images
Thịnh hành
Cộng đồng
Bé yêu - Mẹ có quà cả nhà đều vui
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Thiền dân gian thời @- Nguyễn Bảo Sinh
THIỀN DÂN GIAN BÀN VỀ NGOẠI CẢM
(Nhân đọc bài : “Tìm mộ bằng ngoại cảm” đăng trên báo An Ninh Thế Giới số 632, 633, 634, 635).

Hàng bao thiên niên kỷ nay, loài người luôn tranh cãi nhau về linh hồn. Duy tâm thì bảo có, duy vật bảo không. Sự mâu thuẫn này là hai mặt của cùng một bản thể cũng như Âm và Dương trong thái cực. Hay như Hê-ghen nhà triết học Đức gọi đó là sự mâu thuẫn thống nhất. Sự mâu thuẫn thống nhất này là nguồn gốc của lô gích biện chứng, động lực để đẩy xã hội tiến lên. Nhà Phật gọi đó là lẽ vô thường, triết học Hy Lạp nói bằng hình ảnh là: Không ai tắm hai lần trên một dòng sông. Còn thiền dân gian đánh giá trong câu mật chú: một vừa hai phải. Nghĩa là Âm cũng phải mà Dương cũng phải vì đều trong cái “một vừa”.
Người theo chủ nghĩa duy vật, bằng khoa học kỹ thuật cũng tạo ra con tàu bay vào vũ trụ, đạt đến được tốc độ ánh sáng, thời gian co giãn theo tốc độ.
Theo thuyết cơ học lượng tử của Planck, thấy được vật chất vừa là hạt vừa là sóng, vừa là có vừa là không…
Bằng trực giác, bằng thiền định từ ngàn xưa Phật chứng minh được thời gian co giãn theo tốc độ khi Từ Thức, Lưu Nguyễn nhập thiên thai một năm thì dài bằng hàng trăm năm nơi hạ giới. Vạn pháp cũng sắc sắc không không. Cú cân đầu vân của Đại Thánh cũng bay hàng vạn dặm.
Học thuyết Lô-mô-nô-xốp: “Vật chất không tự sinh ra, không tự mất đi mà chỉ biến từ dạng này sang dạng khác”, thì cũng tương tự như học thuyết Tây Du Ký: Hòn đá biến thành con khỉ, thành Đại Thánh rồi thành đấu chiến thắng Phật. Vậy cả thôi.
Trong giai đoạn toàn cầu hoá, mọi sự biến động đều đi tìm sự quân bình. Anhstanh, cuối cùng khi tìm ra thuyết tương đối là trở về với đạo học phương đông. Thuyết tương đối của Anhstanh đồng nhất thể với tánh không của đạo Phật.
“Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn
Cho nên được gọi là khôn hơn người
Em xinh đâu bởi nụ cười
Em xinh là bởi nhiều người xấu hơn”
Nếu thế giới chỉ có một người sẽ không có cao, thấp, đẹp, xấu…Vậy tự tánh vạn pháp là không. Sở dĩ có cao, thấp, đẹp, xấu là do có sự so sánh với nhau, như “Tương đối luận” của Anhstanh. Vậy tánh không của thiền và tương đối luận của Anhstanh là một. Duy vật và duy tâm đều từ cái một.
Viện truởng triết học Pháp Juylien dùng khoa học kỹ thuật phương Tây để giải thích triết học phương Đông và dùng triết học phương Đông để minh triết khoa học, kỹ thuật phương Tây. Đó chính là thiền dân gian: “một vừa hai phải”.
Những bài báo bàn về ngoại cảm của báo Công an nhân dân đụng chạm tới nhiều vấn đề. Ở đây, tôi chỉ xin mạn đàm về vấn đề thiền trên quan điểm thiền dân gian của bài báo đó nêu ra.
Điểm đầu tiên, báo Công an nhân dân giới thiệu anh Nguyễn Văn Nhã: “Người tiêu biểu về khả năng tu hành rồi trở thành nhà ngoại cảm là anh Nguyễn Văn Nhã. Anh Nhã hiện nay đang sống ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh thường ít khi tiếp xúc, gặp mặt người tìm mộ. Những ai muốn tìm được hài cốt người thân thường gọi điện hỏi anh, anh sẽ chỉ dẫn qua điện thoại. Anh Nhã làm thế vì không muốn mang tiếng kiếm tiền từ việc chỉ dẫn người đời đi tìm mộ. Chính vì thế, nhiều gia đình tìm thấy mộ thân nhân qua sự chỉ dẫn của anh, muốn tìm anh hậu tạ, nhưng không biết anh ở đâu, hỏi địa chỉ thì anh không cho, thậm chí mang quà đến anh cũng không nhận. Đã có cả ngàn người tìm được mộ nhờ sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã. Song, vẫn không biết mặt mũi nhà ngoại cảm là như thế nào. Việc có khả năng ngoại cảm do đào tạo bài bản chính là nét độc đáo ở Việt Nam mà các nhà khoa học đang chuyên tâm nghiên cứu, áp dụng…
Để giúp giáo sư Phương - ở tuổi 80, giáo sư Trần Phương (tên thật là Vũ Văn Dũng) nguyên phó thủ tướng chính phủ, hiệu trưởng trường đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội – nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã bay từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội. Anh Nhã kể với giáo sư Phương rằng anh từng là một kỹ sư hoá, đảng viên, nhiều năm công tác ở đoàn thanh niên thành phố Hồ Chí Minh. Anh Nhã có khả năng ngoại cảm do học thiền. Anh đã vẽ sơ đồ cả ngàn ngôi mộ và các nhà thống kê thấy chính xác đến 60%. Bản thân anh cũng không hiểu vì sao anh có khả năng đó, chỉ biết thông tin viết ra thế nào thì anh vẽ ra vậy. Còn thông tin đúng hay sai đối với anh vẫn là điều bí ẩn”.
Anh Nguyễn Văn Nhã tự khai là do tu thiền nên đã có phép thần thông ngoại cảm.
Về vấn đề linh hồn thì từ nghìn xưa tranh luận giữa duy tâm và duy vật chưa thuyết nào thắng được thuyết nào:
“Dã tràng xe cát biển Đông
Như ta tranh luận có, không trên đời”
Những sự việc tìm được hàng vạn ngôi mộ là thật hay giả thì có trời mà biết được. Người tin cũng đông lắm, người không tin cũng đông lắm. Báo chí đăng tùm lum, nhưng số đông không phải lúc nào cũng là chân lý.
Nhưng có điều đặc biệt là ta chỉ đóng cửa trong nhà nói với nhau chơi, chứ không thấy chính phủ Mỹ, hoặc cá nhân các nước phát triển sang nhờ các nhà ngoại cảm Việt Nam đi tìm hộ hài cốt thân nhân của họ. Mà người Mỹ họ coi hài cốt thân nhân là thiêng liêng lắm. Tìm được hài cốt ngoại thì nhà ngoại cảm sẽ trở thành tỷ phú thế giới. Nếu quả thật họ chỉ làm phúc không tham tiền, thì họ nên mang số tiền ấy đưa vào quỹ từ thiện, để giúp đỡ người già cả, cơ nhỡ… thì tốt đẹp biết bao?
Hay nhà ngoại cảm không biết ngoại ngữ để giao thiệp với hồn người ngoại quốc mà lại không mang được phiên dịch theo, visa gặp hồn ngoại chỉ cấp độc quyền cho nhà ngoại cảm. Trần sao âm vậy.
Tôi xin nhắc lại, tôi không tranh luận về ngoại cảm thật hay giả, như báo Công an nhân dân luôn cảnh báo. Nhà ngoại cảm giả đi lừa người để kiếm tiền là chính, còn nhà ngoại cảm thật thì chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ở đây tôi chỉ nhắc lại việc tu thiền không liên quan gì đến vấn đề ngoại cảm, để đi tìm mồ mả cả. Hiểu tu thiền để thành ngoại cảm là làm ảnh hưởng đến các vị cao tăng tu ở các thiền viện như Trúc Lâm Yên Tử, thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt. Không ai đi tìm mộ lại đi hỏi các thiền sư đức cao vọng trọng như hoà thượng Kim Cương Tử, hoà thượng Thích Thanh Từ cả….Ngày xưa có hỏi về mồ mả thì nhân dân cũng chỉ đi tìm thầy tả ao chứ không ai lên Yên Tử hỏi thiền sư Trần Nhân Tôn.
Và dân ta cũng có ca dao về các loại thầy về mồ mả:
“Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”
Đặc biệt, có khi thầy ngoại cảm thấp tay bùa lại bị ma doạ:
“Đom đóm bay qua
Thầy tưởng là ma
Thầy ù thầy chạy
Ba thằng ba gậy
Đi đón thầy về
Bắt con lợn sề
Cho thầy chọc tiết
Bắt con cá diếc
Cho thầy xem mang
Bắt con tôm càng
Cho thầy bóc vỏ”.
Một số thầy tu thiền giả, chuyên xơi thịt chó chay, chơi gái chay, cầm tiền mặn, khối vị đã vào tù, chứ không được bỡn như ca dao, tục ngữ: “Bắt con tôm càng cho thầy bóc vỏ”, thầy chỉ bóc lịch trong trại giam.
Phật Tổ Như Lai đã dậy đệ tử bài học về phép thuật và ngoại cảm như sau:
Có một lần Như Lai dẫn đệ tử qua sông, thấy đám đông xúm quanh đạo sỹ có phép khinh công, có thể bay qua sông. Các đệ tử cũng theo đến xem sư khinh công trổ tài. Như Lai hỏi sư khinh công phải mất bao nhiêu năm mới có thể luyện được phép thuật này. Sư khinh công đáp phải dầy công tu luyện 40 năm mới thành đạt. Như Lai quay lại dậy đệ tử: “Phải mất 40 năm mới bay được qua sông, các con chỉ mất 2 xu là các con có thể lên đò qua sông”.
Ý Phật dậy chúng sinh: Thiền là tu tâm dưỡng tính, chứ thiền không học để có phép thần thông, ngoại cảm.
Câu chuyện Sư khinh công có lẽ chỉ là huyền thoại, giá mà ngày nay tu thiền như anh Nguyễn Văn Nhã mà có được phép thuật khinh công, thì các kỳ Ôlimpic, Các anh đi nhẩy cao, nhẩy xa thì đạt đến 100 lần huy chương vàng và lập kỷ lục vĩnh viễn cho mọi thời đại.
Trong thiền truyện cũng có những truyện về phép thuật của thiền sư, nhưng đấy chỉ là cái giả đi tìm cái thật. Như tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, khi chết được chôn cất khâm liệm đàng hoàng. Một thời gian sau, mọi người lại thấy Bô Đề Đạt Ma đi một chiếc dép hoằng dương đạo pháp khắp nơi. Vua Lương Vũ đế không tin đã quật mộ Đạt Ma lên để tìm sự thật. Quả nhiên dưới mộ chỉ chôn một chiếc dép, Đạt Ma đã dùng phép “Kim thiền thoát xác”. Sau đó Lương Vũ Đế tiếp tục truy tìm Đạt Ma thì lại nhận được tin báo Đạt Ma lướt trên ngọn cỏ vượt biển về Tây Thổ. Đây cũng chỉ là phần huyền thoại để tô điểm cho hợp với trình độ của chúng sinh. Phật thuyết pháp chia thành hai cách. Với người trình độ thấp người giải theo tục đế, ví dụ như cuộc đời có trên có dưới, còn theo Đệ nhất nghĩa đế thì trong vũ trụ không có trên và dưới. Trên với nước Việt Nam thì dưới với nước Mỹ …. Trên dưới tự tánh vốn không:
“Gà mổ mối
Mối đục chân vua
Vua ăn thịt gà”.
Ngộ được tánh không đấy là ngộ đạo thiền, đấy mới là phần cốt lõi của tổ thiền Bồ Đề Đạt Ma. Mọi phép thuật của Đạt Ma chỉ là giả để nổi bật cái thật của thiền là tánh không:
“Giả gọi là chân, chân cũng giả
Không làm ra có, có thành không”.
Dựa vào hình tướng pháp thuật để Đạt Ma đề ra cương lĩnh của thiền:
“Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật”.
Chuyện xưa kể về ngoại cảm, về pháp thuật một cách huyền bí đều chỉ là bài học về luật nhân quả, về thiền chứ không vẽ ra pháp thuật ma quái để làm hỗn loạn tâm linh con người. Chuyện giả để tìm ra cái lõi thật của vạn pháp.
Khổng Minh có ngoại cảm siêu việt có thể mượn gió Đông Nam để đánh tan 100 vạn hùng binh của Tào Tháo trong trận Xích Bích. Song, khi ngoại cảm biết mình sắp chết đã làm lễ dâng sao giải hạn nhưng cũng không thể thoát chết vì can tội thảm sát đội quân Giáp Mây của Mạnh Hoạch. Ác giả ác báo, luật nhân quả thì không có nhà ngoại cảm nào vượt nổi.
La hán Mục Kiền Liên đệ tử có ngoại cảm và pháp thuật cao nhất của Phật tổ Như Lai cũng bị đánh chết như một tục nhân vì đã gây tội ác định giết mẹ mà không thành. Thiền mượn pháp thuật để thuyết pháp về luật nhân quả, về tánh không.
Trong truyện “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh, ngoại cảm pháp thuật tình ái cũng để thuyết pháp luật nhân quả, tánh không mà thôi.
Còn trong bài viết về “ngoại cảm” của báo Công an nhân dân thì ngoại cảm chỉ đẩy con người đến rối loại tâm linh thành mê tín dị đoan. Cách viết cực đoan này làm xã hội mất quân bình. Người viết cần phân tích rõ về hai mặt của ngoại cảm nếu không sẽ dẫn tới mạt pháp.
Người đạo cao khi đọc các bài về ngoại cảm họ sẽ cười phá lên vì thấy mọi sự trên đời đều bị lộn ngược, tiếng cười của người cao đạo sẽ phá vỡ màn vô minh do tâm ô trượp sinh ra. Giá mà các nhà ngoại cảm có phép thông huyền như vậy thì ta cũng nên bỏ viện kiểm sát, bỏ khoa học hình sự, bỏ cả toà án chỉ cần nhờ các nhà ngoại cảm như Nhuyễn Văn Nhã đi Bô-inh 777 vào nam ra bắc gọi hồn người chết hỏi xem thủ phạm là ai, rồi vẽ bản đồ chi tiết nơi gây án cùng tang vật. Thế là xong.
Nghĩ đến đây, ta sẽ cười một cách hỷ xả và mở lòng từ bi để thông cảm với tác giả bài báo về ngoại cảm. C’ests la vie - đời là như vậy, xã hội nào cũng:
“Khi vô tích, khi lâm tri
Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương”.
Đạo Phật vừa là khoa học, vừa là triết học vừa là tôn giáo. Đa số mọi người hiểu đạo Phật qua tôn giáo, về thế giới niết bàn, có đầy đủ các vị Phật.
Ít ai thấy tính khoa học và triết học của Phật giáo. Về triết học Phật giáo không công nhận có linh hồn.
Khi các đệ tử của Phật Như Lai đi thuyết pháp đều bị các phe đối lập chấp vấn về linh hồn. Họ bảo các đệ tử của Như Lai cần phải trả lời họ 3 câu hỏi:
1- Linh hồn có?
2- Linh hồn không có?
3- Linh hồn vừa có vừa không?
Trong khi đó Như Lai không hề giảng cho đệ tử về linh hồn.
Như Lai thuyết giảng: Nếu có người bị mũi tên tẩm thuốc độc bắn trúng, mang đến nhờ ta cấp cứu. Nếu người đó bắt ta trả lời các câu hỏi cho họ: mũi tên này từ đâu bắn tới, bắn nhằm mục đích gì và tẩm loại thuốc độc gì…Nếu ta giải thích cho họ đầy đủ thì bệnh nhân sẽ chết.
Đời là bể khổ ta có bát chánh đạo để tu hành cứu khổ. Đạo của ta là đạo cứu đời, đạo của ta là đạo diệt khổ.
Chính phần ấp úng này của Như Lai giảng về linh hồn lại là bài thuyết thông huyền cực diệu của Phật pháp vô biên.
Tóm lại tu thiền là minh tâm kiến tánh để ngộ được tánh không của vạn pháp, còn phần ngoại cảm chỉ là phản ứng phụ ngoài tôn chỉ của thiền.
04:02 CH 04/10/2013
Thiền dân gian thời @- Nguyễn Bảo Sinh
“Khi mê bùn chỉ là bùn
Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen
Khi mê tình chỉ là tiền
Ngộ rồi mới biết trong tiền có tâm”
THIỀN VỀ VĂN HOÁ DOANH NHÂN
Từ xưa hoa sen đã là biểu tượng của nhà Phật. Tượng chư vị Phật đều ngự toà sen, hào quang toả sáng. Quốc hoa của Việt Nam là hoa sen, quốc hoa của Ma-lai-xi-a là hoa dâm bụt đỏ, Hà Lan là hoa tuy-luýp, Nhật Bản là hoa anh đào...Chùa một cột là hình tượng giấc mơ gặp Phật của vua nhà Lý. Lăng Bác Hồ cách điệu theo hoa sen.
Sen đi vào ca dao:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Sen trong truyện Kiều:
“Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”
Trong tất cả các loại hoa tàn, không có gì thảm đạm bằng sen, nó héo khô, héo quắt lơ lửng giữa trời như bị treo cổ:
“Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt ngọc âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng lau đỏ bóng tà tà dương”
Đó là những đoá sen của đời. Còn trong bài thơ “Tiền” của nhà thơ Huyền thi thì sen là một công án về thiền:
“Khi mê bùn chỉ là bùn
Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen”
Hoa sen như tâm Phật, tâm Phật cũng như sen từ tanh tưởi bùn lầy, từ tâm ô chướp của chúng sinh gạn đục khơi trong mà thành.
Cũng như tâm chúng sinh khi u mê chìm đắm trong vô minh, coi đồng tiền là xấu xa, tanh tưởi:
“Hôi tanh chẳng thú vị gì
Thế mà ai cũng kẻ vì người yêu”

“Trong tay sẵn có đồng tiền
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì”

“Thanh cha, thanh mẹ, thanh gì
Cứ thấy phong bì là phải thanh kiu”
Để ngộ đạo tìm tâm, có người làm từ thiện, có người lên chùa lễ Phật... Làm giầu một cách chân chính, tìm tiền trong tâm, doanh nhân là hành giả đi tìm thiền một cách hợp với thời đại, hợp với lẽ vô thường.
Tìm tâm trong tiền là phá tan bức màn vô minh về đạo, chấp trước vào những điều sai trái. Đạo là ở khắp mọi nơi. Phật là vô trụ xứ:
“Tu chùa, tu chợ tại gia
Tôi tu tại chỗ gọi là tu chi
Tâm vô trụ, trụ vô vi
Gặp đâu tu đấy, thấy gì cũng tu”
Chuyện xưa kể: “Hoà thượng Hoài Nhượng hỏi sư:
- Đại đức toạ thiền để làm gì?
Sư đáp:
- Để làm Phật.
Hoài Nhượng bèn cầm viên gạch mài trước am sư. Sư hỏi:
- Mài gạch để làm gì?
Hoài Nhượng đáp:
- Để làm kính.
Sư hỏi:
- Mài gạch sao thành kính được?
Hoài Nhượng đáp:
- Mài gạch không thành kính được, toạ thiền há thành Phật được sao?
Vì học toạ thiền thì thiền không dính chi tới nằm ngồi cả. Còn học toạ Phật thì Phật chẳng có tướng nhất định: cái pháp vô trụ không nên buông bắt. Nếu chấp tướng ngồi thì không đạt lẽ đó...”.
Phật là vô trụ xứ. Tu chợ, tu trong kinh doanh, trong thương trường đó là cách tu vô trụ xứ của dân gian:
“Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa”
Dân gian là người trực cảm chân lý, nên thấy được cái uyên nguyên vô trụ xứ của Phật, nên đặt tu chợ cao hơn tu chùa. Đạo Phật quả là huyền vi.
Tu ngay giữa chợ, tìm tâm trong tiền, hành thiền trong kinh doanh, đấy là chân tu: có thực mới vực được đạo. Còn những kẻ nệ vào giả tướng, nô lệ vào lời vì:
“Đọc quá nhiều sách vào mình
Không tiêu hoá được cũng thành ung thư”
Muốn tu chợ thì phải phá chấp, coi tiền là tanh tưởi, giầu có là tham, sân, si.
Đồng tiền là vô ngã, tự tánh rỗng không. Đồng tiền tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Cũng như con dao dùng để giết người, hay để làm việc hữu ích đều do người sử dụng.
Kẻ “thị phú khinh bần” rất đáng chê trách, xã hội ta ngày nay còn rất nhiều người “thị bần khinh phú”- cho mình nghèo mới là tuyệt đối cao quý- thì còn đáng trách hơn nhiều:
“Ở đâu mà nước quá trong
Ở đó sự sống sẽ không có gì”
Không có thực thì sao vực được đạo. Yêu nhau, lấy nhau mà không có kinh tế thì liệu có sống nổi với nhau không?:
“Nhà tranh hai trái tim vàng
Sổ đỏ không có hỏi chàng tính sao?”
Một số nhà thơ chạy theo cái ảo mà quên cái thực, sẽ mê lầm trong cõi hư vô đến thân tàn ma dại:
“Muốn cho trộm chẳng đến nhà
Đề vào trước cửa: Đây là nhà thơ!”
“Lấy chồng thi sỹ cũng hay
Khi chết khiêng nhẹ vì gầy dơ xương”
Thiền là sắc sắc không không, thực hoà trong ảo:
“Khi mê tình chỉ là tình
Ngộ rồi mới biết trong tình có dâm”
Chỉ thấy không mà không thấy sắc, chỉ thấy tình mà không thấy dâm là hư vô:
“Chàng bảo yêu bởi tâm hồn
Em thay giới tính chàng còn yêu không”
Chân lý có hai chiều. Chỉ hiểu một chiều là si mê:
“Bỏ cả giang sơn vì người đẹp
Biết đâu người đẹp thích giang sơn”
Ngược lại, chỉ thấy dâm mà không thấy tình là súc vật:
“Khi mê dâm chỉ là dâm
Ngộ rồi mới biết trong dâm có tình”
Sau những cuộc làm tình với gái mại dâm vì chỉ có dâm mà không có tình, khách làng chơi nào mà chẳng thấy trống rỗng, tủi hổ, vô nghĩa và tự khinh mình. Ngay cả đến vua Càn Long khi ngủ với cung tần mỹ nữ mà không có tình cũng phải thấy tanh tưởi nên bỏ chạy:
“Cung phi ngủ với con trời
Chứ đâu ngủ với cái tôi của mình
Càn Long rời bỏ cung đình
Để đi tìm những mối tình không vua”
“Có thực mới vực được đạo”, đó là luật huyền vi của Tạo hoá: trong bùn có sen, trong tâm có tiền, trong tình có dâm...Đó là sự hoà hợp của âm và dương. Đó là thiền:
“Gương soi gương không có hình ở giữa
Trong suốt không không vẫn thấy sắc hình”
Kẻ điên cực hữu thấy không mà không thấy sắc. Kẻ điên cực tả lại chỉ thấy sắc mà không thấy không. Họ cực tả ngay trong kinh Trung đạo tại chùa:
“Vào chùa lễ Phật thấy sư
Người người cúi lạy cái lư hương đồng
Miệng cầu sắc sắc không không
Đầy trời sắc, thế còn không đâu rồi”
Kẻ điên cực tả chỉ tìm cái sắc, chỉ thấy tiền. Cảnh sát hỏi tên cướp tiệm vàng:
- Cướp vàng, lại giết người là tội tử hình. Sao dám làm liều?
Tên cướp đáp:
- Khi tôi nhìn thấy vàng thì loá mắt chẳng thấy gì cả.
Tên kẻ cướp này chỉ thấy một nửa của chân lý, nên trở thành tội phạm vì “khi mê tiền chỉ là tiền”. Kẻ mê là người thấy sắc mà chẳng thấy không:
“Ai cũng thấy tiền mình còn thiếu
Mấy ai người thấy thiếu lương tâm”
Vì quá tham, sân, si về tiền, cho nên có chuyện tên tỷ phú khi bị chết đuối vẫn ngửa cổ lên mặc cả với người thuyền chài về tiền, và thà chết chứ không chịu chi với giá cao. Nếu ngộ ra phải biết bỏ của chạy lấy người. Người giầu lấy của che người, người nghèo lấy người che của. Tào Tháo khi bị Mã Siêu đánh cho tan tác, phải cắt cả râu mới thoát nạn. Sau đó, Tào Tháo dùng mưu: khi đánh nhau với Mã Siêu, vờ tháo chạy vứt lại đầy đường quân trang, quân dụng quý hiếm. Quân Mã Siêu tham của mải mê vơ vét. Tào Tháo quay lại tiến công. Mã Siêu thua đến mảnh giáp không còn.
Hình tượng tên hà tiện Gơ-răng-đê ky bo đến khốn khổ là một bài học lớn cho xã hội.
Hiểu về đồng tiền là hiểu được Như Lai Thần Chưởng: sắc sắc, không không. Sắc tức thị không, không tức thị sắc, không không sắc sắc biến hoá khôn lường. Cùng tắc biến, biến tắc thông:
“Giả gọi là chân, chân cũng giả
Không làm ra có, có thành không”
Muốn khinh công danh phải đạt đỉnh của công danh. Muốn khinh tiền phải có đủ tiền:
“Phải vào mới thấy lối ra
Phải yêu mới biết đâu là không yêu”
Nếu không hiểu được quy luật này sẽ suốt đời đau khổ như Tú Xương:
“Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường”
Phần xấu của đồng tiền thì đời đã bàn quá nhiều. Bàn đến nỗi ngộ nhận đồng tiền chỉ có xấu. Chỉ nhìn thấy phía xấu của đồng tiền sẽ dẫn đến cực đoan.
Đồng tiền là vô thường, vô ngã, rỗng không như vạn pháp. Miếng khi đói bằng gói khi no, bát cơm xiếu mẫu đền ơn nghìn vàng. Có người chỉ cúng dường cho Phật một đồng trinh cũng đắc đạo. Có người cúng cho Phật nghìn lạng vàng mà không có tâm vẫn vô đạo:
“Cố tình làm thiện Phật chẳng thương
Vô tình gây ác Diêm Vương phạt gì”
Đồng tiền tự tánh là rỗng không, ta cần trả lại sự vô tư, trong trắng cho đồng tiền.
Nhiều người hiểu nhầm về đạo Phật, cho rằng người kiếm nhiều tiền là kẻ tham, sân, si. Đạo Phật là chống tham sân si. Họ đâu hiểu được định nghĩa của Lão Tử: vô vi tức hữu vi là vô vi. Vô vi tức vô vi là hư vô. Đạo Phật vô vi chứ không hư vô.
Khi các doanh nhân có sự suy nghĩ đúng đắn về tánh không của tiền là ngộ được sự trinh bạch của tiền, lúc đó họ ngộ được văn hoá doanh nhân. Ta gọi họ là doanh nhân văn hoá, họ là hành giả thấy được tâm trong tiền.
Thiền Viện Trúc Lâm Tây Trúc của Phật Tổ do ông Cấp- Cô- Độc đã mua lại của một quý tộc cứ từng xăng-ti-mét đất giá từng xăng- ti-mét vàng. Xã hội ngày xưa xếp hạng: sỹ, nông, công, thương. Công thương xếp ngang với kỹ nữ.
Lã Bất Vi- một thương gia thời Xuân Thu- đã dùng tiền mà buôn được cả vua, đưa con mình thành Tần Thuỷ Hoàng. Sau đó lại tổ chức viết tập “Lã thị xuân thu” để lưu danh muôn thuở. Hiểu được ý nghĩa của đồng tiền, doanh nhân Lã Bất Vi đã trở thành nhà văn hoá doanh nhân nổi tiếng nhất thế giới:
“Lã Bất Vi buôn cả vua
Hồ Xuân Hương chửi cả chùa lẫn sư
Bọn họ gan lớn mật to
Còn ta gan bé nằm lo sập trời”
Việc buôn vua lớn đã đành, ngay cả việc đi dự đám cưới cũng vậy. Nếu ta chỉ đến dự mà không có phong bì thì có lẽ cũng khó ổn. Nếu ta không đến dự mà tiền mừng có gấp đôi cũng không đẹp. Vậy trong tiền phải có tâm, trong tâm phải có tiền.
Khi hiểu hai mặt của đồng tiền ta sẽ giữ được thế quân bình. Có hai cách quân bình. Quân bình thấp: kiếm ít tiền, tiêu ít tiền. Quân bình cao: kiếm nhiều tiền, tiêu nhiều tiền.
Ngày nay, trong nền kinh tế toàn cầu hoá, để tránh rủi ro, để giữ tâm thiền, các nhà kinh doanh thường theo châm ngôn: “Không để tất cả trứng vào một cái sọt”. Họ sẽ đầu tư vào nhiều công ty, như nhà nhiều cột, rết nhiều chân. Làm như vậy tâm sẽ bớt quay cuồng trong cuộc chiến tranh thương trường. Tâm định, tuệ sẽ sáng. Trước khi quyết định một vụ làm ăn lớn, thường các doanh nhân sẽ tìm một nơi yêu tĩnh, coi như một thiền viện để từ đó giữ được tâm thanh tịnh. Sau đó tư duy của họ sẽ thành trí huệ. Họ sẽ có những quyết định đúng đắn:
“Trong trần ai có mấy nơi tĩnh mịch
Trong lòng mình có mấy lúc thảnh thơi
Lúc thảnh thơi gặp nơi tĩnh mịch
Là khi mình thấy cả đích trước sau”
Như nhà bác học Ê-đi-xơn, người Mỹ, khi mọi người đến chia buồn vì ông đã thí nghiệm 2000 sợi dây tóc bóng điện mà không thành công, thì Ê-đi-xơn đáp:
-Ta đã thành công ở chỗ biết được có 2000 thứ dây dẫn không thể làm được tóc bóng điện.
Ê-đi-xơn đã thiền định, khi ông ngộ cặp phạm trù: “Trong hoạ có phúc”.
Đồng tiền cũng như vạn pháp: tự tánh là không, do nhân duyên giả hợp mà thành.
“Phát tài chẳng cậy thần tiên
Phát tài là bởi nhân duyên tự người
Hoạ phúc lơ lửng giữa trời
Chờ người mở cửa vẫy mời vào trong”
Kinh doanh không ra ngoài luật nhân quả. Thiền truyện kể: “Thiền sư Bách Trượng thuyết pháp bách nhật. Có một nhà sư đứng tại chỗ không về. Bách Trượng hỏi. Sư đáp:
- Tôi là con hồ ly tinh tu hành thời Phật Ca Diếp - Phật quá khứ.
Phật Ca Diếp hỏi:
- Người đắc đạo có ra ngoài luật nhân quả không?
Sư đáp:
- Có. Hồn không siêu sinh tịnh độ được và trở thành hồ ly tinh. Nay nhờ sư siêu lời chuyển kiếp.
Bách Trượng đáp:
- Đắc đạo không che mờ nhân quả.
Ngộ lời này, hồn sư siêu thoát và đống xương hồ ly chôn sau chùa bỗng dưng bay thành khói”.
Nhà kinh doanh hiểu luật nhân quả sẽ làm ăn chân chính, vì họ hiểu:
“Thật thà là cha quỷ quái”
“Đời cha ăn mặn đời con khát nước”
“Có đức mặc sức mà ăn”
Trong kinh doanh, họ hiểu luật cạnh tranh, nhưng cạnh tranh một cách lành mạnh vì: duyên ai phận nấy...Hiểu đạo trời trong kinh doanh, doanh nhân sẽ tu nhân tích đức để giữ cho thân tâm an lạc.
Tiểu thuyết “Người đàn bà quỷ quái” của Mỹ viết về gia đình người chủ tập đoàn sản xuất vũ khí lớn của Mỹ. Bà chủ muốn bắt bằng được cậu con trai duy nhất của mình phải kế tục sự nghiệp mình, mà cậu con trai lại chỉ thích theo nghề hội hoạ. Cuối cùng bà mẹ giao kèo với con cho cậu sang Pháp học hội hoạ 7 năm, nếu thất bại sẽ phải về làm chủ tập đoàn sản xuất vũ khí. Tại Pa ri, cậu ta cặp bồ với một cô gái xinh đẹp, đảm đang. Sau khi tốt nghiệp, cô bồ tổ chức cho hoạ sỹ một cuộc triển lãm hoành tráng. Cuộc triển lãm đại bại. Anh con trai ngoan ngoãn về làm theo lời mẹ. Một lần, anh đến thăm cơ sở sản xuất tại nước ngoài và gặp lại cô bồ cũ. Cô ta kể lại, sở dĩ triển lãm thất bại do mưu mô của bà mẹ. Thế là anh ta hoá điên, tức tốc về Mỹ và nhằm vào giữa ngực mẹ nổ ba phát súng.
Cũng như khi nhà văn Gorki sang Mỹ phỏng vấn các nhà tỷ phú những câu ngớ ngẩn. Gorki hỏi:
- Tại sao các tỷ phú thừa tiền sống đến mấy kiếp vẫn còn lao vào các cuộc kinh doanh mạo hiểm?
Tỷ phú đáp:
- Có lẽ ngài Gorki không phải là nhà văn, vì nhà văn mà không hiểu về đồng tiền thì có gì mà viết.
Làm giầu là mạo hiểm, phải có gan anh hùng. Song mạo hiểm cũng là niềm vui như các nhà leo núi “có chí làm quan, có gan làm giầu”, người thích làm giầu phải có khí phách, dám nghĩ dám làm, dám coi khinh thất bại.
Chú ý: Chúng ta cần phân biệt giữa thần tài và Phật Di Lặc. Thần tài là vị thần mang lại tiền tài cho người cầu cúng. Cũng như ta đi lễ Bà Chúa Kho cầu tài cầu lộc để kinh doanh một vốn bốn lời. Còn khi đã được đồng tiền thì mang lại hoạ hay phúc thì thần tài và Bà Chúa Kho không cần biết. Theo đạo Hồi thì tiền cũng như thịt thối. Càng nhiều thịt thối càng nhiều giòi bọ. Kinh doanh theo kiểu này là mê: “Khi mê tiền chỉ là tiền”.
Còn các cửa hàng kinh doanh vàng bạc, đá quý, đô la...thường thờ Phật Di Lặc tu trên cung trời đạo lợi vàng son lộng lẫy, cùng tiên nữ hằng nga mà vẫn đắc đạo. Nên các nhà doanh nhân thờ Phật Di Lặc để mong mình vừa kiếm được nhiều đồng tiền chính đáng để được thân tâm an lạc:
“Khi mê tiền chỉ là tiền
Ngộ rồi mới biết trong tiền có tâm”
Cho nên đi lễ Bà Chúa Kho và thần tài về bản thể khác xa với việc thờ Phật Di Lặc. Đồng tiền của Phật là đồng tiền có tâm, đồng tiền ngộ đạo sẽ mang lại thân tâm an lạc.

