Nội soi sẽ thấy được ngay hoặc là những nghi ngờ về vòm nếu nghi làm sinh khiết tế bào. Cứ đến chuyên khoa để khám ,ung thư phải có mệnh ung thư chứ không rễ gì ung thư được đâu
bạn ơi, theo mình biết thì khi nào sốt sẽ đi tiểu nhiều hơn để hạ nhiệt cơ thể mà bạn, kể cả người lớn cũng thế.Moon nhà tớ lần nào sốt cũng đi tiểu nhiều. Bạn nhớ cho con uống nhiều nước vào nhé, không là bị mất nước đấy
- Trẻ sinh ra mà trọng lượng cơ thể quá nhẹ: Hầu hết trẻ sinh ra với trọng lượng cơ thể trên dưới 2,5 kg, đến tuổi thiếu niên đều bị cận thị.
- Trẻ sơ sinh thiếu tháng: Trẻ sinh thiếu tháng từ hai tuần trở lên thường bị cận từ khi học vỡ lòng.
- Bố mẹ bị cận thị rất dễ di truyền sang con cái: Mức độ di truyền này liên quan mật thiết với mức độ cận thị của bố mẹ. Thông thường bố mẹ bị cận thị dưới 3 đi-ốp thì khả năng di truyền sang con cái rất nhỏ. Nếu bố mẹ bị cận thị từ 6 đi-ốp trở lên thì khả năng di truyền sang con cái là 100%.
- Trẻ xem TV quá gần: Nếu như ngày nào trẻ cũng xem TV nhiều hơn hai giờ đồng hồ với khoảng cách từ mắt tới TV nhỏ hơn 3 m sẽ làm cho thị lực suy giảm rất nhiều. Trong điều kiện như vậy một số trẻ bị cận thị, một số khác thì không.
+ Dùng khăn giấy mềm, dai, để làm bấc sâu kèn. Đặt vào hốc mũi để thấm ướt dịch mũi, sau đó lấy ra và đặt lại một bấc sạch. Lập lại các bước này cho đến khi sạch mũi.
+ Nếu trẻ bị nghẹt nhiều, nên sử dụng dung dịch nhỏ mũi là nước muối sinh lý 0,9% làm loãng dịch mũi để dễ dàng làm sạch mũi: nhỏ 1 – 2 giọt nước muối sinh lý vào từng lỗ mũi, chờ vài phút, sau đó làm sạch mũi.
Làm thông mũi 2 đến 3 lần mỗi ngày và trước khi cho trẻ bú, ăn. Ngoài ra, chăm sóc trẻ nghẹt mũi cũng cần tăng cường nước uống và dinh dưỡng đầy đủ. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có ý kiến của bác sĩ.
Ngoài ra bạn nên giữ ấm cho bé và không nên cho bé thay đổi môi trường nhiều vì bé chưa thích nghi được với các môi trường đó, tránh xa khói thuốc...
Thể cấp tính:Thường gặp là những hội chứng lỵ, bao gồm đau bụng, mót rặn và tiêu phân đàm máu.
Đau bụng quặn từng cơn, đau dọc theo khung đại tràng trước khi đi tiêu.
Mót rặn: đau buốt hậu môn kèm cảm giác mắc đi cầu dữ dội.
Tiêu phân nhày máu, đôi khi xen kẻ với tiêu chảy, mỗi lần đi tiêu ít phân, nhưng đi nhiều lần trong ngày.
Nếu ở thể nhẹ thì tổng trạng tốt, tiêu đàm máu vài lần mỗi ngày; thể trung bình: bệnh nhân mệt, tiêu đàm máu khoảng 5-15 lần mỗi ngày; thể năng: bệnh nhân suy kiệt, mất nước, rối loạn chất điện giải, bụng chướng, cảm giác mót rặn và đau bụng nhiều, tiêu đàm máu 15 lần / ngày.
