondo quận 3 vào cuối những năm 1980, khi ấy do anh Trương Văn Hai (thường gọi thân mật là Hai Lùn), ngũ đẳng huyền đai dạy. Anh Hai Lùn từng làm đội trưởng đội bảo vệ cho tổng thống Thiệu.
Năm Cam
Nhân một lần kỷ niệm sinh nhật con trai tôi, vào cuối những năm 1980, tôi cho phép cháu mời một số bạn quen lại nhà dự một bữa ăn thân mật nho nhỏ. Bạn bè cháu mời không tới 20 người, gồm hai lứa bạn: Học chung lớp văn hoá và học chung lớp Taekwondo. Do bữa ăn chỉ nhắm mời bạn của cháu, nên hễ cháu nào được người lớn chở tới nhà, tôi chỉ mời người nhà uống nước và hẹn hai giờ sau lại rước cháu; hơn nữa, nhà tôi khi ấy ở tại một căn hộ thuộc chung cư Nguyễn Kim vốn chật chội nên cũng không thể đủ chỗ đón khách.
Chiều hôm ấy đích thân Năm Cam chở con tới nhà tôi, mang theo quà mừng sinh nhật (mà lâu quá tôi không còn nhớ). Tôi cũng lịch sự mời Năm Cam ngồi uống ly nước và Năm Cam ngồi chơi không lâu, nhưng từ đó có sự quen biết. Hỏi qua tuổi tác, thấy thua tôi ít tuổi, lại nữa qua câu chuyện, biết tôi từng ở tù Chí Hoà, Côn Đảo chung với nhiều dân chơi du đãng lừng danh hồi trước như Đại Cathay, Huệ Râu, Điền Khắc Kim, Tuấn Đả, Nam Lương, Lâm Chín ngón… Năm Cam gọi tôi bằng anh.

Một thời gian ngắn sau, gặp nhau lại tại võ đường Taekwondo Hồ Xuân Hương, trong khi chờ đón con, Năm Cam nói với tôi có vẻ rất thân tình:

- Em thấy anh ngày nào cũng chở cháu đi đi về về, vừa mất thời gian vừa cực. Em có mấy đứa đệ tử đưa rước thằng Vũ lớn con em, đằng nào cũng tốn công, hay để em nói tụi nó chở cháu Vũ con anh luôn cho tiện.

Đúng là tôi chở con đi học võ cực thiệt, nhất là gặp khi mưa gió hoặc bận việc này nọ, nhưng cực vì con cũng có cái vui của nó, và lại nhờ ai chớ nhờ Năm Cam thì tôi chả dại, nên tôi cám ơn Năm Cam và dứt khoát không nhận lời.

Mãi nhiều năm sau này, khi con tôi thi xong đai đen, Năm Cam không dưới một lần bảo tôi: “Cháu có việc gì làm chưa, nếu không, anh cứ để em kiếm việc cho cháu, cháu có thể vừa đi học vừa đi làm thêm, bảo đảm đủ sống”.

Tuy lúc ấy không biết rành về các việc làm của Năm Cam, nhưng tôi cũng nghe loáng thoáng, nên lần nào Năm Cam ngỏ lời tôi cũng đều từ chối. Có lẽ thấy tôi tuy vẫn tiếp chuyện lịch sự nhưng không mặn mà gì với bất kỳ đề nghị giúp đỡ nào, nên Năm Cam đối với tôi không thân thêm, mà cũng không xa lánh thêm, cho mãi đến khi xảy ra một việc…

Lâm Chín ngón “phá ngang” Năm Cam


Một hôm, Lâm Chín ngón hỏi tôi:

- Anh hay viết bài điều tra phải không?

Thì đúng thể loại báo chí tôi ưa thích, nên tôi đáp:

- Cũng thỉnh thoảng. Có gì không Lâm?

- Có. Chuyện hay lắm.

Đụng đến “máu nghề nghiệp”, tôi không nén nổi tò mò:

- Chuyện gì mà ghê vậy, Lâm cứ nói.

Lâm “chín ngón” thời trẻ.
Quả thực, hiếm khi một người “ruột để ngoài da”, có gì cứ huỵch toẹt mà lại cứ kể úp úp mở mở như lần ấy. Lâm Chín ngón rào đón:
- Chuyện lớn lắm, về một sòng bạc, nói ra rất dễ đụng chạm, nhưng nếu anh không thể trực tiếp thì thôi, không thể giao cho bất cứ người nào khác.

Tôi thật tình bảo:
- Cũng tuỳ chuyện. Toà soạn đông anh chị em phóng viên viết điều tra lắm. Nếu bận việc, tôi để anh em khác đi điều tra là chuyện thường tình. Nhiều anh chị em giỏi hơn tôi nhiều.

Lâm Chín ngón lắc đầu, kiên quyết:
- Việc nào em không biết. Nhưng việc này dứt khoát chỉ hoặc là anh, hoặc bỏ qua. Chuyện em kể là hoàn toàn đúng sự thật một trăm phần trăm. Nhưng em biết anh cái gì cũng đòi mắt thấy tai nghe mới viết, nên nếu anh đồng ý, em sẽ dẫn anh đi vô tận sòng bạc, anh ngồi chơi ít ván cho biết và nắm tư liệu cụ thể.

Tôi gật đầu, lựa:
- Biết rồi, dù chưa biết là chuyện gì, tôi vẫn tin Lâm như từ hồi nào đến giờ. Nếu việc Lâm kể, vì bất cứ lý do gì khiến tôi không thể trực tiếp điều tra, thì coi như… huề. Rồi, giờ kể được chưa?

Đến nước này mà Lâm Chín ngón còn đưa tay ra ngoéo tay tôi để làm bằng trước khi “vô đề”:
Sòng bạc này nằm ở quận 4. Sòng bạc lớn lắm. Em bảo đảm với anh lớn nhất TP.HCM nếu không nói là lớn nhất Việt Nam. Quy mô hơn cả những sòng bạc em biết hồi trào trước giải phóng. Ăn thua mỗi ván lên đến bạc triệu. Đủ thứ bài bạc; xóc đĩa, xí ngầu. Đổi tiền; cầm đồ tại chỗ. Bảo vệ từ vòng ngoài đến vòng trong. Dân bảo vệ toàn thứ dữ. Khách vô chơi bắt buộc phải là dân quen và đã được tuyển nếu không có người quen giới thiệu. Có rất nhiều lối thoát hiểm an toàn khi bị báo động; nhưng việc này chưa bảo giờ xảy ra. Chắc chắn đây là một tư liệu hết sức độc đáo để anh viết báo.

Tôi hỏi:
- Như vậy làm sao tôi vô sòng bạc ấy được? Tiền đâu mà chơi bài?

Lâm gật gù:
- Vì vậy em mới dẫn anh đi. Anh không có tiền thì em đưa cho anh. Có em là khách quen sẽ không ai dám khó dễ gì anh cả; đồng thời em cũng bảo vệ cho anh luôn. Em cũng tính rồi, nếu anh đồng ý, em bố trí thêm vài thằng đệ tử thân tín nữa ngầm bảo vệ, ở sẵn trong sòng bài. Nếu rủi có chuyện gì anh cứ yên tâm…

Ông tướng thứ 13


Trước khi kể tiếp về sòng bạc ở quận 4, tôi xin quay ngược dòng thời gian chút đỉnh để nói qua mối quen biết giữa tôi với Lâm Chín ngón.
Do tại Côn Đảo tôi bị nhốt chung với anh em dân giang hồ thứ dữ tại chuồng cọp khu C trại 7 suốt hai năm (từ khoảng giữa 1973 - 30/4/1975) nên quen biết, và hơn nữa, chơi khá thân với tất cả những anh em này.

Lâm Chín ngón bị đày ra Côn Đảo khoảng đầu tháng 4/1975, tất nhiên được đưa ngay vào khu C trại 1, nhốt một mình một phòng. Thời gian này tôi mới ở bệnh xá về, chân phải vẫn còn bị liệt nên ngay cả giờ tắm nắng cũng ít đi lại, phải nói thực mới loáng thoáng biết có Lâm, chớ chưa thể gọi là quen Lâm.

Tiếp đó là giải phóng 30/4, tôi khi đó đang bị liệt một chân nên được lên chuyển tàu đầu tiên về đất liền. Lâm Chín ngón do án quá nặng (hai án chung thân về tội giết Vũ Định Cường, em Sơn Đảo; và Hoàng Đầu lâu) nên không được tha về hoặc lưu lại Côn Đảo như tất cả các tù thường phạm khác, mà tiếp tục chuyển về trại giam tại đất liền, mãi đến năm 1988 mới được tha về. Tha về chưa được bao lâu Lâm Chín ngón đã hỏi thăm, tìm tới thăm tôi, kể cho tôi nghe suốt hơn mười năm qua anh ta đã sống ra sao.

Nhắc lại thời gian ở chuồng cọp Côn Đảo, Lâm bùi ngùi kể số phận không may của những “dân chơi” cũ.

Biết tôi quen Đại Cathay hồi ở tù năm 1966 tại khu ED, Chí Hoà; hỏi tuổi, Lâm thua tôi một tuổi nên gọi tôi là anh, xưng em - và kể từ đó, Lâm luôn giới thiệu với mọi người (từ dân chơi đến gia đình, người quen) tôi là “anh kết nghĩa” của Lâm.
Trong câu chuyện kể, tôi nhớ nhất chi tiết Lâm Chín ngón bị đưa vô trại học tập cải tạo với 13 ông tướng chế độ Sài Gòn bị nhốt trong trại, đó là 12 người đeo quân hàm tướng thật sự, và ông tướng thứ 13 là tướng cướp, tức Lâm Chín ngón.

Tôi cũng chỉ biết an ủi Lâm, khuyên anh ta nên cố sống đàng hoàng.

Sòng bạc quận 4


Giờ xin trở lại với sòng bạc tại quận 4. Nghe qua lời Lâm giới thiệu về sòng bạc, tôi bán tín bán nghi. Không lẽ một sòng bạc lớn tới cỡ đó mà không cơ quan chức năng nào hay biết, nhất là chính quyền cơ sở và công an phường, cảnh sát khu vực. Nhưng quả thực Lâm Chín ngón nói dóc với ai thì tôi không rõ, chứ chưa khi nào anh ta nói dóc với tôi. Tôi nói thật ý nghĩ vừa thoáng qua của mình:

- Vậy chớ UBND và Công an phường, rồi Công an quận, chẳng lẽ không ai hay biết gì sao?

Lâm lắc đầu:
- Em không rõ, nhưng chắc là họ biết và có thể họ làm ngơ.

Tôi suy nghĩ rất nhanh, đánh giá nguồn tin, cân nhắc qua mọi tình huống, đáp:
- Ý tôi rất muốn đi cũng với Lâm. Nhưng chuyện này qua lớn, có thể vượt ngoài khả năng của tôi, nên Lâm cho tôi suy nghĩ dăm ba ngày, sẽ trả lời Lâm sau.

Lâm Chín ngón gật đầu:
- Em cũng nghĩ anh khó quyết đoán ngay được. Nhưng dù vì bất cứ lý do gì, anh cũng đừng nói với ai rằng em đã báo nguồn tin này. Ít hôm nữa em sẽ tới gặp lại anh.

Từ thâm tâm tôi qua thực rất muốn cùng Lâm Chín ngón mạo hiểm một chuyến, thâm nhập sòng bài để lấy tư liệu thực tế viết bài điều tra mà tôi tin rằng sẽ khá độc đáo. Nhưng tôi không thể tự mình mạo hiểm. Giả sử tôi có mặt tại sòng bài đúng lúc công an ập vô bắt quả tang, lại đúng khi tôi đang đặt tiền thì làm sao giải thích? Chưa kể tình huống xấu nhất, tôi bị những tay bảo vệ sòng bài phát hiện, tấn công; mà Lâm Chín ngón cũng như đám tay chân của anh ta không đủ sức chống cự giải vây cho tôi, thì liệu thân tôi sẽ ra sao?

Chỉ có cách tốt nhất là báo cáo lên lãnh đạo xin ý kiến, tuỳ trên quyết định, và tôi sẽ nghiêm chỉnh chấp hành quyết định ấy.

Tôi thủ trưởng trực tiếp, nghe tôi kể qua câu chuyện sòng bạc quận 4, hỏi:
- Nguy hiểm quá, nguy hiểm quá, mà ông tính xông vô đó thiệt hay sao?

Tôi cười:
- Có gì mà không thiệt. Sợ quái gì. Hồi trước bao nhiêu hiểm nguy còn chưa sợ, nay sợ gì một sòng bạc.

Cấp trên “khất”:
- Nhưng tình hình bây giờ khác. Tôi không dám can, mà cũng không muốn khuyến khích ông. Bây giờ như vậy, nói thiệt ông nghe tôi cũng không dám quyết chuyện này đâu. Ông ráng chờ ít hôm để tôi phải xin ý kiến cấp trên mới được. Anh em mình quyết với nhau, rủi ông có chuyện gì bắt trắc, làm sao tôi trả lời?

Trong khi ấy Lâm Chín ngón tỏ ra rất nôn nóng. Mới hai ngày sau anh ta đã tới gặp tôi, thúc giục:
- Sao, anh đã xin ý kiến xong chưa?

Tôi nói thật với Lâm là tôi đã báo cáo cấp trên, và còn phải báo cáo lên cấp cao hơn nữa. Việc chờ dợi do đó có thể không phải ba ngày, mà phải lâu hơn.

Bất ngờ từ Năm Cam
Mấy ngày sau, cấp trên gọi tôi cho biết sòng bài đang được theo dõi, không nên viết bài đánh động.

Khi nghe tôi báo tin tôi không thể theo anh ta đến sòng bạc quận 4 để viết bài, Lâm thở ra, bảo:
- Em cũng đã đoán trước có thể anh mắc kẹt, nhưng vẫn có hy vọng. Ai dè Năm Cam quen biết lớn thật…

Tôi cố giải thích:
- Không hẳn vậy đâu, nhưng ở đời luôn có nhưng việc dù mình muốn mà không thể thực hiện, luôn có những việc mà mình không thể hiểu biết thấu đáo. Thôi Lâm ạ, cứ yên vui với cuộc sống của mình là được rồi, hơi đâu lo cho kẻ khác.

Những Lâm vẫn tỏ vẻ bực dọc:
- Anh nói vậy em nghe vậy. Những Năm Cam đâu có ra gì. Hồi nào nó tà lọt cho anh Đại, dưới cỡ em xa lắc, giờ chỉ nhờ khéo luồn lọt mà ngoi lên, bao nhiêu thằng theo nịnh. Phải chi nó có tài đã đành.

Thì ra Lâm Chín ngón ganh ghét Năm Cam nên muốn qua báo chí “chơi” Năm Cam - tôi chợt hiểu ra cốt lõi của vấn đề. Đó là vào quãng giữa năm 1992. Như vậy mối thù giữa Năm Cam và Lâm Chín ngón hẳn phải có từ trước đó nữa, đã lâu lắm rồi.

Tôi bất giác lạnh xương sống khi nghĩ nếu ngày ấy tôi cao hứng lên, theo Lâm Chín ngón vô sòng bạc tại quận 4 của Năm Cam, về viết bài, đang lên báo, thì nào ai mà biết được hậu quả sẽ ra sao!

Và, ai mà biết được, chuyện Lâm Chín ngón tâm sự với tôi về sòng bạc đã bằng cách nào đó lọt đến tại Năm Cam, chính vì vậy sau này Năm Cam tỏ ra lơ là với tôi và thêm lý do để hắn rắp tâm tạt axít Lâm nhằm trả thù, mối thù mà Năm Cam đã ấp ủ suốt hàng chục năm…
04:15 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 9): Tướng cướp trốn trại, còng tay cảnh sát vô thành giường

Tôi ở tù chung với Điền Khắc Kim tại chuồng cọp khu C trại 7, Côn Đảo, một thời gian ngắn khoảng đầu đầu năm 1974.

Buồng giam những tên tội phạm giang hồ trong khu 'chuồng cọp' (ảnh minh họa)

“May hơn khôn” Tôi bị giam ở khu C đâu khoảng vài tháng thì Điền Khắc Kim mới từ đất liền ra đảo. Dĩ nhiên Kim lập tức được tống vào khu C.

Tôi nhớ đi chung với Kim khi ấy có một số tay tù thường phạm sừng sỏ khác, mà nổi cộm hơn cả là Biện Thành Huệ và Năm Lương. Huệ được gọi “Huệ Râu” đầu gấu khu Chi Lăng (quanh sân bay Tân Sơn Nhất), nổi đình đám nhờ dám bắn chết quân cảnh Mỹ; còn Năm Lương thường gọi “Lương già” là một trong các quân sư của Đại Cathay. Số này đều được đặc cách, người một phòng, kể cả Điền Khắc Kim. Tình cờ, phòng giam bọn họ gần ngay phòng giam tôi nên mỗi khi tôi, “quay phim” tất cả đều nghe được và tỏ ra thích thú.

Tất nhiên, chỉ giờ tắm nắng tôi mới gặp Kim. Thấy hầu hết tù hình sự thường phạm gọi tôi bằng anh; xưng em; hắn hỏi tuổi tôi, và khi biết tôi lớn hơn hắn đến 4 tuổi, Kim gọi anh xưng em. Tôi còn nhớ Kim dáng người tầm thước, chỉ ngang cỡ tôi (1,63m), ốm nhách, da ngăm đen tai tái, cặp lông mày rậm và hơi xếch.

Kim có óc tưởng tượng khá phong phú. Tới nhớ có một lần, đổ thùng cầu, tắm giặt xong, hắn khoác tay tôi đi qua đi lại cho giãn gân cốt, nói đủ thứ chuyện. Bỗng hắn bảo: “Anh có biết lúc này em ước gì không?”. Tất nhiên tôi không biết, Kim tiếp: “Em ước gì trời tự nhiên thiệt lạnh, biển đóng thành nước đá, anh em mình cứ thế chạy riết một hơi về đất liền”. Có hôm, đang đi dạo, Kim dừng lại, bảo tôi: “Em chỉ cho anh coi cái này, thằng Thiệu (tổng thống miền Nam khi ấy) cũng chưa được coi bao giờ”,” vừa nói vừa kéo lưng quần chỉ cho tôi xem vết thẹo còn đỏ hỏn ngay phía dưới rún. Kim kể tôi nghe: “Đây là vết thẹo em bị bắn khi bị vây bắt bên Quận 4, trúng đạn bị thương khá nặng mà vẫn trốn thoát, không bị bắt”.

Và theo lời hắn, nào có chỉ là huyền thoại, tài ba gì ghê gớm, chẳng qua nhờ ăn may: “Em núp ngay sau gốc cây, thấy bọn cảnh sát tìm kiếm ở đâu đâu mà tức cười. Chắc chúng tưởng em phải bỏ chạy và đã chạy xa rồi. Đúng ra em cũng phải làm vậy, nhưng ngặt vết thương nặng quá nên không thể bỏ chạy nổi, ai dè thành hên”. Kim còn nói thêm, lúc bị bắt trở lại, hắn khai thiệt núp ngay sau gốc cây, bọn cảnh sát không tin; vả lại, nếu đúng vậy, hóa ra cảnh sát biến thành một lũ ngốc, thế nào cũng bị cấp trên rủa cho te tua, nên buộc hắn phải “phịa” chuyện nhảy xuống kênh chạy trốn. Chứ theo Kim “Anh nghĩ thử xem, vết thương như vầy sao em dám nhảy xuống kênh quận 4, dơ hết cỡ, thế nào chẳng nhiễm trùng; và làm sao lội nước nổi, bơi nổi với mớ ruột lòi cả ra ngoài?”.

Cũng vậy, Kim kể tôi nghe tiếp về vụ hắn trốn thoát khi bị bắt, lúc được đưa qua bệnh viện Sài Gòn để trị bệnh. Biết Kim là tên tù có biệt tài vượt ngục, cảnh sát phái một nhân viên theo canh giữ 24/24, mặc dù Kim đã bị còng một tay vào thành giường. Ấy thế mà ban đêm, Kim không những trốn thoát, mà còn còng tay tên cảnh sát vô thành giường thay cho mình. Chính qua vụ này, báo chí lúc ấy thổi phồng Kim quá đáng, coi như hắn có tài xuất quỉ nhập thần.

Thật ra, chẳng phải quỉ thần gì, bởi theo lời Kim kể: “Bị còng tay vô thành giường, em buồn chán, cả ngày nằm ngủ. Ngủ suốt ngày khiến ban đêm không ngủ nổi nữa, hai mắt cứ thao láo. Ngược lại, gã cảnh sát canh chừng em đương nhiên phải thức cả ngày, nên khoảng nửa khuya hắn gục xuống ngủ say như chết. Thấy thời cơ đã đến, cái thứ còng răng ai đã bị qua rồi thì lạ gì: Chịu khó bóp hết răng còng - em ốm nhách, cỡ tay nhỏ nên ráng chịu đau chút xíu là xong - lấy bất cứ thứ gì, thường là cọng chiếu, cài ngang là kéo ra cái rột. Thoát còng, em đã định chuồn êm, nhưng thấy gã cảnh sát ngủ vùi chợt nảy ý nghĩ vui vui, lấy còng còng tay hắn vô thành giường trước khi chuồn...”.

Có lần, cũng trong giờ tắm nắng, vui miệng tôi hỏi Kim trong những lần “làm án” có kỷ niệm nào “để đời” hay không. Kim không do dự: “Có đấy. Một lần nửa đêm về sáng, em “đột vòm”, lọt vô một căn nhà ở Cư xá Đô thành. Thông thường, việc làm đầu tiên của em khi vô nhà là mở sẵn cửa chính, khép hờ, đề phòng khi bị phát hiện vọt cho lẹ. Nhà có chiếc xe gắn máy mới tinh, thấy bắt thèm. Em lục túi quần áo của tay chủ nhà treo trên móc áo kiếm tiền. Ai dè trong túi ngoài tiền bạc, giấy tuỳ thân của chủ nhà lại còn có đầy đủ giấy tờ xe và luôn cả chìa khóa. Vậy là em chỉ việc mở cửa, dắt xe, ung dung lên xe dông tuốt, chưa khi nào ăn hàng ngon bằng bữa ấy!”.

Tuy vậy, Điền Khắc Kim không được những tay giang hồ cộm cán mấy nể trọng. Những tay giang hồ này chê Kim không dám đâm chém, dưới trướng lại không có đệ tử, nên gọi hắn là “tướng cướp cô độc”.

Trong thời gian ở chung khu C trại 7 với tôi, tôi để ý thấy các đàn anh Huệ Râu, Lương già cũng chỉ đối xử với Kim như đàn em, và Kim đối với những tay này cũng không hé dám tỏ ra “trên cơ”, thậm chí ngang cơ bao giờ.

Cả bọn trật tự coi khu, tuy phần nào nể Kim, nhưng rõ ràng chỉ coi hắn thuộc loại có số má, nhưng chưa phải đại ca gì ghê gớm lắm (như đối xử với cỡ Huệ Râu, và sau này là Lâm Chín ngón, Tuấn Đả, Khương đại). Tiếc rằng thời gian Kim ở Côn Đảo không bao lâu, vì chỉ khoảng trên dưới một tháng sau hắn lại được đưa về đất liền để điều tra về một vụ án khác. Về sau nghe nói ở Côn Đảo về, Kim bị nhốt ở Vị Thanh, và đã vượt ngục tại đây.

Tướng cướp Điền Khắc Kim
Đêm 30/4/1975 tại khu C

Những ngày cuối tháng 4/1975, nằm trong khu C, chúng tôi vẫn chưa hay biết một chút nào về tình hình chiến sự bên ngoài.

Chúng tôi chỉ ghi nhận hai điều là: Thứ nhất là cả bọn trật tự khu, kể luôn Sang lai, cũng đều bị cấm ra khỏi khu C (trước giờ chúng thường được đặc cách cho ra khỏi khu, khỏi trại - trừ ban đêm - để dạo phố Côn Đảo, mua đồ ăn thức uống, thăm bạn bè...). Sau này tôi mới đoán chừng có lẽ bọn giám thị sợ số trật tự nắm được tình hình bất lợi cho bọn chúng sẽ nói lại với anh em tù chính trị. Thứ hai, tuy nằm trong trại biệt giam nhưng vẫn nghe tiếng máy bay gầm rú, hình như lên xuống liên tục tại sân bay Côn Đảo. Mãi đến sau ngày giải phóng, tôi mới nghe kể lại, vào ngày 28 hoặc 29/4 gì đó, trong số máy bay lên xuống có một trực thăng từ đất liền bay ra, thả xuống ngay giữa thị trấn Côn Đảo mảnh vải lớn có hàng chữ ghi nội dung vắn tắt Sài Gòn đã thất thủ, mạnh ai nên tự tìm đường nấy trốn.

Khoảng tám giờ tối 30/4/1975, chúng tôi nghe văng vẳng hình như bên phía mấy khu khác của trại 7 có tiếng thông báo, nhưng tiếng được tiếng mất. Lúc ấy chân phải tôi bị liệt, đi lại rất khó khăn, nên người bạn bàn với tôi, tôi ráng đứng trụ để anh leo lên vai tôi, hóng tai ra ngoài nghe thử (như đã mô tả, phía sau mỗi chuồng cọp đều có khoảng trống nhỏ thông hơi với nhiều song sắt. Tù nhân thường đòng đòng nhau cố đưa miệng qua khoảng trống này để thông báo tình hình cho nhau). Tuy nhiên anh bạn dù dỏng tai cố nghe, vẫn tiếng được tiếng mất không rõ anh em nói những gì.

Bọn tù thường phạm bị những tiếng nói vang vang kia quấy phá, cộng thêm nỗi bực tức vì bị nhốt cả tuần nay khiến chúng lớn tiếng chửi thề và hăm dọa. Tôi không tiện ghi hết những lời thô tục của bọn chúng, chỉ xin nói đại khái: “Câm họng cho ông ngủ”, “Ngày mai ông sẽ cho biết tay”, “Bộ chúng mày hết muốn sống rồi hay sao”... Những tiếng chửi thề và lời lẽ hung hăng của chúng chứng tỏ quả thật chúng không hay biết gì về những diễn biến của thời cuộc bên ngoài. Tất cả những sự ồn ào, nhộn nhạo này khiến chúng tôi không thể nào nhắm mắt nổi. Anh bạn và tôi suy đoán đủ thứ, nhưng không hề nghĩ rằng miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng vào lúc ấy.

Đến khoảng quá nửa đêm, những tiếng ồn ào ngày càng vang lên từ xa xa, mơ hồ hình như có tiếng la “Giải phóng rồi! Giải phóng rồi!”. Anh bạn và tôi còn đang bán tín bán nghi thì tiếng ồn ào càng lúc càng lại gần, càng rõ hơn. Rồi, chúng tôi không dám tin ở tai mình, và ngay cả mắt mình nữa: Tiếng loảng xoảng mở cửa khu C, rất nhiều người ùa vào. Có tiếng ai đó hỏi: “Anh em tù chính trị ở phòng nào?”. Chúng tôi vừa lên tiếng đã thấy khóa phòng mở toang...

Từ đó cho đến tận mấy ngày sau, tôi như sống trong giấc mơ. Mọi diễn biến quá nhanh khiến tôi không kịp suy nghĩ, trí óc cứ bồng bềnh, phiêu lãng tận đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ lập tức tôi được dìu ra bệnh xá, thuốc men, ăn uống chăm sóc tối đa. Trong khi những anh em tù chính trị mới được thả ra tung tăng đi lại khắp Côn Đảo, dự mít tinh, giữ trật tự, bắt bọn giám thị tống vô trại giam... thì tôi nằm bẹp một chỗ, những anh em quen biết tới thăm hỏi, quà cáp liên tục.

Tôi còn nhớ rõ, vừa khi ấy Côn Đảo hình như bắt được một tàu đánh cá hay sao đó, đem lên không biết bao nhiêu cá ngừ và cá thu mang nướng, rồi bắt được vích (rùa biển) nấu cà-ri, giết heo, mổ bò, thức ăn dồi dào không cách nào ăn hết, ăn cho bõ những ngày chỉ toàn cá khô mục đắng nghét hoặc mắm kho lõng bõng nước. Đã thế, số anh em nằm bệnh xá còn được chăm sóc đặc biệt bằng cách làm thịt một chú cẩu gọi là để “bồi dưỡng”.
Nằm chữa và dưỡng bệnh, tôi nghe kể vô số chuyện thú vị về Côn Đảo những ngày đầu giải phóng. Nào giám thị trưởng Nguyễn Văn Thà tức Ba Thà bắn súng vào đầu tự sát ngay tại nhà riêng. Nào Chín Khương, trưởng ban chuyên môn tại Côn Đảo (ban giám thị chuyên theo dõi, đàn áp và đánh đập tù chính trị), dùng thuyền nhỏ chạy tuốt ra hòn Bãi Cạnh nhưng bị anh em đuổi theo bắt được, nhốt vô chuồng cọp (đúng là ác giả ác báo)... Rồi chuyện bọn địch có chỉ thị ném vô mỗi chuồng cọp một trái lựu đạn để tiêu diệt hết anh em, nhưng nhờcha xứ nhà thờ Côn Đảo, một đại úy địa phương quân quân đội Sài Gòn, và một giám thị tốt bụng nên âm mưu độc ác này đã không thể thực hiện...