LUẬT VÔ THƯỜNG
Luật vô thường coi vạn pháp như thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái...hay như lô gích biện chứng: sự thống nhất phát triển của cặp mâu thuẫn đối lập:
“Đừng thấy em bé mà tròng
Lớn lên anh sẽ phải lòng em ngay
Đừng thề mãi mãi đắm say
Mai kia em sẽ thành ngay bà già”
Mọi cái có tướng đều giả. Người kinh doanh ngộ thiền phải hiểu được cái giả tướng ấy.
Thí dụ như: khi nghe tiếng động máy bay siêu âm là máy bay đã bay qua. Thị trường cũng vậy, khi ta tưởng ta đã nắm bắt được cơ hội thì cơ hội đã trôi qua.
Thị trường giá đất lên cao một cách vô lý thì ta phải thấy giá đất sẽ phải xuống một cách vô lý. Đó là quy luật của cung cầu.
Hiểu theo thiền: không gì hợp mãi mà không tan, không có gì thịnh mãi mà không suy. Kinh doanh là phải nắm được thời cơ:
“Đừng khoe cao thủ nhất đời
Thua thằng tranh thủ đúng thời, đúng cơ”
Người kinh doanh mà không nắm được lẽ thịnh suy sẽ như người buôn mũ thấy trời mưa tầm tã mấy ngày liền chuyển sang buôn áo mưa. Khi buôn áo mưa thì trời lại chuyển sang nắng đều. Anh ta lại chuyển sang buôn mũ. Anh ta quay như chong chóng, và tất nhiên kết thúc là tán gia bại sản. Chỉ vì anh ta không hiểu được quy luật nắng lắm thì mưa nhiều:
“Cưỡi trâu tìm trâu sao thấy trâu
Trong ta tìm ta ta ở đâu
Chân như tự cảm mà không thấy
Thấy rồi là chẳng thấy được đâu”
Một số nhà kinh doanh không hiểu lẽ vô thường, phép biện chứng nên kinh doanh chó Nhật ở Việt Nam thời 1987-1992 đã bị phá sản vì thấy một số người nuôi chó Nhật phất lên, họ bèn lao vào kinh doanh. Họ thấy âm không thấy dương, thấy thịnh không thấy suy nên đã dốc hết vốn vào kinh doanh chó khi giá chó đắt nhất. Và tất yếu sau đó thị trường chó đóng băng.
Tu chợ, tu trong thị trường, nhà kinh doanh cần tỉnh táo, vô tư:
“Buông thõng hai tay đi vào chợ
Hoạ phúc mua đều có hoá không
Sinh tử bán rồi đời hết nợ
Buông tay đi suốt chợ âm dương”
Hiểu được lẽ vô thường, biết sự biến hoá kỳ ảo của hoạ phúc có thể biến thua thành thắng như: Có một người, nhà gần cổng chợ, bên cạnh cây đa cổ thụ. Ai đi qua cũng đái một bãi vào gốc cây, mùi sú uế bốc lên nồng nặc. Sau bao năm chịu khổ, người đó nghĩ ra cách biến hoạ thành phúc. Người đó quét vôi trắng, làm một cái miếu thờ thần tài, một hòm công đức dưới gốc đa, khói hương nghi ngút. Ai đi qua cũng thắp hương khấn vái mong một vốn bốn lời. Thế là người đó ngẫu nhiên trở thành ông từ ngồi thu lộc của khách thập phương.
Cũng vậy, có một anh mán xá dựa vào cái tính mán xá mà biến hoạ thành phúc. Anh mán đem một con mèo và túi mật gấu giả đi bán. Khách mua hỏi:
- Tại sao bán mèo?
Mán trả lời:
- Tại nó không biết bắt chuột lại hay ăn vụng, ỉa bếp.
Khách hỏi:
- Tại sao bán mật gấu?
Mán đáp:
- Sợ để ở nhà mèo tha đi mất.
Khách cho mán là ngố nên mua túi mật gấu giả với giá cao.
Cũng vì hiểu được luật nhân quả, ngộ thập nhị nhân duyên, biết mọi thành đạt phải có trợ duyên, phải có quý nhân phù trợ, phải biết marketting, nên nhà thơ nổi tiếng Trần Tử Ngang đời Đường đã mua một chiếc lọ quý một vạn lạng rồi mời mọi người đến chiêm ngưỡng. Trước mặt đám đông, Trần Tử Ngang đập tan chiếc lọ ngọc và nói:
- Ta có một trăm bài thơ còn quý hơn hàng nghìn lần chiếc lọ ngọc này.
Cũng nhờ biết trợ duyên mà Trần Tử Ngang thành lưu danh muôn thuở.

LUẬT BÙ TRỪ
Con người có thể quên nhiều định luật, định lý. Song cần phải giác ngộ hai luật cơ bản: luật nhân quả và bù trừ.
Luật bù trừ của Tạo hoá là lấy cao bù thấp để tạo thành sự quân bình, sự tự do tuyệt đối.
Ngược lại tâm trí con người lại hiểu bù trừ ngược với đạo bù trừ của Tạo hoá. Bù trừ kiểu tâm trí lấy thấp bù cao. Nghĩa là chó cắn áo rách, kẻ nghèo thì càng ngày càng nghèo, và nước chẩy chỗ trũng, kẻ giầu càng mãi giầu lên. Khoảng cách nghèo giầu càng ngày càng xa.
Luật bù trừ ngược sẽ gây sự bất hạnh cho nhân loại. Chính đấy là chỗ nảy sinh ra chủ nghĩa khủng bố.
“Diệt mãi không hết trùm khủng bố
Vì lòng người đều có chỗ cực đoan”
Điều này thế giới đã ngộ. Các nước giầu có trách nhiệm bù trừ, xoá nợ cho các nước nghèo. Nhà kinh doanh giầu có phải làm từ thiện để bù trừ cho người nghèo...Chỉ có vậy trái đất mới an toàn, loài người mới hạnh phúc. Đạo của các đạo là đạo bù trừ để quân bình:
“Đạo người lấy thấp bù cao
Cao cho đến lộn nhào chưa yên
Đạo trời bù dưới bớt trên
Cân bằng sinh thái không thêm bớt gì”
Quân bình là đạo của các đạo. Bù trừ là đạo của đạo quân bình:
“Ta như quả lắc quả cân
Chuyển động là để tự tâm quân bình”
Thiền dân gian không chấp vào giả tướng:
“Thứ nhất là tu tai gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”
Phật là vô trụ xứ nên khi đã ngộ được tự tánh của kinh doanh, của đồng tiền họ sẽ đắc đạo:
“Sông mê mò mãi tâm không thấy
Bến giác không tìm đâu cũng tâm”











“Huyền thi có phép lạ đời
Già dơ đọc mãi thành người ngây thơ”
THIỀN DÂN GIAN VỀ HUYỀN THI
Câu nói hay nhất của loài người là “Phật tại tâm”.
Phật tại tâm là bộ kinh vô tự. Bộ kinh vô tự này chỉ khi nào xuất thần mới hiện thành chữ, chỉ ai nhập thần mới đọc được và những thi hào chép lại thành lưu danh muôn thuở:
“Gió chẳng đường đi mà cũng đến
Mình không cầu nguyện bỗng nhiên sinh
Mỗi người là bộ kinh vô tự
Xin đừng tụng niệm tự vô kinh”
Tất cả những câu thơ viết về cái bản ngã của mình đều là những câu thơ dở sẽ nát theo cỏ cây. Tâm thức là vĩnh hằng. Câu thơ chân tâm là thơ vĩnh hằng:
“Vợ cưới vừa xong thành đồ cổ
Thơ hay không thấy cũ bao giờ”
Thơ hay là kinh vô tự của phật tại tâm, mà thi hào chỉ là người thư ký sắp xếp rồi chép lại:
“Những gì chưa nói được lên
Huyền thi đặt hộ cái tên cho đời
Những gì nghĩ ở cõi người
Huyền thi chép lại thành lời chân kinh”
Thi hào ví như nải chuối, hay đồ tế lễ đặt trên bàn thờ. Nhân loại lễ đức chúa Jê-su, thánh A La, đức Phật...mà nải chuối chỉ là giả tướng để đi tới bản thể của đạo. Nải chuối chớ hiểu nhầm là họ lễ lạy mình. Các thi hào chớ tưởng nhầm là họ lễ lạy mình. Nhân loại chỉ lễ lạy đạo, lễ lạy chính Phật tại tâm trong họ mà thôi.
Khi đã ngộ được lẽ huyền vi bộ kinh vô tự của phật tại tâm, các thi hào sẽ tự chối bỏ quyền tác giả. Vì thi hào chỉ là người chép lại kinh, chép lại cảm xúc thi sỹ của Phật tại tâm mà thôi. Đúng như I-li-a E-ren-bua viết: Nhà văn, nhà thơ là thư ký của thời đại.
Hiểu được cội nguồn của thi ca là cảm nhận của đức Phật tại tâm, nên nhà thơ Huyền thi thấy thi ca là sự tự nhiên, như nhiên của cõi tâm linh là thiền:
“Huyền thi có phép lạ đời
Ai thích thì đọc ghét thời thì thôi”
Không thể dùng bất cứ một thứ cưỡng chế nào để bắt buộc Phật tại tâm phải chấp nhận bất cứ một vấn đề gì. Phật là sự tự do tuyệt đối. Thơ là đạo, đạo là tự do.
Có thể dùng sức mạnh để san bằng một đất nước, phá tan một thành trì, tiêu diệt hàng trăm vạn quân, chứ không thể vượt được quy luật Tạo hoá. Hoàng đế Nê-Rôn vĩ đại đánh đông dẹp bắc mà không chinh phục nổi một câu thơ, nhiều khi muốn đánh đổi cả ngai vàng lấy một câu thơ mà không được. Không thể dùng trăm vạn hùng binh, nghìn viên thượng tướng để khuất phục nổi một câu thơ. Người quyết định số phận một câu thơ hay không phải bởi kẻ quyền cao chức trọng, mà ở những cô gái điếm, những kẻ bần cùng, những người nông dân chất phác, kẻ thuyền chài...Những tác phẩm của Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Bính, ca dao tục ngữ, nó tồn tại ngoài vòng quốc doanh kiểm soát, nó sẽ bất tử vì nó là cảm xúc của Phật tại tâm trong lòng người dân.
Còn những nhà thơ làm để tôn vinh cái bản ngã của cá nhân mình sẽ nát cùng cỏ cây:
“Món khoái khẩu của nhà thơ là bất tử
Nhưng tiếc rằng thượng đế chỉ mời rơi
Món chán nhất là bùa mê cháo lú
Diêm vương mời chắc chắn phải xơi”
Còn những bài thơ phù hợp với tâm thức là thơ vĩnh hằng, nó có sức mạnh của tạo hoá. Cả một thể chế hà khắc Phong kiến cũng bị tan vỡ bởi ca dao tục ngữ, bởi thơ ca đòi tự do, nhân quyền của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du. “Mỗi nhà thơ là một chiến sỹ trên mặt trận văn hoá”- Bác Hồ. “Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”-Trường Chinh-
Chúng ta hãy đi vào ngôi nhà của chúa Jê-su, của đức Phật, của thánh A La. Ngôi đền của thi ca như đứa trẻ thơ dưới sự dắt dẫn của đạo tự nhiên, như nhiên. Chớ đi vào ngôi đền thi ca bằng duy ý chí. Duy ý chí sẽ dẫn đến tự sát của thi ca, và của cả nhân loại. Duy ý chí sẽ trở thành Hít le, thành kẻ cực đoan- điên cực tả hoặc cực hữu.
Huyền thi thể hiện sự trung dung, sự vô ngã, sự trực chỉ nhân tâm của thiền:
“Quý vật đi tìm quý nhân
Huyền thi lại gặp huyền tâm mới huyền”
Thơ hay là mang cái bản ngã của mình hoà tan vào bản ngã của nhân loại thành vô ngã. Thơ hay không từ đâu đến và cũng không đi về đâu.
Thơ hay là tâm truyền tâm, vượt qua cánh cửa của vô lời đi vào vô thức. Tâm trí của con người 90% là vô thức. Huyền thi trực giác tâm linh, đưa con người tới cảnh giới vô thức đã được trí thức kiểm soát.
“Nghĩa cuộc đời đều là vô nghĩa
Sao loài người vẫn sống say sưa
Vô nghĩa cuộc đời chính là ý nghĩa
Hiểu tận cùng sẽ hoá ngây thơ”
Người đắc đạo sẽ sống ngây thơ như đứa trẻ. Thiền thi đưa con người trở về cuộc sống ngây thơ của vô thức dưới sự chỉ đạo của ý thức:
“Huyền thi có phép lạ đời
Già dơ đọc mãi thành người ngây thơ”
Thơ ngây là đạo. Dù cho trăm mưu nghìn kế, uốn éo làm duyên đủ kiểu, cô gái già dơ không hấp dẫn bằng sự ngây thơ trinh bạch. Ngây thơ là tự nhiên của Tạo hoá. Con người không thể vượt qua được Tạo hoá:
“Không gì vượt được thiên nhiên
Cách nhau lớp kính hôn tiên chẳng màng
Ly thân mà vẫn đồng sàng
Âm dương cách biệt một màng cao su”
Theo Bá Nha, thì khi làm thơ cũng như gẩy đàn: những người thất bại vì họ chỉ hát để ca ngợi mình. Còn người thành công để cho cây đàn tự chọn lấy chủ đề của nó, và thực ra, lúc đó cây đàn không biết mình là Bá Nha hay Bá Nha là cây đàn.
Duy ý chí của con người cũng như cú cân đầu vân của Tề Thiên Đại Thánh hàng vạn dặm cũng chỉ nằm trong lòng bàn tay của Tạo hoá của Như Lai:
“Nhân loại muốn vượt con người
Khác gì nắm tóc tự lôi lên trời”
Ngộ đạo là phá tan mọi điều chấp trước, thiên đường, địa ngục là cảnh giới chấp trước của chúng sinh khi mê. Ngộ đạo là phá tan địa ngục, thiên đường như Tề Thiên Đại Thánh:
“Huyền thi cứ đọc lai rai
Thấy sướng âm ỉ từ ngoài vào trong
Thấm sâu đến tận chỗ không
Địa ngục cũng mất thiên đường cũng tan”
Ngộ đạo là ngộ tánh rỗng không của vạn pháp: không thiên đường, chẳng địa ngục! Ngộ Không sẽ đưa chúng ta tới niết bàn- niết bàn là Nirvana. Niết là vượt qua, bàn là cánh rừng vô minh, tăm tối đến chỗ an trú vĩnh hằng của thân tâm an lạc.
Thi ca là khi con người rơi vào vô thức, dưới sự chỉ đạo của ý thức thành huệ bát nhã ba-la-mật thành thi ca.
“Miếu thiêng đặt ở chỗ không
Thanh tâm mới luận văn chương cùng người”
Khi tâm thiền thì vạn pháp thành thi ca.
Bài giảng đầu tiên của Thích Ca Mầu Ni là cho lũ trẻ chăn trâu dưới gốc cây Bồ đề. Phật dậy: “Bằng trực giác, bằng thiền định quán chiếu về quả quýt ta sẽ thấy từng giọt mồ hôi của người làm vườn, thấy cả mọi mối quan hệ xã hội, thấy trong quả quýt có cả sự hội tụ của ánh sáng muôn vàn tinh tú...”. Khi thiền định, quả quýt sẽ thành thi ca. Cũng như khi nhà thơ thời còn trẻ thơ, trong trắng như thiền đã trực cảm một cách ngây thơ về hạt gạo và sáng tác thành thi ca bài “Hạt gạo làng ta”. Sau này, khi trưởng thành, thơ Trần Đăng Khoa thành duy ý chí, thơ đó chỉ để riêng cho Trần Đăng Khoa.
Hạt gạo và quả quýt hiện ra như một công án thiền. Còn sự sáng tạo của thi ca theo thiền là:
- Lúc đầu thấy núi là núi, sông là sông.
- Sau đó thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông.
- Cuối cùng thấy núi là núi, sông là sông.
Hay như nhà thơ Huyền thi viết:
“Nghĩa cuộc đời đều là vô nghĩa
Hiểu tận cùng sẽ hoá ngây thơ”
Cũng như thiền định nghĩa:
“Tìm quen trong lạ là thiền
Tìm lạ trong lạ là điên Trâu Quỳ”
Tóm lại quy luật của nhận thức, sự sáng tạo của loài người đi từ phủ định cái phủ định, thấy cái mới trong cái cũ, tìm cái lạ trong cái quen. Ví dụ như trong bài thơ:
Đò ngang
Cùng chung một chuyến đò ngang
Kẻ thì sang bến người đang trở về
Lái đò lái mãi thành mê
Sang về chẳng biết mình về hay sang
Người đời nghĩ sang và về là hai việc khác nhau, đối nghịch nhau, nhưng dưới con mắt của huệ bát nhã thì sang và về tục đế phân hai mà đệ nhất nghĩa đế chỉ là một. Khi tâm bất nhị thì sang và về chỉ là một. Sang và về là hai mặt của đò ngang. Sáng tạo thi ca như thiền, đòi hỏi thi sỹ tìm mới trong cũ.
Tất cả những cái chúng ta bàn trong thế kỷ 21 này đều là những cái loài người đã từng bàn và suy nghĩ từ mấy nghìn năm trước. Cho nên thi sỹ muốn sáng tạo phải đọc lại, ngẫm lại cái mà người xưa đã viết, trên cơ sở đó mới sáng tạo được:
“Những cái nghĩ mãi mới ra
Đều là những cái người ta nghĩ rồi
Những cái nghĩ mãi trên đời
Khi ta nghĩ lại khác người nghĩ ra”
Theo Huyền thi thì cội nguồn sáng tạo của người phương Đông đòi hỏi thi sỹ phải thấu hiểu đạo Khổng, đạo Lão và đạo Phật. Trên cơ sở triết học phương Đông đó tiếp thu văn hoá phương Tây, nhuần nhuyễn với cuộc sống hiện hữu, thì chắc chắn từng sát na ta đều tìm ra cái mới. Lúc đó, ta sẽ thấy như lời Phan Bội Châu: “Nhật tân, hựu nhật tân”, và thi sỹ ba ngày gặp nhau đều có cái mới, và mỗi một tứ thơ đều tràn ngập sự sáng tạo: “Nhất hồi niêm xuất, nhất hồi xuân”. Mới từ cũ sinh ra, cuộc sống bắt nguồn từ cái chết. Vạn pháp là vô thường, thi ca của vạn pháp cũng phải vô thường. Mối tình với nàng thơ như với người yêu, như với mùa xuân vừa cũ nhất, vừa mới nhất:
“Tình nào cũng mối tình đầu
Không ai đến được nơi đâu hai lần
Không gì cũ như mùa xuân
Mỗi lần xuân đến vẫn lần đầu tiên”
Sáng tạo của thi sỹ cũng như thiền vậy:
“Tìm quen trong lạ là thiền” cũng như tình yêu cũ từ mấy triệu năm:
“Nhân loại dù tiến bao xa
Hôn nhau vẫn cũ như là ngày xưa”
Và tình yêu cũng huyền vi, cũng bí mật như vũ trụ, mà không ai và không bao giờ có thể khám phá hết bí mật này:
“Dù người làm được nắng mưa
Thì em vẫn mới ta chưa hiểu gì”
Muốn sáng tạo, thi sỹ phải thể nghiệm trong đời, phải tích luỹ trí thức sách vở:
“Lý của vũ trụ không lời
Sách là sai đúng của người viết ra
Không sách ta chẳng thành ta
Không xé sách cũng không ra con người”
Sách cũng như chiếc vỏ trứng. Nếu không có vỏ trứng, không có gà con. Không phá vỡ vỏ trứng cũng không có gà con:
“Cái phúc của học rõ rồi
Cái hoạ của học ai người biết chăng
Nhiều khi đi một quãng đàng
Sàng khôn không học, học toàn sàng ngu”
Nhiều nhà thơ, khi chưa đọc sách còn làm được thơ. Khi đọc sách rồi lại hết thơ vì:
“Đọc quá nhiều sách vào mình
Không tiêu hoá được cũng thành ung thư”
Hơn 90% cảm nghĩ là vô thức. Đọc sách là để trí thức nhập vào vô thức và kiểm soát vô thức. Vô thức mới là phần lõi cốt:
“Quả tim không học đập đều
Làm tình không học vẫn chiêu tuyệt vời”
Cái linh diệu của sự đọc sách ai cũng ngộ được “nhân bất học, bất chí lý”. Nhưng cái hoạ của đọc sách đã mấy ai tỏ tường:
“Nhai văn nhá chữ buồn ta
Con giun còn biết đâu là cao thâm”
Nhất là trong lĩnh vực thi ca. Càng tích luỹ trí thức càng thành duy ý chí, phản cảm với thi hứng. Khi chưa có nhà thì có thơ. Khi tích luỹ đầy trí thức trong nhà thì thơ bị đuổi ra đứng đường. Duy ý chí sẽ tạo ra thơ giả:
“Siêu lừa đệ nhất nàng thơ
Vì nàng tự cõi mơ hồ sinh ra”
Cõi đạo là cõi mơ hồ, cõi sắc sắc không không, cõi âm dương hoà hợp. Ranh giới giữa giả và thật đều rất mơ hồ:
“Thiên tài cùng với thằng điên
Cách nhau chỉ một đường biên mơ hồ”
Những thi sỹ ngông cuồng, mưu bá đồ vương trong thi ca cần tự cảnh tỉnh. Chỉ khi nào tâm thanh tịnh ta mới phân biệt được biên giới giữa thằng điên và thiên tài.
Thi hào là người rung cảm với sự rung cảm của Phật tại tâm, họ vượt ra khỏi sự rung cảm của cơ thể, của suy tư giả dối. Người anh hùng, các thi hào đều cô đơn:
“Người mạnh nào cũng cô đơn
Vì rằng kẻ yếu đông hơn rất nhiều”
Xuân Hương cô đơn, Nguyễn Du cô đơn, Nguyễn Bính cô đơn. Vì nếu họ suy nghĩ như cái giả tướng của mọi người thì họ không phải là thi hào. Vì họ rung cảm trong phần sâu xa, cội rễ tâm linh của xã hội thành ra họ đắc tội với xã hội:
“Nghĩ mình đắc tội với đời
Nói điều thầm kín mà người dấu nhau
Nghĩ mình đắc tội với trời
Thiên cơ lộ hết cho người trần gian”
Và tuyệt đỉnh vinh quang của thi hào cũng là tuyệt đỉnh cay đắng trong cô đơn:
“Càng hiểu được rất nhiều người
Càng khó tìm được một người hiểu ta
Đạt tới tuyệt đỉnh vinh hoa
Ngoảnh đầu nhìn lại chỉ là hư vô”
Đến khi xã hội đồng cảm với các thi hào thì thường là lúc họ đã bị bốc mộ nhiều lần! Vua Tự Đức khi đọc truyện Kiều đã phán: “Nếu Nguyễn Du còn sống sẽ nọc ra đánh 300 roi”. Còn Xuân Hương chế độ cũ coi là dâm tặc cực đoan.
PHẦN KẾT
Văn chương lưu danh thiên cổ là văn chương của Phật tại tâm, và thi hào là ngưòi ghi lại, sắp xếp lại, rung cảm lại. Thi hào chỉ như nải chuối đặt trên bàn thờ và loài người lễ lạy Phật qua biểu tượng nải chuối, chứ không ai lễ lạy nải chuối cả.
Phật tại tâm trong dân gian là nguồn gốc của mọi sáng tạo. Khi cảm xúc của thi sỹ đồng cảm với rung cảm của Phật tại tâm- Phật tại tâm và phật A Di Đà là cùng đơn vị- thì sẽ có những câu thơ của tâm thức. Tất cả mọi thứ đều hoại diệt, chỉ có tâm thức là vĩnh hằng:
“Nam mô đức Phật Di Đà
Cho ta thấy được cái ta đang là
Phật tâm lễ Phật Di Đà
Hai Phật lễ Phật còn ta là chùa”