Thể bán cấp:Bệnh nhân đau bụng ít, tiêu chảy phân lỏng ít nhày nhớt, ít khi có cảm giác mót rặn, đôi khi có táo bón.
Thể mãn tính:Sau giai cấp tính hay bán cấp, bệnh trở thành mãn tính với nhiều đợt bệnh cách khoảng nhau. Lúc này chức năng đại tràng khômg còn nữa, triệu chứng bệnh giống như viêm đại tràng mãn. Đau bụng lâm râm, liên tục và rối loạn tiêu hóa: thường là tiêu chảy, no hơi, ăn không tiêu đối với một số thức ăn như: rau sống, sữa. bệnh nhân suy nhược, biếng ăn, sụt cân.
Tùy theo tình trạng bệnh, bác sĩ sẽ ra y lệnh điều trị bằng một hay phối hợp các loại thuốc sau:Émétine, là thuốc diệt Amíp khá hữu hiệu. Nhưng có tác dụng phụ ngoài ý muốn: thuốc có thể gây buồn nôn, nôn mữa, tiêu chảy, hạ huyết áp, đau vùng trước tim; đôi khi có viêm dây thần kinh cảm giác, vận động; rối loạn nhịp tim.
Vì vậy khi dùng Émétine bệnh nhân cần được nhập viện để nghỉ ngơi, theo dõi các tác dụng có hại để xử lý kịp thời.
- Dehydroemetin: ít độc và thải trừ nhanh hơn Emetin.
- Metronidazol và các thuốc cùng họ như: secnidazol, tidazol, ornidazol.
Các xét nghiệm cần làm là chẩn đoán tế bào học và mô bệnh học:
- Chẩn đoán tế bào học là lấy tế bào bong ở khối u bằng tăm bông, hoặc chọc kim nhỏ vào hạch lấy ít tế bào, cố định trên lam kính, nhuộm rồi soi trên kính hiển vi quang học có độ phóng đại 100 đến 1.000 lần.
- Chẩn đoán mô bệnh học là lấy một mảnh nhỏ ở tổ chức u hoặc nghi ngờ khối u, hoặc lấy ở hạch cổ bằng kim bấm chuyên dụng. Mảng sinh thiết được cố định bằng dung dịch chuyên dụng, sau đó vùi trong paraphin rồi cắt mỏng 3-4 phần nghìn milimét, nhuộm và soi dưới kính hiển vi quang học.
- Ngoài ra, có thể làm các xét nghiệm khác như: chụp X-quang hộp sọ, chụp cắt lớp vi tính, chụp X-quang phổi, siêu âm gan, xét nghiệm miễn dịch về virus EBV.
- Do co thắt phế quản là các thuốc với thành phần chứa salbutamol và guaiphenesin
Salbutamol là một chất chủ vận chọn lọc trên thụ thể b 2 adrenergic. Ở liều điều trị thuốc tác động trên các thụ thể b 2 adrenergic của cơ trơn phế quản, salbutamol không có tác dụng hay ít tác dụng trên các thụ thể b 1 adrenergic của cơ tim. Việc kết hợp giữa salbutamol và guaiphenesin có tác dụng làm giảm co thắt đường hô hấp và cải thiện sự thông khí phổi. Tuy nhiên những thuốc giãn phế quản không phải điều trị chủ yếu và duy nhất ở những bệnh nhân bị hen nặng và không ổn định mà thường phối hợp với nhóm corticoid dạng uống hoặc dạng xịt. Sau khi uống, salbutamol được hấp thu từ đường tiêu, hóa và bước đầu chuyển hóa thành phenolic sulphat. Bài tiết chủ yếu qua thận và phần lớn dưới dạng chất chuyển hóa không hoạt tính 4´0 sulphate (phenolic sulphat) mà chất chuyển hóa này cũng được bài tiết chủ yếu qua nước tiểu. một phần nhỏ được bài tiết qua phân. Thuốc được chỉ định trong các trường hợp bệnh lý đường hô hấp có co thắt phế quản và tăng tiết đờm nhầy. Chống chỉ định dùng ventolin expectorant với bệnh nhân dị ứng với thành phần của thuốc. Thận trọng ở những bệnh nhân nhiễm độc tuyến giáp. Thuốc có nguy cơ làm hạ kali huyết nặng, nên kiểm tra kali huyết trong những trường hợp hen nặng cấp tính do độc tính, thuốc có thể tăng lên khi sử dụng kết hợp với các dẫn xuất của xanthine, steroid, thuốc lợi tiểu và tình trạng thiếu ôxy. Cũng giống như các chất chủ vận thụ thể b adrenegic khác, salbutamol có thể thay đổi chuyển hoá có hồi phục, ví dụ tăng đường huyết. Salbutamol bài tiết vào sữa mẹ và qua rau thai nên trong giai đoạn có thai hoặc cho con bú chỉ sử dụng khi lợi ích mang lại cho người mẹ vượt trội hơn bất kỳ nguy cơ nào đối với thai nhi hoặc trẻ nhỏ.