Riêng số tù hình sự ở chung khu C trại 7 với tôi, tôi bẵng đi quên không hỏi đến và cũng không nghe ai nói đến. Thực ra, vào thời điểm lịch sử như vậy, nào ai để ý tới chuyện lặt vặt của mấy anh chàng du đãng đang bị nhốt?

Bản thân tôi, như đã nói, như sống trong giấc mơ cho đến ngày có hai chiếc tàu của hải quân cập bến Côn Đảo để chở tù chính trị về đất liền. Sức chứa mỗi tàu chỉ khoảng 150 người, mà tù chính trị tại Côn Đảo lên tới hơn 5.000 người thì làm sao chở hết. Cho nên, trên hai chuyến tàu đầu tiên rời đảo chỉ ưu tiên cho những anh chị em bệnh tật, già yếu, trong đó có tôi.

Tàu thả neo tại Vũng Tàu, ngay bên cảng Rạch Dừa, xe hơi đón anh chị em về Sài Gòn. Nhưng khi mới giải phóng, cầu Cỏ May bị đánh sập chưa sửa kịp nên phải “tăng bo” qua khúc sông này. Vì vậy, số ít anh chị em do bệnh quá nặng hoặc đi lại khó khăn được đưa vô bệnh viện Vũng Tàu điều trị, chờ thuyên giảm mới về Sài Gòn sau. Số này chỉ đâu khoảng hơn 20 người, và do đó tôi tiếp tục vô nằm bệnh viện Vũng Tàu.

Số phận của tù nhân du đãng trong chuồng cọp


Mãi sau này, gặp lại Huế Râu, Hùng Be tại TP.HCM, tôi mới nghe kể lại tình hình của khu C ngay sau ngày giải phóng.

Tù chính trị trong khu C được thả ra, còn số tù hình sự đươngnhiên vẫn bị nhốt trong chuồng cọp. Mọi sinh hoạt của số tù nhân này vẫn diễn ra bình thường, có điều ngay qua ngày hôm sau, anh em tù hình sự mà cầm đầu là các “đại ca” bắt Sang lai trả món nợ máu. Họ hoà một chén gồm phân và nước tiểu, bắt Sang lai quì xuống, ra điều kiện: Hoặc hắn phải uống hết chén nước rất mất vệ sinh đó, hoặc chịu bề hội đồng (nghĩa là xúm nhau đánh cho thừa sống thiếu chết). Sang lai hết khóc lóc lại lạy như tế sao van xin tha tội, nhưng cuối cùng không còn cách nào khác đánh ục một hơi hỗn hợp trong chén.

Rồi có lẽ do anh em tù chính trị quá lo “đại sự”, chỉ đối phó với bọn giám thị trại giam và vô số công việc hành chánh khác mà quên phắt số tù hình sự này và mặc kệ bọn họ muốn làm gì thì làm. Vậy là bọn họ chia thành hai “trường phái”: Một cứ mặc kệ, sống tà tà chờ mọi chuyện tới đâu thì tới. Huế Râu, Lâm Chín ngón thuộc nhóm này. Một nhân cơ hội tranh tối tranh sáng rủ nhau phá kho tang vật, cướp bóc đồ đạc, lên núi tìm cách kết bè trốn về đất liền. Tuấn Đả, Khương Đại, Hải Méo cầm đầu nhóm này.

Kết quả nhóm thứ hai phá được kho tang vật, lấy đi khá nhiều tiền bạc, đồng hồ, nữ trang... mà tù nhân buộc phải ký gởi tại kho một khi vừa bước chân lên Côn Đảo. Cướp được đồ, bọn chúng hí hửng trốn vào rừng núi Côn Đảo. Nhưng Côn Đảo vốn hẹp, chỗ đâu mà trốn? Lại nữa vô núi đào đâu ra thực phẩm, nước uống? Đóng thuyền kết bè nào phải ngày một ngày hai? Chẳng mấy lúc, bọn chúng lần lượt bị bắt sạch không còn một mống. Và theo chế độ quân quản khi ấy, tất cả bọn chúng đều bị mang ra xử bắn. Nhóm thứ nhất gần như sau đó đều được xét thả tự do.

Mãi tới bây giờ, thỉnh thoảng trong những giấc mơ tôi vẫn thấy mình bồng bềnh nằm trong chuồng cọp khu C trại 7 Côn Đảo cùng sống chung với số tù hình sự, có lẽ do những hình ảnh này đã ăn sâu vào tiềm thức, chiếm một vị trí nhất định nào đó trong bộ nhớ của tôi, không có cách nào xóa sạch.
04:10 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 8): Giang hồ 'luyện chưởng' trong 'chuồng cọp'

Chuồng cọp trại 7 Côn Đảo thuộc dạng “chuồng cọp kiểu Mỹ”, mới xây sau năm Mậu Thân quãng cuối những năm 1960 bằng bê tông cốt thép, lợp mái tôn...


'Chuồng cọp' ở Côn Đảo

Thời gian ấy, Mỹ xây hai trại giam ở Côn Đảo: trại 6 dành cho tù nhân nữ, và trại 7 dành cho tù nhân nam.

Trại 7 gồm có tám khu, được đặt tên theo các chữ cái A-B, C-D, E-F và G-H. Cứ hai khu nằm kề nhau, có tường bao quanh, cửa qua lại thường xuyên bị khóa. Tất cả các khu tuy nằm chung trong một khuôn viên lớn, thực ra mỗi khu đều biệt lập: Có giám thị riêng, ban trật tự riêng, sân tắm nắng riêng, giếng nước riêng...
Mỗi khu gồm khoảng 40 phòng, mỗi phòng diện tích đều bằng nhau, dài rộng cỡ 2,5 x 2m, bình thường nhốt hai người, nhưng cüng có lúc nhồi nhét 3 - 4, thậm chí năm người.

Trại 7 dùng để nhốt số can phạm chính trị, chống chào cờ, chống kỷ luật. Riêng khu C chủ yếu dùng nhốt tội phạm hình sự từng có nhiều thành tích.

Khu kỷ luật của chuồng cọp


Tại khu này trên 90% là tù thường phạm du đãng nổi tiếng đâm thuê chém mướn từng thành danh trong xã hội đen và khi vô tù lại tiếp tục đánh lộn, gây rối, thậm chí giết người, mà theo “dân chơi” là toán “thứ dữ” và “có vằn có vện”. Thêm vào đó là số ít tù thường phạm được làm an ninh, trật tự... tại đảo nếu vi phạm nội qui, kỷ luật cũng bị nhốt vào khu C, thường chỉ trong một thời gian ngắn, gọi là để trừng trị.

Ngoài ra, còn có nhiều tù chính trị mới từ đất liền ra đảo chống chào cờ bị đưa vào khu C coi như một hình thức “dằn mặt” cho sợ. Ai chịu nổi sẽ được chuyển qua các khu khác, ai chịu không nổi sẽ phân phối về các trại khổ sai - thường anh em tù chính trị bị tạm nhốt tại khu C chỉ trong thời gian trên dưới một tháng sẽ được phân loại để rời khỏi nơi đây.

Riêng tôi và anh bạn cùng bị bắt chung một vụ, anh Lê Văn Châu, được “chiếu cố” nhốt luôn tại khu C từ khi mới bước chân ra Côn Đảo từ giữa năm 1973 cho đến ngày được giải phóng (Có lẽ vì anh Châu khi trước là sĩ quan quân đội Sài Gòn đóng tại Côn Đảo sau lại theo cách mạng, còn tôi do lần ở tù trước bị giam tại đảo, khi được thả về viết nhiều bài đăng trên báo Tin Sáng lên án chuyện nhà tù Côn Đảo; hơn nữa vụ án của chúng tôi cũng khá đặc biệt).

Cần nói thêm, mãi về sau, đâu khoảng đầu năm 1975, có thêm hai người tù chính trị nữa cũng “thường trú” luôn tại khu C. Người thứ nhất là ông Trịnh Văn Cẩn tức Tư Cẩn (sau 30/4/1975 làm Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Cửu Long), khi ở tù lấy bí danh Tám Lô. Khi đó ông làm Bí thư của số tù nhân ngoài Côn Đảo, được anh em lén lắp ráp cho một radio để nắm tình hình, chẳng may bị lộ, bọn giám thị tống ông vô khu C.

Người thứ nhì là anh Võ Văn Giáo. Anh làm y tá chăm sóc tù nhân tại các khu chuồng cọp. Thực ra anh được phân công làm nhiệm vụ này để nắm tình hình, trao đổi liên lạc giữa anh em tù nhân. Nhưng anh bị bọn cai tù phát hiện, và cũng bị đưa luôn vào khu C trại 7.

Đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rành những tù hình sự vốn nổi tiếng bị nhốt tại khu C cùng với tôi.

Trước hết phải kể đến Biện Thành Huệ tức Huệ Râu, vốn là trung sĩ quân cảnh Sài Gòn, bảo kê cho các bar và vũ trường quanh khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, đã bắn chết một lính Mỹ say rượu. Huệ lớn tuổi nhất trong đám, lại nhờ “thành tích” bắn chết Mỹ nên được cả đám nể vì. Rồi Tuấn Đả, tay anh chị nổi đình đám nhất tại các tỉnh Nam Trung Phần (từ Qui Nhơn đến Phan Thiết) dám đâm lòi ruột Sơn trắng ở quân lao Nha Trang để giành chức “đại ca”; Lâm Chín ngón với hai án tù chung thân (do giết hai “đại ca” trong tù là võ sĩ quyền anh Vũ Đình Cường và Hoàng Đầu lâu), Khương Đại, Hải Méo, Hùng Be... Cư ngụ ngắn ngày tại khu C có “tướng cướp cô độc” Điền Khắc Kim, và Nam Lương vốn thuộc đảng cướp “Con Cua Vàng” miền Tây Nam Bộ, sau làm “quân sư” cho Đại Cathay (Điền Khắc Kim trở về đất liền để ra toà xử án, còn Nam Lương hình như được thả).

Có điều lạ là trong khi những tù hình sự “thường thường bậc trung” hay gây sự tù chính trị thì số “đại ca” lại có phần vị nể chúng tôi, giao hảo khá thân mật, đối xử rất phải đạo, tư cách đàng hoàng.

Coi khu đặc biệt này tất nhiên cũng phải là những nhân vật đặc biệt. Ngoài giám thị (thường chỉ loáng thoáng có mặt trong giờ hành chính), người trực tiếp chỉ huy khu C từ việc nhỏ tới việc lớn (như mở cửa đóng cửa các phòng để tù nhân luân phiên ra tắm nắng và đổ thùng cầu, chửi mắng và đánh đập tù nhân, đi tuần trên các song sắt vốn là trần của chuồng cọp...) là một tù hình sự quân phạm (quân đội Sài Gòn phạm tội hình sự) tên Kim Sang. Ai cũng gọi hắn là Sang lai, bởi hắn lai Campuchia, da như đồng hun, cao lớn, vạm vỡ. Đặc biệt Sang lai có đôi mắt vàng ệch, mà hắn thường khoe nhờ ăn nhiều… gan người mắt mới ngả màu như vậy. Sang lai hễ mở miệng là chửi bới văng tục, kể cả với tù hình sự. Riêng đối với các “đại ca” cỡ Huế Râu, Lâm Chín ngón, Tuấn Đả… hắn tuy có đôi chút nể nang nhưng khi nổi nóng lên cũng chửi thề tuốt luốt.

Các phòng trong khu chuồng cọp được bố trí thành hai dãy đối diện nhau, cửa bằng sắt, chỉ có lỗ thông gió nhỏ bỏ vừa chiếc dĩa để đưa cơm và thức ăn ra vào mỗi bữa. Phía sau phòng, trên cao, có một khoảng trống song sắt hết sức kiên cố để phòng bớt ngột ngạt. Trên phòng không xây kín mà là song sắt chạy dài, có lối đi: Khi nào cần đàn áp, giám thị và an ninh trật tự chỉ việc từ phía trên rải vôi bột xuống, đố tù nhân tránh thoát. Cách lớp song sắt phía trên này khoảng 1,5 - 2m là mái tôn.

Tù nhân ở trong phòng bị đóng cửa suốt ngày đêm, chỉ được mở khóa ra sân mỗi ngày khoảng một giờ để “tắm nắng” theo từng nhóm phòng.
Điều cần tranh thủ làm chính trong khoảng thời gian “tắm nắng” này là rửa thùng cầu - mỗi phòng đều có một thùng cầu đóng bằng gỗ, trét nhựa đường; tù nhân đi cầu, đi tiêu trong đó để giờ tắm nắng mang ra đổ, rửa, úp phơi khô - và tắm, giặt. Với các “đại ca”, có khi được bọn trật tự khu cho ưu tiên, tắm nắng khoảng 90 - 120 phút, đi qua đi lại, vung tay vung chân cho dãn gân cốt.

Cũng như những khu khác trong trại 7, mỗi “chuồng cọp” tại đây gồm một bể xi măng chiếm phân nửa diện tích. Mỗi phòng thường nhốt hai người, một nam trên bể, một nằm dưới sàn. Các phòng thường xuyên bị xáo trộn, đổi người qua lại (có lẽ để tránh bàn chuyện vượt ngục), cho nên trong suốt khoảng hai năm nằm tại khu C, tôi gần như ở chung với tất cả số tội phạm hình sự. Cũng nhờ đó, tôi nắm được khá nhiều tư liệu về anh em giang hồ hồi trước 1975 để sau này có nhiều dịp thể hiện trên mặt báo.

Một mô hình được dựng lại ở 'chuồng cọp' Côn Đảo

Phạm nhân “giải trí” như thế nào trong phòng giam?


Với khoảng 40 phòng, khu C thường giam giữ trên dưới 80 tù nhân. Như trên đã nói, trần các phòng, ngay phía dưới mái tôn là hàng song sắt để bọn trật tự coi khu có thể đi lại trên đó. Cũng vì vậy, người ở trong phòng nếu nói lớn tiếng, các phòng chung quanh và đối diện (tổng cộng khoảng 12 - 15 phòng) đều có thể nghe được.

Không rõ tại các chuồng cọp khác, anh em tù học và dạy học những gì, riêng tại khu C, thời gian tôi ở chung với anh Giáo, anh dạy tôi chữ Hán (anh vốn làm nghề thấy thuốc Bắc, viết chữ Hán rất đẹp, biết cả kiểu chữ thảo) và châm cứu. Còn tôi dạy anh tiếng Pháp và toán trung học đệ nhị cấp. Tôi tự học tiếng Anh và tiếng Pháp, thời gian này học từ vựng trong tự điển là chính. Chúng tôi cũng dạy nhau những bài thơ, bài hát về cách mạng hoặc những bài thơ hay mà mới chỉ một trong hai người thuộc.

Còn khi bị nhốt chung phòng với anh em tù thường phạm, anh em dạy tôi... đánh lộn. Đúng là đánh lộn chớ không phải võ, vì hầu hết anh em không phải võ sư hay võ sĩ gì cả, mà chỉ chuyên đánh lộn với các thế võ “sát thủ” theo kiểu học mót, miễn sao thắng được đối thủ. Thôi thì đủ cả: Bẻ tay, bẻ chân, khóa cổ, giật cùi chỏ, lên đầu gối, móc mắt, vặn tóc... Và lại muốn học bài bản củng không thể vì không gian chuồng cọp quá hẹp không thể đi quyền hoặc tung những đòn cước liên hoàn. Thực ra tôi học đánh lộn cho qua thời gian, vận động thân thể là chính.

Phần tôi, tôi củng dạy anh em học văn hóa: tiếng Pháp, tiếng Anh tuỳ người muốn học; nếu không, tôi đọc truyện Kiều, kể chuyện võ hiệp, qua đó phân tích cho anh em nghe cái hay cái đẹp của văn chương; những hành động trọng nghĩa khinh tài, đối xử phải đạo của giới võ lâm. Được cái trí nhớ tôi cũng khá tốt, tôi kể tương đối hấp dẫn nên anh em rất thích nghe. Vả lại trong tù vốn chẳng có gì để giải trí nên kể chuyện dài nhiều tập được coi là một thú tiêu khiển “giết thời gian” mà ai nấy đều thích và gọi là “quay phim”.

Tôi còn nhớ những bộ truyện dài như Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thuỷ Hử, nhất là các tập võ hiệp của Kim Dung như Cô gái Đồ Long, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Tiếu ngạo giang hồ, Lục mạch thần kiếm, Lộc đỉnh ký... tôi đều phải kể trên dưới một tháng mới xong. Mà thời gian kể mỗi ngày hầu như cố định: Sau khi đóng cửa phòng biệt giam buổi tối túc 6h, đến khi giới nghiêm lúc 9h.

Cứ sau khi ăn cơm chiều xong được một lát, các phòng biệt giam bị khóa hết, tôi nằm ngửa, vận “nội công” vào ngực, bắt đầu “quay phim” - nếu không, các phòng gần đó thế nào cüng nhắc nhở, thúc giục cho bằng được.

Thực ra, không cần nhớ nguyên văn 100% câu chuyện, chỉ cần trên 50% là được rồi. Tả tình, tả cảnh, tả người tôi tha hồ thêm thắt, thêm mắm dậm muối, thậm chí... bịa đại. Các thế võ cũng vậy: Đố ai phân biệt được Võ Tòng đã “Ngọc hoàn bộ uyên ương cước”, “liên hoàn tam cước” hay “kim kê độc lập cước” khi nghe kể: “Võ Tòng nhảy vọt lên, vung hai chân liên tục vun vút tung đòn chân nọ chưa kịp thu về, chân kia đã đá ra, chỉ nghe tiếng gió rít lên cũng đủ biết công lực mạnh biết chừng nào, tốc độ đã nhanh biết chừng nào và trước khi Võ Tòng hạ thân mình xuống đất trở lại, đã đá tổng cộng chân phải 7 cước, còn chân trái 6 cước”. Và họa có trời mới kiểm chứng nổi có đúng là Trương Vô Kỵ sử dụng thế võ phi thân đẹp mặt chân truyền của phái Võ Đang “thế vân tung” hay đã biến thành “vân long tam hiện” khi nghe lời kể: “Vô Kỵ lập tức dậm chân, thân hình bay bổng, lộn ba vòng trên không trông không khác nào con rồng bay trong đám mây ẩn ẩn hiện hiện, thân pháp linh ảo khiến ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi khâm phục, đến nỗi có người lè lưỡi quá dài, hai ngày sau mới rụt vô lại được”.

Có khi nghe bịa đại vậy rồi tưởng tượng ra còn sướng hơn cả đọc sách, nhất là khi ngồi một mình giữa bốn bức tường trong biệt giam chuồng cọp.
Giữa giờ, tôi tự cho mình được quyền “nghỉ giải lao” tuỳ ý, khi nào cảm thấy mệt, thường là lúc câu chuyện đang hấp dẫn. Thế là anh em tù nhân nào có quà do người nhà gởi thăm nuôi đều nhờ số tù trật tự (không bị giam vô biệt giam mà tự do đi lại phía bên trong trại) mang qua “bồi dưỡng” cho tôi. Số tù trật tự này cũng rất khoái nghe tôi kể chuyện.

Tôi còn nhớ, sau khi kể xong Lộc đỉnh ký, tôi bỏ ra nguyên một buổi tối phân tích nhân vật chính Vi Tiểu Bảo. Vì thính giả hầu hết là dân chơi, tôi nhấn mạnh đến khía cạnh nghĩa khí giang hồ của gã họ Vi: Làm gì thì làm, lừa đảo ai thì lừa đảo, nhưng một khi đã kết nghĩa anh em (chớ chưa nói đến đã nhận làm sư phụ như Trần Cận Nam; Cửu Nạn sư thái hay vua Khang Hy) thì không bao giờ tráo trở; lại hết lòng cứu giúp chẳng hạn đối với Tang Kết (dù chỉ là kết nghĩa bất đắc dĩ) hay Dương Dật Chi; và hễ đã hứa là lấy chữ tín làm đầu, không hề lật lọng bao giờ. Thêm làm gì thì làm, gã họ Vi luôn “chơi đẹp” với bất cứ ai.

Chính nhờ kể chuyện, học và tự học, anh em giang hồ trở nên thân quen, có cảm tình với tôi. Tôi nhớ khi tôi chẳng may bị liệt chân, một tay du đãng tại khu C là Hùng Be chuyên cõng tôi ra tắm nắng.

Cũng chính nhờ vậy, thời gian dường như trôi qua nhanh hơn đối với anh em tù nói chung, với anh em bị nhốt trong chuồng cọp nói riêng.

Do khu C chủ yếu nhốt tù hình sự, nên mọi tin tức về tình hình chính trị bên ngoài, nếu anh em tù chính trị ở các khu khác có nắm được, cũng ít khi thông báo tới đây. Và lại, đường dây liên lạc của anh em tù chính trị cũng rất khó thâm nhập khu C. Vì vậy, đêm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, toàn bộ phạm nhân ở Côn Đảo có một cuộc sống khác, cũng là một đêm đáng nhớ…
04:07 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 7): Sát thủ bị 'con mồi' hạ sát vì ham hố một chai rượu Cognac
Mối thù vẫn nung nấu, nhưng phải mất đến gần một năm trời, Sơn Đảo mới tìm được kẻ thay cho Tuấn Đả: Gã tên Nguyễn Văn Hoàng, biệt danh Hoàng Đầu lâu.


Gã sát thủ Sài Gòn đã bị chính 'con mồi' hạ sát bằng một chai rượu (ảnh minh họa)

“Con bài” Hoàng đầu lâu

Nói về võ nghệ, cả trại giam Chí Hoà để không ai sánh kịp Hoàng Đầu lâu. Với tứ đẳng huyền đai taekwondo, khi còn ở ngoài đời, Hoàng đã từng hạ gục hàng chục cao thủ cả người Việt lẫn người Campuchia trên sân đấu.

Biết vợ con Hoàng đang sống khó khăn từ khi chồng, cha bị bắt, Sơn Đảo bỏ tiền mua một căn nhà mặt phố nhỏ đem tặng, tiếp đó sang một sạp vải ở chợ cho vợ Hoàng đứng bán, làm kế sinh nhai. Đồng tiền đi trước luôn là đồng tiền khôn, Hoàng Đầu lâu nghe vợ nói lại được Sơn Đảo giúp đỡ, Hoàng gật đầu hứa giúp Sơn Đảo trả thù...

Khốn nỗi, trong giới giang hồ, Hoàng Đầu lâu chỉ thuộc hạng chiếu dưới, án tù lại nhẹ nên khó thể ngồi cùng mâm với Lâm chín ngón (vẫn đang ở biệt giam) để có cơ hội tiếp cận và hạ sát đối thủ.

Để tạo cơ hội cho Hoàng, Sơn Đảo tốn công vạch nguyên một kế hoach chi tiết nhằm giúp Hoàng Đầu lâu tăng án, “được” vào biệt giam, đồng thời nâng uy tín trong giới giang hồ chớ không vì thế mà gây xích mích với bất cứ dân chơi nào khác.

Số là, khi ấy trong đám cai ngục Chí Hoà có tay trung sĩ Cách, cháu ruột gọi phó giám thị trại bằng cậu. Ỷ thế có chỗ dựa lưng, trung sĩ Cách luôn tìm cách ăn chặn, phá phách đồ thăm nuôi của tù nhân khiến tất cả tù nhân đều căm ghét, tuy nhiên không ai đám ra tay vì đụng tới nhân viên công lực ắt án sẽ không hề nhẹ chút nào. Mãi tới một hôm, sau khi nghe đám đàn anh ta thán, Hoàng Đầu lâu xung phong: “Để em mần thịt nó!”.

Vậy là trong kỳ thăm nuôi tới, khi Trung sĩ Cách đang săm soi hũ thịt rim, bẻ đôi từng cái bánh để khám xét thì một tên tù trật tự (thường là bọn tù hình sự án nhẹ, giúp việc cho đám giám thị) đến gần, nói nhỏ vào tai hắn: “Thưa Trung sĩ, có người muốn gập riêng Trung sĩ!”. Cách chưa kịp quát như kiểu thường ngày: “Thằng nào muốn gặp tao thì tới đây mà gặp!” tên cò mồi đã dặn thêm: “Nghe nói có chuyện làm ăn lớn; muốn gặp riêng Trung sĩ”.
Tưởng đâu sáp vô được món bở, hối lộ chi đây, Trung sĩ Cách bỏ ngang việc khám xét, rời khu thăm nuôi, theo tên cò mồi đi vào phía trong.

Cánh cửa phòng thăm nuôi vừa khép lại, Hoàng Đầu lâu bước ra ngay. Hôm đó, hắn mặc chiếc áo phông rộng thùng thình che kín thanh mã tấu giắt sau lưng, mặt đằng đằng sát khí. Vừa thấy bản mặt hung dữ của Hoàng; linh tính Trung sĩ Cách mách báo điềm chẳng lành, hoảng quá quay ngoắt người định vội vàng tháo lui nhưng không kịp...

Nhanh như chớp, Hoàng Đầu lâu đứng chặn ngang cửa ra vào, rút thanh mã bén ngọt, chẳng nói chẳng rằng nhắm ngay mặt đối thủ vót ngược lên. Trung sĩ Cách vội lớn tiếng kêu cứu, ngả người hất đầu ra phía sau, thì nguyên lỗ mũi của hắn bị lưỡi dao cắt bay mất, máu tuôn xối xả.

Nghe tiếng kêu cứu, bọn giám thị vội tông cửa chạy vào, một mặt khống chế Hoàng Đầu lâu, một mặt đưa Trung sĩ Cách và chiếc mũi đã bị đứt kia vào bệnh viện cấp cứu, phải mất mười mấy mũi kim khâu dính lỗ mũi trở lại vị trí cũ.

Với “chiến tích” này, Hoàng Đầu lâu nghiễm nhiên một bước trở thành “dân chơi thứ thiệt” được giới giang hồ trong khám Chí Hoà trọng nể. Tội nặng thêm, Hoàng Đầu lâu bị tống xuống khu biệt giam. Ở ngoài, Sơn Đảo lo lót tiền cho bọn giám thị, cai tù.
Kết quả là hai tháng sau, Hoàng Đầu lâu ôm giỏ đồ của mình chuyển sang ở chung một buồng biệt giam với Lâm chín ngón.

Khám Chí Hòa nhìn từ xa.
“Sát thủ” bị hạ thủ
Lúc này Lâm đã được chuyển từ khu “Điện ảnh” lên phòng biệt giam ở OG thuộc khu FG. Dãy OG đặc biệt tối hù, do các phòng không quay ra phía sân chung như tất cả những phòng O (tức nằm ở tầng trệt) khác, mà quay ngược lại. Dù bị biệt giam, những các “đại ca” vẫn có quyền hơn bọn “âm binh mắt ma” tầm thường: Lâm chín ngón được phép mang theo một đệ tử để sai vặt, đó là “Lí Lắc” đâu chưa đến tuổi thành niên.

Chuyển qua ở chung phòng với Lâm chín ngón, Hoàng Đầu lâu trước hết đánh đòn “khủng bố tinh thần”: Cởi trần trùng trục phô chiếc đầu lâu nhe nanh, cả ngày hắn hết gồng mình lại xuống tấn đấm bình bịch vào tường, tiếp đó tung cước đá loạn xà ngầu đủ các kiểu, các thế vào cột nhà bằng bê tông. Thế mà tay chân hắn vẫn cứ trơ trơ chẳng hề trầy xước, hề hấn gì! Quả là cao thủ Taekwondo có khác!

Kinh nghiệm sống và những lời thì thào to nhỏ trong giới giang hồ đã giúp Lâm thừa biết Hoàng Đầu lâu định làm gì tiếp. Khốn nỗi cùng nằm chung trong một phòng biệt giam, muốn trốn tránh cũng chẳng có ngóc ngách nào để trốn tránh.
Lâm thở dài, toan tính âm mưu và âm thầm chuẩn bị...

Bắn tin ra ngoài, Lâm nhờ đàn em kiếm một chiếc quai đeo ba lô hình chữ X bằng inox, bẻ ra, nhận vào trái bí đỏ chuyển vào khám Chí Hoà cho Lâm. Chờ lúc Hoàng Đầu lâu ra khỏi phòng, Lâm đập bể trái bí, lấy thanh inox ra, mài xuống sàn xi măng, biến thành một lưỡi dao mỏng dính và nhọn hoắt, bén ngọt không khác gì dao cạo.

Lại có tin Hoàng Đầu lâu mới nhận được một tờ giấy do Sơn Đảo gửi vào, nhắn tin cần tiến hành gấp công việc mà hắn đã nhận lời khiến Lâm chín ngón càng nóng lòng như lửa đốt.

Lâm nhờ một tù nhân có vai vế nhất tại khám Chí Hòa khi ấy là Tướng Lam Sơn, nguyên là giám đốc Trung tâm huấn luyện sĩ quan Thủ Đức, giúp cho một việc. Tướng Lam Sơn phải xộ khám vì tội bắn chết quản gia, tuy ở tù nhưng được đối xử rất đặc biệt: Ở khu AH (khu dành cho số tù nhân mặc quần áo màu trắng, được gọi “công vụ” như trông coi thư viện của khám, làm công tác hướng nghiệp...) nhưng ông ta cả ngày muốn làm gì thì làm, được cả quản đốc, giám thị lẫn số tù hình sự vị nể, muốn mua gì cũng có thể gửi giám thị mua giúp.