“Văn đâu tải đạo, văn là đạo
Nước đâu chở sóng, nước là sóng”
THIỀN DÂN GIAN BÀN NGHỆ THUẬT
Các loại nghệ thuật khác nhau cũng là các loại khác nhau của thiền quán. Chúng ta không nhất thiết phải là phương tiện bầy tỏ ý niệm của người nghệ sỹ, mà là con đường thực chứng bằng cách phát triển mặt trực giác của ý thức. Như nhà thơ Huyền Thi viết:
“Huyền Thi có phép lạ đời
Ai thích thì đọc, ghét thời thì thôi


Huyền Thi có phép lạ đời
Già dơ đọc mãi thành người ngây thơ

Huyền Thi cứ đọc lai ra
Thấy sướng âm ỉ từ ngoài vào trong
Thấm sâu đến tận chỗ không
Địa ngục cũng mất, thiên đường cũng tan”
Nghệ thuật là một hình thức của thiền. Vạn cảnh giai không. Sở dĩ có yêu, ghét, tốt, xấu, nhỏ, to…là do có sự so sánh giữa các vật. Theo Anhstanh, khi ta ngủ dậy, mọi vật đều lớn lên một triệu lần thì ta không thấy được. Tự tánh của vạn pháp là rỗng không:
“Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn
Cho nên được gọi là khôn hơn người
Em xinh đâu bởi nụ cười
Em xinh là bởi nhiều người xấu hơn”
Khi ngộ tánh không, thiền nhân sẽ cười phá lên, cảnh thầy bói xem voi. Thiền dân gian sẽ cười phá lên…họ cười để khai ngộ vì thấy sự khôi hài của mọi thứ trên đời này. Họ cười như điên một cách sung sướng, điên một cách quân bình, điên một cách nổi dậy phá chấp. Đó là tiếng cười từ bi hỷ xả của Phật Di Lặc.
“Đức Phật Di Lặc
Bụng tựa Hồ lô
Chứa đủ tốt xấu
Rồi biến thành cười”
Chúng sinh khi mê đắm, họ cười từ bên ngoài vào vì họ chỉ cười cái bản ngã của họ. “Bậc cao nhân nghe đến đạo thì cố gắng làm theo, bậc trung nghe đến đạo thì thoạt nhớ, thoạt quên, hạng thấp nghe đến đạo thì cười to lên. Không cười to lên thì sao được gọi là đạo cả”.
Chúng ta cũng thử cười đủ 36 kiểu khi khai ngộ câu “ văn dĩ tải đạo”. Chúng ta có thể cười như hề gậy, tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Xuân Hương hoặc như các vị đại nhân quân tử, hoặc cười khai ngộ tính không của Đức Phật Di Lặc. Mà có lẽ các nhà văn cần phải hỷ xả nhất. Có vậy nên văn chương, nghệ thuật Việt Nam mới mong khởi sắc được.
Câu “văn dĩ tải đạo” của Khổng Tử nói cách đây 2500 năm. Nên chúng ta không thể hiểu câu này như nhân loại hiểu cách đây 2500 năm. Chúng ta ở từng góc độ hiểu nó ở cái đang là, cái hiện sinh thể kỷ 21. Mặt trời hôm nay không giống mặt trời hôm qua. Không ai tắm hai lần trên một dòng sông:
“Đừng thấy em bé mà tròng
Lớn lên anh sẽ phải lòng em ngay
Đừng thề mãi mãi đắm say
Mai kia em sẽ thành ngay bà già”
Điều này Hê-ghel gọi là lô gích biện chứng.
Phần này, ta sẽ bàn về văn học “khởi nguyên từ lời” – kinh tân ước – và lời là lời của Khổng Tử: “văn dĩ tải đạo”. Ta ngộ câu này theo lời dậy của Phật: “Lời dẫn ta tới chân lý, nhưng lời không phải là chân lý” và chắc chắn khi đã khai ngộ, chúng ta sẽ thành vô ngôn.
Gần đây, ta hiểu chữ “văn dĩ tải đạo” phiến diện dẫn đến làm trì trệ nên văn chương nước nhà. Vì thường ta hiểu đạo là đạo đức. Đạo của “văn dĩ tải đạo” là con đường, là cái lý của vũ trụ. Còn đạo hiểu theo nghĩa là đạo đức chỉ là một bộ phận của cái đạo toàn thể.
Cũng như khi đánh giá một con người, bác sỹ đánh giá theo tim mạch, huyết áp; cảnh sát đánh giá theo tiền án, tiền sự; thợ may đánh giá theo số đo… mà theo Gớt thì: “Mọi lý thuyết đều xám ngoét, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi”.
Chữ đạo trong “văn dĩ tải đạo” là quy luật của Tạo hoá. Cho nên, trong bãi phân cũng như viên ngọc đều là đạo, đều bình đẳng, đều tề đồng vật ngã. Con khỉ Tôn Ngộ Không cũng trở thành đấu chiến thắng Phật. Đạo “quân thần phụ tử” của Khổng cũng như đạo chích mà thôi. Được làm vua, thua làm giặc.
Thật ra, văn và đạo tục đế phân hai mà đệ nhất nghĩa đé thì chỉ là một. Văn và đạo là một chứ không là chiếc xe thồ chở đạo ở trên. Còn thứ ta gọi là đạo đức theo cách hiểu của từng người thì khác nhau. Hiểu “văn dĩ tải đạo” như hiểu thiền. Ta phải hiểu từ bên trong nó. Văn và đạo là dòng chẩy từ nó vào chính nó để trở thành nó. Sóng, nước tự đồng nhất.
“Văn không tải đạo, văn là đạo
Nước không chở sóng, nước là sóng”
Tất cả mọi cách hiểu về “văn dĩ tải đạo” đều không sai. Chỉ nhầm ở chỗ coi chân lý bộ phận là chân lý toàn thể. Cho nên, Phật không bao giờ kết luận đúng, sai. Mà Phật Tổ Như Lai chỉ nói: “dường như đúng”. Thật vậy, theo Anhstanh: “Nếu quy luật toán học dựa trên thực tại thì chúng chưa chắc đúng và chúng chắc chắn đúng thì chúng không dựa trên thực tại”.
Cũng có người khen kẻ thổi sáo hay, thì Trang Tử bảo đó là tên tù. Khi mọi người bảo đó là tên tù, thì Trang Tử bảo đó là người thổi sáo hay. Cũng như khi đang yêu, ta hiểu ta yêu. Nhưng nếu ai hỏi yêu là gì, thì ta không thể hiểu được:
“Yêu là nhớ ít tưởng nhiều
Yêu là chẳng hiểu mình yêu cái gì
Yêu nhau đâu bởi hàng mi
Đắm say đâu phải chỉ vì đôi môi
Yêu là yêu
Biết thê thôi!”
Mọi sự đều do tâm sinh mà lý của vũ trụ không lời:
“Lý của vũ trụ không lời
Sách là sai đúng của người viết ra
Không sách ta chẳng thành ta
Không xé sách cũng không ra con người”
Chúng ta, mỗi người đều có ý đóng góp để hiểu chân lý toàn thể về “văn dĩ tải đạo”.
“Nói một chữ về một chiều
Là người mắc bệnh nói nhiều, nói điêu
Nói nhiều chữ về đủ chiều
Là ta chỉ nói một điều: vô ngôn”
Tôi xin nhắc lại, phần này tôi hiểu “văn dĩ tải đạo” như hiểu thiền. Ta phải hiểu từ bên trong. Văn và đạo là sắc sắc không không, như vật chất vừa là hạt, vưa là sóng. Văn và đạo là một dòng chảy tự nó vào chính nó để trở thành nó.
Còn tất cả mọi diều định nghĩa về “văn dĩ tải đạo” thì theo Phật chỉ dường như đúng. Tất cả mọi lý thuyết giải thích chỉ sai ở chỗ coi chân lý bộ phận là chân lý toàn thể, tổng hoà mọi lý giả về “văn dĩ tải đạo” là chân lý toàn thể. Chân lý toàn thể là vô ngôn. Sau tất cả lý giải của mọi người, tôi cũng mơ ước mình được vô ngôn:
“Bước qua cánh cửa vô lời
Đi vào vô thức thành người vô ngôn”
Thầy bói xem voi chỉ thấy chân lý bộ phận nên thành hiểu nhầm, dẫn đến cãi lộn. Nhầm to nữa có thể thành cả cuộc chiến tranh. Khi đã hiểu được chân lý toàn thể chắc tâm sẽ thiền, tuệ sẽ sáng. Mọi người sẽ vô ngôn:
“Chỉ sờ một chỗ mà thôi
Thầy bói định nghĩa được voi là gì
Khi đã hiểu lẽ huyền vi
Sẽ không định nghĩa được gì về voi”
Bịt đầu, bịt đuôi con cá chuối, ai trông thấy dễ tưởng lầm là con rắn độc.










“Tự trói thì gọi là tu
Bị trói thì gọi là tù mọt gông”
PHÁ CHẤP
Thiền nhân hoát ngộ sẽ phá lên cười, cười đến hỷ xả, cười đến từ bi, cười đén rạn vỡ màn vô minh bao quanh họ. Vì thiền nhân thấy được sự hài hước, sự ngược ngạo của chính họ và của mọi người. Nên tiếng cười của họ là tiếng cười nổi dậy. Họ nổi dậy nhưng họ hiểu được luật nhân quả, cho nên họ chấp nhận hiện thực, họ biết “mọi lý thuyết đều xám ngoét, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi”. Họ vui sống trong cây đời, chấp nhận hiện thực, họ không chống lại cái toàn thể, họ chỉ chống lại bộ phận. Họ hiểu luật vô thường – phép biện chứng – nên thiền nhân là người phá chấp, phá bỏ những cái bảo thủ, lạc hậu. Họ thấy được bản chất sai lầm của mọi chế độ, nhưng chưa bao giờ có một đội quân thiền sư đi cướp chính quyền, rồi thiền sư xưng là hoàng đế, hoặc thiền sư tổ chức cuộc thập tự chinh để giành giật ngôi bá chủ, mà chỉ có các hoàng đế tự xưng là thiền sư, là lão phật gia như Võ Tắc Thiên, Từ Hy Thái Hậu. Thiền sư hiểu rõ, sở dĩ có chính quyền sai vì có nhân dân sai và ngược lại, nhân dân chính là nhân, còn chính quyền chỉ là quả. Không thể đem chính quyền Mỹ đặt tại Việt Nam và ngược lại. Thiền nhân chỉ chứng kiến chứ không có ý kiến. Thiền nhân chỉ bàn về đường đi chứ không bàn về cách đi.
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Thiền nhân cho rằng tất cả vạn pháp đều đúng, chỉ có họ là sai. Còn người duy ý chí thì cho rằng, mọi thứ đều sai, chỉ có họ và phe họ là đúng. Erkhart: “Siêu thoát hoàn toàn không muốn cái gì, nó để yên tất cả mọi sự vật”. Lão Tử gọi là vô vi.
Nghệ thuật thiền nổi dậy chống mọi điều chấp trước, nổi dậy phá chấp để yêu say đắm mọi chế độ, mọi cuộc đời hiện hữu. Nghệ thuật thiền không nổi loạn, phá bỏ toàn bộ mọi tồn tại khách quan. Nếu mình là tổng thống Mỹ, mình sẽ làm mọi điều như các tổng thống Mỹ đã làm. Và nếu tổng thống Mỹ có đủ cơ duyên như ta thì cũng làm mọi thứ như ta làm:
“Chạy ngược trên chiếc thuyền xuôi
Thì ta vẫn cứ phải trôi theo thuyền”




HỘI HOẠ
Hội hoạ thiền dựa theo tương khắc tương sinh. Hội hoạ thiền phương đông tuân thủ nguyên tắc trong một có tất cả. Chỉ càn hiểu một nguyên tử là hiểu cả vũ trụ. Còn hội hoạ phương tây theo quy tắc trong tất cả có một. Hiểu cả vũ trụ sẽ hiểu được nguyên tử. Hội hoạ phương tây thường theo nguyên tắc: không có hình thức nào không có nội dung. Nên họ thường tìm tòi, tẩy xoá mọi nét vẽ để từ hình thức đi vào nội dung. Hội hoạ phương tây được phép tẩy đi, xoá lại tuỳ thích. Vì họ hiểu ngoại vi nào cũng đi vào trung tâm. Xuất phát từ tư duy trong tất cả có một, nên hội hoạ phương tây đi từ tổng thể tới chi tiết.
Hội hoạ phương đông xuất phát từ triết lý trong một có tất cả, vạn pháp tương nhập, tương tức. Nên họ đi từ chi tiết tới tổng thể. Hội hoạ phương đông lấy tâm làm gốc. Không có trung tâm nào không có ngoại vi. Cứ có tâm rồi sẽ tìm ra cách hiểu cái tâm. Hội hoạ phương đông coi sự sáng tạo là khi ta xuất thần, nhận được ý chỉ của thượng đế thành nét vẽ. Ý chỉ của thượng đế chỉ ban một lần và không được sửa. Nên hoạ sỹ chỉ vẽ một nét không được tẩy xoá. Quan điểm phương đông: trong một có tất cả. Vạn pháp tương nhập, tương tức. Hội hoạ là xuất thần nên đi từ chi tiết tới tổng thể. Hội hoạ thiền không đi từ tiệm ngộ – vừa vẽ vừa tẩy xoá - mà hội hoạ thiền là hoát ngộ, là trong một chớp, hoạ sỹ phải nắm bắt được cái thần của sự vật, không được phép tiệm ngộ tẩy xóa tranh mình.

VĂN HỌC
Khi trí thức kiểm soát được vô thức là thiền, là sáng tạo tư duy hình tượng, là trực cảm bát nhã. Khi trí thức không nhập vào vô thức sẽ thành duy ý chí, ta chỉ có thể tuy duy lô gích. Khi thiền định thì tất cả là thi ca.
Ví dụ: có người triết lý rất giỏi về đạo đức nhưng lại sống rất vô đạo đức, vì trí thức không kiểm soát được vô thức. Sáng tác nghệ thuật là:
“Tìm quen trong lạ là thiền
Tìm lạ trong lạ là điên Trâu Quỳ”
Sáng tác nghệ thuật là hình tượng hoá vô thức được trí thức kiểm soát. Những nhà văn như Tô Hoài, Nguyễn Bính, Nguyên Hồng, Nam Cao, Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa… khi trình độ suy lý thấp, nhưng lại hoà nhập được vô thức, nên trực cảm bát nhã đã có những tác phẩm tuyệt vời một cách hồn nhiên:
- Tô Hoài viết “Dế mèn phiêu lưu ký”.
- Nguyên Hồng viết “Bỉ vỏ”.
- Thơ Trần Đăng Khoa khi còn ngây thơ.
Sau đó, họ càng sáng tác càng kém đi bởi vì đâu?
Vì họ càng tích luỹ trí thức cao bao nhiêu, họ lại càng không hoà nhập được vào vô thức, họ càng trở thành duy ý chí, trở thành tư duy lô gích:
“Màn trí thức vá chằng vá đụp
Mảnh soutien cạnh miếng cà sa
Chỉ còn cách quên đi mà ngắm
Ta mới nhìn được thấy trời xa”
Họ không thể sáng tác tuyệt vời như thời còn trong trắng ngây thơ. Cái thời hôn nhiên như nhiên ấy đã biết bao thơ ca, tiểu thuyết xuất thần ra đời. Đó là những ca từ “Thiên thai” của Văn Cao, “Con thuyền không bến” của Đặng Thế Phong, “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính…Những ca từ tuyệt vời ấy lại được sáng tác bởi những nhạc sỹ, thi sỹ, văn sỹ trình độ lý thuyết kém xa sau này. Sao vậy? Họ càng giỏi về lý thuyết lại càng kém về văn chương vì họ không ngộ thiền. Trí thức của họ không hoà nhập được vào vô thức. Họ không đi vào ngôi nhà của Chúa, ngôi đền nghệ thuật như đứa trẻ thơ mà đi bằng lý trí.
Ví dụ như Nguyễn Khải. Ông có năng khiếu lý trí làm thủ tướng hơn năng khiếu làm văn. Lý trí của ông mạnh hơn vô thức, nên văn của ông bao giờ cũng hay mà không bao giờ tuyệt hay cả. Và, người dân Việt Nam bao giờ cũng yêu thần đồng Trần Đăng Khoa như yêu chính tuổi thơ của mình. Tuổi thơ thánh thiện, sự hoà nhập tuyệt đối giữa trí thức và vô thức. Cũng như ai cũng muốn sờ chim đứa trẻ lên ba một cách thánh thiện. Và ai cũng ngại đọc thơ của Trần Đăng Khoa duy ý chí khi đã lấy vợ.
Xét lịch sử văn học thế giới cũng vậy. Mặc dầu ngày nay, trình độ khoa học càng phát triển mạnh mẽ thì trí thức càng tách xa vô thưc, con người thành duy ý chí và văn học cũng càng suy thoái đi.
Nhân loại sẽ không thể sản sinh được những trường ca Uy-li-át Ô-đít-xê, Tây Du Ký, Tam Quốc Chí…Cái thời đồng nhất đỉnh của trí thức và vô thức đã qua.
Xã hội càng phát triển, trình độ tâm trí càng cao, tâm càng bị chia trẻ. Chân lý bị cắt chia như cỗ máy. Cơ học sinh cơ tâm. Con người không đủ sức tổng hợp hiện thực. Vì thế văn học đang đi ngược chiều với khoa học. Lợi thuỷ thì hại hoả.
Một số nhà văn như Bal-zắc, Tônxtôi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đã hoà nhập được giữa đỉnh cao trí thức và vô thức nên họ viết được đều tay. Họ thuộc tầng lớp viết văn nhà nghề. Còn ở ta, hiện chỉ có nhà văn, nhà thơ nghiệp dư. Nghiệp dư hiểu theo nghĩa họ chỉ có giai đoạn ngắn hoà nhập được giữa trí thức và vô thức: “khi có thơ thì họ không có nhà. Khi đã thành nhà thì họ không có thơ”. Vì sau khi thành nhà thơ, họ bị:
“Đọc quá nhiều sách vào mình
Không tiêu hoá được cũng thành ung thư”
Chúng ta hãy đi vào ngôi nhà của đức chúa lời, ngôi đền của văn chương như đứa trẻ thơ, tự nhiên như nhiên.
Sáng tạo nghệ thuật là sự đồng nhất giữa thân và tâm, mà thân thể thường minh triết hơn lý trí:
“Cái đầu do sách sinh ra
Đầu do nhân tạo, thân ta của trời
Đầu Ngô, mình Sở than ôi!
Sao không nhất thể như trời đất sinh”
Đầu Ngô mình Sở là trí thức không đồng nhất với vô thức.















“Người bảo chân lý hướng này
Thì chân lý cũng ở ngay ngược chiều
Ở đời có ghét mới yêu
Chân như quay khắp bốn chiều đều như”
04:00 CH 04/10/2013
Thiền dân gian thời @- Nguyễn Bảo Sinh
“Rửa gươm trên sóng biển dâu
Ngựa ăn cỏ máu trên đầu thiên sơn”
THIỀN DÂN GIAN BÀN VỀ CHIẾN TRANH
Vận mệnh của dân tộc và của loài người do thần chiến tranh quyết định. Vũ khí từ cơ bắp đến đá, đao, giáo, mác rồi đến cuộc chiến tranh giữa các vì sao. Ngay đến định nghĩa chiến tranh cũng là cả một mớ bòng bong: thị, phi, chính, tà cũng còn hết sức mù mờ. Hai con gà chọi nhau, cỏ cây, hoa lá, muông thú tiêu diệt lẫn nhau có gọi là chiến tranh không? Theo Mác: khi chưa có giai cấp thì loài người chỉ gọi là đánh nhau, chỉ khi có giai cấp mới được gọi những cuộc đánh nhau ấy là chiến tranh. Còn theo Đác-uyn thì sinh vật đều có cuộc chiến tranh sinh tồn. Cuộc chiến tranh sinh tồn là sự chọn lựa tự nhiên của Tạo hoá, là động lực phát triển của muôn loài. Trong đấu tranh sinh tồn, thì đấu tranh cùng loài là ác liệt nhất.
Ngày xưa, theo quy định chế độ Phong kiến, các sử quan không cho phép nhà vua đương đại được đọc sử đương đại để giữ cho nhà viết sử được trung thực. Nhiều sử quan bị chém đến ba họ vẫn kiên quyết viết sử một cách trung thực. Tư Mã Thiên, nhà viết sử vĩ đại lớn nhất của Trung Quốc phải tội cung hình – bị thiến. Mặc dầu quy định của sử quan cũng gần như toà án theo thể chế tam quyền phân lập của Mông-tes-ki-ơ, Vol-te là độc lập nhưng thực tế thì nhiều khi ngược lại. Hiện nay, những giá trị chiến tranh, những nhân vật lịch sử còn đang thị phi lẫn lộn, chính tà vô minh. Xưa kia ta cho Tào Tháo là phi nghĩa, là gian hùng, đặc biệt tội ác của Tào Tháo khi giết cả nhà Lã Bá Sa là trời không dung, đất không tha. Ngày nay, người Trung Quốc đã lật ngược lại vụ án Tào Tháo. Tào Tháo không những được lịch sử tha bổng khỏi án tội phạm chiến tranh, mà còn được phong là anh hùng dân tộc. Còn vụ án tội phạm chiến tranh của Tần Thuỷ Hoàng thì vẫn xử y án. Lịch sử cân nhắc lại công tội của Thuỷ Hoàng: công là thống nhất được đất nước Trung Quốc, tội của Tần Thuỷ Hoàng là giết chết mấy chục vạn hàng binh. Toà án lịch sử vẫn xử Thuỷ Hoàng y án.
Mặc dầu có sự quy định chặt chẽ cho sử quan, những sách sử Trung Quốc cũng đầy lầm lẫn.
Còn sử sách Việt Nam thì lại càng nhiều điều chưa rõ hơn Tầu, vì dù có chặt chẽ đến đâu thì mỗi nhà viết sử cũng đều viết theo cách nghĩ của mình. Như Lê Nin viết: “Các nhà viết sử cũng chỉ phản ánh hiện thực qua lăng kính chủ quan”. Vạn pháp do tâm sinh. Mọi sự đều duy ở tâm sinh ra. Hiện hữu bao trùm lời, lời chỉ dẫn ta tới chân lý, nhưng lời không phải là chân lý, nhiều khi lời lại che cả ánh sáng của tâm.
“Lịch sử toàn chuyện ồn ào
Sự thật im lặng đi vào lãng quên
Lịch sử bầy chữ đặt tên
Khe chữ chân lý lặng yên ra vào”
Trong một có tất cả, hiểu một phân tử là hiểu cả vũ trụ. Hiểu một chi tiết lịch sử cũng hiểu cả loài người. Sự nhầm lẫn của sự đánh giá mọi sự là lẽ tất nhiên. Đạo là vô thường. Lịch sử cũng vô thường. Mọi sự đánh giá của quá khứ đều qua cái hiện hữu đều chỉ là hiện sinh. Dù là chuyện lịch sử hàng trăm triệu năm cũng chỉ là cái hiện tại. Lịch sử chỉ hiện sinh. Quá khứ chỉ tồn tại trong cái hiện sinh. Tương lai cũng chỉ hiện sinh. Quan điểm của thiền hiểu về quá khứ, hiện tại và tương lai:
“Hiểu hiện tại đang nằm trong vĩnh cửu
Thấy vô biên trong hữu hạn thân mình
Gương soi gương không có hình ở giữa
Trong suốt không không vẫn thấy sắc hình”
Các nhà viết sử cũng viết sử qua cái bản ngã hiện sinh. Tất cả mọi đám ma là làm cho người sống. Tất cả mọi quá khứ lịch sử chỉ là cái hiện sinh. Nhà thơ Trần Tử Ngang có nỗi đau của nhà sử học, vì không thể trở về với quá khứ với lịch sử với người xưa và cũng không thể nói chuyện được với người mai sau:
“Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Nịch thương nhiên nhi thế hạ”
Tri thức của cõi nhân sinh, của lịch sử cũng luôn lầm lẫn. Tư duy của loài người trôi nổi trong cõi vô thường:
“Đừng thấy em bé mà tròng
Lớn lên anh sẽ phải lòng em ngay
Đừng thề mãi mãi đắm say
Mai kia em sẽ thành ngay bà già”
Chỉ có Phật pháp vô biên, bằng tuệ nhãn vô ngã, vô thường mới có thể hiểu lịch sử sinh bởi nhân duyên, tự tánh con người cùng bản thể, mọi thứ sinh ra bởi cơ duyên. Nếu ta có đủ cơ duyên như tổng thống Bút, ta sẽ hành động như tổng thống Bút. Nếu tổng thống Bút có đủ cơ duyên như ta sẽ hành động như ta.
Còn về lịch sử dân tộc ta là dân tộc phía Bắc giáp Trung Quốc văn minh hùng mạnh, phía Nam giáp Chiêm Thành, Châu Lạp. Cách xử thế của nước ta có thể lấy câu nói của vua nhà Trần làm phương châm xử thế: Đối với Chiêm Thành, Châu Lạp ta phải đối xử như cha đối với con, còn đối với Tầu ta phải đối xử như con đối với cha. Những nhà viết sử Việt Nam đôi khi đánh giá về người Trung Quốc chưa thật toàn diện.
Từ xưa tới nay ta thường tự suy nghĩ, và tự tưởng tượng ra âm mưu xâm lược của người Tầu, ít ai nghĩ liệu điều ta nghĩ từ trước đến hiện nay có hoàn toàn đúng không. Theo Phật dậy thì bệnh lớn nhất của loài người là bệnh chấp trước, đạo Phật là phá chấp.
Người Trung Quốc còn gọi là người Tầu? Sao vậy? Vì khi người Trung Quốc sang cai trị ta gọi là quan, quan thổ ngữ Trung Quốc là “tào”, “tào” đọc chệch đi gọi là Tầu. Vậy quan Tầu cai trị ta vì sao?
Thật ra trong tất cả mọi cuộc mưu bá đồ vương của người Tầu từ thời tam hoàng ngũ đế đến thanh cung 13 triều đều tìm cách chiếm Trung Nguyên, các nhân vật lịch sử Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Chung Vô Diệm, Võ Tắc Thiên đến Khổng Minh, Khang Hy, Càn Long, tể tướng Lưu Gù, Hoà Đại Nhân, Từ Hy Thái Hậu…chẳng bao giờ bàn đến chuyện quyết xâm lược Việt Nam cả.
Khi Triệu Đà chiếm được Quảng Tây và Âu Lạc định xưng đế. Sứ giả Trung Nguyên là Lục Dận mời Triệu Đà sang thăm thủ đô Trung Quốc, Triệu Đà thấy ngay mình đang cai trị khu vực man ri, toàn bọn đóng khố, cởi truồng thì cách tốt nhất là bầy hương án quay về hướng Bắc nhận chức man vương do Hoàng đế Trung Quốc ban cho.
Khi Khổng Minh định tiến về Trung Nguyên tranh hùng cùng Tào Tháo, sợ man vương Mạnh Hoạch quấy rối hậu phương nên mang quân tiễu phạt răn đe. Chiến lược của Khổng Minh là ra thiên uy để Mạnh Hoạch quy phục chứ không hề muốn chiếm đất Quảng Tây khỉ ho cò gáy. Khổng Minh bầy mưu cùng Mã Tốc “thất cầm Mạnh Hoạch” để rảnh tay “lục xuất kỳ sơn”. Còn man vương Mạnh Hoạch chỉ coi đất An Nam là man vương của man vương. Những lần quân Tầu sang xâm lược ta đều do cuộc đấu đá nội bộ, cõng rắn cắn gà nhà sang cầu cứu, nên cực chẳng đã, Tầu phải cử quân đi cấp cứu chư hầu đã nhiều đời ngoan ngoãn triều cống. Quân Nguyên sang ta do Trần Di Ái cầu cứu. Càn Long cử Tôn Sỹ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh ta do Lê Chiêu Thống van xin. Nguyễn Ánh cũng cho Hoàng tử Cảnh sang Pháp cõng rắn cắn gà nhà.
Phật dậy: “kẻ thù của ta lại chính là ta”. Phật thí dụ: Chúa sơn lâm sư tử trong rừng, không con vật nào có thể diệt được sư tử. Nhưng sư tử lại chết vì con vi trùng vô cùng nhỏ bé. Vậy, kẻ thù trong nội bộ, trong chính bản thân ta là kẻ thù lớn nhất. Sau này, làm suy yếu đạo Phật chủ yếu là do đạo hữu gây ra. Sự đoàn kết nội bộ là yếu tố cơ bản để đạo Phật phát triển. Sự phá hoại bên trong là nguy hiểm nhất:
“Hại ta lại chính là ta
Phá chùa, phá đạo chính là sư ni”
Muốn hoằng dương được đạo pháp, đòi hỏi sư ni phải tự sửa mình. Đối với mọi người cũng vậy, trước phải tu thân sau mới tề gia và bình được thiên hạ.
Dấu ấn lớn nhất của lịch sử tâm linh loài người là mọi cuộc chiến tranh. Cuộc chiến tranh thần thánh giữa Asin - Héc to và con ngựa thành Tơ-roa trở thành một thiên trường ca, thiên trường hận của loài người. Trận Xích Bích, Tào Tháo bị Tần Thuỷ Hoàng thiêu cháy hàng trăm vạn hùng binh, nghìn viên thượng tướng. Trận Oa-téc-lô, Napoléon bị Anh tiêu diệt cũng gần trăm vạn quân, và bại tướng Napoléon bị cầm tù ở đảo Coóc đến chết. Chiến tranh thế giới thứ nhất, thứ hai loài người bị thảm sát gần trăm triệu. Rồi sinh đẻ có kế hoạch? Phải chăng học thuyết Man-tớt: “Con người phát triển theo cấp số nhân, lương thực phát triển theo cấp số cộng”. Hay như nhà thơ Trần Kế Xương tiên đoán: người đẻ, đất không đẻ, loài người sẽ:
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc con
Sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non”
Theo chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng: chiến tranh nổ ra là vì đấu tranh giai cấp. Hết giai cấp sẽ hết chiến tranh. Tiến lên thế giới đại đồng, hết giai cấp, thế giới chỉ có hát ca:
“Ngày mai đây tất cả sẽ là chung
Tất cả sẽ là vui và ánh sáng”
Theo Đác-uyn cho rằng chiến tranh là cuộc đấu tranh sinh tồn.
Theo kinh dịch, chiến tranh là chuyển dịch âm dương:
“Có âm dương, có em anh
Cho nên mới có chiến tranh trên đời
Có đất mà không có trời
Anh em lẻ bóng thì đời hư vô”
Lý về chiến tranh là cái lý vô cùng. Không thể lấy cái hữu hạn để giải thích cái vô cùng. Phần này tôi chỉ xin loáng thoáng cảm nhận về một số cuộc chiến tranh.
Ai khi đọc “Chiến tranh hoà bình” của Tônxtôi mà không xúc động tận đáy lòng về cơn hấp hối của công tước Bon-con-ski. Sau một trận tử chiến với Napoléon, đứng về mặt tâm linh thì linh hồn của kẻ thắng trận hay bại trận chỉ là một. Ta lại nhớ tới câu thơ tả hai kẻ tử thương của hai phe gặp nhau trên chiến trường:
“Dũng bừng tỉnh dậy dưới chồng tử thi
Lách mình chàng cố lên đi
Bên sườn hoen ố máu rì vết thương
Tiếng ai than khóc bên đường
Quân thù rên rỉ và đương thở dài
Trời ơi khát quá này ai
Đi qua làm phúc xin vài ngụm thôi
Trạnh lòng xúc cảm bồi hồi
Chàng đưa bình nước cho người tử thương”
Cơn hấp hối của người anh hùng Nga vĩ đại Bon-con-ski, ta vừa cảm nhận thấy cái đau đớn của chiến tanh lẫn cái hào hùng của người anh hùng:
“Trí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu”
Cái hào hùng của anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc chiến tranh chính nghĩa:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Khi hiểu được ý nghĩa cuộc chiến tranh, anh lính cụ Hồ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây”
Đứng về mặt nhân văn thì người lính vừa có cái anh hùng vừa có nỗi sợ hãi trước cuộc chiến tranh chưa rõ nội dung:
“Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài
Một tay thì cắp hoả mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”
Khi hiểu mục đích cuộc chiến, bộ đội cụ Hồ nghĩ:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Anh sẽ là sao sáng dẫn đường
Em mãi là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm ngát cánh hoa thơm”
Còn dân gian đồng lòng thương cảm anh lính xưa:
“Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng”
Dù gì chăng nữa, thì người lính đều có nỗi khổ cho nên, luật về chiến tranh là cấm được giết hàng binh.
Số kiếp một con người như Gơ-ri-gô-ri trong tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm”, thì dù đứng trong hàng ngũ Bạch Vệ, cũng như khi đứng trong hàng ngũ Hồng Quân thì chiến tranh đều có nỗi đau trong cái chảo lửa chiến tranh, số phận Gơ-ri-gô-ri và người Cô-dắc sông Đông thật đầy khâm phục và thương cảm, thương cảm và thêm thấu hiểu đạo trời đất. Khi đất nước Liên Xô đang hợp thì 14 nước tư bản cùng với Bạch Vệ - Côn xắc- cũng không thể thắng được. Sau này, khi đã đến hồi tan, thì do sai lầm nội bộ, Liên Xô không đánh cũng tan. Ôi, hợp tan bởi mệnh trời. Không có gì hợp mãi mà không tan, không có gì tan mãi mà không hợp.
Nỗi buồn của người lính Nga cũng là nỗi buồn của mọi người lính từ xưa tới nay. Nỗi buồn xa vợ con. Dư âm bài ca chờ đợi người lính từ mặt trận trở về của nhà thơ Si-mô-nốp, những nỗi buồn khắc khoải chờ mong như mất hút trong sương mù:
“Đợi anh, anh lại về
Trông chết cười ngạo nghễ
Ai người xưa rơi lệ
Hẳn cho sự tình cờ