Thuốc có thể gây run nhẹ cơ vân, giãn mạch ngoại vi, tăng nhịp tim nhẹ.
Thuốc chống dị ứng là các kháng histamin H1: fexofenadin, chất chuyển hóa của terphenadin, là một chất kháng histamin có tác dụng đối kháng chọn lọc ở thụ thể H1 ngoại biên. Fexofenadin ức chế sự co phế quản do kháng nguyên gây nên và ức chế phóng thích histamin từ dưỡng bào. Sau khi uống fexofenadin được hấp thu nhanh và thời gian đạt được nồng độ tối đa trong huyết tương là 1 - 3 giờ. Fexofenadin được chuyển hoá không đáng kể ở gan và ngoài gan, được đào thải chủ yếu qua mật, 10% được thải qua nước tiểu ở dạng không đổi. Vì thuốc không chuyển hoá ở gan nên thuốc không tương tác với các thuốc khác khi qua gan. Dùng phối hợp fexofenadin với erythromycin hoặc ketoconazol làm tăng nồng độ thuốc trong huyết tương gấp 2 - 3 lần.
Hoặc các thuốc có triprolidin hydrochlorid và pseudoephedrin hydrochlorid, có thể có thêm dextromethorphan bromhydrate trong thành phần.
Triprolidin làm giảm triệu chứng ở những bệnh nhân được xem là phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào sự phóng thích ồ ạt histamin, có tác động trên thụ thể H1 của histamin với tác động ức chế nhẹ thần kinh trung ương, có thể gây buồn ngủ
Pseudoephedrin có tác động giống giao cảm trực tiếp và gián tiếp, là một chất làm giảm sung huyết hữu hiệu ở đường hô hấp trên nhưng lại ưu việt hơn ephedrin ở chỗ ít gây nhịp tim nhanh, tăng huyết áp cũng như kích thích hệ thần kinh trung ương.
Dextromethorphan là dẫn xuất của morphin có tác dụng chống ho. Nó kiểm soát co thắt cơ do ho bằng bằng cách ức chế trung tâm ho ở hành tủy.
Tác dụng phụ: ức chế hoặc kích thích hệ thần kinh trung ương với ngủ gà, choáng váng và chóng mặt, hiếm gặp rối loạn giấc ngủ và ảo giác. Nhịp tim nhanh, khô miệng, mũi họng, táo bón, buồn nôn và nôn.
Thuốc giảm ho do long đờm: carbocisteine là một dẫn xuất của một acid amin, cysteine trong nhóm sulfohydryl bị khoá bởi gốc acid carboxylic. Carbocisteine thay đổi sự chuyển hoá của tế bào tiết nhầy bằng cách hoạt hoá men sialyltransferase và ức chế men neuraminidase, tiết ra nhiều sialomucine ít nhầy nhớt hơn trong khi giảm các thành phần nhiều nhầy nhớt fucomucin.