Lâm nhờ Tướng Lam Sơn mua cho mình một chai rượu cognac hiệu Remy Martin. Xong, Lâm kêu Lí Lắc chuẩn bị mồi, tối khuya mời Hoàng Đầu lâu đối ẩm. Trong tù, được đàn anh chiếu cố, lại có rượu tây nhâm nhi, cognac đàng hoàng, thì còn gì thú bằng.

Thế là Hoàng Đầu lâu cứ thế nốc rượu tì tì mà không hề nghĩ đến hậu quả, trong khi Lâm chỉ nhấm nháp, đưa hơi chờ đợi...

Đến nửa đêm, chai rượu vừa cạn cũng là lúc Hoàng Đầu lâu say mèm hết biết trời đất, nằm lăn ra ngáy khò khò. Lúc này Lâm mới lôi con dao inox bén ngọt ra, cứ thế nhằm đối thủ mà đâm không biết bao nhiêu nhát cho đến khi Hoàng Đầu lâu tắt thở, máu chảy lênh láng. Lí Lắc thì quá sợ, chỉ biết trố mắt ngó đàn anh hành động, chân tay run bần bật như thằn lằn đứt đuôi.

Thấy đối thủ đã chết hẳn, Lâm chín ngón mới ra đứng ở cửa phòng lớn tiếng gọi giám thị. Đêm khuya vắng lặng, tiếng Lâm như vang to hơn hẳn: “Giám thị, tôi đâm chết Hoàng Đầu lâu rồi”.

Ngay cả giám thị trại giam lúc mới nghe cũng chưa hẳn tin lời Lâm nói là sự thật...

Lâm chín ngón lại bị tống vào khu “Điện ảnh”.

Bên ngoài, Sơn Đảo thêm một phen lồng lộn bực tức. Bao nhiêu công lao nuôi dưỡng Hoàng Đầu lâu, việc gần đến đích bỗng biến thành nước lã đổ ra sông hết sạch. Hắn tiếp tục nghĩ kế quyết trả thù, bằng bất cứ giá nào cũng phải giết bằng được Lâm chín ngón.

Tuy nhiên Sơn Đảo chưa kịp nghĩ ra kế trả thù thì Lâm chín ngón đã bị chuyển ra biệt giam ngoài Côn Đảo vào đầu tháng 4/1975; còn chính hắn bị một đàn em là Y Cà-lết, tên thật Phạm Bá Y, giết chết do tranh giành em út...
04:04 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 6): Thời nhiễu nhương 'đại bàng' lập 'chợ'

Sài Gòn, những năm cuối thập niên 1960, đầu 1970. Lúc này, trong trại giam Chí Hoà nhốt một dọc những tay giang hồ nổi tiếng vào thời gian ấy.

Thời nhiễu nhương 'đại bàng' lập 'chợ' ma túy trong khám Chí Hòa

Có thể kể Cương Võ sĩ, Lâm Chín ngón, Tuấn đả, Y Cà-lết (do dáng đi hơi khập khiễng), Chương khùng, Viet Parker...

Muốn gì có nấy
Vào thời đó, bộ máy cảnh sát cũng như giám thị nhà tù của chế độ Sài Gòn gần như bó tay trước nạn lộng hành của đám lưu manh du đãng hung hãn, nhất là khi bọn chúng được ma túy hỗ trợ. Tuy bị giam tại Chí Hòa, giữa tòa nhà bát giác, nhưng cuộc sống của những tay giang hồ sừng sỏ nhất cũng chẳng mấy khác cuộc sống hồi còn ở ngoài đời, ngoài chuyện không thể muốn đi đâu tuỳ ý.

Muốn ăn ngon, chúng cứ việc xin phép giám thị (dễ ợt) đến căng-tin nằm ngay tại hồ nước, giữa sân Chí Hòa - miễn là có tiền. Không ít tên còn chơi ngông, đặt tiền trước cho nhà hàng: Bảo đảm qua hôm sau, nhà hàng mua sẵn mang vào phục vụ cho chúng đầy đủ “sơn hào hải vị” thức ăn ngon nhất, đặc sản của bất cứ nhà hàng, tiệm ăn nào nổi tiếng nhất Sài Gòn - Chợ Lớn, tất cả đều còn nóng hổi.

Ngay cả muốn ngủ với gái mãi dâm cũng không khó, có điều thường phải chờ đến tối thứ Bảy hoặc Chủ nhật... Trong sân trại giam Chí Hòa (phía trước), kề bên khu thăm nuôi, có một chiếc xe tải hư hỏng bỏ không. Đám tù hình sự che chắn lại, biến xe thành nơi “hành lạc” có đủ nệm, quạt máy... Chỉ việc dúi vào tay cai tù một xấp tiền kèm theo ám hiệu là bọn này liên hệ với các động mãi dâm quen thuộc. “Đến hẹn lại lên”, tối thứ Bảy, Chủ nhật gì đó, vài ba cô gái môi son má phấn sẽ được giám thị dắt vào, phục sẵn trong xe tải chờ tiếp các “đại ca”.

Những đại ca giang hồ nào không mang án quá nặng còn có thể “đi phép”, miễn là chung chi hơi nặng tay. Cái giá phải trả khi ấy cho giấy phép một ngày là 120 ngàn đồng, cả ngày lẫn đêm gấp đôi: 240 ngàn đồng (vàng vào thời gian ấy chỉ có giá khoảng 20 ngàn đồng/lượng, tức giấy phép giá từ 6-12 lượng vàng).

Có nhiều cách để số tù nhân này đi phép, mà thông thường nhất là chúng sẽ nhận được giấy mời ra tòa để bổ sung hồ sơ thẩm vấn hoặc làm nhân chứng chẳng hạn. Xe cai tù chở chúng ra khỏi nhà tù đàng hoàng, nhưng không chở đến tòa án (làm gì có chuyện tòa hỏi cung hay xử), mà dừng ở một điểm nào đó theo thỏa thuận, thả chúng xuống; để đến giờ hẹn sẽ lại rước, đưa trở lại về Chí Hòa. Cũng có thể đó là giấy tù nhân mang bệnh nặng, phải đưa ra bệnh viện ngoài Chí Hòa để khám; tất nhiên cũng do xe của nhà tù Chí Hòa đưa đi chở về...

Có tên còn liên lạc trước với bọn đàn em bên ngoài để bọn này chuẩn bị sẵn xe cộ, phương tiện, sau đó mới mua một giấy phép 12 tiếng. Lọt ra ngoài, chúng lập tức tiến hành một vụ ăn hàng trót lọt. Xong, lại vào tù nghỉ ngơi dưỡng sức, hưởng chiến lợi phẩm. Những vụ án này, bọn cảnh sát điều tra bên ngoài dù có tài thánh như Sherlock Holmes sống lại cũng không cách nào tìm ra thủ phạm - ai mà tưởng tượng ra nổi một tên tù đang bị nhốt trong tù lại có thể gây án bao giờ.

“Chiến tranh” ma túy trong khám Chí Hòa

Tuy nhiên, việc mua “giấy phép” để đi cướp chỉ là chuyện cho vui nhằm đỡ ngứa nghề, còn kỳ thực nguồn lợi chính của các “đại ca” trong khám Chí Hòa lúc ấy lại là buôn bán ma túy.

Vào lúc cao điểm, nhà giam Chí Hòa có khoảng 2.000 tù hình sự thì cũng gần như có chừng ấy con nghiện. Vì vậy, bán ma túy, thuốc phiện trong tù đem lại cho các “ông trùm” nguồn lợi cực lớn, có khi lên đến 400 - 500 ngàn đồng/ngày. Nguồn lợi quá khổng lồ khiến chúng không ngần ngại vây bè kết cánh để giữ độc quyền bán ma túy ở các buồng giam và tranh giành lãnh địa, hạ bệ nhau nhằm ngoi lên làm ông “trùm”, tha hồ thu lợi.

Cũng vì vậy, “chiến tranh” trong khám Chí Hòa vẫn nổ ra thường xuyên. Tuy hành lang các dãy buồng giam luôn mở ra trong giờ hành chính, nhưng những tên “âm binh mắt ma” (chỉ bọn giang hồ chưa có số má gì) ở khu AB có bao giờ dám xuống khu BC nằm ngay kề bên; bọn ở khu ED cũng đừng dại mò qua khu FG coi chừng mang hoạ.

Ngay cả những đàn anh hạng gộc như Cương Võ sĩ (ở khu ED) hay Lâm chín ngón (ở khu FG) có thể tha hồ đi lại bên trong trại giam hình bát giác này, ung dung tự tại trong khu do chúng cầm đầu; nhưng hễ ra khỏi khu của mình đều luôn phải có ít nhất vài ba đàn em thân tín đi cùng làm vệ sĩ. Nếu không, coi chừng ăn dao lúc nào không biết.

Mỗi khi lâm trận, những tên du đãng có số má này hầu hết đều hai tay nắm chắc 2 con dao. Thêm con dao thứ ba giắt ngang lưng, phòng khi con dao trên tay bị đối phương đoạt mất hoặc đánh rơi. Cũng vì vậy, hỗn danh thời “hai tay ba dao” bắt nguồn từ đó.

Thêm nữa, rất nhiều tay du đãng ở trong khám Chí Hòa hồi đầu những năm 1970 còn tự trang bị một thứ vũ khí khác: Quyển Kinh Thánh đạo Công giáo. Sách thánh dĩ nhiên không thể dùng để đâm chém, nhưng có thể dùng phòng thân - chẳng phải để cầu Chúa che chở bảo vệ (nếu quả có Chúa, chắc người cũng không dễ gì bảo vệ cho những đại ca xã hội đen), mà do cuốn Kinh Thánh có kích cỡ vừa vặn với túi áo trên, được linh mục ở tiểu giáo đường nằm trong khuôn viên khám Chí Hòa sẵn sàng phát không cho bất cứ ai muốn xin. Sách khá dầy, nhất là bìa sách cứng, có khả năng ngăn chặn mũi dao nhọn đâm ngay tim. Và, có lẽ linh mục không khỏi vui mừng vì có nhiều “con chiên” (nhiều kẻ chưa hề là tín đồ đạo Thiên chúa) nay tự nhiên muốn nghiên cứu sách Thánh.

Phân chia lãnh địa

Để tránh những xung đột không cần thiết, dần dần những đại ca trong khám cũng tự phân chia lãnh địa, “rừng nào cọp nấy”: Lâm chín ngón độc quyền bán thuốc phiện ở khu FG, Cương Võ sĩ khu BC, Việt Parker khu ED, Y Cà-lết khu AH, Chương khùng được một minh khai thác “hàng trắng” toàn khám...

Xin lướt qua những nhân vật chính liên quan bài viết này để bạn đọc biết tại sao bọn họ lại được “ăn trên ngồi trốc” như vậy.

Lâm chín ngón vốn là “sát thủ”, cánh tay phải của Đại Cathay từng ngồi trại Cửu Sừng ở tận Phú Quốc (thành tích không dễ mấy ai đạt); thời gian chuyển qua nhà lao Gia Định dám thay mặt giới giang hồ kẹp cổ, rút cây viết đang giắt trong túi áo “tướng cướp cô độc” Điền Khắc Kim đâm vào trán hắn, sau lại từng cầm đầu đám tù hình sự” vượt ngục (nhưng không thành). Nhờ vậy, không chỉ độc quyền bán thuốc phiện ở khu FG, Lâm còn kiêm độc quyền cung cấp “hàng đen” cho toàn trại giam Chí Hòa.

Chương khùng là tên giang hồ có số mã đã lâu, nhưng nổi tiếng nhất là khi cầm đầu hàng chục tên thuộc giới xã hội đen đang bị giam trong Chí Hòa xông vào cướp thùng đựng tiền của đám tù nhân gốc người Hoa đang bị giam trong khu AB. Thùng tiền được 4 võ sĩ cao thủ cũng người Hoa, nghe đâu thuê từ tận Hồng Kông qua chia nhau đứng ở 4 góc thùng để bảo vệ. Trong cuộc hỗn chiến này, Chương khùng bị chém trọng thương, tuy vụ cướp không thành những cũng đủ giúp hắn thành danh.

Cương võ sĩ tên thật Vũ Đình Cương, vốn là một võ sĩ quyền Anh có đẳng cấp, từng nhiều lần thượng đài khắp miền Trung, miền Nam và cả Campuchia. Hơn nữa, Cương lại là em ruột Sơn Đảo, một trong những trùm ma túy của miền Nam lúc ấy. Anh em Sơn, Cương vốn là dân gốc Bắc di cư, nhà ở khu Ngã ba Ông Tạ, chuyên làm giò chả. Cả hai anh em từ hồi nhỏ lúc nào cũng hai tay hai chày giã giò nên cơ bắp săn chắc, cứng rắn như cua gạch.

Năm 1970, Cương bị bắt vì tội danh buôn bán ma túy. Xộ khám Chí Hòa, nhờ danh tiếng cá nhân và nhất là danh tiếng từ anh ruột, Cương được đám giang hồ tại đây phong làm “đại ca của các đại ca” toàn quyền cắt đất, sai phái lâu la dưới trướng. Khi các băng nhóm trong trại bất hoà, xích mích, chi cần Cương đứng ra dàn xếp, nói vài câu là tất cả đều răm rắp tuân phúc, đố ai dám cãi.

Thanh toán giang hồ

Khoảng giữa năm 1972, không hiểu sao đám con nghiện ở trong khám Chí Hòa bỗng đâm ra khoái thuốc phiện hơn thích ma túy.

Nhờ vậy Lâm chín ngón ngày càng ăn nên làm ra. Cứ “đến hẹn lại lên”, thuốc phiện từ bên ngoài được đàn em đóng thành từng bánh dẹt lớn, nhét vào thùng gỗ hai đáy chứa đồ thăm nuôi, gửi vào cho Lâm. Cai tù thừa biết nhưng làm ngơ để được chia phần (tỉ lệ 30% lợi nhuận). Với tù nhân khác, đồ thăm nuôi gửi vào hộp kem đánh răng cũng phải xé đôi, kẹo bóc từng viên; bánh tét phải cắt làm tư... Riêng với nghi can nghiện ma túy thậm chí phải lột hết quần áo, chổng mông để khám xem có nhét thuốc giấu trong hậu môn hay không.

Mang thùng đồ thăm nuôi vào, Lâm bửa ngăn đáy lấy thuốc phiện ra, cắt thành miếng nhỏ phân phối cho các buồng giam thu lời. Theo lời Lâm chín ngón kể, vào thời kỳ “hoàng kim”, mỗi tuần riêng cá nhân mình có thể lãi cỡ 25 - 30 lượng vàng như không. Vậy là bỗng dưng hàng trắng “ế độ”. Thu nhập của Chương khùng rớt thảm hại.

Giờ đây không tiền tự nhiên quân binh rơi rụng dần, đàn em cũng chẳng mấy đứa ngó ngàng tới. Chương khùng tức tối lớn tiếng chửi bới om sòm, doạ “cho biết tay” những đứa nào dám bỏ hắn qua phò Lâm chín ngón.

Nghe Chương khùng chửi bới, một tay ngang cơ khác là Năm Lượng (trước thuộc đảng cướp “Con Cua Vàng” khét tiếng miền Tây Nam Bộ, sau về làm quân sư cho Đại Cathay) ngứa lỗ tai, đổ thêm dầu vào lửa, thách: “Mày chỉ được cái đánh võ mồm”. Bị khích tướng, Chương khùng nổi cơn... khùng, lấy bộ đồ võ màu đen mặc vô cho oai, uống một hồi 3 viên Renoval để thêm “khí thế”, hầm hầm tuyên bố “Tao đi tìm thằng Lâm nói chuyện phải quấy”, te te qua khu FG...

Đang đánh bóng chuyền ở sân khu FG, nghe đàn em cấp báo, Lâm chín ngón ngưng ngay ván đang đấu dở, đợi sẵn đối thủ. Vừa thấy mặt Chương khùng, Lâm chặn đầu hỏi trước: “Chương! Nghe nói mày đòi dẹp không cho tao bán thuốc trong khu FG nữa, có đúng vậy không?”. Đang hăng máu, vả lại trưóc mắt nhiều đàn em, Chương khùng ưỡn ngực: “Đúng! Tao bảo dẹp! Mày bảnh thì chơi lại tao coi!”.

Đang sẵn ly nước cầm trong tay uống mới được phân nửa, Lâm chín ngón không thèm lên tiếng đáp trả mà quăng luôn cả ly lẫn nước vào mặt Chương khùng, đồng thời vung tay nhào tới. Quá bất ngờ trước phản ứng mạnh của Lâm chín ngón, nhưng Chương khùng cũng kịp nghiêng đầu né ly nước. Chiếc ly thuỷ tinh đập vô tường mé sau đánh “chát”, miểng văng tung tóe. Nói ngay tình, nếu đấu tay đôi có lẽ Chương khùng khó đánh lại Lâm chín ngón. Tuy chiều cao tương đương (đều cùng khoảng 1,70m), nhưng Lâm chín ngón nặng cân hơn, thân hình chắc nịch; thêm đàn em Lâm Chín ngón kéo tới khá đông (khu FG là “địa bàn” của Lâm) nên Chương khùng tỉnh người hẳn, nghĩ đến... “tam thập lục vi kế tẩu nhi thượng sách” (36 kế, chạy là tốt nhất).

Vậy là khí thế tự nhiên biến đâu mất sạch, cả 3 viên Renoval cũng không thấy ép phê, Chương khùng vội vàng bỏ chạy. Tuy nhiên cơn giận vẫn chưa nguôi, hắn tức đến chảy nước mắt. Thoát ra khỏi khu FG, Chương khùng tìm đến đàn anh cầu cứu.

Lúc này một số đàn anh đang tụ tập trong khu BC tán dóc. Thấy Chương khùng vừa chạy qua vừa khóc, Cương ngăn lại hỏi chuyện. Không lẽ thú thật mình không dám chơi tay đôi với Lâm chín ngón, cũng không dám nói mọi chuyện do mình gây sự trước, Chương khùng miệng mếu máo bịa chuyện: “Thằng Lâm ỷ đông kéo đàn em đòi xử tôi, cấm không cho tôi bán ma túy nữa!”.

Lâu nay ranh giới đã chia, địa bàn đã rõ, rừng nào cọp nấy mà nay Lâm chín ngón toan “phá lệ” qua mặt mình, Cương nổi máu yêng hùng, không hỏi thêm, dẫn một tốp có đến nửa tá đàn anh chị kéo sang khu FG để “hỏi tội thằng Lâm”. Chương khùng cũng tháp tùng...

Phần Lâm chín ngón, dù đã đuổi được Chương khùng nhưng cơn giận bừng bừng vẫn chưa nguôi. Không đâm được đối thủ, hắn đang nện nắm đấm thình thình vô tường buồng giam 3 F4, dọa “luộc thằng Chương” thì một tên đàn em chạy vào thở hổn hển, cấp báo: “Anh Lâm coi chừng! Anh Cương đang dẫn một toán người qua tìm anh đó. Có cả Chương khùng trong nhóm”.

Hai ba tên rút dao lá lúa (trong khám Chí Hòa tuyệt đối cấm mang dao vào, nên “dao” thường là mảnh tôn hay thép thùng phuy mài bén ngọt, đầu sắc nhọn) dúi vào tay Lâm: “Anh cầm theo phòng thân!”. Lâm đón lưỡi dao gần nhất của một đàn em là Hùng Be, giắt vào lưng quần, bảo “Một dao đủ rồi” và lập tức chạy ra ngoài phòng nghênh tiếp.

Khi hai bên đã đứng đối diện, Cương đứng lại, không thèm hỏi đầu đuôi câu chuyện mà lên giọng đại ca, lớn tiếng hạch hỏi: “Lâm, ở đây mày với tao ai là đàn anh?”. Rồi, không kịp chờ Lâm trả lời, Cương đã tung ngay một cú đấm thôi sơn vào mặt đối thủ.

Nhờ cảnh giác đề phòng trước, Lâm nghiêng đầu kịp né tránh cú đấm thẳng của tay võ sĩ quyền Anh nhà nghề, tuy nhiên nắm tay của Cương phớt qua tóc Lâm chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Đòn ra quá mạnh nhưng không trúng đích khiến Cương mất đà, thân hình nhào về phía trước, đầu hơi chúi xuống.
Trong giới giang hồ hồi ấy có câu “bị một cái tát, coi như không ngoi đầu lên nổi” huống hồ ăn nguyên cú đấm. Máu nóng bốc lên, lại giận Cương không thèm hỏi chuyện mình mà vội hạch sách lên giọng, nhân lúc Cương đang mất đà, Lâm tay trái nắm cổ áo địch thủ nhấc lên, cùng lúc tay phải quay lại rút dao sau lưng, nhằm ngay ngực đối thủ đâm mạnh...

Tất cả mọi việc diễn biến chỉ trong chớp mắt, không ai kịp can ngăn, cũng không ai kịp nhận ra sự việc. Chỉ nghe Cương “hự” lên một tiếng rồi ôm ngực nằm vật ra sân khi Lâm vừa buông tay trái, trong lúc Lâm vẫn vung cánh tay phải định đâm tiếp.

Có tiếng ai đó kêu lên: “Anh Lâm đừng đâm nữa!” Lâm chín ngón mới như sực tỉnh, vội buông dao rớt đánh “cạch” xuống nền xi măng. Nhát dao duy nhất đã đâm trúng ngay tim Cương, khiến tay võ sĩ quyền Anh tắt thở tại chỗ.

Mặt tái mét, Lâm chín ngón cũng bất ngờ trước sự việc xảy ra, nhắn lại cả bọn đàn em đừng ngơ ngác trước khi bị dẫn xuống khu biệt giam Điện Ảnh trong khám Chí Hòa - tên gọi chính thức là khu ĐA (chuyên giam giữ tù nhân trong khám vi phạm kỷ luật, hoặc mới từ các trại giam khác chuyển qua, để dằn mặt và hành hạ, từ chữ ĐA, phạm nhân “chế” thành Điện Ảnh) coi như vừa thanh minh, vừa xin lỗi kẻ quá cố: “Tôi không cố ý, tại anh Cương... Thôi, anh em thắp cho anh mấy nén nhang giúp tôi...”.

Sơn Đảo báo thù

Giống em ruột, Vũ Đình Sơn tức Sơn Đảo cũng xuất thân từ một võ sĩ có hạng thuộc võ đường Hổ Bạch An, Tân Bình.

Lớn lên, Sơn rủ rê mấy đứa em ruột là Cương, Hoàng Bệu, Tiềm… lao vào con đường buôn bán ma túy; nhờ vậy anh em nhà Sơn Đảo đều giàu lên khá nhanh. Có tiền, Sơn bỏ ra bảo trợ cho lò võ mà mình đã theo học, xây dựng nguyên một phòng tập cho đám chiến hữu ngay trong trại lính dù Hoàng Hoa Thám cũng không mấy xa Ngã ba Ông Tạ, địa bàn hoạt động chính của y.
Cử chỉ hào phóng này đã được đám sĩ quan, binh lính thuộc binh chủng nhảy dù, một trong những lực lượng con cưng của chế độ Sài Gòn đáp lại bằng cách sẵn sàng đỡ lưng cho Vũ Đình Sơn trong các vụ làm ăn trong bóng tối. Trong số những kẻ “đỡ lưng” cho Sơn có thể kể đôi tên có máu mặt: Trung tá Lê Quang Lương, Trung tá Be (Ban 2 Dù), Thiếu tá Dương (Lữ đoàn 3 Dù), Trung uý Nguyên (tuy cấp hàm nhỏ nhưng là con đỡ đầu của Tướng Cao Văn Viên)...

Được hậu thuẫn mạnh, chẳng bao lâu Sơn đã trở thành kẻ cung cấp ma túy cho cả một khu vực rộng lớn dọc hai trục đường chính là Trương Minh Ký, Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sĩ dọc xuống Trần Quốc Thảo) và Lê Văn Duyệt (nay là Cách mạng Tháng 8). Ngoài ra, trên hai trục đường này còn có hàng chục tiệm hút, sòng bài thuộc quyền quản lý của gia đình Sơn.

Năm 1965, Sơn bị bắt, lãnh án 5 năm tù, bị đầy ra Côn Đảo. Cũng có một số tù nhân hình sự khác bị đầy ra Côn Đảo, nhưng riêng Sơn có biệt danh Sơn Đảo, có lẽ nhờ nguyên bộ tạ hắn mang từ Côn Đảo về, tặng lại cho khám Chí Hòa để bất cứ tù nhân nào muốn tập thể lực tùy nghi sử dụng. Và cũng nhờ vậy, uy tín và thế lực của Sơn Đảo ngày càng mạnh lên trong giới giang hồ Sài Gòn.

Nghe tin em ruột bị Lâm chín ngón đâm chết trong khám Chí Hòa, Sơn Đảo lồng lộn tuyên bố: “Sẽ lấy mạng thằng Lâm bằng bất cứ giá nào!”. Đối tượng đầu tiên được Sơn Đảo nhắm đến nhờ “báo thù” là Tuấn Đả, quê xã Hồ Hải, quận Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Nổi tiếng trong giới giang hồ Nam Trung phần, khi bị bắt giam tại quân lao Nha Trang, Tuấn Đả từng đâm lòi ruột Sơn trắng, “sếp sòng” quân lao này để tiếm quyền. Thời gian này có thuận lợi là Tuấn Đả còn bị nhốt ở khu Điện Ảnh cũng với Lâm.

Máu liều Tuấn Đả có thừa, nhưng chơi tay đôi khó nắm phần thắng Lâm chín ngón. Sơn Đảo nghĩ cách tuồn “chó lửa” (súng) từ bên ngoài vào cho Tuấn Đả. Nhưng hai lần súng đã được nguỵ trang rất tinh vi (và cả mua chuộc đám giám thị trại giam) để gửi vào, cả hai lần Tuấn Đả đều trả lại không nhận.

Lý do, khi từ quân lao Nha Trang chuyển vào Chí Hòa, Tuấn Đả bị đám đàn anh tại đây cô lập, suýt đánh hội đồng bởi e ngại “truyền thống” lật đổ của hắn. Khi đó Lâm chín ngón đã chủ động đứng ra bảo lãnh khiến Tuấn Đả cảm kích (về sau, đến năm 1974 Tuấn Đả cũng bị đưa ra Côn Đảo, biệt giam trong chuồng Cọp 7, khu C, mãi đến sau ngày giải phóng).
03:54 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 5): Tướng Nguyễn Ngọc Loan điều biệt kích ra đảo thủ tiêu trùm giang hồ?

Chúng tôi không có điều kiện gặp trực tiếp Trần Tử Thanh để hỏi thêm anh ta đã bắn Đại Cathay mấy phát đạn, đạn trúng vô đâu? Đại Cathay có phản ứng gì không?

Tướng Nguyễn Ngọc Loan điều biệt kích ra đảo thủ tiêu trùm giang hồ?

Trần Tử Thanh lúc ấy đeo lon thiếu úy biệt kích dù, tính khá bốc phét, nhất là khi khoe thành tích của mình, kể cả những thành tích mà nếu có đúng 100% cũng không ai khoe. Thí dụ Thanh khoe chính hắn đã “chơi” Chu Tử tức Chu Văn Bình (khi đó là chủ bút báo Sóng thần), và cũng chính hắn đã “mần” Thượng tọa Thích Thiện Minh.
Đặc biệt, khi đã có chút hơi men, Thanh ba hoa đủ thứ chuyện, khó mà tin được trong lời kể của hắn sự thực chiếm bao nhiêu phần trăm. Có điều, câu chuyện kể về Đại Cathay của Trần Tử Thanh được coi là “có đầu có đũa”. Hơn nữa, theo lời kể, hắn là nhân vật chính, là “người hùng” trong câu chuyện. Xin nhường lời cho tay thiếu úy biệt kích dù này:

“Bữa ấy moa đang ngồi ở một quán cà phê quen nằm trên đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng). Bỗng một tay cảnh sát chìm quen mặt đến gần nói nhỏ với moa: “Thưa Thiếu úy, có lệnh của ông Tướng gọi gấp”. Ông Tướng theo tụi moa hiểu ngầm với nhau là Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan tức Sáu Lèo, giám đốc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia. Biết có chuyện tối quan trọng, moa rời quán cà phê ngay. Tại Tổng nha, moa gặp đủ mấy đứa trong nhóm của moa. Tụi moa được lệnh lên đường ngay để thi hành một nhiệm vụ đặc biệt.

Nghề biệt kích là vậy. Đã quen với những nhiệm vụ loại này nên bọn moa chẳng đứa nào thắc mắc. Tất nhiên không thể có thời gian trở về nhà nói lời từ biệt với người thân, bọn moa được đưa thẳng ra phi trường. Trực thăng đã chờ sẵn bốc bọn moa lên ngay. Khi trực thăng đã lơ lửng giữa bầu trời, bọn moa mới được phát mỗi thằng một bọc đồ. Với kinh nghiệm sẵn có, bọn moa vội mở ra, trong đó thế nào cũng có một gói nhỏ đựng tiền. Nhìn tiền là mình biết ngay sẽ được thả xuống đâu.

Nếu là tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chắc ăn là sẽ nhảy dù xuống miền Bắc. Nếu là tiền ria ắt phải xuống đất Campuchia. Còn nếu tiền Việt Nam Cộng hòa thì yên trí chỉ lòng vòng ở miền Nam. Nhưng lần này, vừa mở gói đồ, moa biết ngay mình khỏi phải đi đâu xa: Trong đó là một bộ bà ba đen, đôi dép râu và chiếc nón tai bèo. Như vậy chắc như bắp là bọn moa phải hóa trang làm “Việt Cộng”, có điều chưa biết nơi mình đáp xuống.