Mưa có rơi dầm dề
Ngày có dài lê thê
Thì em ơi, cứ đợi…
Nỗi buồn da diết dường như vô vọng của người vợ Nga, cũng đồng cảm với nỗi buồn của người vợ Tầu đời Đường. Một buổi chinh phụ lên lầu ngắm cảnh, bỗng thấy nhành dương liễu xanh mát bên đầu tường chợt hối hận đã động viên chồng ra trận nơi biên ải:
“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thuý lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu”
Sự chờ đợi xa cách đau trong thực, còn đau hơn cả trong mơ như người chinh phụ trong khúc ca song thất lục bát não nùng của Đoàn Thị Điểm:
“Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không”
Để rồi người chinh phụ phải khóc trong mơ vì những buổi lỗi hẹn bởi sự bất ổn định của mọi cuộc chiến tranh:
“Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm
Ngập ngừng lá rụng cành trâm
Chiều hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao”
Sự chờ đợi, chờ đợi đến vô vọng như trong phim “Khi đàn sếu bay qua” của Liên Xô cũ. Người vợ chờ chồng trong đoàn quân chiến thắng trở về. Trong sự hân hoan cực lạc giữa người lính chiến trường gặp lại gia đình thân thương, có một thiếu phụ không gặp chồng lại nghe tin là mất tích, thiếu phụ ngước mắt nhìn trời xanh thẳm, mênh mông vô tận, từng đàn sếu trắng thong thả bay vào hư vô.
Ngày trở về ấy, người vợ không gặp chồng đã đành, đau khổ ngược tê tái hơn khi người lính từ cõi chết trở về lại không gặp người yêu hoặc người yêu đã đi lấy chồng, tay bồng tay mang:
“Nàng yêu mầu hoa xim tím
Áo nàng mầu tím hoa xim…
Không chết người anh ngoài tiền tuyến
Mà chết người em nhỏ hậu phương”
Đó chính là sự thấm thía của nỗi buồn sau chiến tranh, mà nhà văn Bảo Ninh đã mô tả như câu thơ của Giang Nam:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng tấc đất
Có một phần xương thịt của em tôi”
Dù có là anh hùng trận mạc như Pa-ven Coóc-sa-ghin sống sót trở về cũng để lại trên mình đầy vết tử thương:
“Phận trai già ruổi chiến trường
Ban siêu tóc đã điểm sương mới về”
Nỗi buồn sau chiến tranh còn để lại vết thương trong tâm linh của bao cô thanh niên xung phong cởi áo giáp trận trở về mặc áo cà sa, mượn cửa Phật để rũ đi bụi bặm phong trần. Buồn cùng nỗi buồn của các cô thanh niên xung phong lỡ thì trở về lập thành xóm không chồng, bến không chồng.
Buồn quá hoá buồn cười, khi anh chàng lính say rượu ngã lăn ra còn tếu táo nói câu đau lòng bảo mọi người chớ có cười mình, vì mấy khi người lính ra trận được sống mà trở về:
“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạt tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
Những chữ đao to búa lớn về chiến tranh trở thành tiếng cười xoà của Bút Tre:
“Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về”
Đấy là nụ cười xí xoá của người lính đi chiến đấu vì chính nghĩa trong cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân tộc. Còn nỗi cười ra nước mắt của các vị hảo hán Lương Sơn Bạc sau khi đánh Phương Lạp trở về mới thật thê lương. Đúng là sự man rợ đến tận cùng của cuộc chiến núi xương sông máu chỉ để “giãi thây trăm họ làm công một người”:
“Rửa gươm trên sóng biển dâu
Ngựa ăn cỏ máu trên đầu thiên sơn”
Hiện nay, ai thăm Trung Quốc, qua Hàng Châu, đến tháp chùa Lục Hoà được chiêm ngưỡng pho tượng Hành Giả Võ Tòng bị chém mất một tay phải, cánh tay áo bay vật vờ theo gió sông Tiền Đường cùng tiếng sóng ào ào như hồi trống xung trận:
“Trải qua những cuộc chiến tranh
Tâm linh nhân loại đều thành thương binh”
Ngày nay, ai qua sông Gianh mà không bồi hồi xúc cảm về con sông giới tuyến thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Ta lại như văng vẳng bên tai câu sấm của Trạng Trình truyền cho Nguyễn Kim:
“Hoành sơn nhất đái
Vạn đại dung thân”
Vì sự tranh chấp của hai họ Trịnh - Nguyễn đẩy dân tộc đến nồi da nấu thịt:
“Đây sông Gianh, đây biên cương thống khổ
Đây sa trường, đây nấm mộ thời gian
Đây dòng sông, dòng máu Việt còn loang
Đây cổ mộ xương tàn xưa chất đống
Sông còn đây! Hận phân ly nòi giống còn đây”
Sau hàng trăm năm, chuyện sử cũ lại lặp lại, vì thế lực đế quốc trên phạm vi toàn thế giới, vì quyền lợi của giòng họ Ngô Đình Diệm, một lần nữa sông Hiền Lương lại là “Sông còn đây! Hận phân ly nòi giống còn đây”. Bộ phim nhựa “Chung một dòng sông” với nữ diễn viên nổi tiếng Trà Giang in một dấu ấn trrong lòng dân. Một dân tộc Việt Nam anh hùng trong cuộc chiến tranh bất tận. Hình ảnh bà mẹ Việt Nam khắc sâu những nét đau khổ hằn lên trong lịch sử:
“Mẹ vẫn đào hầm
Từ lúc tóc còn xanh
Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc
Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác”
Bà mẹ đào hầm đến hết kiếp, trong sự hào hùng ấy ẩn dấu sự tàn khốc của chiến tranh. Bà mẹ Việt Nam ráng chịu đựng vì bà hiểu cuộc chiến tranh này là chính nghĩa:
“Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn là người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa”
Bà mẹ đào hầm “từ lúc tóc còn xanh, nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc, mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác”, chiến tranh quả là khiếp khủng. Vì tin vào chính nghĩa, như Đan Cô dắt dẫn loài người qua đêm mịt mùng đã lấy tim mình làm ngọn đuốc. Bà mẹ Việt Nam cũng thấy: “nơi hầm tối là nơi sáng nhất, nơi con tìm ra sức mạnh quê hương”.
Với chiến tranh thì bà mẹ Việt Nam cũng có nỗi đồng cảm với bà mẹ Liên Xô:
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi chuân chiên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”
Trong chiến tranh, người phụ nữ có nỗi khổ phụ nữ, người lính chiến trường có nỗi khổ của chiến trường:
“A-Liêu-Sa nhớ chăng
Những con đường Smô-lăng
Mưa dầm dề dai dẳng
Những chị em nhọc nhằn từng chặng
Mình gầy ôm vò sữa che mưa
Thầm lau nước mắt tiễn đưa
Cầu trời phù hộ cho ta lên đường
Thân gái cũng can trường chiến sỹ”
Sông Gianh, sông Hiền Lương, sông Bạch Đằng dưới đáy sông còn biết bao hài cốt những chiến binh mọi thời đại. Linh hồn kẻ thắng và linh hồn kẻ bại đều là linh hồn cả:
“Kể từ gây việc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu”
Du khách ngày nay đi du thuyền trên dòng sông Xích Bích mà trí tưởng rực lên bởi trận hoả công của Chu Du mượn gió Nam của Khổng Minh, khổ nhục kế của Hoàng Cái đã thiêu cháy 100 vạn hùng binh, nghìn viên thượng tướng của Tào Tháo.
Rồi nghĩ tới câu thơ của Hạng Vũ trước khi ái phi Ngu Cơ tự sát, buộc Hạng Vũ không lưu luyến ái tình mà mở đường máu thoát vòng vây của Hán Cao Tổ để sau này đánh trả thù: “Lấy máu Hán, rửa lâng lâng hồn Cai Hạ”
Hán Sở tranh hùng, xác dân vô tội thác oan cho cuộc mưu bá đồ vương:
“Kìa xem Hán Sở tranh hùng
Quân kỳ ca khúc điệp trùng nơi nơi
Trông gần chính nghĩa sáng ngời
Nhìn xa chỉ thấy lũ người giết nhau”
Giết nhau là bản thể của mọi cuộc chiến tranh, dù là chiến tranh thời đại đồ đá đến chiến tranh giữa các vì sao thì người mẹ nào mất con, cũng có nỗi đau nhân loại. Người Mỹ sau cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược Việt Nam, cũng đau xót như bà mẹ Việt Nam anh hùng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chính nghĩa sáng ngời khi đi tìm lại những hài cốt người lính. Thậm chí, trong nỗi đau vô hạn, người ta đi tìm hài cốt bằng tất cả mọi phương pháp khoa học cũng như duy tâm thần bí. Chẳng biết đúng hay sai, tôn giáo hay mê tín mà các nhà tìm mộ bằng ngoại cảm nhiều như nấm sau cơn mưa, làm tư duy xã hội quay cuồng trong hỗn độn của duy tâm hay duy vật. Mỗi dân tộc, mỗi cuộc chiến tranh, mỗi thời đại đều có cách lý giải riêng. Song nỗi đau của cuộc chiến tranh thì nhân loại cùng chung tiếng khóc của bà mẹ Nga trong cuộc chiến tranh vệ quốc đánh tan chủ nghĩa Phát xít.
“Đồn rằng ở xứ Coóc Đon
Có người mẹ đến mồ con sụt sùi
Khóc rằng con của mẹ ơi
Con yêu, con quý bỏ đời đi đâu
Con nghe thấy tiếng mẹ già
Mẹ ơi đừng khóc nữa mà héo hon
Đất đen phủ nặng mình con
Nhưng giòng nước mắt mẹ còn nặng hơn

Mẹ đừng khóc bên mồ con nữa
Trở về lo nhà cửa mẹ ơi
Bảo cho mẹ biết một lời
Rằng con mẹ chết cho đời tự do”
Biết thì biết vậy thôi, nhưng tử biệt sinh ly lòng người ai chả thương khóc. Đọc đoạn thơ này, ta lại nhớ tới bài ca liệt sỹ vô danh như tiếng gió gào mưa khóc trên mái nhà. Ta lại như văng vẳng câu thơ não nùng song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm:
“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”
Ai qua Quỳnh Lưu, Quỳnh Lập, Nghệ An còn nghe văng vẳng tiếng kêu cứu nỉ non tha thiết của các cô gái thanh niên xung phong bị mắc kẹt trong hang đá vì bom mỹ đánh sập cửa hang. Ai qua Hà Tĩnh đều nghiêng đầu kính cẩn, bùi ngùi cảm động trước bia kỷ niệm 10 cô gái Đồng Lộc rồi ngước nhìn trời xanh cảm thán:
“Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”
Nhìn nhận về chiến tranh theo Đác-uyn thì đấy là cuộc đấu tranh sinh tồn, sự chọn lọc tự nhiên.
Nhìn về học thuyết Man-tớt, lương thực phát triển theo cấp số cộng còn loài người phát theo cấp số nhân. Chiến tranh để giải quyết nạn nhân mãn.
Theo học thuyết Mác-Lênin thì cho rằng: chiến tranh là cuộc đấu tranh giai cấp, giải phóng dân tộc. Khi quan hệ xã hội không phù hợp với sức sản xuất sẽ có cuộc Cách mạng. Khi thế giới tiến lên thế giới đại đồng, xoá bỏ giai cấp con người làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu lúc đó sẽ có hoà bình vĩnh cửu.
Theo kinh dịch, đạo Phật: chiến tranh là sự đi tìm sự quân bình của xã hội. Đạo tìm nguyên nhân chiến tranh trong lòng chúng ta. Sự chuyển hoá của âm dương trong hiện hữu. Chiến tranh là sự bùng nổ của tham, sân, si. Khi con người xoá đi cái bản ngã, ngộ được vô ngã, vô thường, thì lúc đó loài người sẽ không có chiến tranh. Còn bản ngã sẽ tiến tới cực đoan, mà cực đoan sẽ nổ ra chiến tranh:
“Diệt mãi không hết trùm khủng bố
Vì lòng người đều có chỗ cực đoan”
Thiền là cách tiêu diệt chiến tranh về bản chất. Tiêu diệt mầm mống chiến tranh trong tự tánh của con người. Muốn vậy, con người cần phải hiểu chính mình:
“Đầy trời loạn sóng thanh âm
Đừng quên tiếng sóng từ tâm vọng về
Nhờ thầy gạt nhiễu sông mê
Để ta nghe tiếng sóng về từ tâm”
Khi đã ngộ vô ngã, vô thường, từ chỗ thương mình đến thương tất cả chúng sinh, lòng thương mở rộng khắp cõi nhân gian gọi là từ bi. Từ bi hỷ xả, ta sẽ cười cho sự mê đắm của lòng người. Cũng như cười anh chàng Đại Thánh có đằng vân đến trăm vạn dặm cũng vẫn nằm trong tay của Phật Tổ Như Lai, bàn tay của Tạo hoá.
Trong những cuộc đi thăm lại nơi trận địa xưa tại Điện Biên Phủ, mọi người đều bàn luận để rồi rút ra quy luật của Tạo hoá: sinh, lão, bệnh, tử. Các cựu chiến binh đều cười khà. Nụ cười ngộ đạo, cũng tươi mát như nụ cười của anh bộ đội trước khi đi ngủ, trước giờ nổ súng, đó là những câu chuyện tiếu lâm. Truyện tiếu lâm trai gái phải chăng đấy là tự tánh, là bản thể của mọi cuộc chiến tranh, mà thường bị che dấu đi.
“Về thăm chiến địa Điện Biên
Ngậm ngùi tiếc thuở tráng niên qua rồi
Ngày xưa kéo pháo băng đồi
Nay không kéo nổi qua đùi chị em”
Có biết bao anh lính từ chiến trường trở về, trở thành người anh hùng thời bình. Cũng có người sau cuộc chiến chưa hoà nhập vào được xã hội, mãi mãi sống với giây phút chiến trường nên cảnh tỉnh:
“Đừng nhắc mãi thời oanh nay đã liệt
Đại đao Vân Trường không đọ súng tiểu liên”
Cần khép lại quá khứ, mở ra tương lai. Nên chăng một số tượng đài kiểu “O du kích nhỏ giương cao súng, thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu” cần dẹp bớt để phù hợp với hoàn cảnh hiện hữu, ta đang hoà nhập với thế giới, hoà vào WTO.
Những cuộc chiến tranh thế kỷ 21 thường là những cuộc chiến tranh tâm linh. Ý nghĩa tranh chấp về vật chất thế kỷ 21 sẽ mờ nhạt. Muốn chống lại cuộc chiến tranh này, thì cá nhân phải tránh suy nghĩ cực đoan. Cần xoá bỏ chiến tranh ngay trong ta, nghĩa là giữ lấy quân bình trong tâm linh.
Để nói lên nỗi hào hùng của chiến tranh, văn nghệ sỹ miền Bắc thật thành công.
Còn nói về nỗi buồn trong chiến tranh thì văn nghệ miền Nam day dứt hơn nhiều. Kiếp người cũng như hạt bụi, mà là hạt bụi trong cơn lốc chiến tranh mới thật hư vô. Đó là hạt bụi mang tính mênh mông của vũ trụ, hạt bụi trong nhạc Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi” để một chớp mắt từ tóc xanh chợt thành “một chiều tóc trắng như vôi”, như người mẹ trong bài ca: “ Mẹ vẫn đào hầm từ lúc tóc còn xanh, nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc”. Ngẫm đến đây, ta chỉ còn biết ngâm khúc chinh phu não nùng:
“Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”
Cùng câu ca dao muôn thuở của người lính:
“Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”
Để rồi cùng cất tiếng cười ngộ được con người có thể đánh thắng nhau chứ không thể thắng được Tạo hoá.
“Về thăm chiến địa Điện Biên
Ngậm ngùi tiếc thuở tráng niên qua rồi
Ngày xưa kéo pháo băng đồi
Nay không kéo nổi qua đùi chị em”