- Thuốc ức chế trung tâm ho: có chứa codein base, terpine hydrate và benzoat de sodium.
Codein là alkaloid của cây thuốc phiện, thuốc ho tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, ức chế trung tâm hô hấp.
Terpin: thuốc long đờm, tác dụng bằng cách kích thích tế bào bài tiết của đường hô hấp.
Gạo 70g tương đương, hoặc 180g bánh phở, hoặc 240g bún, hoặc 90g mì, hoặc 70g miến, hoặc 200g khoai lang, khoai sọ, hoặc 300g khoai tây, hoặc 150g sắn củ.
40g thịt nạc tương đương 40g cá; lươn; tôm; hoặc 60g đậu phụ; hoặc một quả trứng gà; hoặc 25g sữa bột; hoặc 20g sữa bột tách béo; hoặc sản phẩm cho bệnh nhân đái tháo đường có đường isomalt. Sữa Quasure light 35g, bột dinh dưỡng Netsure light 50g, hoặc bánh Hura light 40g.
Hai múi bưởi vừa tương đương một quả cam to, hoặc năm quả chôm chôm, hoặc hai quả chuối tây nhỏ, hoặc một quả chuối tiêu to, hoặc 400g dưa hấu, hoặc 1/4 quả dứa, hoặc 1/2 quả hồng đỏ to, hoặc hai quả hồng ngâm vừa, hoặc ba múi mít, quả hồng đỏ to, hoặc hai quả hồng ngâm vừa, hoặc ba múi mít dai, hoặc 1/2 quả na vừa, hoặc mười quả nhãn, hoặc 100g đu đủ, hoặc 1/2 má xoài chín.
Ví dụ Thực đơn cho bệnh nhân ĐTĐ. Cung cấp năng lượng: 1600kcal; đạm 62g; béo 56g; bột đường 206g
Sữa Quasure light có sử dụng đường isomalt: một cốc 200ml.
Bữa phụ tối
Bột dinh dưỡng Netsure light: một cốc 200ml.
2. Sử dụng nhiều đồ đông lạnh trong thức ăn của trẻ: Tỳ vị của trẻ chưa hoàn thiện nên việc thức ăn lạnh vào dạ dày quá nhiều sẽ làm cho niêm mô huyết quản dạ dày bị co hẹp lại, dịch vị giảm. Đây là nguyên nhân giảm khả năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn trong cơ thể. Ngoài ra, thức ăn lạnh cũng khiến năng lực tiêu hóa của dạ dày giảm, hạn chế khả năng tiêu diệt vi khuẩn của dịch vị.
Sự kích thích của thức ăn lạnh có thể làm cho dạ dày co giật, gây đau bụng tiêu chảy, khẩu vị kém. Tình trạng này nếu kéo dài có thể gây ra những bệnh mạn tính như viêm đại tràng mạn, thường xuyên đau bụng đầy hơi...
3. Cho trẻ ăn những thực phẩm có dùng chất màu tổng hợp: Y học hiện đại cho rằng, trẻ nhỏ nếu sử dụng kéo dài một lượng nhỏ thuốc nhuộm và chất màu thực phẩm sẽ có thể xuất hiện những biến đổi bất thường. Màu thực phẩm là những hợp chất hữu cơ tổng hợp hoặc bán tổng hợp, đã qua những quá trình tinh chế và thử nghiệm nghiêm ngặt; trong quá trình sử dụng cũng có những giới hạn nồng độ an toàn cho phép. Tuy nhiên, nếu thường xuyên ăn thực phẩm nhuộm màu, trẻ sẽ mất khả năng tự giải độc của cơ thể, bị rối loạn những chuyển hóa bình thường, xuất hiện đầy bụng, rối loạn tiêu hóa. Các sắc tố có thể tích tụ, gây ngộ độc mạn tính; nếu dính vào thành dạ dày, nó có thể gây biến đổi bệnh lý.