Thế rồi trực thăng lướt trên mặt biển mênh mông. Tay sĩ quan trên trực thăng lúc này mới lên tiếng dặn dò:

- Các anh được lệnh giả làm Việt Cộng. Súng AK đây. Nhiệm vụ lần này không lấy gì làm nguy hiểm, nhưng phải thực hiện thành công và khôn khéo. Theo báo cáo chính thức của cảnh sát Phú Quốc, Đại Cathay và đồng bọn mới vượt ngục tối qua. Ta bắt lại gần hết, chỉ hai đứa trong đó có Đại Cathay trốn thoát, chúng đã chạy vô rừng mất dạng. Trực thăng sẽ đổ các anh xuống bìa rừng, để các anh vô rừng truy lùng hai tên này bắn chết chúng. Nhớ phải giữ bí mật, làm sao cho mọi người không ai biết ông tướng hạ lệnh thủ tiêu Đại Cathay, không ai biết chúng ta giết tay trùm du đãng này nghe!


Biết những chuyện công tác kiểu này có hỏi thêm cũng vô ích, bọn moa lặng lẽ thay đồ biệt kích bằng quần áo bà ba đen, dép râu. Tay sĩ quan dặn thêm:

- Làm sao cho mọi người đều hiểu Việt Cộng giết Đại Cathay là tốt nhứt nên các anh mới phải hóa trang. Nếu lộ thì phiền phức lắm đó!


“Phiền” nghĩa là gì, moa thừa biết. Sau mấy ngày luồn rừng lội suối, bọn moa phát hiện Đại Cathay cùng tên đồng bọn của hắn tại chân núi Khu Tượng. Chẳng lôi thôi gì, moa “phơ” luôn.


Hà hà... nào ai ngờ Đại Cathay danh tiếng lừng lẫy một thời lại dễ dàng gục ngã trước mũi súng của moa!”
.

Câu chuyện do Trần Tử Thanh vừa kể, theo như nhận định của chúng tôi ngay từ ban đầu, khó có thể tin vì thiếu rất nhiều tình tiết cụ thể. Rất tiếc, chúng tôi không có điều kiện gặp trực tiếp Trần Tử Thanh để hỏi thêm anh ta đã bắn Đại Cathay mấy phát đạn, đạn trúng vô đâu? Đại Cathay có phản ứng gì không? Làm cách nào anh ta nhận diện, biết chắc đó là Đại Cathay? Giết xong Đại Cathay anh ta lấy gì làm bằng chứng để báo cáo lại với thượng cấp? Ai đã chôn cất, dựng bia mộ cho Đại Cathay? Cùng tổ biệt kích với Trần Tử Thanh còn có những ai, mấy người, tên gì? Bắn chết Đại Cathay xong, làm cách nào anh ta trở lại Sài Gòn? Nguyễn Ngọc Loan có ý kiến gì khi được báo cáo lại tình hình?...

Và, nếu đúng vậy, tại sao Tổng nha Cảnh sát Quốc gia lại ra “báo cáo tầm nã” (giống lệnh truy nã hiện nay) đối với Đại Cathay và Hải Súng?

Dẫu sao, không thể phủ nhận nỗi bực bội, nếu không nói là căm ghét, của Nguyễn Ngọc Loan và một số tướng tá khác trong chính quyền Sài Gòn đối với Đại Cathay.

Hòa Áo thun là dân chơi thuộc loại đàn em của Đại Cathay bị đưa ra trại Cửu Sừng cùng lúc với “đại ca”. Anh ta tên thật là Hòa, mang biệt danh trên vì trên người có xâm hình một chiếc áo thun ba lỗ màu chàm đậm, khiến thoạt nhìn tưởng như lúc nào anh ta cũng khoác áo thun trên người, dù thực ra đang ở trần cùi cụi.

Sau khi Đại Cathay và Hải Súng vượt ngục Cửu Sừng được một thời gian, Hòa áo thun cũng trốn trại nhân khi ra ngoài làm khổ sai. Nhưng ít tuần sau, khi quân đội Sài Gòn mở cuộc hành quân lên mạn Bắc Đảo, Hòa Áo thun lớ ngớ bị bắt trở lại.

Và sau đấy là lời kể của Hòa Áo thun: “Tại Bắc Đảo có lực lượng khá đông anh em du kích của Mặt trận Giải phóng miền Nam. Lúc tôi đi lạc vô căn cứ, anh em hỏi thăm, biết tôi là tù hình sự đào thoát, đối đãi rất tử tế. Anh em cho tôi một bịch gạo, một cần câu để câu cá, tự kiếm lấy thức ăn. Lúc quân đội Sài Gòn hành quân, lực lượng du kích quen thuộc đường đi nước bước, lần đi đâu hết trơn. Còn mình tôi chẳng biết trốn vô ngóc ngách nào, đành để bị bắt”.

Riêng tin liên quan Đại Cathay, Hòa Áo thun cho biết: “Khoảng giữa đường từ thị trấn Dương Đông lên Bắc Đảo có một ngọn núi có tên núi Khu Tượng. Ngay tại đây có hai ngôi mộ mới đắp đất có bia mộ mang tên Lê Văn Đại và Võ Văn Hải. Bà con ở khu vực này đồn rằng Đại Cathay và Hải Súng đã bị anh em du kích bắn chết vì chống lại cách mạng. Họ còn đồn đại về chuyện Đại Cathay đánh lộn với “Việt Cộng” hồi anh ta bị giam ở khám lớn Chí Hòa”.

Vụ ẩu đã diễn ra liên tục hai ngày hai đêm giữa tù chính trị và tù thường phạm tại khám Chí Hòa với hàng ngàn người tham gia vào giữa năm 1966 có thể nói đã đi vào “lịch sử trại giam”. Khi tôi được chuyển từ Tổng nha Cảnh sát Quốc gia sang Chí Hòa (tháng 6-1966), vụ việc đã chấm dứt hơn một tháng, nhưng dư âm vẫn còn sôi động. Kế đó, tôi lại bị đưa từ khu FG (khu giam tù chính trị) sang khu ED, thoạt đầu ở phòng 1E3, sau chuyển sang 3D (nơi trước dùng giam tù tử hình, sau dùng nhốt một số tù chính trị).

Lầu 3D cũng chính là nơi ở của số anh em tù chính trị vừa mới xung đột với tù thường phạm. Vào thời gian tôi ở khu ED, Đại Cathay bị nhốt ở phòng 3E4, cũng có đôi lần gặp tôi nói chuyện tào lao. Về sau, tôi còn hỏi thêm chi tiết về vụ ẩu đả trên và được nhiều anh em cả tù chính trị lẫn tù thường phạm từng trực tiếp tham gia kể lại. Xin phục dựng lại vụ xung đột có thể nói khá chính xác qua lời kể của những người trong cuộc thuộc cả đôi bên.
Hôm ấy, vào khoảng 5h chiều, đã hết giờ hành chính nên hầu hết giám thị về nghỉ, chỉ còn một vài tên trực nhưng thường bọn chúng giao cho số trật tự (luôn do tù hình sự án nhẹ, được bọn chúng tin tưởng) điều hành sau khi khóa trái cửa khu.

Dưới sân dãy E thuộc khu ED khám Chí Hòa có bể chứa nước lớn, dành cho can phạm ở các phòng thuộc toàn khu ED (sân dãy D không có bể nước) luân phiên nhau tắm giặt và hứng nước mang lên phòng nấu ăn. Vào giờ đó các phòng thuộc tầng trệt và ba tầng lầu bên dãy E đều đã khóa cửa, các can phạm thường án (tù hình sự) đã hết giờ ra tắm nắng, giặt giũ. Theo thông lệ, đến lượt anh em tù chính trị trên lầu 3D sử dụng hồ nước.

Tuy nhiên, vẫn còn ba can phạm thường án dưới sân chơi: Của Gia Định biệt danh “Hùm xám Gia Định” (trùm du đãng miệt Gia Định), do vai vế, muốn giải lao tới chừng nào vô phòng giam cũng được, Ngọc “heo” là trật tự giữ chìa khóa các phòng giam, có nhiệm vụ đóng mở cửa toàn khu ED, và Đại Cathay, hôm ấy đi tòa án để khai cung mới về. Cũng do mới về, nên mặc dù không phải tới lượt mình, Đại Cathay cũng chen lấn vô nhóm anh em tù chính trị, xát xà bông tắm rửa. Rất tự nhiên, anh ta đưa nguyên cả chiếc đầu dính xà bông tùm lum vô vòi nước.

Một bác tù nhân đã lớn tuổi, râu tóc bạc như cước, cản lại:

- Chú à, tụi tui đang hứng nước nấu ăn, sao chú lại đưa đầu toàn xà bông vô?

Đại Cathay cãi:

- Mắt tôi đầy xà bông, có thấy chi đâu. Bác hứng nước hồi nào?


- Giờ này là giờ của tụi tôi, sao chú chen ngang?


Hai bên còn đang lời qua tiếng lại, có lẽ lần đầu tiên trong tù mới có kẻ dám cự cãi không chịu phục tùng Đại Cathay, thì bất ngờ Của Gia Định nhảy tới, vung chân đá vào ngực bác lớn tuổi, nhằm bênh vực cho đại ca của mình. Thử tưởng tượng, một gã cao khoảng 1,75m, to con, lực lưỡng, tung đòn taekwondo vô ngực một ông già trên 60 tuổi. Ông già tức thì “hự” lên một tiếng, máu rỉ qua khóe mép, gục xuống. Mấy chục anh em tù chính trị không nén nổi tức giận, nhào tới, kẻ tay không, người cầm thùng, xô, kẻ lượm gạch, đá nhất tề tấn công Của Gia Định. Đại Cathay và Ngọc heo cũng bốc lên, xông vô vòng chiến đấu bênh Của.

Cuộc chiến không cân sức nhanh chóng kết thúc với kết quả dăm anh em tù chính trị bị thương nhẹ, còn cả ba tù hình sự đều bất tỉnh nhân sự, nằm thẳng cẳng với nhiều vết thương khắp đầu, mình, chân, tay. Trong khi ấy, thấy “đại ca” bị tấn công, bị số đông “bề hội đồng” (như trên đã nói, dãy E khu ED trông thẳng xuống sân E gồm ba tầng lầu một tầng trệt, các phòng đều giam tù thường án), số tù hình sự trong 16 phòng giam la hét vang dội, yêu cầu mở khóa cửa phòng để ra hỗ trợ cho đồng bọn. Nhưng chìa khóa các phòng đều do Ngọc heo mang trong người, không ai mở khóa nên họ tìm cách phá cửa phòng.

Cuối cùng, nhiều phòng lần lượt bị phá cửa. Tù hình sự ùa theo cầu thang, tràn xuống sân mỗi lúc một đông, mang theo nào chổi, nào gậy, nào cây sắt... Bây giờ tính quân số đôi bên đảo ngược. Phía tù chính trị trở thành thiểu số. Anh em vội kéo nhau rút lên lầu 3D cố thủ. Cuộc hỗn chiến được khu FG kế bên nhìn thấy rõ. Tổng cộng 32 phòng giam bên khu này nhốt toàn chính trị phạm và anh em hô khẩu hiệu vang dội, hỗ trợ đồng đội. Bọn giám thị nhà tù Chí Hòa lúc này mới có mặt, nhưng không thể làm gì để ngăn cản nổi tình trạng hỗn loạn mỗi lúc một dâng cao.

Dù một số bị thương, với nỗ lực phi thường mà chủ yếu là đoàn kết thành một khối, anh em tù chính trị đã rút được hết lên lầu 3D, dùng chai, lọ, mảnh lu nước bể... bất cứ thứ gì trong tầm tay, ném ra ngăn cản địch thủ.

Cùng thời gian này, Đại Cathay, Của Gia Định và Ngọc heo được đưa đến bệnh xá, sau chuyển ra bệnh viện bên ngoài cấp cứu. Khoảng 9h tối hôm đó, có tin nhắn từ bệnh viện về rằng cả ba đều đã chết. Số tù thường phạm nổi giận đùng đùng, hấp tấp đốt đèn cầy sáng rực khu ED, tổ chức tang lễ cho các đại ca, đòi “nợ máu phải trả bằng máu”. Họ vừa khóc lóc, vừa kéo rốc lên tiếp tục tấn công lầu 3D.

Mãi đến bây giờ tôi vẫn không biết chính xác nguồn tin Đại Cathay, Của Gia Định và Ngọc heo bị chính trị phạm đánh chết do ai tung ra, chỉ có thể suy đoán do số giám thị gác trại giam Chí Hòa, vì tù nhân không thể trực tiếp đến bệnh viện để lấy tin. Rất có thể, bọn giám thị muốn tạo mâu thuẫn giữa tù chính trị và tù hình sự theo kiểu “chia để trị” và “dĩ tù trị tù”. (Viết thêm: năm 1967, khi bị đày ra Côn Đảo, tôi gặp Của Gia Định làm “chuyên môn” tại đây. “Chuyên môn” là danh từ ngoài đảo khi ấy gọi số tù hình sự được trao nhiệm vụ theo dõi, kiểm soát công việc khổ sai, đi lại, ăn ở của tù chính trị, đặc biệt là điều tra, đánh đập tù chính trị khi họ “vi phạm nội qui nhà tù”. Của Gia Định khét tiếng là một hung thần trong ban chuyên môn đối với chính trị phạm ở Côn Đảo trong thời gian này).

Và cứ như vậy, cuộc chiến kéo dài suốt hai ngày hai đêm tại khu ED khám Chí Hòa. Trực tiếp tham gia là số tù hình sự giam tại dãy E (16 phòng, mỗi phòng bình quân có từ 40 - 50 người, vậy tổng số khoảng 800 người) và trên dưới 100 tù chính trị ở lầu 3D.

Sau khi đánh bất tỉnh Đại Cathay, Của Gia Định và Ngọc heo, phía chính trị phạm chỉ lo cố thủ. Nhờ địa thế lầu 3D có cấu trúc đặc biệt dùng giam tù tử hình (tôi từng bị nhốt tại đây hơn nửa năm nên biết rất rành: hành lang ở giữa, hai bên là những phòng nhỏ, cửa sắt đây không có chấn song mà chỉ có lỗ thông gió, đầu hành lang là cửa chắn song sắt, nhất là nhờ đoàn kết nhất trí và lòng dũng cảm), anh em tù chính trị đã giữ vững “trận địa”, đẩy lùi vô số đợt tấn công của đối phương. Gián tiếp tham gia như hò hét trợ oai, đập thùng thiếc, thau nhôm, xô... để tăng khí thế, la khẩu hiệu yêu cầu bọn quản đốc và giám thị Chí Hòa giải quyết, đốt đèn cầy sáng rực vào ban đêm... là cả khu FG với khoảng gần 2.000 chính trị phạm.

Kết quả, ngoài ba tù thường phạm bất tỉnh lúc ban đầu, không ai bị trọng thương hoặc tử vong. Số bị thương nhẹ thì rất nhiều nhưng không thống kê được. Tất cả đều được chăm sóc, băng bó tại chỗ, không ai phải đưa ra bệnh viện ngoài điều trị.

Mọi việc trở lại bình thường sau khi Đại Cathay, Của Gia Định và Ngọc heo đều trở lại khu ED mạnh khỏe.

Sự việc là như vậy, bắt nguồn từ một nguyên nhân khá vu vơ, tuy khởi đầu là Đại Cathay, nhưng thực tế do Của Gia Định trực tiếp gây ra, và, một cách nào đó, được số giám thị trại giam Chí Hòa tiếp tục châm dầu. Đến khi hàng trăm chính trị phạm và thường phạm tham chiến thì đúng là không một ai có thể cản nổi.

Như vậy, mặc dù chưa tìm đủ chứng cứ để kết luận Đại Cathay đã bị ai giết, giết như thế nào, bằng thứ vũ khí gì, tôi có thể mạnh dạn khẳng định: Đại Cathay đã chết, mộ hiện nằm tại núi Khu Tượng.

Khoảng đầu những năm 1990, trong lần gặp một cán bộ công tác lâu năm ở đảo Phú Quốc, tôi có hỏi về hai ngôi mộ ở núi Khu Tượng, anh xác nhận:

- Đúng là ở đó có hai ngôi mộ, một mang tên Đại, tôi không nhớ rõ họ, và ngôi mộ kia tôi không nhớ tên...


Dân giang hồ còn sót lại mà tôi có dịp gặp mặt sau này như Lâm Chín ngón, Bảy Xi, Lắm Mổ bụng... cũng đều ngậm ngùi:


- Đúng là anh Đại đã chết rồi. Nấm mộ của anh hiện nằm ngoài Phú Quốc.


Cái chết của Đại Cathay không khỏi làm nhiều người suy nghĩ. Người ta ai cũng phải chết, đã đành là vậy. Nhưng một người như Đại Cathay, khi sống khét tiếng giang hồ, “thần tượng” của giới dân chơi, mà đến với cái chết lại rất giản đơn, lặng lẽ. Phải chăng đó cũng là “quả kiếp nhân duyên”, luật bù trừ của tạo hóa?

Cái chết của Đại Cathay còn được coi như dấu chấm hết và là sự cáo chung của “dân chơi” hồi thập niên 1960, với các đặc tính: Chơi trội và chơi “có hậu” theo luật giang hồ.
03:46 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 4): Viên sĩ quan quân đội Sài Gòn thủ tiêu Đại Cathay?
Số can phạm mới chuyển từ đất liền tới trại, buồn tình không biết làm gì, cả ngày dài cổ giải trí bằng bộ bài mạt chược. Đánh bài mãi cũng đâm chán, đến một lúc nào đó...


Trùm giang hồ miền Nam mất tích sau cuộc trốn trại côn đảo bí ẩn (Ảnh minh họa)

Khác với đảo Côn Lôn (sau được đổi thành Côn Sơn và hiện nay là Côn Đảo), thời Pháp thuộc, đảo Phú Quốc chưa hề có trại giam. Thời Ngô Đình Diệm cũng vậy. Mãi đến “đệ nhị cộng hòa” của Nguyễn Văn Thiệu, Phú Quốc mới hình thành hai trại giam, một dành cho tù binh (tức là số bộ đội miền Bắc vô chiến đấu và bị bắt tại miền Nam), một dành cho “dân chơi” và số tù chính trị quốc gia (chỉ số chống đối chế độ Sài Gòn khi ấy nhưng không liên quan gì với Mặt trận Giải phóng miền Nam - hầu hết là số người can dự vào cuộc chống đối Thiệu ở miền Trung).
“Dân chơi” được đưa ra Phú Quốc lúc đó chỉ khoảng vài chục người, toàn thuộc loại du đãng, đánh lộn có nhiều “thành tích có vằn có vện” (không phải cướp của giết người, cũng không được đưa ra tòa xét xử) như Hải Phòng Kin, Sú Hùng, Lâm Chín ngón, Bảy Xi, Hải Súng, Quảy Thầu Hao, Hắc Quảy Chảy, Đực Bà Tiểu, Thanh Tưa, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hòa Áo thun... Và đương nhiên, trong số đó có Đại Cathay.

Trại giam thứ hai này được xây cất vội vàng theo kiểu dã chiến, gần ngay sân bay thuộc thị trấn Dương Đông, và do đó cũng không mấy xa bãi biển (không phải trại giam tù binh do Mỹ xây dựng, nằm trên đường đi từ Dương Đông đến An Thới, cách thị trấn Dương Đông đến hơn 20km). Vội vàng đến nỗi trại giam chưa kịp đặt tên ngoài một danh từ khá hoa mỹ sử dụng trên giấy tờ: “Trại hướng nghiệp Phú Quốc”.

Số can phạm mới chuyển từ đất liền tới trại, buồn tình không biết làm gì, cả ngày dài cổ giải trí bằng bộ bài mạt chược. Đánh bài mãi cũng đâm chán, đến một lúc nào đó, bác sĩ Mẫn cao hứng tuyên bố:

- Tụi nó không đặt tên cho trại này thì chúng ta phải đặt tên mới được!

Cả bọn nhao nhao đồng ý. Sau một hồi bàn tán, ai nấy nhất trí sẽ xáo bộ bài và để một người làm “đại diện” rút một cây bài. Tên cây bài này sẽ là tên trại. Đại Cathay được hân hạnh đề cử làm người rút cây bài ấy. Và Đại Cathay đã rút trúng con bài cửu sừng.

Trại Cửu Sừng từ đó thay cho tên “Trại hướng nghiệp Phú Quốc” (thật ra trại đâu có dạy cho ai nghề gì - chẳng có người dạy, cũng chẳng có xưởng trại, máy móc... chi ráo lấy gì mà “hướng nghiệp” ?).

Theo lời kể của một trung úy cảnh sát dã chiến có nhiệm vụ canh gác trại Cửu Sừng thì:

“Trong một chuyến thăm nuôi, tôi thấy trong đám thân nhân những người tù có thân nhân của Đại Cathay. Đó là vợ ba của Đại, khá xinh đẹp, nghe đâu thuộc gia đình tử tế và bản thân chị ta là người học thức. Trong những món đồ thăm nuôi hậu hĩnh, có một chiếc áo blouson. Chiếc áo màu đen, sau lưng thêu bản đồ Việt Nam chia đôi. Nửa trên phía Bắc thêu chỉ đỏ, phía miền Nam thêu chỉ vàng và hai chữ Việt Nam thêu to tướng trên vai lưng áo. Loại áo này bán rất nhiều ở đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn khi đó, dành cho lính Mỹ mang về nước làm kỷ niệm. Thật ra chiếc áo này chẳng ấm áp gì, những đường may lại vụng về, xấu xí. Khi khám xét đồ thăm nuôi, tôi nhấc chiếc áo đó lên xem xét. Chiếc áo nặng trịch, ngoài sức tưởng tượng! Lần vào lưng áo, tôi biết có những thỏi gì đó như những thỏi kim loại nhưng mềm. Tôi toan lên tiếng thì một vị sếp của tôi lừ mắt ra hiệu tôi trả lại áo cho Đại Cathay. Tôi không còn cách nào khác là đưa chiếc áo cho Đại Cathay ôm trở về trại
”.

“Điều bất ngờ nhất là chỉ một ngày sau, vào buổi tối, Đại Cathay đã trốn thoát khỏi trại cùng với một đàn em thân tín. Theo lời kể lại của lính gác thì Đại Cathay khi trốn đi đã mặc quần áo hải quân cùng với một số binh sĩ vừa lính vừa sĩ quan. Họ được hộ tống ra bãi biển dung ca-nô chạy ra một chiếc tàu hải quân đậu sẵn ngoài khơi”.

Phẩn cuối lời kể của viên trung úy cảnh sát dã chiến gần đúng với nội dung công điện hỏa tốc được gởi từ “Trại hướng nghiệp Phú Quốc” về Tổng nha Cảnh sát Quốc gia...

Tuy nhiên, lời kể của viên trung úy cảnh sát dã chiến cũng như nội dung công điện hỏa tốc trên đều chỉ đúng ở phần đầu.

Chúng tôi đã trực tiếp gặp một số đàn em của Đại Cathay liên quan mật thiết đến chuyện vượt ngục này, và qua phối kiểm các nguồn tin thu được, xin dựng lại câu chuyện như sau:

Sau khi nhận được “chiếc áo lạnh dát vàng”, Đại Cathay tỏ ra rất phấn khởi, bàn bạc với số đàn em thân tín, tính chuyện vượt ngục. Đại Cathay cho biết, anh ta đã mua chuộc được một số người trong Ban Quản đốc “Trại hướng nghiệp Phú Quốc” (gồm Đại úy Nghĩa, Trung úy Long, Trung úy Tảo), đồng thời liên hệ được với một tàu hải quân. Tất cả đều sẵn sàng để Đại Cathay vượt ngục cùng với một vài tay đàn em thân tín và giúp họ trốn qua Thái Lan. Gần một chục tay đàn em xin đi theo Đại Cathay gồm Hải Súng, Lâm Chín ngón, Xì kíp, Hùng Mỏ chuột, Lắm Mổ bụng... Nhưng Hải Súng tham mưu:

- Thằng Lâm (Chín ngón) lóc chóc, để nó đi theo là bể chuyện.

Kẹt nỗi Lâm Chín ngón lại là cánh tay đắc lực thân cận của Đại Cathay và rất được Đại Cathay thương yêu. Suy nghĩ mãi đến gần nửa đêm, Đại Cathay bảo Lâm Chín ngón:

- Tao nghe nói mày còn chơi xì ke phải không? Bỏ đi. Chơi thứ đó hại người lắm. Mày phải nghe lời tao!

- Dạ... Nhưng bỏ gay quá.

- Tao cho mày chích lần này là lần chót!

Vừa nói, Đại Cathay vừa kêu đàn em chích vào mạch máu ở cánh tay Lâm Chín ngón một liều ma túy gấp đôi liều bình
thường. Liều thuốc này do chính Hải Súng pha chế, lại thêm cả một số “chất xúc tác” để tăng ép-phê. Kết quả Lâm Chín ngón “phê”, ngủ say như chết.

Giờ “G” vượt ngục đã đến. Đại Cathay và 5 tên đàn em lặng lẽ chui qua hàng rào trại giam. Đêm hôm ấy trời tạnh ráo, nhưng ánh sáng lập lòe của những vì sao không đủ soi tỏ cảnh vật. Bỗng có tiếng quát lớn:

- Ai đấy?

Tiếp theo là tiếng súng bắn báo động liên hồi và hỏa châu vụt tỏa sáng trên bầu trời. Thì ra do giờ giấc hợp đồng không chặt chẽ, Đại Cathay và bọn đàn em bò ra hàng rào trại giam không đúng ca trực của tốp lính gác đã bị mua chuộc.

Cũng có nguồn tin cho rằng không phải nhiều dân chơi xin vượt ngục theo Đại Cathay, mà thực ra Đại Cathay phân công nhiều người cùng đi theo, để phòng khi gặp chuyện sẽ “tung hỏa mù” giúp Đại Cathay dễ bề trốn thoát. Dù hiểu theo cách nào, đạn vẫn tiếp tục nổ, hỏa châu tiếp tục nối đuôi nhau soi sáng khu trại giam như ban ngày, nhưng không còn cách nào khác vì đã lỡ “phóng lao”, bọn vượt ngục cứ thế liều chết phóng chạy. Xì kíp, Hùng Mỏ chuột... bị bắt. Chỉ còn Đại Cathay và Hải Súng chạy thoát. Tuy nhiên họ không dám chạy về phía bãi biển để ra tàu hải quân như kế hoạch vạch sẵn, mà lao bừa theo hướng ngược lại: chui vô rừng, lần lên phía Bắc đảo...

Đến đây, trước khi viết tiếp về chuyện vượt ngục của Đại Cathay, chúng tôi thấy nên nhắc lại một số “huyền thoại” của nhân vật này để bạn đọc tiện theo dõi...

Đại Cathay đang trong lứa tuổi phải đi quân dịch, nhưng anh ta vẫn “phây phây” khoác đồ xi-vin ngông nghênh trên đường phố giữa Sài Gòn. Một viên tướng, vốn có cảm tình với Đại Cathay - và có lẽ phần nào cũng muốn “chơi trội” - nhắn gặp Đại Cathay, thân mật khuyên:

- Để khỏi phải động viên, anh chịu phiền làm gạc-đờ-co (cận vệ) cho tôi là xong chuyện!

Đại Cathay cười cười đáp lại rất thiệt tình:

- Tôi đi đâu cũng có hàng chục “gạc-đờ-co” nay lại làm “gạc-đờ-co” cho ngài, không lẽ bỏ mấy thằng “gạc-đờ-co” của tôi thất nghiệp?

Nghe kể, có một lần giới “dân chơi” xôn xao vì tin Nguyễn Ngọc Loan thừa lệnh Nguyễn Cao Kỳ chính thức mời Đại Cathay “đàm phán” để giải quyết nhằm triệt tận gốc rễ nạn du đãng tại Sài Gòn - Gia Định.

Để gây ấn tượng cho buổi đàm phán này, Đại Cathay đến điểm họp với tiền hô hậu ủng chưa từng có trong lịch sử giang hồ miền Nam: Bữa ấy Đại Cathay chễm chệ trên chiếc Chevrolet gắn máy lạnh do Tư Gáo cầm lái - nên nhớ xe hơi có gắn máy lạnh khoảng giữa thập niên 1960 của cả Sài Gòn có thể đếm trên đầu ngón tay (xe này Đại Cathay mua lại của bà Bút Trà). Cặp theo Chevrolet là hơn chục chiếc Honda 67 đen bóng, xoáy nòng chở đôi theo bảo vệ cho “đại ca”.

Cuộc đàm phán diễn ra trong vòng bí mật, tuy nhiên sau đó nội dung vẫn bị rò rỉ, đồn đại ra giới giang hồ. Theo đó, Nguyễn Ngọc Loan, có Mã Sâm Nhơn phụ tá, yêu cầu Đại Cathay từ giã cuộc đời du đãng, tuyên bố giải tán các băng, đảng dưới trướng. Tất cả anh em hoàn lương bảo đảm không ai bị làm khó dễ, còn được tạo điều kiện làm ăn. Ngược lại, kẻ nào trái lệnh, tiếp tục gây ân oán, Đại Cathay có nhiệm vụ “triệt”. Bù lại, Đại Cathay được đặc cách làm thư ký cho Nguyễn Ngọc Loan, với cấp bậc tương đương thẩm sát viên.