“Ta như quả lắc quả cân
Chuyển động là để tự tâm quân bình”
THIỀN BÀN VỀ QUÂN BÌNH
Quân bình là thiền. Thiền bàn về quân bình nghĩa là thiền bàn về thiền.
Cả vũ trụ luôn chuyển động từ vĩ mô như mặt trăng, mặt trời, sao kim, sao hoả đến vi mô như nơtron, proton luôn chuyển động để tìm sự quân bình. Trong cõi tâm linh con người cũng luôn chuyển động còn nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng 300.000km/s. Tượng trưng cho sự chuyển động cả vô hình lẫn hữu hình là bức tượng chuyển động nhẩy múa của thần Shiva. Trong thiền học gọi sự biến hoá là lẽ vô thường. Các nhà triết học Hi Lạp nói bằng hình tượng là: “Không ai tắm được hai lần trên một dòng sông”. Thiền truyện Trung Hoa viết câu chuyện về một người đi thuyền đánh rơi kiếm, đánh dấu chỗ rơi trên mạn thuyền. Khi đến bến, anh ta mò kiếm theo chỗ đánh dấu trên mạn thuyền. Còn nhà triết học Đức - Hê-ghel - thì cho rằng, vạn vật là sự chuyển hoá của các mặt mâu thuẫn thống nhất, gọi tắt là lô gích biện chứng.
Người Trung Hoa kể chuyện một anh chàng đi bán thuẫn – như cái mộc hoặc áo giáp – và cái mâu - kiểu như bát sà mâu của Trương Phi. Anh ta quảng cáo thuẫn của anh ta không gì đâm thủng, còn mâu của anh ta thì đâm gì cũng thủng. Có người bảo nếu lấy mâu đâm vào thuẫn của anh ta thì sao?
Còn nhà thơ Huyền Thi cảm chuyện Tầu viết thành thơ:
“Đôi ta trên một con đò
Vạch thuyền đánh dấu ai ngờ sông trôi
Hẹn lời thề giữ lấy lời
Biết đâu lời của mỗi người là sông”
Các Mác- Lê nin - Ăng ghel đề ra chủ nghĩa duy vật biện chứng, muốn kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phơ-bách với chủ nghĩa duy tâm biện chứng của Hê ghel. Các Mác muốn xây dựng sự quân bình giữa cặp phạm trù mâu thuẫn duy tâm và duy vật.
FranVoi Juillien, nhà triết học đương đại của Pháp cũng có hướng kết hợp cặp phạm trù tư duy mâu thuẫn đông, tây bằng cách dùng minh triết phương Đông để giải thích khoa học kỹ thuật phương Tây và dùng khoa học kỹ thuật phương Tây để giải thích minh triết phương Đông.
Hiện nay, các nhà kinh doanh phương Tây đang rộ lên trào lưu nghiên cứu “Tôn ngô binh pháp” của Tầu để áp dụng vào đường lối kinh doanh hiện đại. Thế giới đang nhận thức đến chân lý quân bình những mâu thuẫn đối lập trong một thể thống nhất.
Ngược lại, có thể dùng khoa học kỹ thuật của phương Tây để giải thích cảnh đằng vân giá vũ, tiên bay lơ lửng bằng định luật Niutơn về sức hút của trái đất. Giải thích việc Lưu Nguyễn, Từ Thức nhập thiên thai một năm nơi tiên cảnh dài bằng trăm năm nơi trần thế bằng thuyết thời gian co giãn theo tốc độ.
Giải thích thuyết sắc sắc không không của đạo Phật bằng ma trận S – thuyết tương đối, thuyết xác suất và thuyết cơ học lượng tử.
Giải thích những lý thuyết khoa học kỹ thuật về nguồn gốc trái đất bằng thuyết vô vi của Lão Tử. Mọi định luật toán học, vật lý, sinh học được minh triết rõ ràng bằng thuyết nhân quả của đạo Phật.
Quân bình tạm chia làm hai loại: quân bình đỉnh và quân bình đáy. Quân bình đỉnh thống nhất mọi đỉnh điểm của các loại mâu thuẫn. Quân bình đáy thì ngược lại.
Ví dụ: Người kiếm thật nhiều tiền, tiêu nhiều tiền đúng mức là quân bình đỉnh. Còn người kiếm ít tiền, tiêu ít tiền là quân bình đáy. Mọi sự quân bình đều tốt đẹp.
Sở dĩ xã hội có những bước đột biến là khi loài người tạo ra được những quân bình đỉnh.
Nước và lửa là hai thứ mâu thuẫn đối ngược, nhưng khi loài người kết hợp được hai đỉnh của nước và lửa lại tạo ra máy hơi nước, tạo ra bước đột phá đẩy loài người tiến lên. Máy hơi nước đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại của loài người.
Sành sứ là đồ không dẫn điện, kim loại là vật dẫn điện. Hỗn hợp giữa kim loại và đồ sứ tạo ra chất bán dẫn đã nâng cuộc sống loài người ngang với cảnh thần tiên.
Đồ bán dẫn đã khiến ta nghe thấy, nhìn thấy, cảm thấy cái mà ngày xưa chỉ có thiên thần, thượng đế và đức Phật mới ngộ được.
Ở đây, ta phân biệt rõ sự quân bình đỉnh trong lẽ bình thường. Bình thường của sự quân bình đỉnh khác bình thường của kẻ quân bình đáy. Tổng thống Bút có cảnh giới bình thường khác với cảnh giới bình thường của kẻ ở tù:
“Bình thường là thường quân bình
Tầm thường là lẽ thường tình bình quân
Ta như quả lắc quả cân
Chuyển động là để tự tâm quân bình”
Bình thường là quân bình đỉnh và quân bình đáy. Còn tầm thường chỉ là loại quân bình đáy mà thôi.
Giữ được sự quân bình đỉnh là những người phi thường. Tất nhiên, có nhiều kẻ không giữ nổi quân bình đỉnh sẽ bị đổ nhào, trèo cao tất ngã đau. Đổng Trác và Lã Bố cùng mê đắm Điêu Thuyền. Mưu đồ chính của Đổng Trác là chiếm ngôi vua nhà Hán. Muốn chiếm được ngôi vua thì Đổng Trác phải dựa và sức mạnh Lã Bố. Theo Lý Nho – con rể của Đổng Trác- thì Đổng Trác cần nhượng Điêu Thuyền cho Lã Bố. Khi xẩy ra vụ Phụng Nghi Đình, Đổng Trác vì ghen với Lã Bố nên đã phóng kích định giết Lã Bố. Sau đó, Lã Bố đã trả thù và giết chết Đổng Trác. Đổng Trác đã không giữ được quân bình đỉnh giữa ngôi vua và Điêu Thuyền đẹp đến nghiêng thành, nghiêng nước.
Bạo chúa Nê-rôn vừa muốn giữ ngôi hoàng đế, vừa muốn trở thành nhà thơ đã nổi lửa đốt kinh thành để tìm cảm hứng thi ca nên bị thảm tử, vì không đủ tài đức giữ được quân bình đỉnh giữa nàng thơ và ngôi vua.
Đổng Trác và Nê-rôn không giữ nổi quân bình đỉnh vì trái với luật bù trừ của Tạo hoá, bù trừ ngược của kiểu duy ý chí tất dẫn đến bị lật nhào:
“Đạo người lấy thấp bù cao
Cao cho đến lộn tùng nhào chưa yên
Đạo trời bù dưới bớt trên
Cân bằng sinh thái không thêm bớt gì”
Sự bù trừ là tự tánh của tính quân bình. Chuyện xưa viết, một người sành chó, chọn mua được một con chó rất hay chuột. Song, người đó nuôi mãi mà chẳng thấy chó bắt một con chuột nào. Người đó bèn đi hỏi đạo nhân vì sao. Đạo nhân bảo:
- Con chó này rất thích săn đuổi các loại hổ, báo, lợn lòi…nếu muốn để cho nó bắt chuột thì hãy cùm một chân chó lại.
Một thời gian sau, quả nhiên con chó bắt chuột rất giỏi. Sao vậy? Vì con chó săn này là loại quân bình đỉnh, nay muốn để cho nó trở lại quân bình đáy thì ta buộc một chân nó lại để nó trở thành quân bình đáy.
Công án thiền về Điểu sào thiền sư như sau: “Quan Thái thú Bạch Lạc Thiên đến thăm nhà sư tu trên tổ quạ. Quan Thái thú hỏi:
- Thầy tu ở trên ngọn cây quá nguy hiểm, chỉ cần hơi mất quân bình là ngã tan thây.
Điểu Sào thiền sư đáp:
- Ở chỗ quan Thái thú mới nguy hiểm.
Bạch Lạc Thiên hỏi:
- Vì sao?
Thiền sư đáp:
- Vì nơi ấy thuỷ hoả tương giao dữ dội, nếu không giữ được quân bình đỉnh sẽ mất mạng như chơi.
Thái thú đáp:
- Điều ấy thì trẻ lên ba cũng biết.
Thiền sư đáp:
- Có nhiều cái trẻ lên ba biết, mà ông già 70 không hiểu”.
Đúng là nhìn thấy ông vua cởi truồng trong truyện cổ An Đéc Xen là đứa trẻ lên ba.
Huyền Thi có câu thơ rằng:
“Người ghi bia đá để đời
Còn tôi tìm chỗ tôi ngồi để quên
Nhìn trời nước dưới mây trên
Cúi xem lại thấy nước trên mây trời
Ngồi quên quên hết sự đời
Hỏi thăm chẳng biết tên tôi là gì”
Vĩ nhân trong thiên hạ là những người giữ được quân bình đỉnh. Hình tượng Từ Hải: “Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo. Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều, tấm lòng nhi nữ cũng siêu anh hùng”.
Gươm là thể hiện dũng mãnh, đàn biểu tượng của mềm mại. Kết hợp giữa hai đỉnh gươm và đàn, Từ Hải giữ được sự quân bình đỉnh.
Vua Càn Long nhà Thanh là vị vua được muôn đời tưởng nhớ, suy tôn thánh minh. Vì nhà vua giữ được quân bình trên đỉnh điểm mong ước của con người. Càn Long đã cân bằng được cao độ tình dục tự do với gái mại dâm khi du Giang Nam, với trách nhiệm của một ông vua anh minh mang lại an bình cho cả dân tộc.
Vị anh hùng dân tộc Tào Tháo cũng sống hết ý nghĩa con người ở trên các đỉnh cao chót vót đầy mâu thuẫn được thống nhất kết tinh lại.
Tào Tháo vừa là một tướng tài ba, vừa là một khách đa tình trong cuộc phiêu lưu tình ái, đã để Điển Vi phải thác oan trong lúc bảo kê cho cuộc truy hoan của Tào Tháo.
Mấy tiểu thư quý tộc hỏi Napoléon:
- Ngài đã chiếm cả thế giới, còn định chinh phục thêm người đẹp để làm gì?
Napoléon đáp:
- Nàng đã xinh đẹp như vậy còn trang điểm làm gì?
Đây chính là tri âm của những người tri kỷ, những người đi tìm sự quân bình đỉnh cho tâm linh.
Trên đường đến Tây Trúc thỉnh kinh, Đường Tam Tạng cũng luôn phải giữ quân bình giữa lực kéo dục vọng của Trư Bát Giới và lực kéo lý trí của Tôn Ngộ Không. Quân bình đỉnh giữa hai lực kéo này, Đường Tam Tạng đã tạo ra một véc tơ lực thẳng tới Tây Trúc.
Trong câu chuyện về bạn và thù, nhiều khi bạn không biết giữ quân bình biến thành thù, thù biết giữ quân bình lại biến thành bạn: “Con gấu trung thành ngồi canh giấc ngủ cho ông chủ. Con rắn bò đến định cắn chết ông chủ. Con rắn khôn ngoan tính toán mọi thế quân bình khi bò đến cắn. Sợ con gấu trông thấy rồi đập chết, sợ người chủ bỗng thức dậy trông thấy, sợ người chủ đã mang theo thuốc giải độc rắn cắn. Rắn nghĩ kỹ rồi bỏ đi. Bỗng có con ruồi bay đến đậu vào mũi ông chủ. Gấu vội vàng bê một hòn đá tảng đập vào con ruồi. Ruồi nát bét và đầu ông chủ cũng phọt óc lênh láng”.
Sự ngu si chỉ thấy một chiều, sự mất quân bình làm hại ta hơn cả kẻ thù độc ác.
Cho nên, ngành dược lấy con rắn độc làm biểu tượng. Nọc độc của rắn vừa giết người vừa cứu người, cái chính con người phải biết giữ quân bình. Cái có lợi cũng có hại. Dao nào cũng có hai lưỡi. Thuốc nào dùng không đúng mức, không giữ được quân bình đều có hại.
Những vĩ nhân giữ được sự quân bình đỉnh. Những người cùng cực cũng có cách tự lấy quân bình đáy của mình. Jăng-van-jăng trong truyện “Những người cùng khổ” tồn tại một cách hùng tráng, mặc dù là một tên tù khổ sai vẫn giữ được sự cao cả, lòng trong sạch của một nhân cách vĩ đại. Không ai quý sức khoẻ bằng người bệnh nặng, không ai yêu tự do bằng kẻ tù đầy, không ai mơ ước thánh thiện thánh nhân bằng gái mại dâm. Các cave bị xã hội đầy đoạ, bị đẩy vào thế mất quân bình, hụt hẫng về tâm linh, lập tức họ sẽ níu kéo mình về phía cực thiện, cực mỹ để lấy lại quân bình. Trong cái cùng cực của kẻ làm điếm thì sợi dây chằng kéo Thuý Kiều trở lại quân bình bằng lòng hiếu thảo bán mình chuộc cha. Nhiều cô gái điếm cắn răng nuốt nhục cho khách làng chơi dầy vò đẩy hồn xuống địa ngục, họ vẫn níu lại sợi dây kéo họ lên thiên đường, đó là họ hy sinh làm điếm để lấy tiền nuôi em ăn học hoặc mua thuốc chữa bệnh cho bố mẹ mắc bệnh hiểm nghèo. Nhiều cô gái điếm bòn mót từng đồng xu ghẻ của khách làng chơi chắt bóp thành mấy chục triệu để nuôi một thằng bồ nghiện, mua cả xe máy xịn cho hắn. Vì cô gái điếm đang lấy quân bình giữa lực đẩy của xã hội vào địa ngục, tên bồ nghiện là sức mạnh ảo tưởng đối lực kéo họ lên. Cô gái điếm thảm thương đang cố lấy quân bình ảo để rơi vào vực thẳm tăm tối:
“Đáy lòng của gái mại dâm
Đều mơ thánh thiện thánh nhân trên đời
Đáy lòng Thiên tử - con trời
Mong tận hưởng hết muôn đời mỹ nhân
Tâm tà sợ kính chiếu dâm
Lộn lèo run sợ thơ Xuân Hương Hồ”
Những người đắc đạo như Bồ Đề Đạt Ma đạt được mức cao chót vót của quân bình đỉnh. Đạt Ma là thái tử của Ấn Độ. Đạt Ma sang Trung Quốc để hoàng dương đạo pháp. Đạt Ma gặp Lương Vũ Đế. Vũ Đế khoe:
- Ta độ hàng chục vạn tăng ni, xây hàng nghìn ngôi chùa.
Đạt Ma đáp:
- Tất cả đều không.
Trả lời xong bằng câu giáo lý cùng huyền tắc diệu này mà Vũ Đế vẫn còn mê đắm. Đạt Ma biết cơ duyên chưa đến nên vào chùa Thiếu Lâm ngồi nhìn vách đá. Đến khi Đạt Ma chết, Vũ Đế mới hoát ngộ:
“Ôi xưa, ôi nay
Thấy mà chẳng thấy
Gặp mà chẳng gặp”
Sau đó có người nói với Vũ Đế là Đạt Ma cưỡi ngọn cỏ, chân đi một chiếc dép lướt biển về Ấn Độ. Vũ Đế cho đào mả Đạt Ma thì thấy quan tài rỗng không chỉ có một chiếc dép.
Đặc biệt, Đạt Ma vừa là tổ sư ngành thiền Trung Hoa, vừa là tổ sư ngành võ thuật Thiếu Lâm Tự, Đạt Ma đã quân bình đỉnh giữa đạo Phật là cứu đời và võ thuật, hai thứ này vốn mâu thuẫn với nhau như nước với lửa. Bài kệ của Đạt Ma về thiền học trở thành cương lĩnh cho tất cả các môn phái thiền:
“Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành phật”
Phật Tổ Như Lai là người kết hợp được đỉnh điểm giữa sắc và không, giữa ôm vào và buông ra. Như Lai ôm vào cả vương quốc Ấn Độ lẫn vương phi Da-Du-Đà-La tuyệt thế giai nhân rồi buông ra thành cái không tuyệt đối.
Trần Nhân Tôn cũng là người quân bình đỉnh giữa sắc và không, giữa ôm vào và buông ra. Trần Nhân Tôn đã chém giết 50 vạn quân Nguyên, ôm ấp cả ngai vàng và năm trăm thê thiếp khi ngài buông đao, buông cả ngai vàng, cả 500 thê thiếp lên núi Yên Tử tu hành thành Tổ của ngành thiền Trúc Lâm.
“Ôm vào rồi mới buông ra
Có ôm thật chặt mới rời thật xa
Ngẫm xem trong cõi người ta
Có là Thái Tử mới là Như Lai”
Mỗi giai đoạn lịch sử đều có cách quân bình riêng. Lịch sử nước ta từ năm 1930-1990 thì người quân bình đỉnh là kết hợp được giữa hoạt động cao về chính trị và làm thơ. Người đạt được sự quân bình đỉnh cao nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác là người lãnh tụ chính trị siêu việt, đồng thời là nhà thơ vĩ đại:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”

“Giữa giòng bàn bạc việc quân
Đêm về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Tất nhiên, trong giai đoạn chống Mỹ, các nhà thơ như Phạm Tiến Duật, Tố Hữu, các nhạc sỹ như Đỗ Nhuận, Văn Cao là nhà thơ tâm lý chiến đại tài:
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây”

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Anh hùng – thi nhân biểu hiện trong câu thơ Nga hào hùng và trữ tình:
“Thái dương sinh những bông hồng
Mẹ hiền sinh những anh hùng thi nhân”
Loại thơ ca mang tính nhân văn như “Chinh phụ ngâm” và một số loại ca dao thời Phong kiến là không phù hợp như kiểu:
“Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài
Một tay thì cắp hoả mai
Một tay cắp dáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”
Còn hiện nay, ta xoá bỏ giai cấp chuyển sang kinh tế thị trường, thì người anh hùng thời đại là người kết hợp được đỉnh cao của kinh doanh và văn hoá. Đảng ta đã rất sáng suốt khi đề ra Hội kinh doanh văn hoá do Lê Lựu cầm đầu. Người hùng thời đại là người phải làm giầu một cách có lương tâm, có văn hoá. Người anh hùng thời đại phải có cái nhìn đổi mới về đồng tiền:
“Khi mê bùn chỉ là bùn
Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen
Khi mê tiền chỉ là tiền
Ngộ rồi mới biết trong tiền có tâm”
Mọi hiện hữu đều quân bình, đều là quân bình động, là sự chuyển hoá thống nhất của các mặt mâu thuẫn đối lập, nhà Phật gọi đó là lẽ vô thường:
“Không ngồi lâu quá một nơi
Sinh lòng luyến ái khi rời nhớ thương
Khi đã hiểu lẽ vô thường
Nhìn đâu cũng chỉ là đường mà thôi”
Phật Tổ Như Lai khuyến cáo các khất sĩ: không nên ngồi nghỉ dưới một gốc cây quá ba ngày dễ sinh lòng luyến ái.
Thế giới đương đại là thế giới quân bình đỉnh của tâm linh. Những cuộc chiến tranh thế kỷ 21 mang nặng tính tâm linh. Thế giới thời chiến tranh lạnh quân bình giữa khối cộng sản và đế quốc do Nga và Mỹ cầm đầu. Thế giới hiện tại dựa trên sự quân bình giữa các đạo: Hồi, Thiên chúa và đạo Phật.
03:58 CH 04/10/2013
Thiền dân gian thời @- Nguyễn Bảo Sinh
THIỀN VỀ “ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG
Các dân tộc trên thế giới đều rất tự hào về mình, song tự hào quá mức đều có hại. Hiện nay, các dân tộc đều tìm hiểu cả mặt tốt lẫn mặt xấu của đất nước mình. Người Nhật tự đánh giá về tài nguyên nghèo nàn của đất nước, sự sai lầm của tư duy dân tộc đã dẫn nước Nhật trở thành đế chế Phát xít, gây đau thương cho loài người. Nhiều lần, thủ tướng Nhật thành khẩn xin lỗi các dân tộc đã bị Phát xít Nhật dày xéo, xin lỗi những phụ nữ đã bị làm nô lệ tình dục cho Phát xít đất Phù tang.
Người Pháp cũng tự thấy dân tộc mình bị già nua, bị tụt hậu trước trào lưu tiến bộ thế giới. Người Trung Hoa từ là một nước văn minh nhất thế giới, nước đã tìm ra quy luật hoạt động của mặt trăng, mặt trời, có nhà tư tưởng vĩ đại Lão Tử, Khổng Tử, do mắc sai lầm nên ngày nay đã trở thành nước chậm phát triển. Nước Trung Hoa gây ra cuộc tàn sát trong cách mạng văn hoá. Đặng Tiểu Bình khi mất cũng đã hối hận về một số việc làm của mình.
Nước Việt Nam ta bên cạnh những ưu việt, tất sẽ có một số nhược điểm. Tất cả những gì có phúc đều có hoạ. Tuyệt đối không có tuyệt đối gọi là tuyệt đối. Ta cũng cần phân tích một số nhược điểm của dân tộc mình.
Nhược điểm đầu tiên của dân tộc ta là thích “sống ở làng, sang ở nước”, không dám vượt biển đông để đi thám hiểm thế giới, mà quay về “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Bệnh “ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung” đã được Tô Hoài tả trong truyện “Dế mèn phiêu lưu ký”: “Ếch cốm đại vương ngồi ở góc bờ ao, mặt vênh váo tưởng mình là bá chủ hoàn cầu”:
“Người ngu vỗ ngực rằng khôn
Kẻ khôn lại biết mình còn quá ngu”
Người khôn là người đã đi xa, biết rộng. Đi xa, biết rộng sẽ biết được nhiều điều mới. Càng hiểu được nhiều cái mình không biết lại càng là người biết. Tuyệt đối không có tuyệt đối là tuyệt đối. “Trong góc bờ ao, ếch cốm đại vương ộp oạp to mồm song cũng không ngăn được đàn bò xuống uống nước”.
Trang Tử cũng đã viết cách đây hơn 2000 năm về bệnh “ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung”:
“Ở biển đông có một con cá sủ to, bỗng nhiên nó trèo qua bên cạnh miệng giếng. Một con ếch dưới giếng sâu nhìn thấy vội nói: “Oạp! oạp! oạp! oạp! Xin mời xuống tham quan nhé!”
Con cá sủ nói: “ Bạn sống dưới giếng sâu có thoải mái không?” Con ếch nói: “Tôi làm bá chủ dưới giếng nước này như một ông vua vậy, sao không thoái mái dễ chịu được. Bạn hãy xem đây, tôi nhẩy xuống giếng, nước tràn đến ấp ủ cả thân người tôi. Tôi vui sướng lặn xuống đáy giếng, bùn liền xoa bóp chân tay cho tôi. Đêm đêm, tôi không muốn ở dưới đáy giếng nữa, thì tôi nhẩy lên hang hốc ở bên trên thành giếng mà ngồi lim dim đôi mắt, mơ màng đến những điều kỳ diệu. Sau đó, trời sáng tôi lại muốn dạo chơi, thế là tôi nhẩy lên khỏi giếng đi dạo trên các cây lan can của mặt giếng. Mọi ngày tôi đều sống vui sướng như vậy. Nhưng ở đây tôi nhìn thấy một số con cua, nòng nọc con, chúng không được sống sung sướng như tôi đâu”. Nghe vậy, con cá sủ muốn nhẩy ngay xuống giếng xem coi có thật như ếch ta kể không. Nhưng chân trái của nó vừa đạp vào giếng thì chân phải của nó lại vướng bên ngoài không chuyển động được. Cá sủ chỉ còn cách rút chân lại. Cá sủ nói với ếch rằng: “Cái giếng của bạn nhỏ quá, tôi không nhẩy xuống được. Tôi vừa đến từ biển Đông. Để cho tôi kể cho bạn nghe cái vui của biển Đông vậy. Biển Đông vừa rộng vừa sâu, lấy chiều dài ngàn dặm, cũng không đủ nói lên sự rộng lớn của nó. Chiều cao năm ngàn thước cũng không đủ hình dung chiều sâu của biển. Thời đại của Vũ, mười năm đã có chín năm lụt lội, thế nhưng nước biển Đông cũng không tăng. Triều đại nhà Thương, trong tám năm đã có bẩy năm hạn hán nhưng nước biển Đông vẫn không cạn chút nào. Như vậy, không vì nguyên nhân dài hay ngắn mà biển thay đổi, không vì nguyên nhân mưa nhiều hay ít mà nước biển Đông tăng hay giảm. Đấy là cái vui của nơi biển cả”. Nghe cá sủ kể mà ếch giếng đảo con ngươi mắt lơ láo, rồi nó rụt thân lại, lộ rõ vẻ ngơ ngác, lạ lùng”.
Đồng thời Trang Tử là một thiền gia nên không chấp trước vào gì. Theo Phật Tổ Như Lai thì bệnh lớn nhất của loài người là bệnh chấp trước. Đạo Phật là phá chấp. Trang Tử cũng phê phán kịch liệt kẻ bắt chước một cách lố lăng. Không thể mang thể chế của nước Mỹ đặt ở Việt Nam, cũng không thể mang nền chính trị của ta đặt ở Mỹ. Nhân nào quả ấy. Không gì ra khỏi luật nhân quả. Bắt chước người khác một cách lỗ bịch cũng là một sai lầm lớn:
“Cái phúc của học, rõ rồi
Cái hoạ của học ai người biết chăng
Nhiều khi đi một quãng đàng
Sàng khôn không học, học toàn sàng ngu”
Một đứa trẻ của nước Yến đến Hàm Đan - đô thành của nước Triệu - để học cách đi của người Hàm Đan. Nhưng sau đó đứa trẻ không học được cách đi của người Hàm Đan, ngược lại cũng quên cách đi lại vốn có của bản thân mình, do đó cậu ta đành bò trở về nhà.
Cái cảnh “đi một quãng đàng, sàng khôn không học, học toàn sàng ngu” thì đã rõ như ban ngày, một số người Việt đi ra nước ngoài khi trở về nước đã suy nghĩ và sống rất lố bịch. Đặc biệt, ngay cả đến tiêu chí về cuộc thi hoa hậu ta cũng bê nguyên si tiêu chí hoa hậu của Tây:
“Hoa hậu Việt to tổ đùng
Kích cỡ kiểu ấy chỉ dùng cho Tây
Còn như dân Việt ta đây
Hoa hậu mét sáu vòng tay ôm vừa”
Cái xã hội lố lăng tây hoá ấy đã thể hiện rõ nét dưới ngòi bút của Vũ Trọng Phụng. Đó là ông T.Y.P.N, ông “biết rồi khổ lắm nói mãi” và cách phản đối của bà Phó Đoan cưỡng hiếp Xuân tóc đỏ. Xuân tóc đỏ trở thành vị anh hùng của thời đại mạt Pháp...
Dãy tre xanh bao quanh thôn xóm, ấp ủ tình làng nghĩa xóm, nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nhưng cũng chính luỹ tre xanh là nơi giam giữ, đầy đọa, kìm hãm dân tộc. Cái cổ hủ giam hãm dân tộc đến uất ức như người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc”:
“Dang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng phòng mà ra”
Ngày xưa, tôi bồi hồi cảm xúc trước khí phách của người anh hùng nông thôn:
“Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài tan”
Bây giờ tôi mới ngộ ra đây chỉ là loại cao bồi xóm, loanh quanh luẩn quẩn giữa xóm Đông và xóm Đoài trong một làng. Gà què ăn quẩn cối xay.
Ngay cả đến Tú Xương trong ngày tết viết:
“Ngày tết đến cũng phải thở một hai câu đối
Đối rằng: Cực nhân gian chi phẩm giá
Phong nguyệt tình hoài
Tối thế thượng chi, phong lưu...
Giang hồ, khí cốt
Viết vào giấy dán ngay lên cột
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay
Thưa rằng: Hay thực là hay
Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài”
Chuyến “giang hồ khí cốt” của Tú Xương là từ Nam Định đến Bắc Giang. Đúng là cuộc giang hồ vặt:
“Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Thấy khói nồi cơm cũng nhớ nhà”
Tú Xương giang hồ cũng chỉ loanh quanh gần váy vợ.
Trong khi đó trên thế giới, các dân tộc đang háo hức đi khám phá vùng đất mới. Cris-tốp Cô-lông tìm ra Châu Mỹ. Các chàng cao bồi Mỹ đã thoả chí tung hoành ngang dọc trên châu lục Mỹ mênh mông, như cánh chim đại bàng tung bay trên thảo nguyên hùng vĩ.
Ma-gien-lăng lênh đênh trên biển cả mênh mông, khám phá ra con đường xanh vòng quanh thế giới.
Người Anh, người Pháp tranh giành khám phá Châu Úc, Châu Á, Châu Phi. Cả thế giới náo nức giang hồ khám phá thì người Việt Nam vẫn yên ngủ trong chốn ao tù nước đọng:
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Truyền thống khám phá thế giới của người Châu Âu quả là mạnh mẽ. Chuyến phiêu lưu mạo hiểm của Rô-bin-sơn trên hoang đảo giữa biển cả thật vô cùng hấp dẫn. Khám phá ngay cả trong tưởng tượng như truyện “Hai vạn dặm dưới đáy biển” của Juy-véc-nơ.
Người A Rập cũng đầy những chuyện phiêu lưu khám phá như anh chàng thương gia Sin-bát. Sin-bát bất chấp mọi hiểm nguy đã tìm ra bao điều huyền ảo trong thế giới huyền vi.
Bốn thầy trò Đường Tam Tạng cũng thành huyền thoại của loài người trên bước đường xa xôi vạn dặm đi tìm chân lý. Mỗi bước đi của bốn thầy trò là một kỳ tích, một thần thoại nở hoa, một sự khám phá kỳ diệu. Tề Thiên Đại Thánh khám phá đến cả 18 tầng địa ngục Âm ty, tìm hiểu tận cùng lẽ sinh tử của con người: đốt sổ tử của Diêm Vương, khám phá tận đáy sâu của đại dương, phá tan điện của Đông Hải Long Vương, Tây Hải Long Vương. Điều khiển được các Long Vương làm chủ cả việc mưa nắng của Tạo hoá.
Tề Thiên Đại Thánh khám phá cả thiên đường, uống rượu đào tiên của Tây Vương Mẫu, uống trộm linh đan của Thái Thượng Lão Quân ở cung trời đạo suất:
“Huyền thi cứ đọc lai rai
Thấy sướng âm ỉ từ ngoài vào trong
Thấm sâu đến tận chỗ không
Địa ngục cũng mất, thiên đường cũng tan”
Cuộc phiêu lưu khám phá mang đầy tính huyền ảo của Uy-li-át Ô-đít-xê trong thần thoại Hy Lạp thể hiện giấc mơ thần thánh của loài người chinh phục chân lý.
Trong khi đó ta chỉ ru rú ở trong nước, lòng đầy kiêu hãnh vì “sống ở làng, sang ở nước”. Sống ru rú trong bụi tre xanh không những cùn nhụt về trí thức mà còn thoái hoá về gien giống. Sự lai tạo, sự khác lạ của gien giống tạo nguồn sinh lực mới cho loài người. Nếu cứ “trâu ta ăn cỏ đồng ta”, người cùng làng kết hôn lẫn nhau sẽ dẫn tới thoái hoá giống. Xét ra thì trong mỗi làng đều có họ hàng gần xa với nhau:
“Chim gi là gì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim gi
Chim gi là gì sáo sậu”
Trong một làng cứ chỉ lấy lẫn nhau khéo không khỏi loạn luân lúc nào mà không biết. Trong khi đó thế giới đang tiến tới xuyên quốc gia, xuyên lục địa và toàn cầu hoá tình ái:
“Ngày xưa một cối một chầy
Bây giờ nhiều cối nhiều chầy giã chung
Tiến lên thế giới đại đồng
Chầy ngoại cối nội đều dùng như nhau”
Tình yêu ngày nay là tình yêu tự do, bình đẳng, bác ái: không phân biệt mầu da, dân tộc, châu lục, tôn giáo, tình yêu của thế giới, tình yêu của lòng từ bi hỷ xả. Tình yêu thương tự do là tình yêu thương của Chúa. Từ chỗ yêu thương mình đến yêu thương không biên giới là từ bi.
Chỉ vì tư duy bị vây hãm trong luỹ tre xanh tự hào và chấp nhận:
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Ta có cái tự hào của con chim sẻ nhỏ. Thiền nhân Trang Tử đã phá đi cái chấp trước ấy khi kể câu chuyện:
“Khi đại bàng bay lên cao chín vạn dặm dưới bầu trời, chim sẻ con cười cợt, chế diễu nói: “Cái con ấy tiêu hao sức lực to lớn như thế, bay cao như vậy để làm gì nhỉ? Tôi ở dưới đất muốn bay là bay. Có khi tôi bay tới ngay cây Du. Có khi tôi bay không tới trên cây thì rơi ngay xuống đất là thôi. Như tôi đây tự đến rồi tự đi, ở bãi cỏ, trong rừng cây bay nhẩy như thoi đưa, cũng có thể là tôi bay rất điệu nghệ, tuyệt vời rồi”.
Con đại bàng khi bay trên biển bão, gió to sắp đến, nước biển đục ngầu như sôi sùng sục, lúc này đại bàng liền xoè rộng đôi cánh ra, sóng biển bắn lên cao ba ngàn dặm, sau đó mượn gió cuốn lên, xông thẳng vào không trung, bay lên cao chín vạn dặm. Đại bàng bay sáu tháng trời mới đến được biển Nam Hải, và nghỉ ngơi ở nơi ấy. Nam Hải là một cái hồ thiên nhiên to lớn.
Lúc đại bàng đang bay cao chín vạn dặm trên không trung cúi đầu nhìn xuống chỉ thấy từng hàng hơi khí rời rạc lang thang tựa như con ngựa rừng giữa không gian và hơi thở của những sinh vật thổi tung lên những bụi bặm làm mờ vẩn đục cả một mảng trời. Tất cả sông núi, thành quách, nhà cửa dưới mặt đất đều dần dần biến mất. Đại bàng lại ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy không gian mênh mông vô tận. Bây giờ trời đất và đại bàng hoà vào nhau thành một khối trọn vẹn”.
Lúc thiền nhân đắc đạo là thiền nhân và trời đất hoà vào nhau thành một khối trọn vẹn. Cái bản ngã đã hoà vào vũ trụ thành vô ngã:
“Cho ta về chỗ gió mưa
Cho ta về chỗ có trưa có chiều
Về nơi có ghét, có yêu
Nắng, mưa, yêu, ghét, sớm, chiều như ta”
Đại bàng của Trang Tử bay lên cao chín vạn dặm giữa bầu trời, ở đây ranh giới là mênh mông trọn vẹn, ý nhằm để đả phá hết thảy những ai vì một thế giới tương đối.
Sự phi hành của chim sẻ nhỏ là trí thức, là giới hạn của chim sẻ, căn bản không thể hiểu được đại bàng, cho nên mới cười cợt, chế giễu đại bàng.
Chim sẻ nhỏ có tâm của chúng sinh, còn đại bàng là tâm của chúng sinh khi đã gạn đục khơi trong.
Nhiều khi vì ít nhìn nhận được trong người còn có cái ngoài người, trong dân tộc còn có cái ngoài dân tộc, trong thế giới còn có cái ngoài thế giới, trong trời còn có cái ngoài trời, nên ta sinh ngã mạn, ta chỉ có tâm trí của con chim sẻ.
Dân tộc ta chỉ thích yên phận thủ thường. Chỉ đi cách Hà Nội 30km đường chim bay đã cho là nơi thâm sơn cùng cốc, rất e ngại đặt chân đến đấy vì cho là nơi ma thiêng nước độc:
“Yêu nhau cho thịt cho xôi
Ghét nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì”
Lạng Sơn cách Hà Nội chỉ 100km đường chim bay mà người Việt Nam đã coi xa như hàng vạn dặm:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em”
Tư tưởng bảo thủ vì ít được đi xa, nhìn rộng. Nên nhà thơ Nguyễn Bính đã dị ứng với sự đổi mới. Giữ lấy bản sắc dân tộc là đúng, nhưng giữ tới mức độ bảo thủ thì là sai. Mà thực tế không có thể kéo lùi bánh xe lịch sử lại. Theo Phật, vạn pháp là vô thường. Môi trường luôn thay đổi, loài vật nào, con người nào thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh sẽ phát triển, sẽ tồn tại. Con kỳ nhông luôn thay đổi mầu sắc để nguỵ trang nhằm tránh kẻ thù và săn bắt mồi. Mọi quẻ bói trong kinh dịch đều chỉ bàn về chữ thời. “Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”. Chữ kinh đi liền với chữ quyền mới là thức giả. Cao thủ thua tranh thủ. Chính vì không nhìn xa trông rộng, ít được chu du toàn cầu nên ta dễ dị ứng với cái mới, hoặc ngược lại theo cái mới một cách lỗ bịch. Nguyễn Trường Tộ đi xứ sang Pháp, mô tả đèn điện treo ngược mà vẫn sáng lên làm các quan đâm tẩu hoả nhập ma.
` Thơ Nguyễn Bính nói lên tâm tư người Việt, thuần phong mỹ tục của dân tộc làm rung động trái tim hàng triệu người, nhưng nếu hiểu nhầm hoặc bị lợi dụng ta sẽ đi ngược lại với trào lưu thế giới:
“Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”
“Hoa chanh thơm ngát hương chanh
Thầy bu mình với chúng mình chân quê”
Chúng ta hoài tưởng cái cũ, tôn trọng lịch sử nhưng không thể chống lại quy luật toàn cầu hoá. Đạo là vô ngã, đời là vô thường:
“Đừng thấy em bé mà tròng
Lớn lên anh sẽ phải lòng em ngay
Đừng thề mãi mãi đắm say
Mai kia em sẽ thành ngay bà già”
Ngay cả người nằm ở Hải ngoại nếu không đủ tính hiện đại, quá nệ cổ cũng sẽ bị lạc hậu ngay giữa xã hội hiện đại. Hỏi nhạc sỹ Phạm Duy về giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê ở Pháp. Phạm Duy trả lời:
- Trần Văn Khê là một nhà bác học về âm nhạc Việt Nam tại Pháp. Song, tuy sống ở Pháp, tiếp cận với nền âm nhạc hiện đại mà sự thông thái âm nhạc của giáo sư Trần Văn Khê còn quá nệ cổ.
Cũng có người tuy không ra khỏi nhà, không mở cửa sổ mà vẫn biết được chuyện thiên hạ. Khổng Minh nằm trong lều cỏ trên đất Ngoạ Long mà biết được cục diện tam quốc của cả đất nước.
Những nhà đạo học Lão – Trang khi hiểu đạo, biết bản thể của con người thì có thể biết được chuyện diễn biến loài người hàng mấy nghìn năm. Trang Tử viết về tự tánh.
Người đời đều nói: “Bành tổ sống tám trăm tuổi, là người sống lâu nhất ở thế gian rồi”. Nhưng nếu đem tám trăm tuổi làm tuổi trường thọ, nghĩ một cách tỷ mỷ quả thật là một việc đáng đau buồn.
Bởi lẽ có một loài sinh vật nhỏ gọi là Triêu Khuẩn sớm sinh, tối chết xưa nay chưa bao giờ biết thế gian có cái gọi là một tháng. Ngoài ra có một loài sâu bọ gọi là con ve đông, sinh ra vào mùa xuân, chết vào mùa hạ, sinh ra vào mùa hạ thì chết vào mùa thu. Nó cũng chưa bao giò biết được rằng trên thế giới có cái gọi là bốn mùa. Thế nhưng, trên bờ biển phía nam nước Sở có một con rùa linh rất to lớn, năm trăm năm đối với nó chỉ là một mùa xuân, năm trăm năm đối với nó chỉ là một mùa hạ mà thôi. Trong thời thượng cổ lại có một loài cây xuân, tám ngàn năm đối với nó chỉ là một mùa xuân, tám ngàn năm đối với nó chỉ là một mùa thu mà thôi.
Cây Ưu Đàm 3000 năm mới nở hoa một lần. Mỗi một lần hoa Ưu Đàm nở đều có Phật ra đời.
Con Triêu Khuẩn và con ve đông gọi là “tiểu niên”. Linh quy, cây xuân, Ưu Đàm gọi là “đại niên”. Bởi vậy loài “tiểu niên” làm sao hiểu được “đại niên”.
Bành Tổ tám trăm tuổi đối với cây xuân và Linh quy mà nói chẳng phải là “tiểu niên” hay sao? Người đời cho rằng ông Bành tổ là thượng thọ chẳng phải là nỗi đau xót của “tiểu niên” hay sao?
Người trí tuệ nhỏ làm sao hiểu được người trí tuệ lớn.
Vua quan triều Nguyễn vì không hiểu nổi trí tuệ toàn cầu. “Tiểu niên” không hiểu nổi “đại niên” nên đã thi hành chính sách “bế quan toả cảng”, không tìm hiểu tình hình thế giới nên đã để thực dân Pháp xâm lược giang sơn gấm vóc tổ quốc. Một số nước Châu Á như Thái Lan đã biết quân bình các thế lực đế quốc nên đã giữ được đất nước hoà bình mấy trăm năm.
Ngay cả khi Phát xít Nhật đại bại, hai quả bom nguyên tử của Mỹ thả xuống đất Nhật. Người Nhật đã nhìn xa trông rộng, chấp nhận đau thương, đổi mới tư duy nên đã biến đất Nhật từ bãi hoang tàn sau chiến tranh trở thành một cường quốc về kinh tế trên thế giới.
Các nhà cách mạng Việt Nam như Phan Bội Châu cũng ngộ được cái sai lầm của “bế quan toả cảng” của triều đình Nguyễn, tư tưởng ru rú xó nhà, “sống ở làng, sang ở nước” của dân tộc nên đã mở cuộc Đông Du sang Nhật, học tập tư tưởng canh tân của Nhật. Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu với châm ngôn: “Nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân” đã hé ra chân trời mới cho dân tộc Việt Nam.
Còn Phan Chu Trinh lại hướng dân tộc thoát khỏi cảnh “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” bằng con đường Tây Du. Phan Chu Trinh đã làm bản điều trần với chính phủ Pháp để mong hiểu biết lẫn nhau, tạo ra tình thế “Pháp Việt đề huề”.
Tuy Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh chưa tạo được một thể chế văn minh mới cho dân tộc, song cũng hướng cho dân tộc ta thấy được trào lưu cách mạng thế giới. Tuy cuộc cách mạng Duy Tân này không thành công nhưng cũng thành nhân.
Bác Hồ là người hiểu rõ luật nhân quả, lẽ vô thường nên Người phá chấp “sống ở làng, sang ở nước”, từ bỏ vũng ao tù vượt biển Đông tìm con đường xây dựng đất nước ta thành đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc. Bác Hồ đã biết học tập cách mạng thế giới, để xây dựng cách mạng Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngày xưa coi trái đất là mênh mông, ngày nay thì trái đất chỉ còn là một ngôi nhà, thậm chí đại dương cũng chỉ còn là một cái giếng làng. Loài người không chỉ ộp oạp như con ếch dưới cái giếng mà đang đi chinh phục vũ trụ. Ga-ga-rin bay vào vũ trụ. Chó Lai ca đã bay lên cung Quảng để thăm chị Hằng. Các nhà du hành vũ trụ Mỹ đã thám hiểm cung Quảng của Hằng Nga và mang về những mẫu đất có dấu chân của thằng Cuội. Loài người bay vào vũ trụ, đại náo cả Thiên cung. Trên vũ trụ nhìn xuống, trái đất khác gì như một cái giếng, con người không bằng một phần triệu hạt bụi. Lúc đó ta mới ngộ được tánh không của nhà Phật.