Nếu vào các cơ quan của hệ thống bài tiết, chất màu có thể gây sỏi trong niệu đạo. Vịêc dùng quá nhiều thực phẩm màu sẽ làm rối loạn tác dụng truyền thông tin của hệ thống thần kinh, khiến cho thần kinh xung động gấp bội, hậu quả là trẻ trở nên quá hiếu động hoặc mắc bệnh đa động.
4. Cho trẻ em dùng thức uống của người lớn: Các bộ phận trong cơ thể trẻ còn non yếu, năng lực ứng phó với sự kích thích của axit, kiềm, hưng phấn... còn tương đối thấp. Vì vậy, không nên để chúng dùng đồ uống của người lớn như cà phê, coca... Chất cafein có tác dụng gây hưng phấn tương đối mạnh đối với hệ thống thần kinh trung ương của trẻ, ảnh hưởng đến sự phát triển trí não. Nước chè tuy có nhiều vitamin, nguyên tố vi lượng... nhưng cũng chứa cafein, làm cho trẻ hưng phấn, tim đập nhanh, đi tiểu nhiều, ngủ không yên giấc. Các chất trong chè kết hợp với protein trong thức ăn sẽ ảnh hưởng đến tiêu hóa và sự hấp thụ sắt, gây thiếu máu. Nước có ga thường chứa xút, có thể trung hòa axit dạ dày, cản trở tiêu hóa, gây nhiễm trùng đường ruột. Chất muối phophoric trong đồ uống này ảnh hưởng trực tiếp đến sự hấp thụ sắt của trẻ, gây thiếu máu. Còn các loại rượu, bia có thể kích thích niêm mạc dạ dày của trẻ, gây tổn hại tế bào gan, làm hại hệ thống thần kinh của trẻ, dẫn đến mất cân bằng sinh lý. Rượu bia cũng gây nhiều tác dụng phụ khác.
5.
Trong quá trình phát triển của bào thai, đoạn đầu của ruột già bao gồm manh tràng và đại tràng được cố định vào thành bụng, còn ruột non thì không, nên ruột non không thể chui vào ruột già. Tuy nhiên, nếu manh tràng và đại tràng không được cố định, cộng với sự nhu động quá mạnh của ruột, ruột non chui vào lòng ruột già gây ra lồng ruột.
- Độ tuổi dễ bị là khoảng 4-9 tháng, nhiều nhất là ở 5-6 tháng.
- Trẻ đang ăn uống bình thường bỗng khóc thét, bỏ bú, da tím tái, báo hiệu khúc ruột bắt đầu lồng vào nhau. Sau đó trẻ tạm thời yên, thậm chí bú lại. Nhưng khi cơn đau tái phát, trẻ khóc từng cơn, ưỡn người, không bú được, nôn. Vài giờ sau, trẻ mệt lả, da xanh nhợt.
- Khoảng 6-12 tiếng sau, trẻ đi ngoài ra máu tươi có lẫn chút nhầy. Nhìn trẻ giảm sút rõ rệt: da tái, môi khô, mạch nhanh, người lạnh, mắt trũng. Nếu cứ trong tình trạng đó 24 giờ không xử trí gì trẻ sẽ bị nôn liên tục, bụng trướng dần lên, da toàn thân lạnh, nhợt nhạt, mạch nhanh, nhỏ, thở gấp nông, dấu hiệu ruột bắt đầu hoại tử.
- Sau khi xác định đúng bệnh của trẻ, cần tháo khối ruột lồng bằng cách bơm hơi qua hậu môn hoặc thụt thuốc cản quang dưới hướng dẫn của máy chiếu X-quang. Dưới áp lực của hơi hoặc thuốc, khối ruột lồng sẽ được tháo dần.
- Nếu trẻ được đưa đến muộn quá 6 tiếng, cần phẫu thuật ngay mới tháo được khối ruột lồng.
Bạn rangsu nói đúng đấy, mình chỉ kiểm soát sốt cao thôi còn vấn đề đi tiểu nhiều thì không sao đâu.