Cũng theo tin đồn, Đại Cathay ra giá “mặc cả” chỉ đồng ý đề nghị trên với hai điều kiện: Một là, phải để lại Cảng Sài Gòn cho giới giang hồ có đất làm ăn, hai là anh em dân chơi được quyền “bảo kê” các sòng bài. Cuộc “đàm phán” giằng co mãi, nhiều tỉ lệ ăn chia được đặt ra, nhưng không đi đến thống nhất.

Lại có tin Đại Cathay được đề nghị giữ chức Trưởng ty Cảnh sát quận 9 (tức vùng Thủ Thiêm). Đổi lại, Đại Cathay phải lập công bằng cách bắt gọn bọn đàn em. Việc này Đại Cathay từ chối thẳng thừng: “Tôi vốn là thằng du đãng, không thể nào bán đứng bạn bè, cũng là du đãng như tôi!” Dù thế nào, rốt cuộc “đàm phán” cũng không thành. Trung tâm Bài trừ Du đãng được thành lập.

Đại Cathay, vốn đã nổi danh lại càng lừng lẫy sau vụ “đàm phán” được thổi phồng lên rằng anh ta đã cương quyết không bán đứng giới giang hồ để mua chiếc lon thiếu tá cảnh sát, còn dám công khai bảo vệ dân chơi trước mặt viên tướng chỉ huy trưởng Tổng nha Cảnh sát Quốc gia. Nghĩa khí này quả là đáng nể phục, xứng đáng làm đại ca của những đại ca. Tham vọng của Đại Cathay bắt đầu nổi lên. Anh ta tuyên bố với bọn đàn em rằng muốn trở thành một nhân vật như Bảy Viễn thời thực dân Pháp còn tạm chiếm, thành một ông “vua” trong kinh doanh bất cứ thứ gì ngoài vòng pháp luật. Nhưng phàm ở đời, những kẻ không biết tự lượng sức mình, không biết đâu là điểm dừng rất dễ bị diệt vong - hoặc theo nghĩa bóng, hoặc theo nghĩa đen.

Đến đây, chúng tôi xin trở lại lý giải từng câu chuyện đồn thổi về đoạn kết của Đại Cathay.

Khá nhiều nhật báo xuất bản tại Sài Gòn vào thời điểm ấy đã loan tin “giật gân sốt dẻo” trên sau đợt tổng tấn công của Mặt trận Giải phóng miền Nam năm 1968. Tin cho rằng Đại Cathay đã “chỉ huy một cánh quân tấn công vào hướng tây bắc Sài Gòn và bị bắn hạ trước trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám, gần Ngã tư Bảy Hiền”. Có báo còn thêm tình tiết để bạn đọc có thể tin được như “người ta tìm thấy trong xác chết một hộp quẹt Zippo có khắc tên Trần Đại ở nắp, một cuốn nhật ký viết về tiểu sử đời một tay du đãng, tự nhận mình là nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết viết về xã hội đen của một tác giả nổi tiếng xuất bản ở Sài Gòn...”.

Nguyễn Thụy Long (tác giả tiểu thuyết Loan mắt nhung, được cho là viết về Đại Cathay) khi đó đang là phóng viên một tờ nhật báo ở Sài Gòn, vừa nghe tin trên vội xách máy ảnh chạy thẳng lên ngã tư Bảy Hiền hỏi thăm bà con tại chỗ, tìm khắp khu vực quanh trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám song chẳng tìm thấy bất cứ chi tiết nào xác nhận nguồn tin ban đầu trên. Xác Đại Cathay không có, hộp quẹt Zippo cũng không, quyển nhật ký cũng không nốt.

Thụy Long dò hỏi thêm nhiều nhà báo, phóng viên, nhiếp ảnh... ở Sài Gòn hồi đó, nhưng không một ai ghi nhận thêm tình tiết nào khác, cũng không ai chụp được một pô ảnh nào khả dĩ chứng thực nguồn tin trên.

Nhằm chứng minh cho việc Đại Cathay đi theo Mặt trận Giải phóng miền Nam, có thêm tin đồn một trung tướng trong chính quyền Thiệu, do rất có cảm tình với Đại Cathay, đã đứng ra tổ chức chuyện vượt ngục cho Đại Cathay. Đại Cathay đã trốn thoát khỏi đảo, trở về đất liền. Nhưng khi tàu chở Đại Cathay vừa tới Cà Mau thì gặp quân du kích. Rốt cuộc lính tráng trên tàu lớp tử thương, lớp đầu hàng tình nguyện đi theo quân giải phóng - trong số này có Đại Cathay.

Tin đồn trên là hoàn toàn vô căn cứ, vì như chúng tôi đã tường thuật rõ ở phần trước: Đại Cathay vượt ngục nhưng chưa hề trốn thoát khỏi đảo Phú Quốc.

Vì vậy, nguồn tin Đại Cathay chỉ huy một cánh quân Mặt trận Giải phóng miền Nam tấn công vào hướng Tây Sài Gòn và bị bắn hạ trước trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám, chỉ là một tin vịt.

Vậy phải chăng một viên sĩ quan quân đội Sài Gòn tên là Trần Tử Thanh đã giết Đại Cathay?
03:43 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 3): Người đứng đầu trong 'tứ đại giang hồ'
Có lẽ không mấy ai không biết tiếng Đại Cathay, trùm du đãng nổi tiếng nhất trước 1975, người đứng đầu trong “tứ đại giang hồ” (Đại, Tỳ, Cái, Thế).

Đại Cathay tìm cách vượt ngục và được coi là mất tích luôn từ đó Đại Cathay tìm cách vượt ngục và được coi là mất tích luôn từ đó

Sự thật Đại Cathay đã chết. Nhưng bao quanh cái chết của anh ta vẫn còn nhiều uẩn khúc và có lẽ mãi mãi bao trùm trong bí mật...

Có thể nói, một cách nào đó, cái chết của Đại Cathay cũng là một “huyền thoại” giống như nhiều huyền thoại xoay quanh cuộc đời của anh ta.

Từ sau khi Đại Cathay được coi là mất tích, đã có khá nhiều câu chuyện đồn đại. Loại trừ các câu chuyện hoàn toàn không có đủ cơ sở để tin cậy như Đại Cathay đã trốn thoát khỏi đảo Phú Quốc sang Thái Lan “gác kiếm giang hồ” sống cuộc đời bình dị... ít nhất cũng có ba câu chuyện khác nhau với “đầy đủ chứng cứ”:

(l) Đại Cathay đã chết tại trường đua Phú Thọ trong dịp Tết Mậu Thân (1968), (2) Đại Cathay bị Trần Tử Thanh, thiếu úy biệt kích ngụy, và tổ biệt kích giết theo lệnh Nguyễn Cao Kỳ, và (3) bị quân du kích của Mặt trận Giải phóng miền Nam bắn chết tại khu vực núi Khu Tượng trên đảo Phú Quốc.

Nhưng, trước khi đi sâu vào các chi tiết “có thể tin được” nhờ các nhân chứng người thật việc thật qua các lời đồn đại trên, xin mời cùng lược qua tiểu sử của Đại Cathay và một số câu chuyện liên quan đến tay trùm du đãng nổi tiếng này.

Tại sao lại là “Đại Cathay”? Điều tưởng như đơn giản nhất là họ tên thật, ngày tháng năm sinh và tên cha mẹ của Đại Cathay cũng đã gặp rắc rối: Lê Văn Đại, tức Nguyễn Văn Đại, tự Đỗ Minh Đức, tự Dũng, tự Đại Cathay. Năm sinh lúc thì 1944, khi thì 1940, lại có lần ghi 1941 hoặc 1945.

Cha Đại Cathay có ba tên: Nguyễn Văn Cự, Lê Văn Cự và Lê Văn Trự. Mẹ cũng có ba tên: Lê Thị Hưng, Lê Thị Hương và Lê Thị Duyên.

Việc này đã được Đại Cathay thú thật trong một lần bị Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn thẩm vấn: “Riêng về năm sanh và tên cha mẹ, tôi tự ý khai để đánh lạc hướng trong cuộc xét hỏi của nhân viên công lực, mà hiện tôi không còn nhớ rõ” (trích lời khai trong lần bị bắt vào đêm 8/4/1964).

Dẫu sao, cũng có thể khẳng định Đại Cathay lúc nhỏ ở với cha mẹ tại chân Cầu Mống (quận l), sau chuyển qua đường Đỗ Thành Nhân (Khánh Hội, quận 1), theo học văn hóa đến năm 1954 thì nghỉ học vì cha mất, phải ở nhà phụ giúp mẹ buôn bán và làm... du đãng.

Cũng có người kể, vào khoảng năm 1950, vườn hoa bên cạnh Cầu Mống nối Sài Gòn với Khánh Hội khi đó có một vựa củi lớn đối diện với hội trường Diên Hồng (hiện là Sở Thương mại Thành phố). Bố mẹ của Đại Cathay làm nghề chẻ củi thuê cho vựa củi này. Đại lúc ấy còn “nhóc tì” là một thằng bé hiền lành, ít nói, dẫu có tướng “ngầu”. Suốt ngày, Đại thơ thẩn chơi đùa bên phía hội trường Diên Hồng, vòng ra con đường sau lưng hội trường là đường Nguyễn Công Trứ.

Ngay góc con đường này có một rạp hát và chiếu bóng không lấy gì làm sang trọng lắm có tên rạp Cathay. Tại đây, chú bé Đại kết thân với nhiều trẻ em bụi đời khác làm đủ thứ nghề như đánh giày, bán báo, bán kem... Lũ lối này đánh lộn như cơm bữa, mà thông thường Đại luôn đánh thắng kể cả những đứa lớn tuổi và lớn con hơn nhờ Đại vốn liều lĩnh, lì lợm, thêm có “năng khiếu” đánh lộn. Gần rạp Cathay có khu Dân Sinh và bót cảnh sát quận 1. Bót này nổi tiếng dữ dằn với những ông đội xếp, mà thời ấy kêu là “mã tà” hoặc “phú lít” (police).

Gần như ngày nào đám trẻ con bụi đời cũng bị mã tà túm cổ về các tội đánh lộn, ăn cắp vặt, móc túi... và bị đánh đập ra trò. Đại cũng nhiều lần bị túm, dù không gây án cũng bị đập để cảnh sát bắt khai ra đồng bọn. Lối lấy cung khủng khiếp nhất đối với bọn trẻ là bị bắt quì xuống, hả to họng để “mã tà” bỏ tọt một con gián còn sống nhăn vô. Con gián cuống cuồng tìm đường thoát, chui theo cuống họng xuống, dãy dụa, cào cổ họng, bao tử làm chú nhóc ói đến mật xanh mật vàng. Qua những lần bị xử phạt như vậy Đại vẫn nhất định không khai gì và được thả, lại lang thang ra rạp xi-nê Cathay đánh lộn tiếp. Đám bụi đời nhóc tì ngưỡng mộ và phục Đại tính lì lợm hơn người, đặt biệt danh “Đại Cathay”.

Năm 1955, Ngô Đình Diệm thắng lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn và các giáo phái chống đối ông ta ở miền Tây. Sài Gòn khi ấy được chỉnh trang lại phần nào để mang bộ mặt mới. Vựa củi bên cạnh Cầu Mống bị dẹp để biến thành công viên. Bố mẹ Đại mất việc làm, dời nhà sang bên kia sông, ngụ tại con hẻm hãng phân Khánh Hội. Con nít, trẻ nhỏ ở bên đó thuộc khu bến tàu cũng chẳng vừa gì, vì ảnh hưởng của đời sống chính cha mẹ chúng và những người lớn ưa nhậu nhẹt thường xuyên gây lộn. Đại Cathay xông vô “trận địa mới” ngay và cũng thường xuyên thắng.

Đã có chút “máu mặt”, Đại Cathay kéo rốc đám anh em bụi đời đó sang khu Cầu Muối, Cầu Ông Lãnh, họp lại làm ăn. Chỉ sau một thời gian ngắn, gây vài vụ án, tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn, làm lu mờ dần những tay anh chị du đãng khét tiếng hồi đó.



Cũng vì du đãng, tính đến khi mất tích, Đại Cathay bị bắt tổng cộng 10 lần (không tính những lần còn là chú nhóc), trong đó có ba lần bị đưa ra tòa xử. Nói chính xác hơn, trừ lần đầu, ngày 30/11/1959, Đại Cathay bị bắt giải Tòa sơ thẩm Sài Gòn xử hai tháng tù ở tội danh “oa trữ giấy cầm đồng hồ đeo tay”, cả 9 lần sau đó Đại Cathay đều bị bắt về các tội danh “du đãng”. Nên có thể nói, Đại Cathay đúng là du đãng, chớ không phải ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp như nhiều tội phạm hình sự khác.

Có thêm một lần Đại Cathay bị bắt không hẳn vì tội danh du đãng: Lúc 9h đêm 13/6/1962, nhà hàng Vạn Lộc ở số 32 đường Trần Hưng Đạo bị ném lựu đạn. Cảnh sát Sài Gòn bắt 3 tên Thạch Linh, Thạch Minh và Đỗ Trí Dũng để điều tra. Những tên này khai và Đại Cathay bị bắt ngày 20/6/1962. Nhưng cuộc điều tra “không đem lại kết quả” và gần ba tháng sau, Đại Cathay được thả tự do.

Xin trích lại một phúc trình của nhân viên Ban 4 phòng Hình cảnh gởi lên chủ sự phòng nói về Đại Cathay: “... Chúng tôi đã mật điều tra trong vùng Đô thành và ghi nhận những tin tức về Đại Cathay như sau: tên Đại Cathay đã sống không nghề nghiệp từ lúc 19 tuổi, y đã kết hợp một số thanh niên cùng tình trạng tổ chức những vụ đánh chém lộn khắp vùng Sài Gòn Chợ Lớn, y đã hai lần tổ chức chém người tại khu Dân Sinh (Q2) và tại Chợ Lớn. Ngoài ra y cũng đã bị chém một lần tại đường Lê Lai. Đặc biệt, số người bị đánh chém cũng như đã chém y đều thuộc thành phần lưu manh, du đãng...”.

(Phúc trình ngày 15/1/1966 do Lý Văn Vàng, Võ Minh Nhựt ký tên, bên cạnh có Phó Cảnh sát trưởng Trần Văn Ơn xác nhận).

Ngoài những điểm gan lì, “chịu chơi”, Đại Cathay còn chơi rất đẹp không chỉ với dân chơi mà còn với bạn bè, nên chẳng bao lâu đã nổi lên thành “nhân vật du đãng số một” thời chế độ Sài Gòn.

Và Đại Cathay đã được cảnh sát ngụy đối xử rất đặc biệt. Xin dẫn chứng: Ngày 8/4/1964, lúc 22h15, Ban Bài trừ Du đãng thuộc Tổng nha Cảnh sát bắt Đại Cathay, giải giao đến Tổng nha ngày 10 /4/1964. Đến 11h ngày 25/5, ủy ban An ninh nội bộ Tổng nha Cảnh sát nhóm họp tại văn phòng Trung tá phụ trách khối cảnh sát đặc biệt để “cứu xét những can phạm mới khai thác xong để trình Trung tá Tổng Giám đốc Cảnh sát quốc gia quyết định”. Chỉ riêng việc Đại Cathay được ủy ban An ninh Tổng nha Cảnh sát Quốc gia họp để cứu xét cũng đủ biết anh ta được chính quyền cũ “ưu ái” biết dường nào. Cuối cùng, sau khi nhận thấy không thể “cải tạo” nổi Đại Cathay, Tổng nha Cảnh sát Quốc gia quyết định đưa anh ta ra “an trí” tại đảo Phú Quốc vào ngày 28/11/1966.
03:39 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 2): Du đãng Sài Gòn đụng dân chơi Đà Lạt

Như đã nói, hồi ấy có một số tay tài phiệt thường “tài trợ” cho dân du đãng, trong số đó đáng kể nhất là Hoàng Kim Qui, thường được gọi “vua kẽm gai”.

Đại Cathay và vợ thời hoàng kim

Đó là do Kim Qui làm giàu nhờ chiến tranh Việt Nam: Ông ta trúng thầu cung cấp toàn bộ dây kẽm gai để làm hàng rào ấp chiến lược, hàng rào phòng thủ cho đồn bốt, rào cản ngăn chặn sinh viên học sinh biểu tình tranh đấu... Về sau Kim Qui còn trúng thầu làm lưới sắt bảo vệ B40, nên lại càng giàu thêm.

Hoàng Kim Qui có một quí tử là Hoàng Kim Lân, thuộc loại công tử bột ăn chơi có hạng. Lân thường kết bạn với số con nhà giàu khác và các “dân chơi” nổi tiếng, ngày ngày lui tới các vũ trường, nhà hàng, tiêu tiền như rác, lâu lâu nổi hứng “chơi trội” để “giựt le”.
Có lần, buổi tối Lân vô một nhà hàng lớn nằm trên đường Lê Lợi, tuyên bố sẽ bao toàn bộ khách đang ăn trong nhà hàng, trả tiền cho hết thảy mọi người. Maitre d’hôtel lên thông báo trên micro, ai dè bữa đó có một toán biệt động quân từ chiến trường về Sài Gòn nghỉ phép vô quán nhậu từ xế chiều nay đã ngà ngà say. Bọn này nhao nhao phản đối: “Tụi tao có tiền, vô đây ăn uống. Lân là thằng nào mà dám trả tiền bao tụi tao?”. Lời qua tiếng lại, bọn lính rút lựu đạn ra. Lân đang cầm chiếc hộp quẹt máy châm thuốc lá hút nổi sùng lên, quăng bỏ luôn hộp quẹt máy, te te bỏ ra khỏi nhà hàng. Nhân viên cả nhà hàng vội nháo nhào đi tìm chiếc hộp quẹt vì hộp quẹt của Lân ai cũng biết làm bằng vàng 18.

Lân rất khoái chơi với bọn Đại Cathay. Thường hắn ký sẵn séc tại các nơi Đại Cathay thường lui tới ăn chơi, lâu lâu kiểm tra lại, khi nào thấy Đại và bọn đàn em xài gần hết lại ký tiếp.

Trong băng công tử bột của Lân có hai anh em người Hoa là Dách Bửu và Dì Bửu, là con của chủ nhà hàng Mékong. Khi ấy chủ Mékong không những có hai nhà hàng sang trọng tại Sài Gòn và Chợ Lớn, mà còn mở cả nhà hàng tại thủ đô Bangkok, Thái Lan, và tại thủ đô PhnomPenh, Campuchia. Đang lúc ăn nên làm ra, Mékong lập thêm một nhà hàng nữa ở Đà Lạt. Nhân dịp khai trương nhà hàng này, Dách Bửu và Dì Bửu mời Hoàng Kim Lân lên Đà Lạt dự lễ, nhờ Lân mời luôn Đại Cathay và một số tay em của hắn - mà hai anh em người Hoa này cũng đã biết sơ sơ qua giới thiệu của Lân và đôi lần gặp gỡ trên sàn nhảy.

Gặp hồi đang phấn khởi vui vẻ trước lời hứa giúp đỡ của “ông chủ”, Đại kéo luôn một lô đàn em thân tín lên cao nguyên đổi gió. Đi cùng tay trùm du đãng này có đến hơn chục tên: Lâm Chín ngón, Hải Súng, Cu Quì, Sáng, Phong, Năm Công... chất lên hai xe du lịch Mustang và Traction không hết, phải đi nhờ cả xe của Hoàng Kim Lân.

Dách Bửu, Dì Bửu đón tiếp giới du đãng rất long trọng, không thua gì so với các nhà chính trị sa-lông có máu mặt và khách nước ngoài đến dự lễ khai trương. Chúng được dành nguyên một tầng lầu riêng để tiện việc ăn ở, đi lại. Đúng thời gian ấy có đoàn cải lương từ Sài Gòn lên Đà Lạt lưu diễn tại nhà hát ngay khu chợ Hòa Bình thuộc trung tâm thành phố sương mù. Các kép chính trong đoàn vốn cũng không xa lạ gì với Đại Cathay vì Thành Được, Hữu Phước hay lui tới hút thuốc phiện (hồi đó thường gọi là “đoong thóc”) tại tiệm Khang Thành nằm gần góc đường Đồng Khánh và đã nhiều lần gặp Đại Cathay cùng đám nhà văn Duyên Anh, Hoàng Hải Thủy... cũng thường đến đây đi mây về gió.

Liên tiếp hai đêm, đoàn cải lương không ngớt kêu khổ vì đám du đãng Đà Lạt đến gây rối. Đám du đãng này đâu khoảng trên dưới 20 tên, do Xi Rỗ cầm đầu, câu kết với bọn lính địa phương quân. Băng nhóm Xi Rỗ không chỉ coi khu chợ Hòa Bình mà còn tung hoành khắp thị xã Đà Lạt, từ bến bãi xe đến nhà hàng, khách sạn, vũ trường... hễ ai dám không “nộp thuế” cho bọn chúng là gặp chuyện ngay.

Gặp đoàn cải lương, đêm nào chúng cũng đòi “coi cọp” (không mua vé), không chỉ cho riêng chúng mà còn cho cả bọn lính địa phương và... luôn họ hàng, bạn bè thân thuộc của chúng, với số người “ăn theo” lên đến hàng trăm. Đã thế, chúng lại yêu cầu ngược: Đoàn cải lương phải trả “tiền bảo vệ” cho mỗi suất hát. Bầu cải lương tuy méo mặt vẫn ráng è cổ ra chịu mà trong lòng tức anh ách.

“Tha hương ngộ cố tri”, bất ngờ đất lạ quê người gặp ngay Đại Cathay trùm du đãng - mà anh em văn nghệ sĩ khi ấy hay gọi là Zimbô - Hữu Phước và Thành Được đều vô cùng mừng rỡ (Đại có tên “Zimbô” vì vào khoảng thời gian 1965 ở Sài Gòn có chiếu một bộ phim Tarzan Ấn Độ với nhân vật chính là Zimbô rất ăn khách. Do Đại mang một phần tư máu Ấn - cha lai Ấn, mẹ Việt Nam - nên được mang tên này luôn). Cả hai tài tử cải lương đều xổ bầu tâm sự, than phiền không ngớt về dân chơi Đà Lạt chơi không đẹp và nhờ Đại ra tay giúp đỡ. Nghe qua lời kể, phần vì được nịnh phổng mũi, phần vì nghĩa khí giang hồ “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng” (thấy việc nghĩa không làm là không phải kẻ dũng khí, gặp nguy chẳng cứu chẳng phải anh hùng), Đại Cathay ưỡn ngực hứa: “Để đấy tôi lo cho!”.

Chưa hết. Nghe tin nhà hàng Mékong khai trương làm lễ rất lớn, Xi Rỗ viết thư gởi đến chủ nhà hàng, yêu cầu nội nhật chiều hôm ấy phải gởi cho hắn một con heo quay, hai chai rượu ngoại và năm két bia (hồi đó chỉ có bia La Rue con cọp) để bọn hắn nhậu, ghi chú rõ ràng ở cuối thư “nếu không, chủ nhà hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm” (?). Mời bọn Đại Cathay lên Đà Lạt dự lễ khai trương, đụng chuyện này mà nhờ vả đến thì thật là đắc sách, Dách Bửu và Dì Bửu đưa thư của Xi Rỗ cho Đại Cathay coi và “xin ý kiến chỉ đạo”. Vốn đã có sẵn chủ ý, Đại phẩy tay:

- Cứ gởi rượu, bia, heo quay cho chúng. Tôi sẽ nói chuyện phải quấy với thằng Xi Rỗ sau.


Khoảng 8h tối hôm ấy, Đại Cathay kéo nguyên băng ra bến xe gần chợ Hòa Bình tìm Xi Rỗ, thì Xi Rỗ đang ngồi nhậu với bầy lâu la ngay quán nhậu kế bến xe chớ đâu. Ngoài khoảng hơn chục tên du đãng xứ hoa anh đào còn có cả tiểu đội địa phương quân cũng túm tụm uống rượu, bia với mồi là con heo quay béo ngậy. Súng cạc-bin, ga-răng dựa ngay bên bàn nhậu. Riêng Xi Rỗ cởi trần trùng trục mặc dù trời tối Đà Lạt trời lạnh, có lẽ một phần hắn muốn khoe thân hình lực lưỡng cuồn cuộn cơ bắp, một phần do nhờ rượu tỏa năng lượng sưởi ấm cơ thể (?).

Đại Cathay dẫn đầu băng du đãng Sài Gòn, tiến thẳng đến trước tiệc nhậu, lớn tiếng (tuy hắn dễ dàng nhận ngay ra Xi Rỗ với khuôn mặt rỗ đặc trưng):

- Ai là Xi Rỗ đâu?


Thấy có kẻ kêu đích danh mình, lại có vẻ hống hách, Xi Rỗ không thèm đứng dậy, hếch mặt, tay không buông ly rượu đang uống dở:

- Tao đây! Có chuyện gì vậy?


Đại Cathay gằn giọng:

- Tao muốn nói chuyện với mày về vụ nhà hàng Mékong và đoàn cải lương. Mày có biết tao là ai không?


Xi Rỗ hừ một tiếng, dằn mạnh ly rượu xuống bàn:

- Biết chớ! Biết cả chuyện mày lên đây đã mấy ngày rồi mà không lại chào tao. Giờ mày muốn gì?


Đại Cathay cố nén giận:

- Nhà hàng Mékong và đoàn cải lương là chỗ bạn bè của tao, mày vuốt mặt phải nể mũi.


Xi Rỗ vụt đứng dậy:

- Mày là cái thá gì mà tao phải nể? Rừng nào cọp nấy. Sài Gòn của Đại Cathay. Đà Lạt này của Xi Rỗ, không được lôi thôi gì hết!


Nãy giờ đã hầm hầm trong bụng, Sáng người nhái nghe đến đây tức khí móc luôn khẩu Colt 45 giấu bên hông ra, thẳng tay quật bá súng vô sau ót Xi Rỗ.

03:35 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Giang hồ Sài Gòn (Kỳ 1): 'Đại chiến' du đãng Sài Gòn Chợ Lớn

Hơn 50 năm trước, quãng đầu thập niên 1960, Trương Văn Cam, tức Năm Cam, còn đứng gác cửa và lắc tài xỉu cho Bảy Xi tại một sòng bạc trên đường Lê Văn Linh..


Sài Gòn trước năm 1975


Vũ Quang Hùng làm báo từ rất sớm, năm 1964, lúc mới 19 tuổi ở Sài Gòn. Ông tham gia cách mạng và từng bị chế độ cũ đày đi Côn Đảo từ năm 1973 đến tận ngày đất nước thống nhất. Sự tình cờ của số phận đã đưa ông vào chung nhà giam với các tù hình sự thời chế độ cũ ở khám Chí Hòa rồi nhà tù Côn Đảo. Từ đó ông đã quen khá nhiều giang hồ cộm cán thời chế độ cũ.

Được sự cho phép của tác giả, chúng tôi xin trích đăng “Giang hồ Sài Gòn”, bản tổng kết về cả một thời dọc ngang của dân du đãng Sài Gòn trước năm 1975, tư liệu đáng tin cậy của một nhá báo từng lăn lộn viết về một mảng tối của miền Nam trước 1975: cái gọi là “xã hội đen”, du đãng đâm chém, giựt dọc... bổ sung thêm một góc của bức tranh toàn cảnh xã hội đầy biến động ở miền Nam trước 1975.

1. Hơn 50 năm trước, quãng đầu thập niên 1960, Trương Văn Cam, tức Năm Cam, còn đứng gác cửa và lắc tài xỉu cho Bảy Xi tại một sòng bạc trên đường Lê Văn Linh, quận 4. Bảy Xi là anh vợ Năm Cam và cũng là trùm các sòng bạc thuộc khu vực quận 4 và huyện Nhà Bè.

Nếu tính trùm sòng bạc tại Sài Gòn thời đó, còn có thể kể thêm Đực Bà Tiều (Đực là con một người Triều Châu - hay gọi là người Tiều) cát cứ khu vực chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối; và Tám Lâu đứng đầu các casino quanh đường Nguyễn Công Trứ.

Tất cả các “trùm” trên đều phải chia lợi tức cho Đại Cathay, ông vua du đãng nổi tiếng nhất. Nhưng Đại Cathay không chỉ sống nhờ lợi tức từ các sòng bạc. Một nguồn thu khác đều đặn và có phần lớn hơn nhiều của Đại Cathay là tiền bảo kê từ các nhà hàng; khách sạn, vũ trường... Ngoài ra còn có tiền của một số tay tài phiệt hoặc do phải đóng “thuế giang hồ” hoặc do “ngưỡng mộ” Đại Cathay nên tự nguyện chi trả (như trường hợp “vua kẽm gai” Hoàng Kim Qui chẳng hạn).

Toàn bộ số tiền thu được; Đại Cathay đứng trả lương cho bọn đàn em, mua chuộc các quan chức (kể cả cảnh sát, trong số đó có Đại uý Trần Kim Chi, Trưởng ban Bài trừ Du đãng, cánh tay phải của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Giám đốc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia khi ấy) và ăn chơi (nhất là nhảy đầm tại các vũ trường lớn, “boa” cho các cô ca - ve. Đại Cathay thường tự hào mình nhảy bê bốp và cha cha cha rất đẹp).