THIỀN CỦA PHẬT TỔ NHƯ LAI
Ta xem những nơi các vua và các nhà cầm quyền cai trị như là những hạt bụi. Ta xem những kho vàng và châu ngọc như những viên sỏi. Ta nhìn những chiếc áo lụa tốt đẹp nhất như những mảnh vải rách tả tơi. Ta thấy vô số thế giới của vũ trụ này nhỏ như những hạt trái cây, và chiếc hồ lớn nhất ở Ấn Độ như một giọt dầu trên bàn chân ta. Ta biết giáo lý thế gian là những ảo thuật của phù thủy. Ta thấy rõ tư tưởng cao siêu của sự giải thoát như là một miếng nhung vàng trong giấc mộng. Ta thấy thánh đạo của những kẻ thông sáng như những đoá hoa xuất hiện trước mắt một người. Ta xem sự thiền định như là một cột trụ trên núi cao và niết bàn là một cơn mộng du giữa ban ngày. Ta xem những lời phán quyết đúng sai như một sự uốn mình nhẩy múa của con rồng, và sự lên xuống của đức tin là dấu vết của bốn mùa để lại.
Khi đã hiểu đạo Phật là phá chấp, Phật là vô trụ xứ, ta sẽ không chấp vào một phía nào. Ta không chấp vào tính dân tộc cũng không chấp vào tính hiện đại. Dân tộc ta cần phải sống một vừa hai phải. Hai phải: có nghĩa là thế giới có cách tồn tại của thế giới, dân tộc Việt Nam có cách tồn tại của Việt Nam. Một vừa: có nghĩa là ta chấp nhận và dung hoà cả hai. Đạo của các đạo là đạo quân bình. Tư tưởng triết học phương Đông đang tràn sang phương Tây, khoa học phương Tây tràn sang phương Đông. Hiện nay trường phái của Frăng-xoa Juy-liêng dùng khoa học phương Tây giải thích triết học phương Đông và dùng triết học phương Đông giải thích khoa học phương Tây để tạo ra thế giới quân bình.
Chúng ta cần học tập tinh hoa thế giới, cần đi một quãng đàng học một sàng khôn để chữa bệnh “ếch ngồi đáy giếng”, “gà què ăn quẩn cối xay”. Song càng đi xa để càng hiểu thêm ao nhà, bụt chùa nhà mình:
“Phải đi đến tận biển xa
Mới thấy cái đẹp ao nhà của ta
Phải đi lễ đủ chùa xa
Mới thấy được bụt chùa nhà rất thiêng”




“Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi”
THIỀN DÂN GIAN BÀN VỀ VOI
Mỗi dân tộc đều có cách tư duy riêng về voi. Người Thái coi voi là thần tượng. Biểu trưng của dân tộc Thái, Lào là con voi. Quà lưu niệm của Trung Quốc là Vạn Lý Trường Thành, của Pháp là tháp Ép-phen, của Mỹ là tượng Nữ thần tự do, còn của Thái và Lào là con voi. Lào đặt tên nước là Vạn Tượng. Khách du lịch sang Thái chắc khó ai quên trận đấu bóng của các cầu thủ voi khổng lồ.
Người Mỹ viết một cuốn sách rất sâu sắc: “Làm thế nào để nuôi voi trong nhà, vui và có lợi”. Qua cuốn sách này, thể hiện rất rõ tính khoa học thực dụng của dân tộc Mỹ.
Người Đức làm một cuốn sách dầy như từ điển: “Sơ thảo về voi”, người Đức là người sống duy ý chí. Duy ý chí đi tìm một phía của chân lý. Chân lý hiện hữu gồm hai mặt. Một nửa cái bánh mỳ là 1/2 cái bánh mỳ. Một nửa chân lý không phải là 1/2 chân lý. 1/2 chân lý kiểu Đức là mảnh đất để chủ nghĩa phát xít phát triển. Người Đức là dân tộc triết lý. Nước Đức là cái nôi của hai phía: chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản.
Người Nga cũng làm một cuốn sách dầy, trên bìa sách có ghi dòng chữ cổ: “Tổ tiên ta đã tìm ra voi như thế nào”. Người Nga phần nào cũng muốn triết lý kiểu Đức, nhưng suy nghĩ của họ nệ cổ nhiều hơn, thiếu đi đến tận cùng của triết lý. Vì vậy, văn học, hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc của Nga hơi bị nặng nề, cổ lỗ và thiếu tính cách điệu.
Người Pháp làm một cuốn sách mỏng, trang trí cầu kỳ với nhiều hình tượng cách điệu ngoài bìa với nhan đề “Voi và đời sống tình dục của nó”. Pháp là đế quốc già, rất tinh tế trên lĩnh vực thưởng thức hương vị cuộc sống, mọi thứ dưới con mắt người Pháp đều chỉ bông phèng, ý chí chiến đấu đạt được thành quả cao, vươn lên hàng đầu thế giới thì Pháp không mạnh mẽ như Mỹ.
Voi đối với người Ấn Độ, một dân tộc giầu tưởng tượng, triết lý về cái ảo rất huyền diệu đã có nhiều chuyện sâu sắc về voi. Chuyện về một con voi chúa đưa cả đàn voi ra khỏi đầm lầy đi tìm miền đất hứa. Để đạt được ý nguyện, voi chúa đã phải hy sinh thân mình. Con voi chúa đó là tiền thân của Phật Tổ Như Lai.
Chuyện về Phật Tổ Như Lai khi đi khất thực, đã bị kẻ thù là Đề Bà Đạt Ma thả con voi dữ ra để quật chết. Nhưng nhờ thời trẻ, Như Lai huấn luyện voi tài tình nên đã thuần phục được voi dữ và dắt về giao cho quản tượng.
Trong câu chuyện voi của người Ấn Độ đều mang nặng chất tôn giáo. Nó cũng tâm linh như dân tộc Ấn.
Còn người Trung Quốc nghĩ về voi lại thâm thuý, uyên nguyên như kinh dịch. Một con voi bị chết, da voi quá dầy nên cáo không làm sao ăn thịt được. Sau cơn mưa, voi bỗng chương bụng lên, cáo chui vào hậu môn của voi để xơi thịt voi. Sau đó bụng voi xẹp xuống, cáo không ra được và chết trong bụng voi.
Qua chuyện con voi là một bài học sâu sắc về chân lý: trong phúc có hoạ. Sinh ư nghệ, tử ư nghệ. Cái làm ta sống cũng là cái làm ta phải chết.
Chuyện về voi của Việt Nam quá phong phú, vừa triết lý sâu sắc, vừa trào phúng dân gian như khi Trạng Quỳnh sau khi làm xong bài thi đã đề thêm vào câu thơ:
“Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi
Đứa nào chửi tớ nó ăn bòi”
Chuyện thừa giấy để rồi vẽ voi châm biếm những chuyện bông phèng của xã hội, về những chuyện vớ vẩn mà những kẻ đạo đức giả quan trọng hoá lên.
Công án thiền tiêu biểu nhất thế giới là bức tranh “Chăn trâu”. Dân gian ta cũng có công án thiền trong bài thơ “Con voi” vừa đơn giản vừa huyền diệu:
“Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái truyện con voi”
Thiền là sự sống tự nhiên như nhiên “hai chân trước đi trước”. Nhưng trong đời này mấy ai ngộ được cái chân lý đơn giản ấy, họ lại muốn hai chân trước đi sau. Trong mê đắm, tâm vô minh nên họ đặt cái cầy trước con trâu. Họ xây nhà từ nóc trở xuống hoặc đơn giản hơn, nuôi con một cách duy ý chí: bắt con phải ăn khi không đói, uống khi không khát. Thiền là tự nhiên, như nhiên, là hai chân trước đi trước, là đói ăn, khát uống, thích thì đi ngủ…Vĩ mô hơn như trong xây dựng xã hội, không chịu tiến hoá từng bước, mà chỉ thích đi tắt đón đầu, đốt cháy giai đoạn sẽ gây phiền não… Vì trái quy luật tự nhiên nên để hai chân sau đi trước.
Voi trong dân gian còn dùng để người dân xem tướng:
“Voi một ngà
Đàn bà một mắt”
Voi một ngà là những con voi hung dữ đã từng chiến đấu đến gẫy cả ngà. Ta cần cảnh giác với loại voi một ngà. Hiểu được voi một ngà hung dữ vì đó là nhân quả. Voi là con vật mạnh nhất rừng, những con vật khác không nên tranh cường với nó, cũng như con người sống trong xã hội, muốn cho thân tâm an lạc, nhiều khi ta phải biết khôn khéo đi vòng tránh kẻ địch mạnh, như đám cưới chuột mang theo cả con cá để nộp mãi lộ cho con mèo.
Vật hữu hình tránh vật hữu hình đã đành. Vật vô hình cũng phải biết tránh vật hữu hình.
“Làm thơ phải biết tránh voi
Tránh voi chẳng xấu cái vòi của thơ”
Tống Giang vì bài thơ viết trên vách tửu lầu mà thân bại danh liệt. Kim Thánh Thán và bẩy vị tú tài thời Thanh cũng vì cái án văn tự mà bị chu di tam tộc. Cái vạ văn tự thật thảm khốc.
Trong dân gian thể hiện chất thiền đã bén muối dưa trong câu chuyện con voi dũng mãnh lại thua con kiến khi chui vào cắn màng lỗ tai, khiến voi khổng lồ phát điên, phát dại. Đúng là cái gì lợi về thuỷ lại hại về hoả. Gà mổ mối, mối đục chân vua, vua ăn thịt gà. Trong vòng đời thì chẳng có gì là đầu, là cuối cả:
“Nhiều chỗ con chuột chạy qua
Con voi không dám đi ra đi vào”
Trong cuộc đời cũng vậy. Kẻ vô danh có cái mạnh của kẻ vô danh, kẻ hữu danh có cái mạnh của kẻ hữu danh:
“Nhiều chỗ kẻ vô danh qua
Hữu danh không dám đi ra đi vào”
Những tổng thống Mỹ, yếu nhân của nhân loại đi đâu cũng phải đề phòng ám sát. Mỗi bước đi đều phải lo toan, tính toán, đâu có được những phút hành thiền phiêu diêu thoát tục của người tiên phong đạo cốt.
Có lẽ công án thiền hay nhất của loài người là chuyện “Thầy bói xem voi” của dân gian Việt Nam. Câu chuyện cùng huyền tắc diệu này làm ta cười phá lên. Tiếng cười phá tan màn vô minh che mờ tuệ nhãn nhân loại. Tất cả mọi triết lý trên đời đều đúng. Sai lầm ở chỗ ta coi chân lý bộ phận là chân lý toàn thể. Thầy bói, bác sỹ, thợ may, cảnh sát…định nghĩa một con người đều khác nhau. Thầy bói hiểu con người qua lá số, cảnh sát qua tiền sự, bác sỹ qua tim mạch, thợ may qua số đo…
“Chỉ sờ một chỗ mà thôi
Thầy bói định nghĩa được voi là gì
Nếu hiểu đủ lẽ huyền vi
Sẽ không định nghĩa được gì về voi”
Ca dao tục ngữ có câu “theo voi ăn bã mía” phê phán sự bắt chước có tính giáo điều của con người. Theo thiền dân gian thì “mê theo cách mê của mình là ngộ, ngộ theo cách ngộ của người là mê”.
Một thiền sư chấm ngón tay vào nước phân, sau đó lấy mồm mút ngón tay. Thiền sư dậy tiếp: “Nếu các đệ tử bắt chước ta sẽ sai lầm, vì ta chấm ngón giữa vào nước phân, nhưng ta mút ngón trỏ”.
Còn dân gian coi những kẻ ảo tưởng chuyên khoác loác về mình là những kẻ trăm voi không được bát nước sáo. Trên đời này, có khi cả một thế hệ cũng ngộ nhận về mình, xây dựng những mộng ảo hư vô, như Hitle, gây đại hoạ cho chính bản thân và cả dân tộc, cả loài người:
“Những người ảo tưởng về mình
Là người mắc bệnh làm tình thủ dâm”
Thực dụng là một sai lầm, ảo tưởng còn là sai lầm lớn hơn. Ảo tưởng cũng là bệnh nặng của loài người. Hình ảnh Đông-ky-sốt cắp giáo khật khưỡng, điên khùng, ảo tưởng trên con ngựa giữa sa mạc cũng là biểu hiện cái tự tánh của con người: Trăm voi không được bát nước sáo.
Còn đại ảo gây đại hoạ như cảnh Hitle phải tự sát cùng người tình trong hầm cố thủ tại Béc-lin là tấm gương cho muôn đời sau.
Cũng có lúc ta nghĩ một cách phi lô gích, so sánh hết sức khập khiễng: Mỹ là nước mạnh nhất thế giới, ta đã đánh thắng Mỹ thì sẽ không có một đế quốc nào dám xâm lược ta. Ta thắng Mỹ thì việc gì mà ta không làm được (!)
Căn bệnh ảo tưởng về mình, bệnh thủ dâm tâm thế, bệnh ba voi không được bát nước sáo. Bệnh này chỉ thằng bờm mới là thầy phù thuỷ cao tay dán bùa, làm phép, kê đơn trị bệnh bằng “một nắm xôi” thì bệnh mới khỏi được.
“Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười”












KẾT
Phải chăng thế giới hiện đại đã có những cảm ứng đồng điệu với âm tần tâm linh của người xưa, coi vạn pháp là “tề đồng vật ngã”, con voi cũng có phật tính như con người. Nên loài người đã ghi voi vào sổ đỏ cần phải bảo vệ. Con người đã có lệnh xử tử mọi kẻ phá hoại thiên nhiên, tuyệt đối cấm mua bán ngà voi. Ngay ở Việt Nam ta đã bắt được một containe ngà voi. Mặc dù gặp muôn vàn khó khăn ta đã bảo vệ được cuộc sống an toàn của những con voi rừng Tánh Linh, Tây Nguyên. Mọi người đã hiểu huỷ diệt thiên nhiên là huỷ diệt con người:
“Diệt hết sinh vật của trời
Chắc chắn sách đỏ tên người được ghi”
Chúng ta hãy bảo vệ rừng, quê hương và môi trường sống của voi. Rừng là quê hương của voi cũng là nơi chôn rau cắt rốn của loài người:
“Chúng ta sẽ mất quê hương
Khi ta rời bỏ con đường thiên nhiên”
Suy nghĩ về voi, cũng để hồn phiêu diêu về quá khứ trong cảnh đám cưới của Sơn Tinh với lễ vật voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Bàn về voi, ta không quên sự uất hận với những kẻ cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về dầy mả tổ.
Và rồi, trong giây phút nào đó, ta lại hào hùng nhớ về những hình tượng của Bà Trưng, Bà Triệu vú dài ba thước cưỡi đầu voi dữ cùng ba quân giáo mác xung trận. Rồi hình ảnh Quang Trung, áo bào xạm thuốc súng cưỡi voi rầm rập tiến về Thăng Long qua cái xác treo lủng lẳng của Sầm Nghi Đống trên gò Đống Đa.
03:57 CH 04/10/2013
Thiền dân gian thời @- Nguyễn Bảo Sinh
“Trời trao sinh mệnh cho mình
Thì mình phải biết quyết sinh trên đời
Không tranh sinh mệnh với trời
Trời đòi ta trả mệnh người lên tiên”
THIỀN VỀ SINH TỬ
Chuyện xưa chép: “Một vị vua mời một nhà thông thái thu lượm và sắp xếp lại một bộ bách khoa toàn thư về trí tuệ loài người. Nhà thông thái thu về hàng chục kho sách dâng vua. Vua chết ngốt trước các kho sách. Vua bảo nhà thông thái tóm tắt lại một số điều lõi cốt. Sau nhiều năm tổng kết, nhà thông thái thu gọn thành một xe bò sách. Vua cũng thấy không đủ thời gian đọc nổi. Khi vua sắp băng hà, gọi nhà thông thái đến yêu cầu chỉ tóm gọn lại trong một câu. Nhà thông thái viết bốn chữ: sinh, lão, bệnh, tử”.
Phật dậy: “cái gì có hợp là có tan, có sinh ắt có tử”.
Jê-su rao giảng: “Thế giới sinh ra tất có ngày tận thế”. Thánh A La thông qua nhà tiên tri báo cho loài người biết có sinh ắt có tử. Ai đạt đạo sẽ được đưa tới nước của thánh – thiên đường.
Theo đạo Gia tô, đạo Hồi, có một thiên đường vĩnh viễn tất sẽ có một địa ngục vĩnh viễn. Còn theo đạo Phật và thuyết luân hồi, chỉ có một thiên đường tạm thời tất có một địa ngục tạm thời.
Khi ngộ được lẽ tử sinh, ta mới tĩnh tâm:
“Ung dung khắc đến khắc đi
Còi to cho vượt tranh gì trước sau
Bước chân dù chậm hay mau
Đường ta đi giữa hai đầu tử sinh”
Phật Tổ Như Lai ngồi trên đỉnh núi thuyết pháp cho 3000 đệ tử, Phật dậy:
- Nếu khi các con đang ngồi ở đây, mà có bốn quả núi lửa đi đến đâu quét sạch sự sống đến đấy thì các con nghĩ gì?
Đệ tử đồng thanh đáp:
- Hãy sống cho hết những giây phút đang là.
Về điều này thì triết lý của Phật và chủ nghĩa hiện sinh của An-be Ca-muýt và Jăng-pôn-sắc tương đồng như một ngụ ngôn về thiền:
“Một người băng qua một cánh đồng, gặp một con cọp giữa đường. Anh ta chạy trốn. Cọp đuổi theo. Anh ta ngã xuống vực sâu và nắm được dây dâu. Nhìn lên miệng vực là con cọp trắng nhe răng múa vuốt. Nhìn xuống dưới vực là con cọp đen múa vuốt nhe răng. Hai con chuột, một trắng một đen đang gặm mòn dây dâu. Bỗng anh ta thấy một trái dâu thơm ngon gần đó. Một tay nắm dây dâu, một tay thò qua hái trái dâu. Ôi! Trái dâu mới ngon ngọt làm sao!”
Sống trong vòng sinh tử không biết tận hưởng giây phút hiện sinh, lại cứ đòi thoát ra, thật là mê đắm:
“Con chuột mắc phải sai lầm
Khi rơi vào bẫy không ăn miếng mồi.
Nhiều người cũng vậy mà thôi
Rơi vào sinh tử chỉ đòi thoát ra”
Đường lên thiên đường gần mà xa tít tắp, khi mệt hãy ngồi xuống mà chơi, an nhàn đấy là thú thần tiên. Đường lên Tây trúc gần mà xa tít tắp, khi mệt hãy nằm xuống nghỉ vì biết rằng chết cũng là vui.
Theo Phật thì sai lầm lớn nhất của loài người coi chết là khổ, sống là sướng. Đạo Phật là phá chấp: coi chết và sống chỉ là một. Đối với một bác sỹ cho rằng: khi tim ngừng đập, cuộc sống chấm dứt. Theo Phật, sự sống cái chết liên lỷ liên hồi nối tiếp. Trong một ngày, tế bào mới sinh ra, tế bào cũ chết đi trong một cơ thể hàng tỷ lần. Chỉ vài tháng cơ thể cũ hoàn toàn đã chết và một cơ thể mới ra đời. Vậy, bất cứ lúc nào ta cũng vừa sống vừa chết. Sắc sắc không không.
Chuyện kể, có một người ra bãi tha ma thăm mộ rồi trở về nhà. Một thiền sư bảo anh ta đã nhầm, bãi tha ma mới chính là ngôi nhà vĩnh viễn của người đó. Còn ngôi nhà người đó đang ở chỉ là nhà trọ:
“Nhà mình bảo bãi tha ma
Quán trọ lại nhận đây là nhà ta
Vào nhà lại bảo rằng ra
Đến trọ lại bảo rằng ta về nhà”
Dân gian hiểu sống là gửi, thác là về. Bãi tha ma là nơi ta về. Theo đạo Lão: chết là cưỡi hạc quy tiên. Đạo Phật coi chết là về Tây phương cực lạc. Theo Trang Tử, khi chết là lúc ta tự cắt sợi dây treo ta trong cuộc sống đã thanh thoát cưỡi hạc quy tiên.
Vợ Trang Tử chết. Nghe vậy, Huệ Tử liền đến viếng. Chợt thấy Trang Tử đang quỳ dưới đất, tay gõ cái chậu sành mà ngâm nga câu hát. Huệ Tử hỏi: “Vợ chồng ông chung sống với nhau, bà vì ông mà nuôi dưỡng con cái, bây giờ bà ta tuổi già tạ thế, cùng lắm là ông khóc một trận là đủ rồi, sao còn quỳ dưới đất gõ chậu sành ca hát, không phải là quá đáng sao?” Trang Tử nói: “Bây giờ đây vợ tôi biến hoá ra đi, cũng giống như xuân, hạ, thu, đông trong tự nhiên vậy. Bà ta đã yên nghỉ trong phòng tự nhiên, nếu như tôi còn gào thét khóc to, là tôi không hiểu cái lý do của số phận. Cho nên tôi không khóc”.
Nói như vậy không có nghĩa là Trang Tử phủ định sự sống. Trang Tử quyết sống cho đến cùng, không chịu chết một cách vô ích.
Có người mời Trang Tử ra làm quan. Trang Tử nói:
- Anh chưa thấy qua việc nuôi bò để làm vật tế tử chứ? Tuy rằng mỗi ngày cho nó ăn cỏ, đậu, trên thân nó được cho đắp tấm chăn thêu hoa văn mầu sặc sỡ. Nhưng có một hôm, khi nó bị người ta dắt đến nhà thái miếu làm vật hy sinh, thì nó muốn trở về với hoang dã để làm một con bò sống cô độc cũng không thể được rồi.
Trang Tử bài bác cái chết ngu trung của đạo Khổng: “Vua xử thần chết, thần phải chết”. Thuyết Tam cương ngũ thường của Nho giáo sinh ra bọn ngu trung chết vì cái danh hão. Theo Phật giáo đánh giá, mọi triết lý chỉ là lời của phù thuỷ. “Giãi thây trăm họ làm công một người”. Bọn Phong kiến đã tạo ra học thuyết: “Trai trung không thờ hai chúa, gái trinh không lấy hai chồng” để gây muôn vàn cuộc chiến tranh tàn sát sinh mệnh vô cớ:
“Hồn tử sỹ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sỹ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”
Con người sống theo tự nhiên, ngộ đạo trời phải dám sống và dám chết chứ không phải chết vô ích. Dám chết đã khó, nhưng không khó bằng dám sống giữa cuộc đời đầy đau khổ một cách ung dung tự tại:
“Làm thông ngay giữa kiếp người
Làm người lại đứng giữa trời như thông
Lá reo tiếng hạc từng không
Vi vu nào biết là thông hay người”
Những cái gì cần tranh đấu phải tranh đấu ngay trong kiếp này chứ không như Nguyễn Công Trứ chờ đợi:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa rừng vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông”
Lúc cần sống phải dám sống, lúc cần chết cũng dám chết. Sống cho ra sống, “thà một phút huy hoàng rồi vụt tối, còn hơn buồn le lói suốt năm canh”. Hiểu rõ cội nguồn bản thể của sống - chết, hành giả coi sống- chết là một, họ mang cái bản ngã hoà vào vũ trụ thành vô ngã. Họ coi cuộc sống như cái chợ. Khi biết hoạ, phúc, sống, chết là một, họ thành siêu thoát bất tử:
“Buông thõng hai tay đi vào chợ
Hoạ phúc mua đều có hoá không
Sinh tử bán rồi đời hết nợ
Buông tay đi suốt chợ âm dương”
Trang Tử ban đêm nằm mơ thấy mình biến thành bướm. Sáng tỉnh dậy nghĩ không biết đêm qua bướm mơ biến thành mình hay mình mơ thành bướm:
“Sống gửi biết nơi đâu mà gửi
Thác về chẳng biết thác về đâu
Trang Châu gửi mộng tan thành bướm
Bướm tan thành mộng hoá Trang Châu”
Không ngộ lẽ tử sinh của Tạo hoá dễ trở thành huỷ hoại cuộc sống, hoặc cố níu bám vào cuộc sống thành tham sống sợ chết: Lữ Hậu, Tần Thuỷ Hoàng, Thành Cát Tư Hãn...suốt đời đi tìm thuốc trường sinh bất tử mà đến nay xương cốt cũng tan thành mây khói. Cuộc đời này chỉ có phép trường sinh chứ làm gì có thuốc trường sinh. Mỗi con người đều đón đợi cái chết theo cách của mình:
“Kẻ mong chết ở trên giường
Người mong da ngựa chiến trường bọc thây
Đừng bàn khôn dại ở đây
Cũng như trời đất có ngày có đêm”
Một thiền sư dặn thiền sinh đúng mồng một tết đến thầy sẽ ban cho một lời giáo huấn tối thượng. Đúng giờ, mọi người tụ tập ở phật đường, thiền sư vào mật thất, toạ thiền rồi hoá. Thiền sinh hoát ngộ, thầy đã lấy cái chết để giao hóa đệ tử về sự sống chết của bản thể. Thiền sư muốn phá cái chấp của chúng sinh, coi sống và chết không phải là hai mặt của một bản thể:
Ngộ được lẽ tử sinh, nhà thơ E-xe-nhi viết:
“Chết không có gì là mới
Nhưng sống cũng không có gì mới hơn”
Chỉ có vui vẻ chấp nhận cái chết mới hiểu được sự cao quý của cuộc sống một cách tự nhiên:
“Vui vẻ chết như cầy xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành”
Trong dân gian cũng có công án thiền về sinh tử:
“Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng giềng”
Con gà hiểu rằng người ta nuôi mình để làm thịt. Vậy nó cũng “cục tác lá chanh” để thanh thản đón cái chết. Con chó “khóc đứng khóc ngồi” đòi được quyền chết. Con gà, con lợn, con chó thản nhiên trong lẽ biến hoá tự nhiên:
“Tự nhiên chờ cái đến
Thanh thản tiễn cái đi
Yêu những điều không muốn
Tâm nhàn hơn mây trôi”
Cái chết làm cho tiểu nhân bớt tham. Cái chết làm cho người quân tử nghỉ ngơi:
“Vua Ngô 36 cái tàn vàng
Chết xuống Âm phủ chẳng mang được gì
Chúa Chổm uống rượu tỳ tỳ
Chết xuống Âm phủ chẳng có gì mà mang”
Hiểu cái chết, chúng ta biết sống hiện sinh với cái đang là:
“Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính chuyên chết cũng khiêng ra cánh đồng”
Con người trần trụi đi vào cuộc sống, rồi con người lại trần trụi đi ra cuộc sống:
“Áo quan không túi không quần
Mặc đều vừa vặn không cần số đo”
Một trăm năm, một kiếp người như bóng câu qua cửa sổ, như bọt nước tan trong biển:
“Trăm năm nào có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”
Hiểu lẽ tử sinh pha mùi thiền, Đào Tiềm đã tháo gỡ những trói buộc cuộc sống để thưởng thức hương vị thiên nhiên của trời đất ban cho:
“Ngắm cảnh vật muôn mầu xanh tốt
Ngẫm thân ta chót đã già rồi
Còn bao nhiêu nữa ở đời
Khứ lưu sao chẳng phóng hoài tự nhiên”
Nhưng rồi thi sỹ cũng vẫn bùi ngùi thấy sự trống vắng khi xác thân tan vào cát bụi, nhưng trăng, trời, mây, nước thì vẫn mãi mãi còn đó:
“Nếu trăng cũng chết như đời
Thì ta đâu thấy kiếp người phù du
Vì trăng sống mãi ngàn thu
Cho nên càng thấy phù du kiếp người”
Cái chết thật huyền diệu, lúc nào cũng có thể đến, “ sinh có hẹn, tử bất kỳ”. Cái tuyệt diệu của cuộc sống là “tử bất kỳ”, nên con người lúc nào cũng tưởng như nó không bao giờ đến. Quả thật vậy, khi cái chết chưa đến thì ta còn sống mãi. Khi cái chết đến thì ta đâu có biết, cho nên con người tưởng như mình bất tử. Chỉ có những kẻ sợ chết, những kẻ cố xem bói, xem số biết ngày giờ mình chết là kẻ điên. Kẻ hèn nhát sợ chết phải chết nhiều lần, còn người hiểu đạo chỉ chết một lần, mà thật ra cái chết ấy cũng như cuộc cưỡi hạc quy tiên:
“Cố biết giờ chết của mình
Coi như đã bị tử hình khai đao
Không cần biết chết lúc nào
Coi như lạc lối đi vào thiên thai”
Chỗ rẽ của đường lên thiên đường và địa ngục không có biển báo. Nhiều khi đường lên thiên thai có lối mà không vào, đường xuống địa ngục không có cửa mà ta cứ cố đào đất chui vô.
Trang Tử thường tranh luận với Huệ Tử về đạo. Khi bàn về cá, Huệ Tử bảo trông đàn cá bơi lờ đờ một cách buồn bã. Trang Tử bảo:
- Mình có là đàn cá đâu mà biết cá buồn?
Nửa đường đi đến nước Sở, Trang Tử thấy đầu lâu, xương cốt nằm la liệt trên đường. Ông liền lấy roi ngựa gõ gõ vào xương cốt và nói:
- Tiên sinh, ông chết bởi lòng tham phải không? Khi nước mất ông là kẻ bị kiếm dao giết chết phải không? Hay ông làm việc xấu xa liên luỵ đến cha mẹ mà phải tự sát? Ông chết vì lạnh hay chết vì đói? Hay vì tuổi xuân thu của ông đã tận rồi tự nhiên nằm đây mà chết?
Bốn bề là gió núi, ông chẳng nghe được tiếng trả lời của xương cốt. Thấy sắc trời đã tối lại, Trang Tử xách một chiếc đầu lâu làm gối kê đầu, rồi nằm trên đất ngủ ngon lành. Giữa đêm, ông nằm mơ thấy đầu lâu nói với ông rằng:
- Ban ngày, lúc ta nghe ông nói, đều có liên luỵ đến người sống, khi họ chết đi rồi, thì những gì ông đã nói không còn nữa. Ông muốn nghe người chết nói chuyện phải không?” Trang Tử nói:
- Vâng, tốt lắm! Tôi nghe đây.
Đầu lâu nói:
- Sau khi chết đi không có quân, không có thần, cũng không có xuân, hạ, thu, đông. Rất thoải mái sống cùng trời đất. Đây là niềm vui mà Nam Diêm Vương cũng không thể sánh được.
Trang Tử nói:
- Tôi không tin rằng chết rồi mà lại có được sự thoải mái. Tôi muốn tìm vị thần quản lý số phận để làm cho ông sống lại, trả lại cha mẹ, vợ, con cho ông, đưa ông trở về quê hương, ông có cần không?
Đầu lâu nghe xong kêu to một tiếng:
- Tôi không cần!
Nói xong liền biến mất.
Trang Tử kể câu chuyện để cảnh tỉnh những kẻ tham sống sợ chết. Ta có là cá đâu mà biết buồn vui của cá. Ta đã chết đâu mà biết buồn vui của chết. Cho nên mọi tang lễ ta làm đâu phải cho người chết. Tất cả mọi tang lễ làm đều để cho người sống. Đám ma của người sống chứ không phải của người chết. Vì không hiểu rõ cái chết, cho nên có nhiều kẻ ngu trung theo lễ giáo của Khổng nên Dự Nhượng đả long bào rồi để bị chết chém, hoặc như Bá Di Thúc giữ chữ trung nên không ăn gạo nhà Chu, chạy vào núi Thú Dương rồi để chết cháy như con bò thui. Sinh mệnh của kẻ thắng trận và kẻ bại trận đều như nhau cả!
Khuất Nguyên làm sớ dâng vua Sở không được tin dùng, đã viết Cung Ly Tao rồi nhẩy xuống sông Mích La tự vẫn ngày 5/5 âm lịch – ngày giỗ Khuất Nguyên ta gọi chệch đi là ngày giết sâu bọ – vì cho rằng đời đục mà ta trong. Vạn pháp là sắc sắc không không, đời là vừa trong, vừa đục, vừa tốt, vừa xấu:
“Khi vô tích khi lâm tri
Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương”
Còn thánh thi Lý Bạch cũng vậy. Khi được vua Đường mời vào cung làm thơ ca tụng Dương Quý Phi, được Quý Phi rót rượu, tể tướng mài mực, Đường Minh Hoàng mời rượu. Mười bài thơ của Lý Bạch vừa làm xong đã được phổ nhạc và tấu lên trong sự thăng hoa của danh vọng, rượu nồng, dê béo, gái đẹp. Trong cơn phê vinh quang ấy, bệnh ngu trung của Lý Bạch lại nổi lên. Lý Bạch tâu với Đường Minh Hoàng bản khởi tấu thay đổi chính trị triều đình, đã bị Đường Minh Hoàng xỉ nhục:
- Ta mời khanh vào đây chỉ để làm thơ, còn việc triều chính đã có các quan cai trị.
Vai trò của Lý Bạch nên:
“Rượu chè, cờ bạc, gái trai
Là thuốc trường thọ ông trời cho ta
Chính trị là thứ tránh xa
Bàn nhiều đoản thọ hoặc là đánh nhau”
Lý Bạch tủi hổ cho lòng ngu trung của mình nên đã bỏ ra đi trên con thuyền nhỏ, rồi không biết vì mò trăng hay tự vẫn đã chìm dưới dòng sông:
Hiểu được sự sống có trong, có đục, có tốt, có xấu, người hiểu đạo sẽ vào ra theo đúng chữ thời như Nguyễn Khuyến, Đào Tiềm đã có cuộc đời viên mãn. Khi đã làm quan tới cực điểm, hết động sang tịnh nên đã biết cáo quan về ở ẩn:
“Từ nay mới thật về rồi
Thôi xin dứt tuyệt với người vãng lai
Vì ta đối với đời chẳng hiệp
Thì cần gì giao thiệp với ai”
Sống – chết là điều loài người trăn trở sâu xa nhất. Muốn sống mãi, trẻ mãi không già là ước mơ nhân loại, nhưng lại trái với tự nhiên. Chuyện về một anh chàng nọ tắm ở dòng suối nước thần trở thành trẻ trung. Anh ta về nhà, vợ không nhận ra vì thấy chồng mình trẻ lại một cách bất ngờ. Sau khi hỏi rõ chồng, chị vợ ra dòng suối bất lão để tắm. Chờ mãi không thấy vợ về, anh chồng ra bờ suối, không thấy vợ đâu, chỉ thấy đứa trẻ bò trên bờ suối khóc oe oe. Ngẫm nghĩ một lúc anh ta chợt hiểu vì quá tham muốn mình thật trẻ, vợ anh đã tắm quá lâu trên dòng suối nên mới ra nông nỗi này.
Vì hiểu được có sinh ắt có tử, chuyện trường sinh bất tử chỉ là ảo tưởng. Nên khi có người dâng đào trường thọ cho nhà vua. Án Anh đã vồ lấy ăn trước. Vua giận hạ lệnh chém đầu, Án Anh tâu: “Nếu có chém đầu thì chém đầu người dâng đào mắc tội khi quân. Vì đào trường thọ hạ thần vừa ăn vào đã bị chém đầu thì phải gọi là đào đoản thọ!”. Vua cười và bãi lệnh chém đầu. Thiền truyện về “Lá thư của người hấp hối”: “Bản tâm con không sinh, vì thế nó không bao giờ chết. Nó không phải là một hiện hữu nên nó không biến mất. Nó không phải là cái trống rỗng mà là cái chân không. Nó không mầu sắc, hình thể. Nó không hưởng thụ sự khoái lạc và không chịu đựng sự đau đớn.
Thầy biết con bệnh nặng lắm. Giống như một người học thiền giỏi. Con đang đối mặt hoàn toàn với sự đau đớn. Có thể con không rõ ai là kẻ đang đau khổ, nhưng hãy hỏi chính con: “Bản tánh của tâm này là gì? Hãy nghĩ một điều này thôi, con sẽ không cần gì nữa. Đừng ham muốn gì cả. Sự chấm dứt của con không chấm dứt, nó giống như một bông tuyết trong trắng tan biến trong thanh không tinh khiết”.
“Sống và chết”. Mệnh đề này loài người hiểu bằng hai cách: duy vật và duy tâm. Theo duy vật thì chết là hết, là cát bụi lại trở về với cát bụi. Theo duy tâm thì khi ta chết linh hồn vẫn còn. Theo đạo Phật, đạo Lão con người không chết mà chỉ chuyển kiếp thành lá cây, ngọn cỏ, chim muông...thập nhị nhân duyên, luân hồi sáu nẻo trong cảnh giới tề đồng, vật ngã- vật và người là một.
Dân tộc Tây Nguyên có ngày lễ bỏ mả. Người đã chết đều được ở nhà mồ. Nhà mồ thường khắc loại tượng người và vật coi như kẻ hầu của người chết. Đặc biệt loại tượng này mang nặng tính phồn thực. Linh hồn người chết sẽ tan trong đất rồi biến hoá thành cỏ, cây, chim muông, hoa, lá...Ngày lễ bỏ mả để linh hồn trở thành kiếp người, để trở thành người có lễ phồn thực, thanh niên nam nữ thoải mái, tuỳ ý chọn đôi giao hoan với nhau.
Theo đạo Phật, khi Thích Ca Mầu Ni sắp nhập niết bàn, các đệ tử hỏi: “Khi thầy chết các con sẽ tìm thầy ở đâu?”, Thích Ca Mầu Ni dậy: “Vạn pháp đều là Như Lai. Như Lai nghĩa là không từ đâu đến và không đi về đâu”.
Các đệ tử đồng thanh tán dương bài dậy cuối cùng của Phật và thưa: “Thưa thầy, chúng con đều là Như Lai, thầy là người tìm ra tự tánh cơ bản của vạn pháp là Như Lai nên chúng con gọi thầy là Phật Tổ Như Lai”.
Cho nên chúng ta không nên hiểu nhầm. Thích Ca Mầu Ni là Phật có trước các Phật, nên gọi là Phật Tổ. Thích Ca Mầu Ni là người đầu tiên tìm ra định luật Như Lai.
Định luật Như Lai cũng tương đương như định luật Lô-mô-nô-xôp: “Vật chất không tự sinh ra, không tự mất đi, vật chất chỉ biến từ dạng này sang dạng khác”.
Hoặc các nhà triết học phương Tây lại định nghĩa: “Khi ta đang tư duy là ta tồn tại”.
Thật ra đông và tây chỉ là hai mặt của một vấn đề, sự thống nhất của mâu thuẫn. Do đó cả hai cùng tồn tại. Bằng trực giác, bằng thiền định cũng chứng minh được phi trọng lượng – tiên bay- và thời gian co giãn theo tốc độ. Từ Thức nhập thiên thai một năm bằng 100 năm nơi hạ giới.
Bằng khoa học kỹ thuật – thuyết tương đối, cơ học lượng tử - vật chất vừa là hạt vừa là sóng. Vật chất sắc sắc không không.
Lịch sử bao giờ cũng chỉ là cái đang là. Lịch sử về cái quá khứ nhưng nhìn nhận lại ở hiện tại. Tang lễ cũng vậy, không ai làm tang lễ cho người chết, mà tang lễ là để dành cho người sống. Như Trang Tử viết: khi Trang Tử sắp chết, đệ tử của ông ta họp lại để bàn việc chuẩn bị chôn cất chu đáo cho ông, để làm một việc báo đáp. Trang Tử cười nói: “Sau khi ta chết, dùng trời đất làm quan quách theo kiểu ngày xưa, dùng nhật nguyệt làm ngọc bích, dùng sao trời làm trân châu, dùng vạn vật làm lễ phẩm. Như vậy nghi thức của ta chẳng phải là chu đáo rồi sao? Còn nghi thức nào tốt hơn thế nữa”. Các đệ tử rằng: “Chúng con lo lắng thi hài của thầy sẽ bị lũ quạ đen, kền kền xé nát”. Trang Tử nói: “Ở trên mặt đất sẽ bị quạ đen, kền kền xé xác. Còn ở dưới đất sẽ bị loài sâu, bọ, kiến ăn thể xác, tại làm sao các con phải làm cái việc cướp miếng ăn của loài sâu bọ, kiến từ miệng quạ và kền kền chứ? Đó không phải là việc làm quá thiên lệch đó sao?”
Tóm lại, chết đi là một điều hết sức tự nhiên. Sự tan rã, biến hoá của thi thể hãy để cho tự nhiên xử lý. Hà tất phải lo lắng làm gì! Quá lo lắng, làm rườm rà cái chết là đạo Khổng. Theo Nho gia: khi cha mẹ chết, các con phải để tang ba năm, trong ba năm đó không được cưới xin và hàng tỷ thứ nghi lễ mang tính hình thức. Ví dụ như việc cưới chạy tang. Khi cha hoặc mẹ đã chết, vì sợ phải ba năm mới được cưới xin, gia chủ sẽ để xác cha hoặc mẹ vào nơi kín, không phát tang. Sau đó tổ chức đám cưới xong, gia đình mới phát tang khóc lóc ầm ĩ. Thật là đạo đức giả.
Cũng giả dối và tàn bạo là vợ có thể phải chết theo chồng - bị chôn sống hoặc bị treo cổ – còn thường là phải thủ tiết: suốt đời ở vậy (không được tái giá).
Còn đám tang ngày nay thì nửa cổ nửa kim như tình hình của thời quá độ. Một số đám tang của thời mở cửa biến thành vụ thương mại. Họ dùng đám tang để kinh doanh, việc này thường xẩy ra ở gia đình các cán bộ cao cấp.
Tang lễ ở phía nam Việt Nam, do ảnh hưởng của đạo Phật, gốc Ấn Độ nên thường tổ chức nhạc vui. Vì theo sách tử thư coi chết là về Tây phương cực lạc, là cưỡi hạc quy tiên.
Còn người miền Bắc do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng, coi chết là đau khổ, nên ngày chết phải khóc lóc thảm thiết, tấu nhạc não nùng, thậm chí phải thuê người khóc mướn não nùng một cách chuyên nghiệp. Việc chôn cất, ma chay là một vấn đề cực kỳ phong phú tuỳ theo phong tục tập quán của từng dân tộc. Người cổ đại Ai Cập, các Pha-ra-ôn chôn cất trong các Kim tự tháp bằng đá giữa sa mạc, trông xa như trái núi, có con nhân sư khổng lồ bằng đá- đầu người mình sư tử- các xác chết được ướp còn nguyên vẹn hàng mấy nghìn năm. Nghệ thuật ướp xác của Ai Cập cho đến ngày nay vẫn là một bí mật.
Còn các vua chúa Trung Hoa cũng có những công trình mộ chí vô cùng vĩ đại, với những lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng với hàng vạn binh lính bằng đất nung đặt trong mộ chí sâu dưới lòng đất và to rộng như một thành phố. Bí mật mộ Tần Thuỷ Hoàng được khai thác và trở thành trung tâm du lịch lớn.
Tào Tháo gây nhiều điều ác, nên khi chết làm 72 mộ giả để khỏi bị hậu thế khai quật.
Quan Vân Trường chết chẳng toàn thây nên có mộ chí ở những ba nơi.
Tháp Tam Lăng của Trung Quốc cũng là một công trình lăng mộ kỳ vĩ...
Lăng Tôn Trung Sơn với những công trình bậc thang vừa thoáng đãng vừa trang nghiêm.
Đài tưởng niệm Mao Chủ tịch cũng là một công trình mộ chí đầy tính giai cấp. Còn Chu Ân Lai hoả táng thành tro và cho máy bay rắc trên giang sơn gấm vóc Trung Hoa.
Còn ở Việt, những công trình mộ chí, nền văn hoá tâm linh này cũng ám vào lòng dân tộc. Người Tây Nguyên có những nhà mồ với những tượng gỗ phồn thực thể hiện tín ngưỡng, quan điểm về sống chết của người dân tộc. Và ta đi bất cứ đâu cũng thấy ngôi mộ, nghĩa trang nằm âm thầm nơi đồng hoang gò vắng. Đặc biệt nhất của dân tộc Việt Nam là các nghĩa trang liệt sỹ rải ra khắp nước. Chỉ có một dân tộc anh hùng mới có nhiều nghĩa trang liệt sỹ như vậy. Chúng ta cứ ra ngõ là gặp anh hùng. Còn những nước như Thái Lan, Úc...rất hiếm anh hùng, rất hiếm nghĩa trang liệt sỹ. Có lẽ nghĩa trang liệt sỹ trang nghiêm thâm u lớn nhất thế giới là nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn. Vì vậy, nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn là người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa”
Cuộc chiến tranh chính nghĩa, dân tộc ta lấy chiến tranh làm niềm vui:
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây”
Lấy giải phóng dân tộc làm hạnh phúc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Người lính chính nghĩa khác hẳn với người lính phi nghĩa ra đi như say rượu để quên nỗi sợ hãi:
“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạt tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
Anh lính cụ Hồ không như người lính chế độ Phong kiến mẽ ngoài rất oai phong, mà tinh thần bên trong thì suy sụp:
“Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dàiMột tay thì cắp hoả mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”
Huế là thành phố lăng tẩm của Việt Nam: Lăng Gia Long, Lăng Khải Định, Lăng Tự Đức. Chiều mưa xứ Huế bầu trời thảm đạm. Lăng mộ thâm u, ai cũng như mơ màng, như luyến tiếc những điều không nói lên lời:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
Đặc biệt là Lăng Tự Đức, vị vua nghệ thuật, lăng tẩm nghệ thuật. Lầu bình thơ giữa hồ sen. Du khách lâng lâng trong cõi mộng mơ thoang thoảng hương sen, văng vẳng tiếng thơ khóc Cung phi Nguyễn Thị Bằng của vua Tự Đức:
“Ới thị Bằng ơi đã mất rồi
Ới tình, ới nghĩa ới duyên ơi!
Trưa hè nắng trái oanh ăn nói
Sớm ngõ trưa sân liễu đứng ngồi
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Ới thị Bằng ơi đã mất rồi
Ới tình, ới nghĩa ới duyên ơi!”
Nghệ thuật ướp xác ở Việt Nam tuy chưa phát triển mạnh như Ai Cập, song ở chùa Đậu, Phủ Lý có xác ướp của nhà sư cũng rất độc đáo. Đặc biệt là lăng Bác Hồ, các du khách đến Hà Nội, ai cũng có khao khát được chiêm ngưỡng hình tượng Bác. Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc Việt Nam. Ta bỗng bùi ngùi tiếc cho lăng Hoàng Cao Khải đã bị xoá sạch. Mỗi khi đi qua gò Đống Đa, ai cũng thấy trống vắng ngôi chùa xưa, nay chỉ còn đống đất trơ gan cùng tuế nguyệt và hàng cây gió thổi phờ phạc, cạnh một cái am mới xây ngơ ngác. Dù sao thì:
“Chùa kia dù phá vẫn thiêng
Miếu hoang bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ”
Ta thấy cái đau của một thời lầm lỗi. Cái thời coi: “Trăng Liên Xô tròn hơn trăng nước Mỹ, đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sỹ”. Đem tất cả cái xấu xa của ta đổ lên đầu địch, đổ lên đầu đế quốc Phong kiến, nên đã xoá bỏ lịch sử, xoá bỏ quá khứ để xây dựng cuộc sống trên ảo tưởng, biến cuộc đời thành hư vô.
Đi suốt lịch sử, đi suốt trái đất ta thấy, ngay cuộc sống và cái chết luôn song hành. Kim Tự Tháp Kê-ốp, thập tam lăng, lăng tẩm Huế, đài tưởng niệm anh hùng trùng trùng điệp điệp, các nấm mộ, những nghĩa trang bên cạnh những căn nhà, làng xóm, những lâu đài, những dãy nhà trọc trời.
Sự sống muôn mầu muôn vẻ, cái chết cũng muôn vẻ muôn mầu. Mỗi dân tộc, mỗi thời đại, mỗi con người đều tìm đến chỗ chết một cách riêng. Người theo đạo Hồi an táng người chết một cách trần trụi để cho thân xác mau chóng tan vào đất, để hồn siêu thoát lên thiên đường. Vì vậy, người theo đạo Hồi đào sâu chôn chặt không có tục bốc mồ. Người Ai Cập cổ, người Trung Hoa tìm mọi cách giữ cho thi thể nguyên vẹn bằng ướp xác hoặc giữ trong quan tài bằng đá đặt trong Kim Tự Tháp cũng bằng đá. Người Trung Hoa xây lăng mộ kiểu cổ. Hài cốt được giữ gìn chắc chắn, trong quan ngoài quách. Người Tây Tạng lại có tục hoả táng, vì họ cho rằng đốt thi thể để hồn người chết khỏi lưu luyến cõi trần gian, mau chóng siêu sinh tịnh độ đầu thai sang kiếp khác. Người theo đạo Thiên chúa cũng vậy, khi chết cũng có thể thiêu xác, giữ tro để thờ. Chết là trở về với Chúa, nên đám ma không khóc. Ngược lại, người theo đạo Khổng khi chết cần khóc lóc não nùng để giữ chữ lễ. Cha mẹ chết, con cái phải để tang ba năm.
Những người theo đạo Phật, đắc đạo chánh đẳng, chánh giác. Khi chết phần tro xương, hoặc di thể như móng tay, móng chân...đều rất thiêng. Đệ nhị tổ nghành thiền là A Nan- em Phật Tổ Như Lai- hoả thiêu giữa dòng sông Hằng để khỏi có sự tranh chấp tro xương và thi thể.
Một số nước lại coi thi thể người bị sét đánh rất thiêng. Nên mộ người bị sét đánh thường bị đào trộm, thi thể cắt ra từng miếng để làm bùa hộ mệnh. Hoặc cho rằng khi con mèo nhẩy qua xác người chết, thì xác chết sẽ biết đi và biến thành Ma- cà rồng, nên mọi người phải thức đêm coi xác chết và đuổi mèo.
Còn có nhiều nước dùng thuỷ táng – chôn dưới nước, thiên táng - để xác chết giữa trời. Có bao nhiêu cách sống, cũng có bấy nhiêu cách chết.
Khi nào gọi là chết?
Theo các nhà khoa học coi khi tim ngừng thở gọi là chết, còn khi tim ngừng thở tạm thời là chết lâm sàng.
Theo phương Đông học, coi sinh mệnh có ba thể: thể xác, thể vía và thể hồn. Thể xác sống khi trái tim còn đập. Thể vía có thể ra khỏi thể xác tạm thời. Khi thể xác lìa khỏi thể vía coi như chết lâm sàng. Đàn ông có 3 hồn 7 vía. Đàn bà có 3 hồn 9 vía. Đàn bà mạnh hơn đàn ông. Khi linh hồn lìa khỏi xác gọi là chết.
Các nhà triết học phương Tây lại định nghĩa: “Khi ta tư duy nghĩa là ta tồn tại”.
Theo đạo Phật coi sự sống, chết dường như chỉ là một. Trong một ngày cơ thể con người chết đi và sinh ra hàng tỷ tế bào. Sau 6 tháng, cơ thể con người hoàn toàn đổi mới.
Người theo chủ nghĩa duy vật không công nhận có linh hồn: chết là hết. Mà nỗi lo sợ nhất của người coi như chết là hết, kiếp người thành hư vô. Từ nỗi sợ hư vô, các loại hình tôn giáo ra đời. Xã hội loài người luôn biến động và phát triển của cặp mâu thuẫn khoa học và tôn giáo. Cô-pec-nich phải lên giàn hoả thiêu của tôn giáo vì kết luận trái đất tròn và quay quanh mặt trời. Còn đạo Gia Tô nhận định trái đất vuông, mặt trời quay quanh trái đất.
Đạo Hồi, đạo Thiên chúa coi vũ trụ có ba cảnh giới: cảnh giới thiên đường, cảnh giới trần gian và cảnh giới địa ngục. Chúa sáng tạo ra con người và vạn vật. Chúa báo trước loài người có sống tất sẽ có chết, ngày tận thế của nhân loại không thể tránh được.
Đạo Phật với thuyết thập nhị nhân duyên, sáu nẻo luân hồi. Sau khi chết con người tiếp tục cuộc sống trong lá cây, ngọn cỏ...kẻ sống đắc đạo sẽ được lên trời. Kẻ vô đạo sẽ bị đẩy xuống 18 tầng địa ngục. Còn kẻ ngộ trung đạo sẽ tiếp tục được kiếp người:
“Ngộ đạo thì được lên trời
Địa ngục là để nhốt người cuồng si
Ta tu nửa ngộ, nửa mê
Kiếp sau mong được trở về làm ta”
Đạo học phương Đông coi: trần sao âm vậy, trần sao tiên vậy. Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa. Người cũng tạo ra Chúa theo hình ảnh của người:
“Cả cuộc đời đi tìm chân lý
Mới biết mình là lý của chân
Chúa hình người, sa tăng hình quỷ
Phật thiêng liêng vì phật tại tâm”
Cuộc sống không bất động. Cuộc sống là sự chuyển kiếp liên lỷ, liên hồi. Khi ta giết một con gà, con vịt... ta không coi sinh mệnh chấm dứt mà ta gọi là: “Hoá kiếp cho mày”.
Đức Đạt Lai Lạt Ma – Phật sống- khi đi qua một cánh đồng cỏ cạnh khu rừng. Bỗng Đức Đạt Ma xông ra cưỡng hiếp một cô gái trinh đang cắt cỏ. Cô gái này chống cự ác liệt chạy thoát về làng báo tin cho làng và các vị trưởng lão biết. Sau một hồi bàn luận, các vị trưởng lão quyết định: cô gái hãy ra bãi cỏ để Đạt Ma cưỡng hiếp. Cô gái ra bãi cỏ cạnh Đạt Ma, cởi quần áo và nằm xuống. Đạt Ma thanh thản bước đi.
Cô gái về làng. Các vị trưởng lão ngạc nhiên chạy theo Đức Đạt Lai Lạt Ma để hỏi. Đức Lạt Ma nói: “Lúc nãy, ta thấy linh hồn của vị đồng tu bay qua đây. Vị đồng tu này chưa đắc đạo. Ta định giao cấu với cô gái để linh hồn vị đồng tu nhập vào trở thành kiếp người. Nhưng vì vị đồng tu này nặng nghiệp, nên cô gái đã dãy giụa chạy thoát. Đồng thời, lúc đó có đôi bò đang giao cấu với nhau nên vị đồng tu của ta đã hoá thành bò rồi”
Thế giới tâm linh rất huyền bí, cũng có khi do tâm rối loạn rồi tự huyễn hoặc mình:
Hoàn Công đi săn ở đầm trong núi, Quản Trọng thay ông lái xe. Bỗng nhiên Hoàn Công thấy một con quỷ. Hoàn Công hỏi Quản Trọng rằng:
- Trọng phụ có thấy gì không?
Quản Trọng nói:
- Không thấy gì cả.
Sau khi trở về, Hoàn Công trong lòng sợ hãi rồi sinh bệnh, ba tháng không ra khỏi cửa.
Một hôm, công tử Cáo Ngao nói với Hoàn Công rằng:
- Ông tự mình làm thương hại đến mình nên sinh bệnh, chớ quỷ ma làm sao có thể làm thương hại đến ông được chứ!
Hoàn Công nói:
- Ông nói đi, vậy cuối cùng có ma quỷ không?
Công tử Cáo Ngao nói:
- Có chứ, bùn dưới mương có dấu chân, dưới ông đầu rau có búi tóc...những thứ đó đều là ma quỷ cả.
Hoàn Công nói:
- Xin hỏi hình dáng của uy xà như thế nào?
Công tử Cáo Ngao nói:
- Uy xà to như cái cột xe, dài như cái càng xe. Nếu như nghe tiếng sấm và tiếng xe là nó sẽ co rúc lại bất động. Người nào thấy nó sẽ trở thành bá vương!
Hoàn Công nghe rồi, lấy tay chỉ mà cười nói rằng:
- Cái tôi nhìn thấy là nó. Nói đoạn ông ta ngồi lên, sửa soạn lại áo mão. Sau khi ngồi với công tử bất tri bất giác một lúc, thì tự nhiên đã khỏi bệnh.
Khi sợ ma thì nhìn đâu cũng thấy ma. Khi hết sợ ma, tìm đâu cũng chẳng thấy ma. Người đắc đạo là người quên đi sự sinh tử.
Nhan Thành Tử Du nói với Nam Quách Tử Kỳ rằng: “Từ khi tôi theo phu tử học đạo đến nay, năm thứ nhất: lòng như ngựa hoang; năm thứ hai: mới bắt đầu biến mất; năm thứ ba lòng không vấn vương; năm thứ tư: vật và tôi coi như nhau; năm thứ năm: quy thuận đại chúng trở về; năm thứ sáu: thông quỷ thần; năm thứ bẩy: thuận theo tự nhiên; năm thứ tám: quên đi sự sinh tử...
Ngộ được đạo là quên đi sinh tử:
“Người ghi bia đá để đời
Còn tôi tìm chỗ tôi ngồi để quên
Nhìn trời nước dưới mây trên
Cúi xem lại thấy nước trên mây trời
Ngồi quên quên hết sự đời
Hỏi thăm chẳng biết tên tôi là gì”
Quên đi sự sinh tử, quên đi cả cách người đời nghĩ về mình, như Võ Tắc Thiên di chúc hãy để trên mộ mình tấm bia trắng:
“Người ghi bia đá để đời
Còn ta bia trắng để người tự ghi”
Thiền truyện “Người chết không biết nói” viết: “Một vị đệ tử đã tư duy rất lâu ngày về một công án mà vẫn không giác ngộ, rất lấy làm hổ thẹn. Vị thiền sư nói: “Chú cứ về thử ba tháng nữa xem”. Ba tháng sau vẫn không có hiệu quả. “Chú về thử ba tuần nữa”. Ba tuần qua vẫn không giác ngộ. “Ba ngày nữa nếu không giác ngộ thì chết đi cho rồi, chứ tu mà làm gì nữa”. Ba ngày sau, vị đệ tử xuất hiện. Thiền sư hỏi: “Sao, công án đi đến đâu rồi?”. “Bạch thầy con rất hổ thẹn. Con chưa tìm ra được, con sẽ tự tử”. “Thì tự tử đi”, vị thiền sư quát lên. Người đệ tử liền rút dao mổ bụng chớp nhoáng và ngã gục xuống. Vị thiền sư chăm chú nhìn vào nét mặt người hấp hối và hỏi: “Tự tử thì được rồi, nhưng công án đã tìm ra chưa?”. Phều phào, người đệ tử nói: “Bạch thầy, chưa”. Vị thiền sư bắn viên đạn cuối cùng: “Câm đi, người chết không có nói bao giờ”.
Nhà thơ Trần Tử Ngang chợt thấy một nỗi buồn hư vô khi nghĩ về bản lại diện mục của mình khi chưa ra đời và sau khi mình chết đi:
“Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Nịch thương nhiên nhi thế hạ”
Phần này ta sẽ bàn về 4 cảnh giới: cảnh giới niết bàn và thiên đường, cảnh giới trần gian, cảnh giới thiên nhiên và cảnh giới âm phủ.
Theo các nhà duy vật, loài người không có linh hồn. Sự sống chấm dứt bởi cái chết. Chết là hết. Cát bụi trở về cát bụi. Theo quan điểm duy tâm thể hiện qua tôn giáo thì cơ thể chết nhưng phần hồn vẫn tồn tại. Đạo Phật có thuyết thập nhị nhân duyên, luân hồi sáu nẻo, con người sau khi chết sẽ tan theo đất rồi biến hoá thành cỏ, cây, hoa, lá... thành tiên, thành thần thánh, hoặc bị đày xuống âm phủ giam ở 18 tầng địa ngục, bị cho vào vạc dầu sôi, băm nát cơ thể...
Trong truyện “Tấm Cám”, sau khi Tấm chết đã biến thành chim, thành quả thị, rồi quả thị lại hoá kiếp thành cô Tấm. Thời tiền kiếp Như Lai và Phật A Di Đà đã từng chung sống với nhau. Phật Tổ Như Lai đã từng tồn tại trong chim Phượng Hoàng, trong voi chúa, trong cây hoa đại, nên ngày nay, trong chùa nơi thờ phật Tổ Như Lai thường trồng cây hoa đại... những đứa trẻ sơ sinh nào thường thích lộn thai thì các bà mụ thường đánh dấu chàm trên người để ổn định luân hồi.
Bàn về niết bàn và thiên đường theo duy vật cũng chỉ là sản phẩm trí tuệ con người. Trần sao tiên vậy. Tất cả những gì trần gian có thì thiên đường cũng có, chỉ khác ở chỗ đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Trên tiên giới cũng có rượu nồng, dê béo, gái đẹp.. tai ta lúc này còn vang khúc hát điệu múa nghê thường của tiên nữ.
“Thiên thai thoảng gió mơ màng
Ngọc Trân buồn tưởng tiếng lòng xa bay”
Với tiếng tơ rung trong mầu sắc hư ảo ta chợt nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào nguyên... “Kìa đường lên tiên, kìa đường nhân duyên, theo gió tiếng đàn xao xuyến... Thiên tiên, chúng em xin dâng chàng hai trái đào thơm”. Tu theo đạo thần tiên khi đắc đạo được sống trên thiên đường vàng son lộng lẫy. Nhưng thần tiên vẫn còn nằm trong vòng sinh tử. Trư Bát Giới kiếp trước là Thiên Bồng Nguyên Soái, vì hiếu sắc đã trọc ghẹo Hằng Nga nên bị đầy xuống trần gian làm kiếp lợn. Quyền Liêm Đại Tướng Quân cũng bị mắc tội nên bị đẩy xuống trần gian làm quỷ sa tăng.
Đạo học phương Đông chỉ có thiên đường tạm thời nên chỉ có một địa ngục tạm thời. Cảnh giới thiên đường, trần gian và địa ngục đều luôn chuyển hoá lẫn nhau. Thượng đế là người điều hành cõi trời. Còn điều khiển trần gian để thế thiên hành đạo là vua chúa, vua chúa tự cho mình là thiên tử – con trời. Tu thần tiên trong đạo quán. Tu Phật trong chùa. Vua Đường Minh Hoàng được La Chân Nhân cho vào trong tay áo rồi hoá phép cho lên thăm tiên giới, như mơ màng trong giấc mộng và bâng khuâng sự phù du nhân thế...
Tu Phật, tu đạo bất sinh bất diệt. Đắc đạo Phật thoát ra khỏi vòng sinh tử được nhập niết bàn. Trong cảnh giới Phật, tất cả đều bình đẳng. Các chư phật chức vụ khác nhau nhưng đạo quả đều bình đẳng. Tuỳ duyên chúng sinh thờ từng chư phật. Các chư phật đều đắc đạo chánh đẳng, chánh giác. Ta niệm hồng danh một Phật là niệm hồng danh muôn lượng Phật. Thờ một Phật là thờ muôn lượng Phật. Phật A Di Đà tu trên cõi niết bàn nên tượng phật A Di Đà thường đặt trên núi cao. Phật A Di Đà có lời nguyện: “Nếu ai niệm đủ mười câu Nam Mô A Di Đà Phật sẽ được lên thẳng cõi Niết bàn”. Tụng là ở miệng, niệm là ở tâm. Phật Tổ Như Lai, vị phật đầu tiên thuyết giảng về kinh Như Lai, Như Lai coi vạn pháp không từ đâu đến và không đi về đâu. Phật Bà ngự ở biển Nam Hải. Phật Bà có lời nguyền: “Khi nào đưa hết chúng sinh lên cõi phật mới là Phật. Còn một chúng sinh chưa đắc đạo thì chỉ gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát”. Phật Di Lặc tu trên cung trời đạo lợi giữa vàng son lộng lẫy và các tiên nữ hát ca mà vẫn đắc đạo. Các cửa hàng vàng bạc, đô la thường thờ phật Di Lặc. Phật Di Lặc là phật vị lai, sẽ thay thế Phật Như Lai trong chốn ta bà.
Tóm lại, Đạo quán nơi tu thần tiên của đạo Sỹ. Đắc đạo thần tiên vẫn nằm trong vòng sinh tử. Chùa chiền, nơi tu đạo Phật, đạo giải thoát tuyệt đối thoát ra khỏi vòng sinh tử:
“Lưu Nguyễn không tìm lại gặp tiên
Tìm về trần thế hoá vô duyên
Đi mà không đến là Tây Trúc
Đến mà chằng được ấy Đào nguyên”
Cảnh giới địa ngục, nơi trú ngụ của mọi hồn ma, bóng quỷ, nơi giam giữ tra tấn những linh hồn phạm tộ nơi trần thế: trong vạc dầu sôi, cưa xẻ thân thành từng khúc, chó sói xé nát thân hình...18 tầng địa ngục, 18 kiểu tra tấn những kẻ phạm tội ở thế gian. Đạo Thiên chúa có thiên đường vĩnh viễn và địa ngục vĩnh viễn. Theo đạo Phật thì thiên đường chỉ tạm thời, thần tiên nếu phạm tội có thể đầy xuống trần gian. Địa ngục cũng chỉ tạm thời. Cõi trung ấm là nơi các hồn ma chờ Diêm Vương xét xử. Trong 7*7=49 ngày, có thể đầu thai trở lại cõi trần gian. Ngày lễ Vu Lan hay còn gọi là ngày rằm tháng bẩy- ngày xá tội vong nhân, ngày mà Phật Mục Kiền Liên xuống thăm mẹ ở 18 tầng địa ngục- các hồn ma đều được lên trần thế ăn những hớp cháo lá đa do mọi người cúng tế:
“Quỷ hại ta phất cành dương
Nhân hại diệu kế có đường thoát ngay
Tự hại trời cũng bó tay
Chờ rằm tháng bẩy là ngày tạm tha”