Đám đàn em thân tín nhất của Đại Cathay khi ấy có thể kể: A Chó, Hải Súng, Lâm Khùng, Lương Chột, Hùng Đầu bò, Phong, Chương, Việt Parker...
A Chó làm kinh tài cho Đại với vai trò cố vấn kinh tế. Hải Súng là kẻ trực tiếp nhận lệnh từ Đại rồi truyền xuống cho bọn đàn em thực hiện (vai trò của y tương tự Thảo “ma” trong tổ chức của Năm Cam sau này). Lâm coi như cận vệ của Đại, lúc này chưa mang tên Lâm Chín ngón (tại sao Lâm có biệt danh này sẽ được giải thích sau). Hùng Đầu bò và Lương Chột đóng vai trò “quân sư” cho Đại... Bọn còn lại hầu hết vừa là sát thủ của Đại, vừa “ăn bay”, tức cướp giật bằng xe gắn máy với tốc độ cao. Con mồi của chúng đa phần là những người vừa lãnh tiền ở ngân hàng ra, bị chúng theo dõi, chờ lúc thuận tiện liền ra tay cướp. Nếu bị rượt đuổi, chúng dùng súng bắn trả quyết liệt.

Sự thực Đại Cathay chưa bao giờ ra lệnh cho thuộc hạ sát hại bất cứ một người nào, và có lẽ đây là điểm khác biệt lớn nhất với trùm xã hội đen Năm Cam ba mươi năm sau (Năm Cam sẵn sàng giết người dù kẻ đó là bạn cũ, đối thủ làm ăn, hoặc kể cả nhân viên công lực dám ngáng đường hắn). Khi cần tấn công, bắt các băng nhóm khác qui phục để mở rộng địa bàn làm ăn, Đại và đàn em cũng không bao giờ dùng súng (mặc dù, như trên đã nói; rất nhiều tay em sát thủ của Đại có súng). Một phần vì chúng muốn tránh sự để ý của cảnh sát nhưng nguyên nhân chính vì chỉ dùng sức mạnh với “tay nghề” lão luyện khuất phục được đối thủ mới khiến bọn này thật sự “tâm phục, khẩu phục”.

Nhìn bề ngoài, Đại Cathay dễ chinh phục cảm tình người đối diện: khá đẹp trai (cao 1,64m), lại có vẻ trí thức chớ không hề bặm trợn, ăn nói nhỏ nhẹ, nhã nhặn. (Năm 1966, khi bị giam tại Chí Hòa, Đại Cathay ở phòng 3E4; tôi, khi đó cùng một số anh em sinh viên học sinh bị biệt giam tại lầu 3D và được anh em bầu làm “trưởng phòng”, nhờ vậy có thể đi lại tương đối thong thả trong khu ED vào giờ mở cửa biệt giam nên có dịp qua lại thăm Đại Cathay nhiều lần và trò chuyện khá thân mật).

2. Phần trên mới chỉ viết về các tay trùm vùng Sài Gòn, chưa hề nhắc tới khu Chợ Lớn. Khi đó đối với dân chơi, hai khu vực này tách biệt hẳn và toàn bộ khu Chợ Lớn do các băng nhóm xã hội đen người Hoa điều khiển. (Khi xưa Sài Gòn và Chợ Lớn có ranh giới là đường Cộng Hòa - bây giờ là Nguyễn Văn Cừ - tiếp đó chạy dài theo đường Lý Thái Tổ).

Nổi bật nhất trong đám xã hội đen người Hoa phải kể đến Nàm Chảy tức Tín Mã Nàm. (Sau giải phóng, một phần cuộc đời của Nàm Chảy được dựng thành tuồng cải lương “Tướng cướp Mã Ngưu” do đoàn Trung Hiếu của Công an TP.HCM trình diễn, khá ăn khách). Tín Mã Nàm hùng cứ khu Đại Thế Giới, khi ấy là khu sòng bạc ăn chơi nổi tiếng nhất của cả miền Nam, nay đã bị phá bỏ, xây lại thành Trung tâm Văn hóa quận 5, nằm tại góc đường Trần Hưng Đạo – Trần Phú.

Cầm đầu vùng An Bình là Hải Phòng Kin. Còn “lãnh chúa” khu Lido - Đồng Khánh (Nay thuộc một phần khu vực đường Trần Hưng Đạo) là Quảy Thầu Hao (tức Quỉ Mặt Đen); và còn phải kể thêm Sú Hùng “chuyên trị” các đoàn múa lân.

Nhân đây xin giải thích thêm, nhiều người không rõ lắm về giới giang hồ cho rằng cầm đầu miệt Chợ Lớn là Mã Thầu Dầu. Thực ra Mã Thầu Dầu chỉ là danh từ chung chỉ đám dân chơi (Mã Thầu = mã đầu, tức đầu ngựa; ý nói đám đầu trâu mặt ngựa) mà không hề nhắc đến một cá nhân cụ thể nào.
Tuy nhiên, xã hội đen Chợ Lớn khác Sài Gòn ở chỗ họ không chỉ bao thầu các sòng bài, bảo kê nhà hàng, vũ trường, khách sạn... mà còn ăn tiền cống nạp của nhiều cơ sở sản xuất hàng giả và kinh doanh trốn thuế. Nguồn thu từ hai đầu mối sau cùng này rất nhiều vì vào thời điểm ấy Chợ Lớn nhan nhản hàng giả, hàng nhái, làm lậu (chẳng thế từng có câu “Hồng Kông bên hông Chợ Lớn”).

Bọn họ còn giỏi về mua chuộc, hối lộ. Thiếu tá (sau lên trung tá) Trụ, Trưởng ty Cảnh sát quận 5, bị mua đứt, chẳng bao giờ ra lệnh điều tra các hoạt động mờ ám của đám xã hội đen (nếu có nhúng tay thì chỉ để bênh vực họ).

Một số tay tài phiệt Chợ Lớn, để việc làm ăn được thuận lợi, hàng tháng đã gom tiền “cống nạp” cho họ một cách tự nguyện, cụ thể như Lý Long Thân, Mã Hỉ... nên cuộc sống của dân giang hồ Chợ Lớn tương đối thong thả, ung dung, ít phải “ăn bay” để kiếm thêm tiền tiêu xài và do đó cũng ít “sóng gió” hơn so với mạn Sài Gòn. Ít ra là đến khoảng đầu năm 1964...

3. Vào khoảng thời gian này, thế lực của Đại Cathay có thể nói đã tới hồi cực thịnh dù Đại chưa đến 25 tuổi. Quân tướng dưới trướng Đại từ các nơi qui tụ về đông đúc đến hàng ngàn, riêng số sát thủ cũng kể tới số trăm. “Đông, vui nhưng hao”, càng nhiều binh tướng càng khó phân chia lời nhuận và một ngày đẹp trời nọ, cố vấn kinh tài A Chó hiến kế với Đại Cathay: “Vùng Sài Gòn chúng ta đã khai thác gần hết tiềm năng rồi. Nay muốn khấm khá chỉ còn cách duy nhất là lần qua địa bàn Chợ Lớn. Bên ấy kinh tế phát đạt, dân người Hoa lại dễ bắt nạt. Nếu chúng ta mở rộng được thế lực qua ngả Chợ Lớn thi khỏi lo gì tiền bạc, có thể tính kế làm ăn lâu dài.”

Đại Cathay càng nghĩ càng thấm thía gợi ý của quân sư A Chó. Hơn nữa đây còn là dịp để Đại phô trương thanh thế, “thống nhất giang hồ thành một cõi”, nên dù biết đụng đến đất làm ăn của dân chơi người Hoa không phải dễ xơi, thậm chí máu đổ đầu rơi, cuối cùng Đại Cathay vẫn gật đầu đồng ý.
Và, thế là vụ tranh giành “lãnh thổ” lớn nhất, cuộc chiến hao binh tổn tướng nhất và kéo dài nhất trong lịch sử giới Chợ Lớn từ xưa đến nay bắt đầu... Nhưng trước khi đi vào tình tiết cụ thể, xin vắn tắt nói thêm về bốn tay “đại cao thủ võ lâm” đã thành danh trên chốn giang hồ hơn 30 năm về trước: Đại, Tỳ, Cái, Thế.

Đại Cathay vừa được đề cập khá kỹ và tay trùm du đãng này đã đi vào “Lịch sử dân chơi” với nhiều huyền thoại pha lẫn thực tế, kể cả cái chết bí ẩn của anh ta (có thể coi bài trong các số tiếp theo).

Có điều ít người biết hồi nhỏ Đại Cathay từng bị bắt nhốt vào trường giáo dục thiếu niên. Tại đây, Đại đã nổi tiếng liều lĩnh, trong một lần cướp sòng bạc (chơi ban đêm, dưới ánh đèn dầu ngay trong trại), Đại tung mền úp đèn, quơ tiền, ai dè mền bắt đầu bốc cháy, quấn vào ngang người dưới của Đại khiến anh ta bị phỏng khá nặng nguyên phần từ bụng dưới trở xuống.

Tỳ vốn là võ sư, tên thật Huỳnh Tỳ, trước hùng cứ tại rạp Olympic, đường Hồng Thập Tự (nay là Trung tâm Văn hóa TP.HCM, đường Nguyễn Thị Minh Khai) - nơi đoàn Kim Chung “Tiếng Chuông Vàng” dùng làm rạp hát (sau 1975, Tỳ đã vào chùa thấp nhang thề từ bỏ chốn giang hồ, về nhà làm nghề mua bán và sau đó vẫn giữ được lời thề).

Cái họ Wòng vốn gốc là dân Nùng; còn Thế tên thật Lâm Thế, thường gọi Ba Thế. Khi ấy Cái và Thế cùng nhau coi khu vực từ Lê Lai dọc qua ngã tư Quốc tế đến khu Dân Sinh (Wòng Cái chết trong thùng xe bánh mì sau bệnh viện Sài Gòn vì bị ma túy hành hạ trong đêm Noel 1978. Còn Ba Thế tập hợp số đàn em còn rơi rớt lại tính “cướp cú chót” vào thời gian gần Tết Trung thu năm 1976, nhưng vụ cướp không thành và Ba Thế bị bắt, số phận sau ra sao không rõ).

Vào thời điểm Đại Cathay tính “bành trướng lãnh thổ” sang khu Chợ Lớn, cả ba cao thủ Tỳ, Cái, Thế đều đã qui phục Đại, thêm vào đó là hai tay sừng sỏ khác: Của Gia Định, trùm du đảng khu Gia Định mênh mông với biệt danh “hùm xám Gia Định”; và Minh Casino, vốn cầm đầu rạp Casino và luôn cả khu vực quanh chợ Bến Thành.

4. Xin nhắc lại, nghe theo lời quân sư A Chó, để mở rộng địa bàn, Đại Cathay dùng “tiên lễ hậu binh”. Trước hết, Đại Cathay lần lượt gặp các trùm dân chơi người Hoa, phân tích tình hình và nói chuyện phải quấy, hy vọng qui tụ toàn bộ giới – Chợ Lớn về một mối duy nhất.

Đánh giá sơ bộ các đối thủ, theo phương châm “dễ trước, khó sau”, Đại Cathay lần lượt cử người gặp Hải Phòng Kin, Quảy Thầu Hao, Sú Hùng.
Phần vì đã nghe danh tiếng Đại Cathay, phần thông cảm với “đồng nghiệp”, phần nữa cũng ngại đụng chạm, cả Hải Phòng Kin, Quảy Thầu Hao, Sú Hùng đều đồng ý cho Đại “góp phần hùn” (tượng trưng, thực tế chỉ bằng miệng) vô khu ăn chơi giải trí Chợ Lớn và chia tỉ lệ phần trăm cho dân chơi Sài Gòn.

Bây giờ mới tới “khúc xương khó nhá” nhất: Tín Mã Nàm.

Khu vực Đại Thế Giới của Tín Mã Nàm vốn đã nổi tiếng từ thời Pháp thuộc, đến lúc Bình Xuyên quản lý lại càng mở mang phát triển hơn. Chỉ duy nhất thời Ngô Đình Diệm ra lệnh dẹp “tứ đổ tường” (cờ bạc, trai gái; thuốc sái, rượu chè), Đại Thế Giới thoạt đầu co cụm lại. Nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm vừa đổ, Đại Thế Giới không những chỉ trở thành sòng bài lớn nhất miền Nam mà còn vang danh cả khu vực Đông Nam Á. Tiền bạc vô như nước, đương nhiên bọn đứng “mặt rô” phải đông. Dưới trướng Tín Mã Nàm là các “cao thủ” với cánh tay phải là Xú Bá Xứng chuyên coi về tài chánh, cờ bạc; về đâm thuê chém mướn phải kể đến Bắc Kỳ Chảy và Cọp Chảy đứng đầu bảng bảo kê. Nhất là Bắc Kỳ Chảy vốn là dân gốc người Nùng từ Móng Cái di cư vào đầu quân cho Tín Mã Nàm.

Hầu hết băng bảo kê Đại Thế Giới xuất thân từ các võ sĩ ở đội múa lân, ai nấy đều tinh thông quyền cước, dao, kiếm, giáo, côn; cả nội công lẫn ngọai công không phải tầm thường.

Ỷ vào binh hùng tướng mạnh, vả lại quyền lợi quá lớn mà lòng tham vô đáy, Tín Mã Nàm gạt phăng đề nghị của Đại Cathay:
- Ở lây anh em lông lắm, chia phần lâu còn đủ ăn.

Lần đầu tiên bị từ chối thẳng thừng, Đại Cathay lên giọng đe dọa:
- Không chia phần tôi, e sẽ xảy ra chiến tranh và bất lợi cho Nàm Chảy đấy.

Ai dè Tín Mã Nàm không những không lộ vẻ sợ hãi mà còn thách thức:
- Muốn lánh thì lánh. Ngộ lâu có ngán!

Kịch chiến mở màn Cả hai bên đều biết “chiến tranh” là điều xảy ra nội nhật nay mai, nên đều tích cực chuẩn bị cho trận sống mái. Phía Tín Mã Nàm đương nhiên thiên về thế thủ. Tất cả các sạp báo, quán ăn, tiệm cà phê quanh khu vực Đại Thế Giới đều biến thành chỗ cất giấu vũ khí. Không bao giờ đàn em dưới trướng Tín Mã Nàm đi hoặc ngồi quán một mình hoặc đôi ba người, mà luôn từ năm bảy người trở lên, sẵn sàng ứng cứu lẫn nhau.

Còn Đại Cathay lập tức triệu tập binh tướng, lên kế hoạch tập kích. Ba Thế mới về đầu quân cho Đại Cathay chưa bao lâu, chưa lập được chiến công hiển hách nào, hăng hái:

- Để thằng Bắc Kỳ Chảy cho tôi!

Tuy là một trong “tứ đại cao thủ” nhưng Ba Thế trắng trẻo, đẹp trai, từng được hề Ba Hội đoàn Kim Chung đặt biệt danh “bạch diện thư sinh” nên Đại Cathay ngần ngại:

- Thằng Nùng đó ghê lắm. Bọn Nùng toàn đi lính nhảy dù và thiết giáp... Thôi được, thằng Lâm phải theo sát hỗ trợ cho Thế!

5. “Giờ” G” được xác định là khoảng 9h sáng, giờ băng Tín Mã Nàm thường tụ tập ăn điểm tâm tại các tiệm, quán phía trước Đại Thế Giới.
Vậy là một buổi sáng đẹp trời nọ, trên 100 “giang hồ hảo hớn” rần rần rộ rộ kéo đến khu vực Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo) – Nguyễn Hoàng (nay là Trần Phú) – Nguyễn Tri Phương. Đạo quân do đích thân Đại Cathay dẫn đầu, có đủ mặt anh hào: Huỳnh Tỳ, Wòng Cái, Lâm Thế, Hải Súng, Lâm, Chương Khùng, Việt Parker, Của Gia Định, Minh Casino... Hai xe hơi du lịch và mấy chục xe gắn máy hiệu Gobel, Push, Brumi, Ishia (hồi ấy chưa có xe gắn máy Nhật, mà chỉ toàn xe máy hiệu Sach của Đức) chở đôi phóng như bay, bất ngờ đồng loạt thắng lại trước khu Đại Thế Giới. Các thanh niên trên xe nhào xuống, ai nấy kẻ rút đao, kiếm; người móc côn, lưỡi lê, ào vô các tiệm quán bên đường, cứ nhè các thanh niên đang ngồi uống cà phê hay ăn hủ tíu mà đâm, chém tới tấp bất kể đó có phải đám lâu la của Tín Mã Nàm hay không.

Sau một thoáng ngỡ ngàng, nhóm thanh niên này lập tức trấn tĩnh lại, hò hét lấy khí thế, chạy vô phía trong quán, cũng lấy đao, kiếm, côn nhị khúc... cất giấu sẵn, múa may đánh trả không chút sợ hãi. Bà con bán quán vốn quen biết đám Đại Thế Giới, lại cũng gốc người Hoa, nên ủng hộ “bồ nhà” vỗ tay và la lối trợ oai vang dội cả mấy con đường. Cuộc chiến chỉ mới bắt đầu coi mòi đã căng thẳng, khó phân thắng bại.

Trong lúc hai bên kịch liệt giáp chiến, Ba Thế đảo mắt tìm Bắc Kỳ Chảy. Kia rồi! Đối thủ của hắn đang cầm một thanh “mã” vung loang loáng, chỉ huy một nhóm năm tên tả xung hữu đột. Ba Thế cầm đao xộc thẳng tới trước mặt Bắc Kỳ Chảy, quát lần:
- Mày ngon đấu tay đôi với tao!

Bắc Kỳ Chảy không thèm trả lời, chỉ “hú” một tiếng, múa thanh mã xông lại đón đường đao của Ba Thế. Qua lại được vài hiệp, đám giang hồ do Lâm dẫn đầu ùa tới khiến Bắc Kỳ Chảy không dám nghênh chiến nữa, bỏ chạy.

Đang hăng, Ba Thế rượt đối thủ bén gót. Hình như đã có chủ ý, Bắc Kỳ Chảy chạy tạt vào rạp hát Hào Huê (nay nằm trên đường Trần Phú, gần góc đường Trần Hưng Đạo). Đời nào để con mồi thoát thân, Ba Thế lao theo. Ai ngờ hắn vừa lọt vô rạp hát thì nghe đánh rầm ở phía sau: Hai tên đàn em Bắc Kỳ Chảy phục sẵn ngay tại phía trong cửa rạp hát đã kéo cửa sắt, khiến cả bọn lâu la của Ba Thế rớt lại phía ngoài cửa.
Thấy đối thủ đã sa bẫy, Bắc Kỳ Chảy vung thanh mã tấu, cười gằn:

- Phen nay nị chết nhen con!

Hai tay đàn em của gã ngườl Nùng cũng kẻ rút côn nhị khúc, đứa cầm kiếm lăm lăm, sấn tới. Ba Thế hốt hoảng lượng định tình thế, áp sát lưng vô tường làm điểm tựa, xuống tấn, cầm ngang dao thủ thế, chân không ngừng di chuyển dần lại phía cửa sắt...

Phía ngoài, Lâm đã đuổi tới rạp Hào Huê, nhưng cánh cửa sắt đã khép lại, hắn chỉ thấy phía trong Ba Thế một chống ba, tính mạng mong manh như ngàn cân treo sợi tóc. Lâm nhanh trí, lấy đầu nhọn con dao phở mà hắn dùng làm vũ khí lách vô dưới khẻ hở chốt cửa, khẽ nâng lên.

“Tách” một tiếng, chốt đã nâng lên, Lâm vừa đưa tay trái kéo cửa sắt mở ra thì nghe sau gáy lạnh buốt: Một nhát kiếm đã chém trúng sau đầu hắn. Lại nghe tiếng quát phía sau, mũi con dao phở vẫn còn dính trong kẹt cửa khiến tay phải Lâm không thể nào quài dao lại đỡ, đành liều mình, buông tay trái đang vịn cửa lên che ót. Lưỡi kiếm bén ngót lần này tiện đứt lìa ngón tay cái của Lâm (và Lâm mang biệt danh Lâm Chín ngón kể từ đó).

Bên trong rạp Hào Huê, Ba Thế không bỏ lỡ cơ hội, nhanh chóng thoát ra ngoài, vừa kịp lúc đám giang hồ Sài Gòn hàng chục người xông tới tiếp cứu khiến nhóm Chợ Lớn phải tháo lui, tẩu tán vào các hang cùng ngõ hẻm và các nhà, quán quen thuộc, trong phút chốc biến mất sạch.

Hậu quả của trận thư hùng mở màn cho giới giang hồ hai phe Sài gòn – Chợ Lớn này là mỗi bên đều có khoảng trên dưới 20 người bị thương nặng nhẹ, tuy nhiên không ai tử thương.
03:30 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Hay quá! còn nữa ko bạn?

Còn một kỳ nữa nhé bạn! Để mình post thêm 1 bộ khác nữa xem cho vui :D
03:23 CH 01/07/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 7): Chuyện về tướng cướp Bạch Hải Đường



Bạch Hải Đường trong trại giam.


Đại Cathay, Điền Khắc Kim, Sơn “đảo”... là những cái tên lừng danh trong giới giang hồ Sài Gòn. Nhưng nếu hỏi tên giang hồ nào nổi danh nhất miền Nam trước năm 1975, nhiều người sẽ trả lời đó là Bạch Hải Đường. Bạch Hải Đường là tên giang hồ duy nhất ở miền Nam mà cuộc đời được viết thành sách, dựng thành phim và tái hiện trên sân khấu cải lương…


Bản sao của Điền Khắc Kim
Ở Sài Gòn có một Điền Khắc Kim chuyên cướp của (và hãm hiếp) nhắm vào những gia đình người Mỹ. Ảnh hưởng từ câu chuyện của Điền Khắc Kim, ở miền Tây Nam bộ cũng có một tên du đãng chuyên gây án nhắm vào những gia đình người Mỹ, người nước ngoài, nhưng với tần suất và trình độ cao hơn nhiều, đó là Bạch Hải Đường. Tên du đãng này tên thật là Nguyễn Ngọc Truyện, sinh năm 1950, là con lớn trong gia đình nghèo có 5 anh em ở TP.Long Xuyên, tỉnh An Giang. Nhà nghèo, Truyện sớm bỏ học, gia nhập đám trẻ bụi đời sống bằng nghề lượm ve chai.
Năm Truyện 15 tuổi, do cha bệnh nặng, nên cậu phải thay cha làm lơ xe cho những chuyến xe đò từ Long Xuyên đi Sài Gòn để kiếm tiền nuôi gia đình. Bôn ba trên những chuyến xe, bến phà, tiếp xúc với các “anh chị”, đại ca ở nhiều nơi, máu giang hồ trong Truyện càng có điều kiện phát triển. Năm 18 tuổi, Truyện được cha mẹ cưới vợ, sinh 2 đứa con trai. Truyện bỏ nghề lơ xe, vừa trốn quân dịch, vừa chạy xe lôi để nuôi vợ con.


Rồi con bị bệnh nặng, không tiền chữa trị. Trong lúc túng quẫn, Truyện liều lấy trộm chiếc xe Honda, bán lấy tiền mua thuốc cho con, khởi đầu con đường trộm cướp. Bị ảnh hưởng bởi câu chuyện tướng cướp Điền Khắc Kim đăng trên báo, Truyện cũng trộm cướp nhắm vào người Mỹ. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 1971, Truyện đã đột nhập vào các gia đình người Mỹ 8 lần, lấy 5 tivi, 5 máy hát, 4 thùng rượu, 2 thùng thuốc lá… Tháng 4 năm 1971, tần suất trộm cắp của Truyện càng dày đặc với 7 chiếc xe Honda trộm được. Qua tháng 5.1971, số chiến lợi phẩm của Truyện là 20 xe honda... Chỉ trong mấy tháng mà TP.Long Xuyên có cả trăm chiếc xe Honda bị mất, lực lượng cảnh sát ở đây phải đặt trong tình trạng báo động. Một chiến dịch truy quét quy mô được tiến hành, nhưng không tìm ra được thủ phạm.


Truyện rất giỏi võ nhờ theo học một thầy giỏi võ nhất miền tây. Vụ cướp nổi tiếng làm cho Truyện được giới giang hồ đặt cho biệt danh là Bạch Hải Đường xảy ra cuối năm 1971. Sau khi đột nhập vào nhà đại úy Triệu - sếp phó lực lượng cảnh sát TP.Long Xuyên, lấy đi nhiều tiền vàng, Truyện “ẩn mình” ở nhà cô người yêu. Một cô “ghệ nhí” khác của Truyện tên Lệ vì quá ghen đã báo cho cảnh sát nơi ẩn náu của Truyện. Truyện bị bắt và bị đại úy Triệu đánh đập dã man, xong cho 2 viên quân cảnh lực lưỡng áp giải về trại giam. Bị còng tay, nhưng khi xe đang chạy, Truyện đánh gục hai quân cảnh và người lái xe rồi lao xuống đường tẩu thoát. Sau vụ đó, giới giang hồ Long Xuyên đặt cho Truyện biệt danh “tướng cướp Bạch Hải Đường”, vì nó giống với câu chuyện tên tướng cướp Bạch Hải Đường trong tiểu thuyết và bộ phim Đài Loan đang rất thịnh hành khi đó là “Phi tặc Hải Đường Hồng”.


Thách thức mọi trại giam


Đầu thập niên 1970, cái tên Bạch Hải Đường trở nên nổi bật nhất trong giới tội phạm miền Nam, lấn át hết những tên du đãng có “số má” ở Sài Gòn. Nhiều giai thoại được đồn thổi rất ly kỳ xung quanh cái tên Bạch Hải Đường, báo chí tha hồ thêu dệt Bạch Hải Đường như là tay giang hồ hào hiệp chuyên cướp của người giàu chia cho người nghèo, chuyên nhắm vào những cố vấn Mỹ và các sĩ quan cảnh sát, quân đội. Rồi nhiều cuốn sách, kịch bản điện ảnh, sân khấu cải lương đã xây dựng nhân vật từ những tình tiết hư cấu này, làm Bạch Hải Đường càng thêm nổi tiếng. Đặc biệt, có nhiều giai thoại về chuyện cảnh sát Sài Gòn bắt giam Bạch Hải Đường như là “bắt cóc bỏ đĩa”, vì y có biệt tài vượt ngục rất thần kỳ.


Khi câu chuyện về Bạch Hải Đường đang hồi gay cấn thì miền Nam được giải phóng, lúc đó Bạch Hải Đường vừa bị bắt vào trại giam. Một ngày sau, lợi dụng tình hình “tranh tối tranh sáng”, Bạch Hải Đường trốn trại, để lại dòng chữ trên tường: “Bạch Hải Đường sinh ra không phải để ở tù”. Nhưng chỉ ít lâu sau, Bạch Hải Đường lại bị bắt vì tội trộm cướp. Tháng 8.1975, Bạch Hải Đường lại trốn trại, để lại một lá thư: “Xin Cách mạng thông cảm và tha lỗi cho tôi. Vì hoàn cảnh gia đình nên tôi mới trốn và tôi hứa là về sẽ tăng gia sản xuất để sống. Tôi không phạm tội nữa”. Nhưng Bạch Hải Đường không giữ đúng lời hứa, cướp 100 cây vàng ở vùng biên giới Châu Đốc và bị bắt sau khi 3 viên đạn bắn vào bắp chân. Tháng 5.1980, Bạch Hải Đường tự tháo còng, đục thủng tường trại giam và để lại dòng chữ: “Nơi đây không phải chốn dừng bước giang hồ của Bạch Hải Đường”.

Một lần nữa, tên giang hồ khét tiếng lại đào thoát khỏi vòng vây pháp luật và một cuộc truy bắt nữa bắt đầu. Rồi Bạch Hải Đường cũng bị bắt sau khi trúng đạn. Do nhiều lần bị thương, không chịu chữa trị, xem thường tính mạng, nên bệnh tật của Bạch Hải Đường ngày càng nặng. Dù đã được cán bộ quản giáo tận tình chữa trị, lo thuốc men, nhưng Bạch Hải Đường không thoát khỏi số phận ở tuổi 33. Bạch Hải Đường bình thản nhắm mắt sau khi kể lại toàn bộ tội lỗi của mình trong 13 năm làm “tướng cướp” và chân thành cảm ơn các cán bộ quản giáo.









Diễn viên Thương Tín trong vai tướng cướp Bạch Hải Đường trong 1 bộ phim.



Lời tự thú của Bạch Hải Đường

Biết không qua khỏi vì bệnh tật, Bạch Hải Đường đã xin cán bộ trại giam giấy viết để tường thuật về những vụ trộm cướp đáng kể trong cuộc đời của mình. Trong bản tự khai, Bạch Hải Đường kể lại hơn 40 vụ đột nhập nhà của các dân biểu Sài Gòn, doanh nhân người Mỹ, cố vấn quân sự Mỹ, nhân viên ngoại giao, cảnh sát, quân cảnh của chế độ cũ... Hầu hết những căn nhà của họ đều rất kiên cố, có lính canh gác 24/24h, nhưng Bạch Hải Đường luôn ra vào trót lọt, chưa bao giờ bị phát hiện. "Trong thời gian đi lấy trộm đồ, tôi toàn vô nhà của người giàu có, nhà của người nước ngoài, nhất là người Mỹ", Bạch Hải Đường viết.


Một lần, Bạch Hải Đường vào nhà ông chủ tên Chuẩn chuyên cho bác sĩ nước ngoài ở thuê. Do bên dưới có lính canh nên Bạch Hải Đường leo lên vách tường nhà chùa rồi leo qua nóc nhà của bác sĩ Chuẩn, "trổ" mái nhà chui xuống phòng của một bác sĩ người Úc đang ngủ. Trong căn phòng chật hẹp, y đã "dọn" quần áo, đồng hồ đeo tay, một cái rương lớn, quạt máy, máy “thâu băng”... ra khỏi phòng mà ông bác sĩ Úc vẫn ngon giấc. Mãi sáng hôm sau thức dậy, nhìn mái nhà có lỗ thủng, bác sĩ này chỉ biết lắc đầu ngao ngán. Ông chủ nhà tên Chuẩn đã huy động lực lượng tăng cường công tác bảo vệ an toàn cho khu nhà, nhưng chỉ một tuần sau, Bạch Hải Đường lại "viếng thăm" khu nhà một lần nữa. Hắn vào phòng của một bác sĩ người Mỹ dọn sạch tất cả đồ đạc có giá trị, kể cả vàng và đôla, chỉ để lại cho gia chủ khẩu súng trong ngăn kéo. Nhân viên, bác sĩ làm việc trong tòa nhà này sau đó đã dọn đi vì không tin cảnh sát có thể đảm bảo cho tài sản của họ được an toàn. Có người còn nghi ngờ hai vụ mất trộm do nội bộ thực hiện, bởi lúc nào lính cũng gác rất chặt ở cửa.


Một lần khác, Bạch Hải Đường kể, y đột nhập nhà ông Nguyễn Đắc Dần cho mấy kỹ sư người Mỹ thuê. Lọt vào nhà, y thấy hai người Mỹ đang ngủ say sưa. Bạch Hải Đường lấy hai cái rương lớn cho tất cả những thứ cần lấy vào. Chưa vội rời khỏi hiện trường, Bạch Hải Đường còn lân la xuống nhà bếp, mở tủ lạnh... Hắn lôi rượu thịt đem ra bàn, ngồi chén say sưa, đến gần hết chai rượu vang đỏ mới chịu vác 2 va ly đồ đu dây qua cửa sổ thoát xuống đất. Sáng hôm sau, khiếp vía trước hiện trường để lại, 2 kỹ sư Mỹ vội vã dọn đồ đi nơi khác. Cũng tại ngôi nhà này, vài tháng sau Bạch Hải Đường đột nhập vào phòng của hai người Nhật, lấy nhiều tài sản có giá trị. Sau đó vài tuần, Bạch Hải Đường đột nhập vào một căn cứ hải quân Mỹ ở gần kho xăng Quản Trung Hòa. Mấy ngày sau, y lại mò đến căn cứ Mỹ phía sau ngân hàng Tín Nghĩa, vào nhà một sĩ quan lấy được một tivi, quần áo, ba cái gương, nhiều tiền đôla Mỹ...


Không chỉ vào nhà của những đại gia, sĩ quan ở TP.Long Xuyên, mà mỗi lần đi thăm "bạn bè" ở tỉnh nào đó, đêm đến, y thường "tranh thủ" làm vài vụ. Trong một lần qua nhà người bạn tên Phước Hùng ở Rạch Giá, Kiên Giang, Bạch Hải Đường cũng đã vào nhà người nước ngoài 2 lần. Tại Cần Thơ, y cắt kẽm gai chui vào khu nhà của một trung tá Mỹ lấy một bao đồ, máy chụp hình, tivi và một số tiền.


“Tôi leo lên lầu nhà này thì thấy một chiếc trực thăng đậu trên đó. Tôi leo vào trực thăng kiếm đồ nhưng chỉ lấy được một nón phi công, một đôi bao tay, một bao đồ và một xấp giấy tờ. Tôi mang giấy tờ ra xem thì mới biết đó là nhà của trung tá không quân", Bạch Hải Đường kể. Khi thông tin vụ đột nhập này được tiết lộ ra ngoài, lực lượng quân cảnh, cảnh sát chế độ cũ lại được một phen... náo loạn. Sở dĩ Bạch Hải Đường dám “liều mạng” vào nhà của phi công này là vì có một lời thách thức từ nhóm giang hồ ở Cần Thơ: Nếu ai vào được nhà của phi công trên, vào được máy bay, mang được cả nón phi công ra thì sẽ được tất cả giới giang hồ ở Tây Đô tôn làm "đại ca", chính thức thống lĩnh toàn bộ thế giới giang hồ ở miền Tây.

http://laodong.com.vn/phap-luat/the-gioi-du-dang-sai-gon-truoc-1975-ky-7-chuyen-ve-tuong-cuop-bach-hai-duong-218068.bld
10:30 SA 30/06/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 6): Sơn “đảo” - tên trùm du đãng chết vì “lỗ chân trâu”



Trước vũ trường Crystal, nơi Sơn “đảo” bị giết.


Trong những trùm du đãng Sài Gòn trước năm 1975 có một cái tên bị giới giang hồ thời đó rất coi khinh, do y dựa vào lính dù Sài Gòn để khuếch trương thanh thế, tranh giành lãnh địa. Tên du đãng đó có tên là Sơn “đảo”. Sau bao lần “vào sinh ra tử”, cuối cùng Sơn “đảo” lại chết vì “lỗ chân trâu” - bị một du đãng đàn em trả thù vì tranh giành gái.


Nhờ… đi đày Côn Đảo

Sơn “đảo” tên thật là Vũ Đình Khánh, sinh năm 1944 tại Hà Nội, năm 1955 cùng gia đình di cư vào vùng Hố Nai, Biên Hòa, rồi về quận Tân Bình, Sài Gòn. Khánh sớm bỏ học, đi bụi, rồi trở thành du đãng nhóc. Với chút vốn liếng chữ nghĩa, cộng với máu giang hồ có sẵn trong người, Khánh sớm trở thành thủ lĩnh của đám trẻ bụi đời ở quận Tân Bình, trở thành nỗi ám ảnh của người dân lương thiện nơi đây. Thực hiện chủ trương “vãn hồi trật tự” ở Sài Gòn của tướng Nguyễn Cao Kỳ, chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan lập ra đội quân đặc nhiềm bài trừ du đãng. Vũ Đình Khánh bị bắt trong một lần cướp giật, lãnh án 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo năm 1966 cùng hàng trăm du đãng cộm cán khác.


Tại nhà tù Côn Đảo, Vũ Đình Khánh đã gặp và “thọ giáo” một tướng cướp – nhà văn lừng danh tên là Sơn Vương, người vào năm 1934 bị thực dân Pháp xử… 79 năm tù (khi gặp Vũ Đình Khánh vẫn còn thụ án). Khánh đổi tên thành Sơn “đảo” – chữ Sơn theo tên của ông thầy Sơn Vương, gắn thêm “đảo” để nhớ về cuộc gặp gỡ ở Côn Đảo.


Sơn “đảo” được thả về đất liền vào năm 1971. Năm 1966, Vũ Đình Khánh chưa được biết nhiều trong giới giang hồ Sài Gòn, nhưng sau 5 năm ở tù Côn Đảo trở về với cái tên mới Sơn “đảo”, tay du đãng này trở nên có “số má”. Thời đó, tên du đãng nào chưa trải qua các nhà tù, không được giới giang hồ coi trọng. Với bản án 5 năm lưu đày Côn Đảo, khi trở về Sài Gòn, Sơn “đảo” nghiễm nhiên trở thành “đàn anh”, được các băng đảng khác kiêng nể. Sơn “đảo” hùng cứ một phương ở khu vực quận Tân Bình. Ban đầu Sơn “đảo” đứng ra bảo kê cho các sòng bạc. Ai chịu đóng “bảo kê” cho Sơn thì được làm ăn yên ổn, ai không chịu đóng thì trước sau cũng bị cảnh sát Tân Bình hốt gọn. Tiến thêm một bước, Sơn “đảo” mua lại một sòng bạc đang có nguy cơ phá sản, rồi bằng mối quan hệ “ngầm” của mình mà lôi kéo các con bạc về, nhanh chóng đưa sòng bạc phát triển với quy mô ngày càng lớn.


Du đãng quý tộc

Sơn “đảo” rất thích thể dục thể hình, y trang bị cho mình cả một phòng tập thể hình thuộc loại hiện đại nhất Sài Gòn thời ấy. Nhờ chịu khó luyện tập, Sơn “đảo” có một cơ thể thật đẹp, ngực nở phồng, hai cánh tay đồ sộ không thể khép sát vào nách. Với một chút năng khiếu văn chương, lại là một lực sĩ có thân hình rất đẹp, Sơn “đảo” được xem là du đãng “quý tộc”. Cũng chính vì được xem là du đãng quý tộc mà Sơn “đảo” giao du, kết thân với giới quân đội Sài Gòn, dựa vào họ mà nâng cao thanh thế. Đó là điều mà thế giới giang hồ Sài Gòn không thể chấp nhận, vì vậy Sơn “đảo” đã đứng đối lập với thế giới ngầm Sài Gòn.


Người ta thấy Sơn “đảo” thường xuyên sử dụng xe phân khối lớn đi kè kè với tay trung tá Đường - sư đoàn trưởng sư đoàn dù và người em vợ của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thường được gọi là “cậu Mười”. Cậu Mười xây dựng một tòa nhà 5 tầng trên đường Trương Minh Ký để cho các đại ca giang hồ thuê mở sòng bạc, vũ trường, trong đó có Sơn “đảo”. Vừa được sự đỡ đầu của cậu Mười, vừa chơi thân với sư đoàn trưởng sư đoàn dù, thanh thế của Sơn “đảo” càng vững.


Thời ấy hầu hết các vũ trường đều có màn múa “thoát y” để thu hút khách. Vũ trường Barcarat thuộc loại nổi tiếng nhất nhờ màn vũ thoát y độc đáo. Một cô gái với thân mình bốc lửa từ từ bước lên sân khấu trong tiếng vỗ tay hoan hô của khách. Cô gái nhảy múa cuồng loạn theo điệu nhạc, rồi lần lượt từng mảnh xiêm y trên mình rơi dần ra, cuối cùng chỉ còn độc một chiếc quần lót thật “tiết kiệm vải” (gọi là “lá nho”). Đó là lúc chủ vũ trường “khuyến mãi” cho khách bằng trò “bốc thăm trúng thưởng”. Người “may mắn” trúng thưởng được lên sân khấu để cùng nhảy với cô gái. Sau đó, nếu người ấy dùng răng gỡ được chiếc quần lót của cô vũ nữ thì cô gái sẽ thuộc về người ấy cho tới sáng. Vũ trường Barcarat có cô vũ nữ tên Trang với thân hình bốc lửa, bước nhảy điêu luyện, đôi mắt như hớp hồn khách làng chơi. Trang “Barcarat” làm điên đảo bao khách làng chơi, trong đó có cả Sơn “đảo”.


Chết vì gái

Thời ấy, khu vực Bệnh viện Từ Dũ là điểm hút chích nổi tiếng ở Sài Gòn. Tại đây có một tay du đãng chuyên bán ma tuý, tên là Phạm Bá Y. Bá Y bị thọt chân, nên được giới du đãng gán cho biệt danh Y “càlết”. Lúc này ở quận Tân Bình, Sơn “đảo” cũng đã mở rộng lĩnh vực hoạt động sang buôn bán ma túy. Biết mình chỉ thuộc hàng đàn em của Sơn “đảo”, Y “càlết” phải từ bỏ món “hàng trắng” mà Sơn “đảo” đang nắm độc quyền, quay về bán thuốc phiện “cò con” cho các con nghiện. Dù vậy, Sơn “đảo” vẫn ghét Y “càlết”.


Một hôm, Sơn “đảo” đến thăm Trang “Barcarat”, cũng là lúc Y “càlết” đang “trồng cây si” trong nhà người đẹp. Thấy Sơn “đảo” vào, Y “càlết” tỏ cử chỉ trân trọng gật đầu chào, rồi xin phép ra về. Sơn “đảo” nghĩ ra trò làm nhục đối thủ trước mặt người đẹp, nên hất hàm hỏi Y “càlết”: “Ai cho mầy tới đây?”. Y “càlết” lúng túng nói không nên lời, miệng lắp bắp: “Dạ... thì tôi đến... thăm Trang...”. Sơn “đảo” chưa chịu buông tha, bước tới tát mạnh Y và nói: “Tao cấm mày từ đây không được đến đây, nếu không đừng trách”.


Đối với bọn du đãng, nỗi nhục lớn nhất của chúng là khi bị làm nhục trước mặt người đẹp. Y “càlết” cũng vậy, tên du đãng có thừa tiền nhưng bị tật bẩm sinh này rất say mê Trang “Barcarat”, nhưng chưa được người đẹp đoái hoài. Vậy mà bất ngờ Y “càlết” lại bị Sơn “đảo” đánh, làm nhục ngay trước mặt người đẹp. Mối hận này đối với một tên du đãng tật nguyền là rất lớn, không gì rửa cho sạch. Về nhà uống rượu suốt 3 ngày, mỗi lần uống rượu là mỗi lần Y “càlết” lấy rượu rửa thật kỹ bên mặt bị Sơn “đảo” đánh như để rửa sạch nỗi nhục. Một kế hoạch tàn khốc đã lóe lên trong đầu Y “càlết”.


Sơn “đảo” có người em ruột rất giỏi võ tên là Vũ Đình Cương, có biệt danh là Cương “võ sĩ”. Cương cùng ông anh mở sòng bạc, buôn ma túy... Một lần khi đi lấy “hàng” (ma túy), Cương bị bắt, phải ngồi tù Chí Hòa. Trong khi Sơn “đảo” ở bên ngoài lo chạy cho đứa em ra khỏi tù, thì một chuyện kinh khủng đã xảy ra trong tù. Vì tranh giành làm “đại bàng” trong tù mà một tên du đãng cộm cán khác tên là Lâm “chín ngón” đã đâm chết Cương “võ sĩ” ngay trong nhà lao.


Nhận được hung tin, Sơn “đảo” âm thầm lên kế hoạch giết Lâm “chín ngón” bằng cách bỏ ra mấy trăm cây vàng để thuê một tay giang hồ đang bị giam trong khám Chí Hòa tìm cách tiếp cận để giết Lâm “chín ngón”. Người lãnh sứ mạng đó là tên du đãng Hoàng “đầu lâu”. Thế nhưng, khi vừa mới được chuyển đến ở chung buồng giam với Lâm “chín ngón”, chưa kịp ra tay, thì Hoàng “đầu lâu” đã bị đối thủ phát hiện âm mưu, ra tay trước, đâm chết tại chỗ. Ở ngoài, Sơn “đảo” lại lồng lộn thề giết cho kỳ được Lâm “chín ngón”. Nhưng Sơn “đảo” chưa kịp thực hiện thì chính mình đã bị giết.


Nửa đêm ngày 18.1.1975, Sơn “đảo” cùng trung tá Đường (sư đoàn dù) rời vũ trường Crystal. Đến bên chiếc môtô 125 phân khối, Sơn “đảo” phát hiện bánh sau của xe bị xẹp. Tên trùm du đãng không hề biết rằng, trong lúc hắn đang ôm cô vũ nữ trong vũ trường thì ở ngoài có một đứa bé đánh giày được Y “càlết” thuê tới xì bánh chiếc xe 125 phân khối. Sơn “đảo” dắt chiếc xe qua tiệm sửa xe bên kia đường nhờ sửa.


Bất ngờ, một chiếc Honda 67 trờ tới kèm theo tiếng kêu: “Sơn “đảo”. Sơn “đảo” chưa kịp phản ứng thì một tiếng nổ vang lên, viên đạn găm vào vai làm Sơn ngã quỵ. Y “càlết” xuất hiện, lạnh lùng chĩa súng vào Sơn và nói: “Vì cái tát đó nên mày phải chết”. Nói dứt lời, Y “càlết” nã tiếp hai phát đạn vào bụng Sơn rồi lên xe máy cùng đàn em rú ga bỏ chạy. Thiếu tá Đường mặc dù có súng bên người vẫn không dám rút ra mà bỏ chạy theo hướng khác. Sơn “đảo” được đưa đến bệnh viện cấp cứu nhưng đã chết sau đó vài giờ.


Đám tang của Sơn “đảo” thật rình rang, kinh dị, sặc mùi giang hồ. Hàng chục xe Jeep chở đầy lính dù với súng tuốt lê trần hộ tống xe chở quan tài chạy khắp khu trung tâm Sài Gòn, sang quận Tân Bình, chạy qua vũ trường Crystal... Khi đoàn xe tang chạy qua khu vực Xóm Đạo của băng nhóm Y “càlết”, đám lính dù trên xe chĩa súng lên trời bắn đến hết đạn, như thề với Sơn “đảo” sẽ trả thù. Nhưng đàn em của Sơn “đảo” chưa kịp tìm ra được tung tích Y “càlết”, thì miền Nam đã hoàn toàn giải phóng. Sau ngày giải phóng, Y “càlết” vẫn không bỏ con đường cũ, tiếp tục phạm tội giết người và bị kết án tử hình.

http://laodong.com.vn/phap-luat/the-gioi-du-dang-sai-gon-truoc-1975-ky-6-son-dao-ten-trum-du-dang-chet-vi-lo-chan-trau-216709.bld

10:27 SA 30/06/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (kỳ 5): Lâm “chín ngón” nặng ân oán giang hồ với cả Đại Cathay và Năm Cam


Lâm “chín ngón” thời trẻ.



Lâm “chín ngón” có “duyên nợ” cả với trùm du đãng trước năm 1975 là Đại Cathay và trùm xã hội đen sau này là Năm Cam. Nếu như Đại Cathay đưa Lâm “chín ngón” lên hàng “chiếu trên” của thế giới giang hồ Sài Gòn thì Năm Cam là người đặt dấu chấm hết cho cuộc đời du đãng của Lâm “chín ngón” với cú tạt axít kinh hoàng.


Hai lần cứu Đại Cathay thoát chết
Lâm “chín ngón” tên thật là Lê Ngọc Lâm, sinh năm 1945 tại Hà Tây, sau cùng gia đình di cư vào Nam lúc mới 9 tuổi. Năm 12 tuổi, Lâm thành trẻ bụi đời, được đưa vào làng cô nhi Thủ Đức. Tại đây, Lâm đã lần ra ngoài, nhập vào đám quân bụi đời, bán báo trước làng cô nhi... Năm 1963, Lê Ngọc Lâm bị bắt quân dịch, nhưng đã bỏ trốn về Sài Gòn sống lang thang, được Đại Cathay nhận vào băng du đãng mới nổi lên ở khu Da Heo quận 1. Có chút học thức, đánh đấm giỏi, lại lỳ đòn, Lâm nhanh chóng được Đại Cathay tin dùng. Không bao lâu, Lâm trở thành trợ thủ đắc lực của Đại.


Một lần, Đại Cathay dắt quân tập kích vào khu vực rạp Hào Huê ở quận 5, là lãnh địa của băng du đãng Hắc Đạo người Hoa do Tín Mã Nàm làm thủ lĩnh. Băng Hắc Đạo không đương đầu nổi với băng của Đại Cathay, nên bỏ chạy. Say men chiến thắng, Đại bị băng Hắc Đạo dụ chạy sâu vào trong các con hẻm, sau đó hạ cửa sắt bít đường rút đầu các hẻm lại và phản công. Đại và các “chiến hữu” rơi vào cửa tử, bị đánh, chém tơi tả, chống cự trong vô vọng. Lâm đã liều chết mở đường máu, tả xung hữu đột giúp Đại Cathay tháo chạy thoát thân. Trong trận này, Lâm bị chém rớt ngón cái trên bàn tay phải và chính Đại Cathay đặt cho Lâm biệt danh “chín ngón” từ đó.


Lần khác, vào năm 1966, tại nhà hàng Olympic, Đại Cathay và các “chiến hữu” bất ngờ bị đám vệ sĩ của tướng cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan tấn công bằng vũ khí “nóng” (dùng súng). Đại Cathay bị bắn bể đầu gối, nằm quỵ xuống sàn, Lâm “chín ngón” đã lấy thân che đạn cho “chủ tướng”, vừa bắn chặn đối phương vừa dìu Đại Cathay thoát khỏi “chiến địa” nồng nặc mùi khói súng.


Cuối năm 1966, Tổng giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành - tướng Nguyễn Ngọc Loan mở chiến dịch bài trừ du đãng. Hàng loạt du đãng cộm cán ở Sài Gòn bị bắt, trong đó có Đại Cathay và Lâm “chín ngón”. Cả bọn bị chở ra đảo Phú Quốc, ở trại Cửu Sừng. Đầu năm 1967, Đại Cathay cùng một nhóm tù du đãng tổ chức vượt ngục với kế hoạch khá mạo hiểm. Biết cuộc vượt ngục này “lành ít dữ nhiều”, Đại Cathay không muốn cho Lâm “chín ngón”, người ơn đã 2 lần cứu Đại thoát chết, tham gia.


Theo ý của Đại, nếu lỡ “có bề nào” thì “sự nghiệp” của Đại cũng còn có người đáng tin cẩn là Lâm “chín ngón” nối nghiệp. Trước khi chia tay không biết là sinh ly hay tử biệt, Đại bắt Lâm thề phải bỏ ma túy, đồng thời tự tay Đại chích 1 liều ma túy cuối cùng cho Lâm “chín ngón”. Liều ma túy nặng gấp đôi bình thường ấy đã làm Lâm ngủ say như chết, đến ngày hôm sau khi tỉnh dậy thì Lâm nhận được hung tin: Đại Cathay và các “chiến hữu” sau khi ra khỏi trại đã bị phát hiện và truy sát, tất cả đều bị bắn chết.


Hai lần giết người trong tù


Cuối năm 1969, Lâm được thả trở về đất liền. Băng du đãng Đại Cathay đã tan rã, không còn chỗ cho Lâm “chín ngón” dựa. “Người kế thừa sự nghiệp Đại Cathay” không đủ sức xưng hùng, xưng bá để thu thuế, lấy xâu như trước nữa. Lâm “chín ngón” trở lại thế giới du đãng với nghề đi cướp đường bằng xe gắn máy. Chẳng bao lâu, đường phố Sài Gòn đã bị ám ảnh bởi một tên cướp chạy xe như bay, thách thức lực lượng cảnh sát. Lâm “chín ngón” thường ra tay cướp của ở trước cửa các ngân hàng, nạn nhân là những người vừa lĩnh tiền từ ngân hàng ra. Cuối năm 1970, Lâm “chín ngón” run rủi va chiếc xe honda 67 vào một chiếc xe xích lô khi hắn đang cố chạy thoát sau 1 vụ cướp, rồi bị bắt vào trại giam Chí Hòa.


“Kinh nghiệm” ở tù ngoài Phú Quốc trước đó đã giúp Lâm “chín ngón” nhanh chóng trở thành “đại bàng” trong trại giam. Cảnh sống trong tù và ngoài đời đối với Lâm “chín ngón” không mấy khác nhau, tức cũng cướp bóc, ăn nhậu, bài bạc, hút sách... Bán thuốc phiện ngoài đời đã siêu lợi nhuận, bán “cái chết trắng” trong tù lại càng lời “khủng”. Mua đứt giám thị trại giam, Lâm “chín ngón” độc quyền bán thuốc phiện ở khu FG, sau đó mon men mở rộng lãnh địa ra toàn trại. Vì vậy mà đụng chạm với Cương “võ sĩ”, một võ sĩ quyền anh nổi danh khắp miền Nam, bị bắt vì tội buôn ma túy. Cương “võ sĩ” là em ruột của Sơn “đảo”, một trùm du đãng ở Sài Gòn thời bấy giờ ở bên ngoài. Ngay trong tù, một trận thư hùng đã xảy ra giữa Lâm “chín ngón” và Cương “võ sĩ”. Kết quả là Cương “võ sĩ” chết ngay lập tức vì nhát dao đâm trúng tim.


Trùm du đãng Sơn “đảo” bên ngoài nhận được tin đứa em ruột bị giết chết trong trại giam Chí Hòa tức lồng lộn và thề: “Tao mà không giết được Lâm “chín ngón” thì sẽ từ bỏ thế giới giang hồ!”. Sơn “đảo” âm thầm lên kế hoạch giết Lâm “chín ngón”. Lúc đó, trong trại Chí Hoà có tên tù Hoàng “đầu lâu”, vì trên bả vai của y có xăm hình chiếc đầu lâu. Hoàng “đầu lâu” võ nghệ cao cường, mang đai đen tứ đẳng Taekwondo. Sơn “đảo” tiếp cận Hoàng “đầu lâu” bằng cách bỏ tiền mua một căn nhà mặt phố đem tặng cho vợ con Hoàng đang sống chui rúc trong nhà trọ nơi hẻm sâu.


Sau đó Sơn “đảo” lại sang một sạp vải ở chợ cho vợ Hoàng đứng bán, làm kế sinh nhai. Hoàng “đầu lâu” ở trong tù chấp nhận thực hiện yêu cầu của Sơn “đảo”. Lúc ấy, Hoàng “đầu lâu” đang mang án tù nhẹ, không chung khu giam giữ với tù trọng án, nên không thể tiếp cận được Lâm “chín ngón”. Sơn “đảo” đã đạo diễn cho Hoàng chém 1 giám thị trại để trở thành tù trọng án. Sau đó, Sơn “đảo” tiếp tục lo lót để cho Hoàng “đầu lâu” chuyển sang ở cùng một buồng giam với Lâm “chín ngón”.


Từ sau khi giết Cương “võ sĩ”, Lâm “chín ngón” biết là Sơn “đảo” sẽ tìm cách trả thù. Vì vậy mà khi nghe câu chuyện Hoàng “đầu lâu” chém giám thị, rồi được đưa về giam chung buồng với mình, Lâm thừa biết Hoàng sắp giết ai. Ngày đầu Hoàng “đầu lâu” vào, Lâm nhờ người mua một chai rượu Remy Martin mời Hoàng nhậu. Không chút nghi ngờ, Hoàng “đầu lâu” nốc rượu thoải mái sau bao ngày nhịn thèm. Say rượu, Hoàng “đầu lâu” nằm lăn ra ngủ. Lâm “chín ngón” lẳng lặng nấu nồi nước “để tắm”. Khi nước vừa sôi, Lâm bê nguyên cả nồi đổ ụp xuống mặt Hoàng “đầu lâu”, xong rút dao tự chế đâm Hoàng tổng cộng 37 nhát, cho đến khi nạn nhân tắt thở.


Nạn nhân của Năm Cam

Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Lâm “chín ngón” đang ở trong trại giam. Năm 1988, Lâm “chín ngón” được trả tự do sau 18 năm ở tù qua 2 thời kỳ. Trở về đời thường, Lâm tỏ ra chí thú làm lại cuộc đời. Năm 1993, Lâm cưới vợ và sinh con, mở một quán thịt chó bình dân trên đường 3-2. Tưởng như tên trùm du đãng ngày nào giờ đã lo chí thú làm ăn, làm lại cuộc đời, đoạn tuyệt hẳn với giới giang hồ. Nhưng, nghiệp chướng tiếp tục đeo bám, không để cho Lâm an phận với cuộc đời hoàn lương. Cuối năm 1994, có 3 tên “xã hội đen” là chỗ quen biết vào quán thịt chó của Lâm ăn nhậu. Rượu vào, lời ra, bọn chúng kể cho Lâm nghe chuyện bảo kê các cảng cá Vũng Tàu, Long Hải và Phước Tĩnh.


Bọn chúng vừa “đập phá” ở thành phố biển, bị công an tạm giam và tịch thu xe. Bọn chúng nhờ “anh Lâm” xuống Vũng Tàu xin lại xe máy cho chúng. Nể tình, Lâm xuống Vũng Tàu. Dù đã “gác kiếm”, nhưng uy danh Lâm “chín ngón” vẫn chưa phai trong giới xã hội đen ở Vũng Tàu, nhờ vậy mà không khó nhờ “anh em” xin lại được mấy chiếc xe. Để trả ơn, mấy tên “đàn em” mời “anh Lâm” xuống Vũng Tàu hợp tác “làm ăn”. Thấy kiếm tiền quá dễ so với tiền lời quán thịt chó, Lâm “chín ngón” đồng ý. Ở Vũng Tàu, sự có mặt của Lâm “chín ngón” đã khiến các băng nhóm lưu manh khác khiếp vía, dạt ra hết. Lâm “chín ngón” chỉ việc chường mặt ra cảng cá nhưng không phải mó tay vào bất cứ việc gì, mọi chi phí ăn uống chơi bời đều được “bao cấp”, kèm số lương 5 triệu đồng/tháng. Thế nhưng, chỉ được một thời gian là Lâm “chín ngón” bị đánh bật khỏi Vũng Tàu, bởi một thế lực ngầm nào đó.


Lúc ấy ở Sài Gòn, Năm Cam đã trở thành thế lực ngầm số một. Thế nhưng, Lâm “chín ngón” lại không xem Năm Cam ra gì, vì trước năm 1975, Năm Cam là đàn em “tép riu” của Lâm. Bị đánh bật khỏi các cảng cá ở Vũng Tàu, Lâm “chín ngón” nghi là có bàn tay của Năm Cam. Vì vậy mà đi đâu, Lâm cũng rêu rao thoá mạ, công khai chửi bới Năm Cam. Một lần, Lâm chủ động mời Năm Cam đến một nhà hàng trên đường Trần Hưng Đạo ăn nhậu. Khi Năm Cam bước vào, các tên đàn em đều nhất loạt đứng lên chào “anh Năm”. Lâm “chín ngón” gầm lên: “Thằng Năm Cam là cái gì mà tụi bay phải bợ đỡ. Tao coi nó là cái đinh. Đ.M, thằng nào qụy lụy Năm Cam thì đừng coi tao là đàn anh nữa!”. Bị Lâm “chín ngón” chửi bới, hạ nhục, nhưng Năm Cam vẫn tươi cười: “Anh Lâm say rồi! Tôi cũng hơi mệt, thôi anh em ngồi chơi, tôi về trước”.


Tối 14.7.1999, Lâm chở vợ và đứa con trai 6 tuổi đi ăn ở quán Lồi (cư xá Bắc Hải, quận 10). Khi Lâm vừa dựng xe cho vợ con bước xuống, một kẻ lạ bất ngờ tạt thẳng vào mặt Lâm một ca đầy axít. Lâm đau đớn, ôm mặt ngã xuống mặt đường quằn quại. Trận đòn thù đã làm Lâm biến dạng toàn bộ khuôn mặt, hai tai rụng, mũi rụng, cằm chảy ra dính chặt vào ngực, hai mí mắt cũng chảy ra dính vào nhau, gần như mù lòa... Dù vậy, Lâm “chín ngón” không cho gia đình báo công an, dù Lâm thừa biết ai đã hại mình. Thậm chí, Lâm còn cho rằng kẻ hại mình đã chơi đúng luật giang hồ, chỉ xử Lâm chứ không đụng đến vợ con y. Cho đến tháng 12.2001, khi Năm Cam bị bắt, Lâm “chín ngón” lập tức tìm đến cơ quan công an để tố cáo chính Năm Cam là kẻ chủ mưu trong vụ tạt axít ám hại hắn.
http://laodong.com.vn/xa-hoi/the-gioi-du-dang-sai-gon-truoc-1975-ky-5-lam-chin-ngon-nang-an-oan-giang-ho-voi-ca-dai-cathay-va-nam-cam-212592.bld

10:22 SA 30/06/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (kỳ 4): Điền Khắc Kim – tên du đãng “sính ngoại”


Điền Khắc Kim.

Cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, cái tên Điền Khắc Kim nổi trội hơn cả trong giới giang hồ Sài Gòn. Điền Khắc Kim là cái tên duy nhất trong thế giới tội phạm Sài Gòn chiếm được cảm tình của nhiều người dân thành phố này. Lý do: Điền Khắc Kim chỉ gieo tội ác nhắm vào người Mỹ. Một “phi vụ” của Điền Khắc Kim thường gồm 2 phần: Cướp số tiền lớn của một người Mỹ nào đó và hãm hiếp vợ của nạn nhân…


Chỉ nhắm vào người Mỹ

Vào giữa tháng 2.1968, báo chí Sài Gòn loan tin một vụ cướp khác lạ. Ở thành phố phức tạp hàng ngày diễn ra bao vụ cướp giật này, vụ cướp nói trên được dư luận chú ý bởi lẽ: Tên cướp đã đột nhập vào nhà một kỹ sư công chánh người Mỹ trên đường Trần Quang Khải. Sau khi khống chế bà vợ ông kỹ sư, cướp số tài sản trị giá khoảng 17 triệu đồng (lúc đó vàng 25.000đồng/lượng) tên cướp còn hãm hiếp nạn nhân (một phụ nữ Mỹ đã đứng tuổi), xong mới tẩu thoát.


Mấy tháng sau, những gia đình người Mỹ ở Sài Gòn càng hoang mang cao độ khi liên tiếp 3 vụ cướp tương tự được lập lại, với cùng một kiểu cách. Đặc biệt, các vụ cướp xảy ra tại cùng một cư xá Mỹ trên đường Trần Cao Vân, quận 1. Tên cướp đã lần lượt dọn sạch những tài sản có giá trị trong 3 căn hộ, với tổng số tiền bị cướp khoảng 11 triệu đồng. Cả 3 bà vợ Mỹ chủ nhà đều lần lượt bị tên cướp khống chế cưỡng hiếp.


Dư luận Sài Gòn như “sôi” lên khi xuất hiện nạn nhân thứ 5 là bà Calorine - vợ của Giám đốc Hãng băng đĩa Columbia nổi tiếng. Câu chuyện càng nhuốm màu huyền bí khi cảnh sát không lần ra chút manh mối nào về tên cướp. Bóng ma cướp của – hãm hiếp trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của các gia đình người Mỹ hoặc các bà mệnh phụ có chồng người Mỹ sống ở Sài Gòn. An ninh tại các cư xá Mỹ được tăng cường tối đa, cảnh sát thay nhau canh gác 24/24h ở những nơi có đông gia đình người Mỹ sinh sống.


Dù vậy, tên cướp vẫn cứ ung dung hành động. Tháng 11.1969, hắn đột nhập nhà một gia đình chồng Mỹ vợ Việt ở cư xá Đô Thành. Sau khi khống chế cô chủ nhà xinh đẹp, lấy 6 triệu đồng, tên cướp bắt đầu giở trò, cởi áo nạn nhân... Thế nhưng, hắn không cưỡng hiếp nạn nhân như những lần trước, mà lạnh lùng xách túi tiền bỏ đi. Quá ngạc nhiên, cô gái nạn nhân buột miệng hỏi: “Anh tên gì?”. Tên cướp sững người một chút, rồi trả lời: “Điền Khắc Kim! Tôi chỉ trả thù người Mỹ chứ không hại cô”, xong lao ra ngoài đường.


Ngày hôm sau, trên trang nhất tất cả các tờ báo ở Sài Gòn đều đăng tên Điền Khắc Kim thật to. Thế nhưng cái tên Điền Khắc Kim vẫn tiếp tục bí ẩn. Nhiều tờ báo đã nhảy vào làm loạt bài điều tra về tên cướp Điền Khắc Kim. Một cuốn sách “mì ăn liền” cũng kịp ra đời với bao thêu dệt kỳ bí, giật gân về 1 tên cướp “trả thù dân tộc” (!?)











Báo chí ở Sài Gòn đều đăng tên Điền Khắc Kim rất lớn


Sa lưới

Lại những vụ cướp – hãm hiếp đầy bí ẩn nhắm vào những gia đình người Mỹ. Để rồi một chút sơ suất đã làm cho Điền Khắc Kim phải sa lưới.


Tháng 5.1970, tên cướp đột nhập vào nhà Giám đốc Hội cha mẹ nuôi quốc tế trên đường Trần Quí Cáp (nay là Võ Văn Tần) lúc 2 vợ chồng người Mỹ đang ân ái. Tên cướp đã dùng súng khống chế, bắt trói người chồng, nhét giẻ vào miệng, đem nhốt vào nhà tắm, thu gom tiền bạc, rồi hiếp bà vợ. Trong phòng tắm, tay giám đốc cởi được dây trói, bí mật gọi cảnh sát… Điền Khắc Kim bị bắt, ra tòa lãnh án 20 năm tù.


Trong trại giam Chí Hòa, Điền Khắc Kim được đám tù du đãng, trộm cướp xếp vào hàng “đại ca” bởi tiếng đồn “trả thù dân tộc”, chuyên nhắm vào người Mỹ. Chẳng bao lâu, Điền Khắc Kim vượt ngục, thông tin này lại làm cả Sài Gòn hồi hộp, nhất là trong các gia đình người Mỹ, họ tăng cường cảnh giác cao độ. Vì vậy mà khi Điền Khắc Kim lại liều lĩnh đột nhập vào nhà một thiếu tá Mỹ để cướp - hiếp, tay sĩ quan Mỹ đã móc súng chống trả, Điền Khắc Kim bị trúng đạn vào bụng, quỵ ngay tại chỗ.


Tại Tổng Y viện Cộng hòa (nay là Quân y viện 175), cơ thể quấn đầy bông băng, ngay trước mũi của những cảnh sát đứng gác ngày đêm, Điền Khắc Kim cưa còng trốn thoát. Ngay sau đó, Điền Khắc Kim lại đột nhập vào một nhà doanh nhân người Mỹ ở số 190 đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), cướp được 5.000 USD và 20 triệu đồng.


Cũng với trò cũ, sau khi gom tiền, hắn hãm hiếp nữ chủ nhà. Bất ngờ ông chồng về, một cuộc đọ súng nổ ra, cả 2 tay súng đều bị trúng đạn và nằm quỵ tại hiện trường. Điền Khắc Kim lại vào tù. Lần này, trại giam Chí Hoà dành sự “quan tâm” đặc biệt hơn, nên Điền Khắc Kim hết đường vượt ngục. Tới lúc này, động cơ “trả thù” nhắm vào người Mỹ của Điền Khắc Kim mới dần được hé lộ qua câu chuyện mà hắn tâm sự với bạn tù.


Hận lính Mỹ…

Điền Khắc Kim tên thật là Lê Văn Minh, con trai thứ hai trong một gia đình nghèo ở làng Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp. Khi bị cô gái mà hắn tha không hiếp hỏi tên (đã kể ở trên), Minh bị bất ngờ, không biết trả lời thế nào, nên nói đại cái tên Điền Khắc Kim mà hắn đọc thấy ở đâu đó trong truyện Tàu. Để rồi cái tên Điền Khắc Kim đi theo hắn suốt cả đời. Gia đình Minh có bốn chị em, cha mất sớm, toàn bộ gánh nặng gia đình đè lên đôi vai người mẹ ốm yếu. Minh phải hàng ngày dậy sớm phụ mẹ bán bánh mì. Tuổi thơ vất vả và thiếu thốn khiến Minh không lớn nổi, gầy gò, đen đúa, nên có biệt danh là Minh “con”.


Gần nhà Minh có cô bé tên Diễm, nhỏ hơn Minh 1 tuổi. Nhà Diễm cũng nghèo, người cũng đen đúa, ốm đói như Minh “con”, nên có biệt danh Diễm “đèo”. Làng Hạnh Thông Tây có nghề làm pháo gia truyền, quanh năm suốt tháng đầy những tiếng đì đùng của pháo. Minh nhặt pháo rơi rớt trong làng, cất để dành, chờ cho Diễm đi ngang qua là đốt ném cho vui. Diễm sợ khóc thét lên, Minh lại xin lỗi, dỗ dành. Hai đứa trẻ nghèo cứ lớn dần theo thời gian, tình cảm khác lạ trong chúng cũng đâm chồi, nảy nở theo tuổi tác.


Rồi lính Mỹ ồ ạt vào miền Nam. Khu vực Hạnh Thông Tây mọc đầy trại lính, sở Mỹ, cuộc sống sôi động và phức tạp hẳn lên. Cái xóm nghèo của Minh “con” bắt đầu mọc lên những quán rượu, nhà chứa, snack-bar để lính Mỹ giải sầu. Tuổi 16, Diễm “đèo” môi ửng hồng, ngực đã chớm nở... Một ngày nọ, Minh “con” bỗng thẫn thờ khi nhìn thấy Diễm lột xác thành một Hélen Diễm trong quán bar mới mở, mặc váy ngắn cũn cỡn, cặp tay lính Mỹ. Rồi Minh cũng bị cuốn vào cuộc sống xô bồ, phức tạp đó, trở thành một thằng ma cô chuyên dắt mối cho gái điếm.


Làm ma cô phải làm luôn nhiệm vụ bảo kê cho gái điếm, Minh bắt đầu biết đánh đấm, thậm chí đâm chém, đối đầu với giang hồ từ nơi khác kéo tới... Cậu bé hiền lành ngày xưa đã trở thành thằng ma cô lầm lì với vết sẹo dài vắt qua má trái - hậu quả của một trận thư hùng. Rồi Minh bỏ nhà đi làm “giang hồ” ở khu chợ Dân Sinh, quận 1, định kiếm thật nhiều tiền sẽ quay về tìm Diễm.


Chưa tới một tháng sau, Minh tình cờ đọc thấy mẩu tin trên báo: “Một cô gái điếm cỡ 18 tuổi bị một toán lính Mỹ thay nhau hãm hiếp rồi lột truồng vứt xác ngoài bãi rác ở Gò Vấp”. Nhìn khuôn mặt nạn nhân, Minh “con” biết ngay là Diễm “đèo”. Hắn như điên dại, chạy như bay về Hạnh Thông Tây, cũng là lúc cỗ quan tài của Hélen Diễm vừa hạ huyệt! Mối tình đầu câm lặng của Minh kết thúc quá bi thảm. Minh càng trở nên lầm lì, hắn tìm mua một khẩu Colt 45 với mấy băng đạn giắt vào bụng rồi lặng lẽ đi vào trong đêm tối. Sau đó là hàng loạt các vụ cướp của, hãm hiếp nhắm vào gia đình những người Mỹ sinh sống trên đất Sài Gòn.


Kết cục bệ rạc…

Đầu năm 1975, Điền Khắc Kim và một loạt tù trọng án tại quân lao Gia Định bị chính quyền Sài Gòn đày ra Côn Đảo. Khi Côn Đảo giải phóng, lợi dụng tình hình lúc giao thời, Điền Khắc Kim và nhiều tên tù hình sự khác đã chạy thoát ra ngoài rừng. Một thời gian sau, Điền Khắc Kim đã bị lực lượng quân quản của đảo bắt giữ, đưa về đất liền, giam giữ tại trại giam Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.


Tại đây, vào tháng 5.1978, Điền Khắc Kim đã cạy vách nhà xí phòng giam trốn trại về Sài Gòn, ẩn náu tại nhà vợ bé của y ở đường Hưng Phú, quận 8. Điền Khắc Kim bị công an phát hiện và bắt giữ, đưa lên cải tạo tại trại Tống Lê Chân (Sông Bé). Ngồi trại đến tháng 7.1983, hắn lại trốn về Sài Gòn, gây ra hàng loạt vụ cướp mới.


Đa số nạn nhân của tên cướp hết thời đều là đàn bà, con nít, những kẻ yếu ớt, cô đơn. Một lần, vừa cướp được một chiếc xe đạp trên đường Nguyễn Thị Minh Khai thì hắn bị công an tóm tại trận. Trở vào trại giam, Điền Khắc Kim vận công, gồng bụng làm bục vết thương Mỹ bắn ngày nào. Được công an đưa vào Bệnh viện Bình Dân cấp cứu. Ba giờ sáng, lợi dụng lúc anh công an gác cửa ngủ gục, hắn lại bẻ còng trốn thoát.



Tiếng tăm lẫy lừng là thế nhưng đoạn cuối cuộc đời ngang dọc, Điền Khắc Kim đã tự biến mình thành một tên lưu manh mạt hạng. Cái còn lại của hắn chỉ là những vụ trộm cắp, cướp giật vặt vãnh của một tên hạ lưu bần tiện. Lần cuối cùng, hắn bị dân phòng phường 12, quận 8, TPHCM tóm cổ trong đêm khi đang tẩu tán một chiếc xe đạp và mớ quần áo cũ vừa trộm được. Khi người vợ nhỏ dẫn ba đứa con nhỏ vào trại giam thăm nuôi, Điền Khắc Kim đã ngượng ngùng cúi mặt. Những thương tích trong cuộc đời giang hồ bắt đầu hành hạ Điền Khắc Kim, để rồi hắn trút hơi thở sau cùng vào năm 1986 tại trại giam Chí Hòa.

http://laodong.com.vn/lao-dong-doi-song/the-gioi-du-dang-sai-gon-truoc-1975-ky-4-dien-khac-kim-ten-du-dang-sinh-ngoai-204904.bld
10:06 SA 30/06/2014
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng...
Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (kỳ 3): Huỳnh Tỳ và những ân oán giang hồ với Năm Cam



Huỳnh Tỳ vào thập niên 1960.


Trùm xã hội đen Năm Cam từng làm mưa làm gió ở Sài Gòn và kết thúc bằng vụ án “Năm Cam và đồng bọn” năm 2003. Năm Cam cũng xuất thân từ du đãng Sài Gòn trước năm 1975. Người “dìu dắt” Năm Cam vào thế giới tội ác chính là “nhị ca” Huỳnh Tỳ trong “Tứ đại thiên vương” thống lĩnh giang hồ Sài Gòn khi ấy là Đại - Tỳ - Cái - Thế (Đại Cathay - Huỳnh Tỳ - Ngô Văn Cái - Nguyễn Kế Thế).

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trong khi nhiều “anh chị” đã chết, thân tàn ma dại vì ma túy và bệnh tật, thì Huỳnh Tỳ vẫn “gượng” lại được, trở thành “đồ đệ” của Nam Cam, mặc dù trước giải phóng là đàn anh của “ông trùm” này.


Trùm du đãng có học thức

Huỳnh Tỳ là trường hợp trùm du đãng hiếm hoi không xuất thân từ trẻ bụi đời, thất học. Huỳnh Tỳ tên thật là Nguyễn Thuận Lai, sinh năm 1944 tại quận 1, Sài Gòn, trong 1 gia đình yên ấm, được cha mẹ cho học hành đàng hoàng, đến hết lớp đệ tam (lớp 10).


Cậu học sinh Thuận Lai hiền lành, chăm chỉ, học giỏi đều các môn, đặc biệt yêu thích thơ văn. Năm 1960, khi học hết đệ tam, để nhường sự học cho các em, Thuận Lai rời mái trường lao vào cuộc mưu sinh phụ giúp gia đình. Lúc ấy cha của Thuận Lai làm nghề lái xe đò đường dài tuyến Sài Gòn - Pleiku, Thuận Lai theo cha học nghề lơ xe.


Nghề lơ xe tiếp xúc với đủ mọi thành phần trong xã hội, đã sớm làm cho cậu thư sinh hiền lành trở thành tay “anh chị” trên tuyến đường.

Tiếp thu nhanh ngõ ngách nghề đi xe đường dài từ cha, cộng với trình độ học vấn khá, Thuận Lai dần trở thành tay lơ xe bản lĩnh.


Đi xe đò đường dài, chuyện tranh giành khách giữa các xe, rồi “câu giờ” để rước thêm khách... xảy ra như cơm bữa. Các tài xế và lơ xe thường giải quyết nhau theo luật giang hồ, ai mạnh thì thắng, ai yếu phải chịu lép vế. Thuận Lai sẵn sàng tỉ thí với các lơ xe khác để giành khách.


Do cha bị bệnh không tiếp tục lái xe đường dài, Thuận Lai cũng chấm dứt 2 năm rong ruổi trên đường, trở về quận 1 tìm kế mưu sinh.

Thời ấy ở đường Lê Lai, quận 1 có một rạp hát nổi tiếng tên là Aristo. Năm 1955, gánh hát Kim Chung của ông bầu Long từ Hà Nội vào Sài Gòn đã lấy rạp Aristo làm “hậu cứ”.


Ăn theo gánh hát, nhiều quán ăn, quán nước trên đường Lê Lai mọc lên như nấm. Khu vực này trở nên náo nhiệt, đồng thời cũng kéo theo không ít dân trộm cắp, móc túi, trẻ bán báo, đánh giày từ các nơi tìm đến làm ăn.


Khu vực này lại nằm giữa một bên là chợ Bến Thành, một bên là ga xe lửa Sài Gòn, vì vậy mà sự náo nhiệt, phức tạp càng tăng lên theo đà sôi động của khu chợ và nhà ga. Nơi đây cũng ra đời các loại dịch vụ cho giới lưu manh trộm cắp như sòng bài, động chích, tiệm hút, đĩ điếm...


Thuận Lai nhờ có 2 năm “chinh chiến” bằng nghề lơ xe, đã tỏ rõ sự hơn trội so với các băng “tép riu”. Thuận Lai cùng với 2 tay anh chị khác tên Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế đứng ra nhận bảo kê toàn bộ các dịch vụ nhám nhúa này.


Lúc mới từ Hà Nội vào, bầu Long và gánh hát Kim Chung đã thu dụng một loạt các tay đao búa từng nổi tiếng một thời ngoài Hà Nội để làm chân bảo vệ.


Thời ấy, gánh hát nào cũng có lực lượng bảo vệ “đầu gấu” để đối phó với nạn côn đồ. Đám bảo vệ đầu gấu của gánh hát Kim Chung không chỉ giữ yên cho gánh hát, mà còn hay tụ tập tại quán Kiều Chánh cạnh rạp Aristo để giương oai. Nhiều trận hỗn chiến tóe lửa giữa nhóm của Thuận Lai với đám bảo vệ này đã xảy ra, cuối cùng phần thắng đã thuộc về Thuận Lai.


“Làm gỏi” được nhóm bảo vệ của bầu Long, Thuận Lai và đám chiến hữu kéo đến đập phá gánh hát Kim Chung. Để yên thân, bầu Long đã hạ mình đến gặp Thuận Lai xin lỗi về chuyện “thất lễ” đã qua, rồi mời băng của Thuận Lai làm bảo kê cho gánh hát Kim Chung.


Cứ thế, băng du đãng “Tam đầu chế” Thuận Lai, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế nổi lên khắp khu vực trung tâm Sài Gòn, lan ra cả quận 1, chúng thường tụ tập nhậu tại rạp hát Aristo, nên được giang hồ gọi luôn là băng Aristo.


Cách thức hoạt động của băng Aristo do Thuận Lai cầm đầu là cho đàn em đi quậy phá nhà hàng, quán ăn, doanh nghiệp nào đó trên địa bàn. Xong Thuận Lai tới đặt vấn đề bảo kê để không bị quấy phá. Cứ vậy, dần dần hầu hết giới làm ăn, buôn bán trong khu vực đều trở thành “tá điền”, hàng tuần phải “nộp tô” cho băng nhóm Thuận Lai.


Lúc này, để trốn không đi lính, Thuận Lai phải làm giấy cho nhỏ tuổi, thay đổi họ tên, từ Nguyễn Thuận Lai thành Huỳnh Tỳ. Cái tên Huỳnh Tỳ bắt đầu xuất hiện khoảng năm 1963 và nhanh chóng trở thành nỗi khiếp sợ đối với những người làm ăn lương thiện ở quận 1.


Bị Đại Cathay thu phục

Khoảng năm 1964, băng du đãng Đại Cathay sau khi thống lĩnh cả giới giang hồ quận 4, bắt đầu chồm sang quận 1, khu vực của Thuận Lai. Lãnh địa của 2 băng du đãng khét tiếng ở Sài Gòn bắt đầu “chồng lấn” lên nhau, đã xảy ra một vài vụ đụng chạm giữa đàn em của Huỳnh Tỳ và Đại Cathay.


Vừa bực tức vừa lo sợ, Huỳnh Tỳ bàn với hai phó tướng là Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế tìm cách loại Đại Cathay ra khỏi thế giới giang hồ Sài Gòn. Một buổi tối, Huỳnh Tỳ bày tiệc trên lầu rạp hát Aristo, mời Đại Cathay tới gặp gỡ để thông cảm cho những va chạm đã qua của bọn đàn em.


Lúc ấy, giới giang hồ Sài Gòn vẫn đánh giá cao trình độ học vấn của Huỳnh Tỳ, so với Đại Cathay không viết nổi tên mình. Thế nhưng, từ sau cuộc đụng độ giữa Huỳnh Tỳ và Đại Cathay, cách nhìn của giới giang hồ đã thay đổi, khi mà kẻ có học lại cư xử khá “vô học”, còn kẻ thất học lại rất “quân tử”.


Được Huỳnh Tỳ gửi thư mời tới dự tiệc giảng hòa, Đại Cathay không mảy may nghi ngờ, một mình từ quận 4 sang quận 1, vào rạp hát Aristo. Chỉ có sự may mắn và khả năng chịu đựng dao búa mới giúp cho Đại thoát chết. Chưa lên hết cầu thang, Đại cảm thấy chột dạ khi mà nụ cười đón khách của Huỳnh Tỳ có cái gì đó thâm hiểm chứ không đường hoàng, trong sáng của kẻ có học.


Chưa kịp chào hỏi, Đại bất ngờ bị Nguyễn Kế Thế đá lộn cổ xuống thang lầu. Cùng lúc 4 tên đàn em của Huỳnh Tỳ xông ra chém Đại tới tấp. Vừa đỡ đòn, Đại vừa đánh trả để mở đường máu. Khi lao được ra ngoài đường, mình mẩy máu me đầm đìa, Đại được đàn em cõng chạy về phía chợ cầu Ông Lãnh...


Khi những vết thương còn chưa kéo da non, Đại Cathay đã một mình lặng lẽ giắt dao đi sang quận 1 để giải quyết ân oán giang hồ. Đàn em đòi đi theo, Đại kiên quyết không cho, vì đây là chuyện cá nhân của Đại, để một mình Đại giải quyết.


Chính cách cư xử đầy bản lĩnh và anh hùng của Đại Cathay, so với cách đánh lén hèn hạ của Huỳnh Tỳ trước đó, đã làm cho Đại Cathay nổi lên như cồn sau vụ đụng độ này. Không biết bằng cách nào, mà cả Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế đều lần lượt nhận đúng 1 nhát dao của Đại vừa đủ để thẹo suốt đời.


Nhắm thế không thể đối đầu Đại Cathay, mà cũng thấy nhục trong giới giang hồ sau vụ đụng độ đầy tai tiếng này, Huỳnh Tỳ đành bắn tiếng cầu hòa, xin gia nhập vào băng của Đại Cathay. Để rồi sau đó, băng Aristo vĩnh viễn bị xóa sổ, quân tướng của Aristo về qui phục dưới quyền của một đại ca duy nhất là Đại Cathay.


Cuộc hợp nhất giang hồ vào cuối năm 1964 đã xóa sổ cái tên Aristo, đẻ ra danh xưng “Tứ đại thiên vương” Đại-Tỳ-Cái-Thế, cùng với việc danh tiếng của Đại Cathay càng lừng danh gấp bội khắp Sài Gòn.


Ân oán giang hồ với Năm Cam

Huỳnh Tỳ lớn hơn Năm Cam 3 tuổi. Vào đầu thập niên 1960, khi đã nổi danh trong “Tứ đại thiên vương”, Huỳnh Tỳ có thu nhận 1 đàn em tên là Năm Cam, cho làm bảo vệ trong các vũ trường.


Đàn em Năm Cam không giỏi về đánh đấm nhưng tỏ ra “mưu lược” nên được Huỳnh Tỳ tin dùng. Chính Huỳnh Tỳ đã cứu Năm Cam thoát nạn trong một vụ thanh toán bằng súng ngay trong vũ trường.


Sau ngày giải phóng, cả Huỳnh Tỳ và Năm Cam đều không từ bỏ “nghề” du đãng, nhiều lần vào tù ra khám. Năm Cam dần dần củng cố thế lực, đến đầu thập niên 1990 trở thành ông trùm của xã hội đen ở TPHCM.


Huỳnh Tỳ vốn nghiện nặng, thường xuyên đói thuốc, hoàn cảnh gia đình khó khăn khi vợ mất để lại cho 2 đứa con nhỏ dại. Không băng nhóm, không nghề nghiệp, Huỳnh Tỳ phải xoay sang mánh mung cò con như lắc bầu cua, chích dạo ma túy...


Đầu năm 1992, Huỳnh Tỳ lén lút mở sòng bạc tại một con hẻm trên đường Lê Lai. Biết chuyện, Năm Cam ra lệnh dẹp, vì chỉ có Năm Cam mới có cái quyền mở sòng bạc ở Sài Gòn. Huỳnh Tỳ không nghe, ngay lập tức, sòng bạc này liên tục bị khám xét. Biết là Năm Cam ra tay, Huỳnh Tỳ phải đến mời Năm Cam hùn vốn danh nghĩa, sòng bạc tiếp tục hoạt động. Đến cuối 1992 thì chấm dứt, tên tuổi của Năm Cam bị đưa lên một tờ báo ở Sài Gòn vì những hoạt động bảo kê.


Cho rằng Năm Cam sắp hết thời, Huỳnh Tỳ không chịu cống nộp tiếp. Đầu năm 1993, sòng bạc của Huỳnh Tỳ bị bắt quả tang, nhiều nhân viên của sòng phải tra tay vào còng. Huỳnh Tỳ may mắn thoát được, bị truy nã. Huỳnh Tỳ phải đến tạ tội với Năm Cam xin nghĩ tới ân tình cũ mà cứu giúp. Năm Cam dang tay đón nhận Huỳnh Tỳ, giao quản lý các sòng bạc khác ở quận 4, quận 8 và Biên Hòa.


Tháng 9.1995, Năm Cam lại bị báo chí phanh phui. Lần này, Huỳnh Tỳ lại trở mặt không cung phụng cho Năm Cam. Không lâu sau đó, Năm Cam bị bắt đi cải tạo. Khi đi cải tạo về, Năm Cam rất giận Huỳnh Tỳ là người có học mà cư xử “vô học”. Từ đó giữa Năm Cam và Huỳnh Tỳ không còn ân nghĩa anh em gì nữa.


Bị thất sủng, nhưng đó lại là điều may mắn cho Huỳnh Tỳ. Bởi nếu được Năm Cam tha thứ, thu nạp lại một lần nữa, chắc hẳn sau đó Huỳnh Tỳ không thoát khỏi là bị cáo trong chuyên án “Năm Cam và đồng bọn” gây xôn xao cả nước.

http://laodong.com.vn/lao-dong-doi-song/the-gioi-du-dang-sai-gon-truoc-1975-ky-3-huynh-ty-va-nhung-an-oan-giang-ho-voi-nam-cam-207572.bld


09:59 SA 30/06/2014
k
karenlee
Bắt chuyện
2.6kĐiểm·218Bài viết
Báo cáo