CÕI TRẦN GIAN
Hiểu cõi trần gian theo hai cách: cách hiểu của các nhà khoa học bằng các định lý, định luật, công thức..
Cách hiểu thứ hai: bằng đạo học. Người Việt Nam ta tìm hiểu thế giới qua ba đạo: đạo Phật, đạo Lão và đạo Khổng.
Hiểu thế giới bằng đạo ba chiều: đạo Khổng, đạo Phật và đạo Hồi...
Theo tiến hoá luận, con người sinh ra từ con khỉ. Theo Cơ đốc giáo, con người do Chúa sinh ra. Theo đạo Phật, con người do nhân duyên tạo thành. Còn theo tôi, có lẽ hình như con người từ ngoài hành tinh khác đến.
Điều chắc chắn thiên đường hay địa ngục đều mô phỏng cõi trần gian, trần sao âm vậy. Ba cõi: trần gian, tiên cảnh và âm ty luôn luôn biến hoá lẫn lộn sang nhau. Quỷ Mê-phi-tô-phel ký một bản giao ước trên trần thế với bác sỹ Phauxtơ. Cô Tấm khi chết biến thành con chim Hoàng Anh, khi đức vua giơ tay áo gọi “Hoàng ảnh Hoàng Anh có phải vợ anh, chui vào tay áo”. Chim Hoàng Anh chui tọt ngay vào tay áo vua. Rồi cô Tấm biến thành quả thị, khi bà lão gọi: “Thị ơi! Thị rụng bị bà, đem về bà ngửi chứ bà không ăn”. Quả thị rụng vào bị bà lão rồi sau đó cô Tấm lại từ quả thị bước ra cuộc sống. Sự chuyển kiếp liên lỷ này thể hiện thuyết “Tề đồng vật ngã” của đạo Phật. Cuộc sống và cái chết luôn chuyển hoá sang nhau, Đức Thánh Gióng, Đức Chúa trời chuyển từ cõi trời xuống cõi trần gian, rồi lại từ trần gian lên trời. Thần thoại Hy Lạp thì thần thánh sống chung với loài người. A Sin là con của thần đất, Prô-mê-lê lấy cắp lửa của thần Zớt mang xuống cho loài người nên bị xích trên đỉnh núi để hàng ngày bị dã thú rỉa tan xác.
Trong truyện Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh đầy cảnh giao tình giữa người và ma, hai cảnh giới vừa âm dương cách biệt mà vẫn hoà hợp giao hoan. Ngày nay, khi đọc xong Liêu Trai, ai mà không chơi vơi trong buổi chiều tà hoang vắng, mơ tưởng được trùng phùng với người đẹp khói sương:
“Tắm trăng cây sậy khẽ đong đưa
Đom đóm lập loè trước dậu thưa
Đời nay thiên hạ cười nhân thế
Mình lau giọt lệ bóng ma xưa

Một làn hơi trắng toả trong sương
Hài xanh lướt cỏ cánh hoa vương
Bồng lên thiếp nhẹ hơn làn khói
Tình nồng quên cả cõi âm dương”
Chính vì nghĩ có sự chuyển kiếp, nên có tục ướp xác, con người hy vọng sẽ có sự phục sinh như đức chúa Zê-su. Để tránh cảnh phục sinh như Trương Ba vì xác thân rữa nát, nên hồn Trương Ba đã phải nhập vào xác anh hàng thịt nên đã để lại cho đời sau một câu chuyện chuyển kiếp huyền vi.
Trong truyện Kiều thì âm và dương, sống và chết như không còn ranh giới. Thuý Kiều trùng phùng với Đạm Tiên ngày thanh minh trong tiết tháng ba:
“Ào ào đổ lộc rung cây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều”
Để rồi đêm về Đạm Tiên lại mờ ảo xuất hiện thăm Kiều:
“Sen vàng lãng đãng như gần như xa
Rước mừng đón hỏi dò la
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây”
Đạm Tiên nhắc: “Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên”. Kiều mới chợt nhớ ra. Trước lúc bán mình chuộc cha, Kiều nhắc nhở Thuý Vân:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió là hay chị về”
Cuộc sống và cái chết hoà quyện vào nhau trong cõi nhân gian huyền bí.
Bài thơ mô tả cô hồn của Nguyễn Du thật lung linh huyền ảo mà lại hiện hữu như trước mắt:
“Kìa những kẻ màn loan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu”
Câu thơ hay nhất của Nguyễn Du thể hiện sâu sắc lòng thương người ở phần cuối bài văn chiêu hồn, ta thấy rùng mình thương xót cho kiếp người trong cõi trầm luân:
“Nghe gà gáy tìm đường lẩn tránh
Tắt mặt trời lẩn thẩn bò ra
Lôi thôi bồng trẻ giắt già
Có khôn thiêng hỡi
Lại mà nghe kinh”
Trong cuộc sống khoa học hiện đại với máy vi tính siêu cấp, các phi thuyền con thoi...những thế giới tâm linh, cảnh gọi hồn , xem bói, các pha đồng bóng... vẫn càng ngày càng phát triển. Nhà du hành vũ trụ Mỹ khi bay lên mặt trăng trở về trái đất đã phát biểu:
- Ra khỏi trái đất, bay vào vũ trụ mới hiểu chắc chắn phải có đức chúa trời.
Hay như nhà triết học Von-te quan niệm: “Nếu không có chúa thì loài người cũng phải tạo ra một đức chúa”.
Nghĩa là bên cạnh khoa học kỹ thuật phải có tôn giáo. Loài người vô đạo nguy hiểm hơn mê tín.

PHẦN KẾT
Nói ngắn gọn theo quan điểm của Phật về tâm linh loài người có 84000 bệnh. Phật soạn ra 84000 quyển kinh để chữa bệnh tâm. Nếu loài người suy nghĩ như Phật, tìm nguyên nhân sai lầm không phải ở đạo đức mà ở bệnh thì có lẽ thế giới này sẽ đại đồng:
“Khi biết mỗi sai lầm là bệnh
Chắc lòng người sẽ lượng cả bao dung
Khi biết có thể ta gặp nhau lần cuối
Thế giới này chắc chỉ có yêu thương”
Nếu nghĩ đến cái chết sâu sắc: hôm nay gặp nhau biết đâu là lần cuối thì lòng thù hận nhau sẽ tiêu tan. Tôi xin kể một câu chuyện hoàn toàn có thật:
- Một lần tôi đi chơi với một cậu bạn nóng tính. Cậu ta gây sự với đối thủ. Tôi bảo anh bạn ra ngồi ở hàng nước nghỉ, tôi chỉ đến gần khẽ điểm vào huyệt bách hội đối thủ sẽ nhũn ra. Tôi đến sát đối thủ, nói nhỏ một câu, đối thủ bỏ đi ngay. Bạn tôi ngạc nhiên hỏi vì sao. Tôi bảo chỉ cần nói nhỏ: “Bạn tôi bị si đa giai đoạn cuối, sắp quy tiên rồi”.
Nếu tất cả chúng ta nghĩ đến cái chết. Hôm nay gặp nhau, ngày mai chắc gì còn gặp lại thì có lẽ lòng người sẽ chỉ có yêu thương:
“Bây giờ giáp mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”
03:55 CH 04/10/2013
Thơ Bảo Sinh
Người Hy Lạp nói: Không ai tắm hai lần trên một dòng sông.Kinh koran :Mặt trời hôm nay khác mặt trời hôm qua.Hegel bảo đó là logic biện chứng.Phật dậy lẽ vô thường

Jesus: "ta là con đường"

Đừng thấy em bé mà chòng

Lớn lên anh sẽ phải lòng em ngay

Đừng thề mãi mãi đắm say

Mai kia em sẽ thành ngay bà già

Về thăm chiến địa Điện Biên

Ngậm ngùi tiếc thưở tráng niên qua rồi

Ngày xưa kéo pháo băng đồi
Nay không kéo nổi qua đùi chị em
Chiến trường thích cựu chiến binh
Ái tình thích kẻ chiến chinh lần đầu
Kant-nhà triết học Đức-khi yêu , nghiên cứu thật kĩ mới ra quyết định cưới.Ông bố vợ hụt bảo :Rất tiếc em nó đã có 3 con
02:39 CH 13/09/2013
Thơ Bảo Sinh
Phải vào mới thấy lối ra

Phải yêu mới biết đâu là không yêu

Tìm ai suốt cả bốn chiều

Rồi ta mới biết bốn chiều đều không

"Không" đây không phải là không và có mà là vạn pháp không tự có .Vạn pháp do nhân duyên giả lập tạo thành

Nhân duyên đến nhân duyên đi

Chúng mình ngoài cuộc hẹn gì với nhau

Lá trầu chẳng đợi quả cau

Tự nhiên tan hợp thành màu nhân duyên
03:58 CH 11/09/2013
Thơ Bảo Sinh
Hồn Kĩ Nữ (Trích Á Kinh Siêu Sinh Tịnh Độ)

Bãi tha ma mưa phùn lất phất

Những cô hồn húp bát canh ma

Một làn gió nhẹ lướt qua

Hồn siêu phách tán biết là về đâu

Sương mờ mịt trên mồ kỹ nữ

Dế nỉ non nức nở canh thâu

Khách phong tình ở nơi đâu

Ai thương kỹ nữ nằm sâu dưới mồ
Người thường thấy cánh hoa rơi
Hai chân di nát không chơi hoa tàn
Mấy ai khóc mộ hồng nhan
Mấy ai quét cánh hoa tàn về chôn
Chợ đời mua chữ bán lời
Chợ đạo họ bán cả trời cho nhau
Chợ tình em bán nỗi đau
Bán non cả cái kiếp sau cho trời
Đêm thanh vắng tiếng thơ tịch mịch
Não nùng như tiếng địch sông Ô
Lâm tuyền sương khói mịt mờ
Mỹ nhân lãng đãng bên mồ ngâm thơ
Đợi tri âm ở trên trần thế
Vẫn bồi hồi lau lệ ma xưa
Đêm đêm trong những giấc mơ
Cùng chung hơi thở, hơi thơ âm tuyền
Tình thi nhân thấm sâu mộ tối
Dệt thơ tình thành lưới nhân duyên
Tiếng thơ nặng một lời nguyền
Nối âm dương lại thành duyên tơ hồng
Tình kỹ nữ dạt dào như biển
Tỳ bà hành ca bến Tầm Dương
Chờ tri âm đến yêu đương
Là hồn tan hận lên đường siêu sinh
Lửa ma trơi không làm ấm mộ
Ma lìa cành hú gió đêm thâu
Cô hồn lạnh lẽo đất sâu
Chỉ mong ấm xuống một câu nhân tình
Tình yêu cũng là kinh là pháp
Cũng độ hồn siêu thoát kiếp ma
Nam mô đức Phật Di Đà
Nam mô muôn loại cùng là yêu thương
02:57 CH 31/08/2013
Thơ Bảo Sinh
Hồn Viễn Xứ (trích Á Kinh Siêu Sinh Tịnh Độ)

Nam Mô A Di Đà Phật

Những cô hồn tha phương lữ thứ

Lang thang trên trời Á biển Âu

Chân mây mặt nước một màu

Hồn vong cố quốc biết đâu quê nhà

Không được độ một câu kinh kệ

Không được nghe lời mẹ hát ru

Xương nằm dưới tuyết mịt mù
Hồn siêu phách tán ù ù sấm vang
Rằm tháng bảy hồn ma cố quốc
Còn được đi cướp cháo lá đa
Vong hồn đất nước người ta
Ai cho hớp cháo lá đa đỡ lòng
Ma đói đi lang thang trong tuyết
Biết về đâu ngày tết nguyên tiêu
Cô hồn gió thổi hắt hiu
Nương theo ánh nến tìm mùi khói hương
Hồn ăn tết vào ngày âm lịch
Sang bên tây chuyển dịch tết dương
Họ tên cũng đọc khác thường
Hồn đâu còn biết quê hương nơi nào
Hồn toàn gặp hình ma xứ lạ
Bóng run run như lá mùa thu
Sương bay gió tuyết mịt mù
Khối sầu cố quốc bao giờ cho tan
03:12 CH 27/08/2013
Thơ Bảo Sinh
Du lịch trăm năm vòng đời là đủ

Ai cho tiền rủ nữa cũng không đi

Chết là cách đổi tour du lịch

Không cần tiền đúng lúc là đi

Con chuột mắc phải sai lầm

Khi rơi vào bẫy không ăn miếng mồi

Nhiều người cũng thế mà thôi

Rơi vào sinh tử chỉ đòi thoát ra

Đường lên thiên đường biết đâu là bến

Khi mệt hãy ngồi xuống nghỉ

An nhàn đấy là thú thần tiên

Đường lên Tây Trúc gần mà xa tít tắp

Khi mệt hãy nằm xuống ngủ

Vì biết rằng chết cũng là vui
03:22 CH 20/08/2013
Thơ Bảo Sinh
Kiếp người như một giỏ cua

Trời đổ tung tóe ra chùa ra sân

Con thì trẻ vặt hết chân

Con bò đường nhựa con lần ra ao

Răng khôn mà lại mọc ngu

Cho nên mới bị sưng u cả mồm

Người ngu vỗ ngực rằng khôn

Kẻ khôn lại biết mình còn quá ngu
02:49 CH 05/08/2013
Thơ Bảo Sinh
Chỉ sờ một chỗ mà thôi

Thầy bói định nghĩa được voi là gì

Khi đã hiểu lẽ huyền vi

Sẽ không định nghĩa được gì về voi

Sờ đuôi sờ đít sờ đầu

Xem voi thầy bói cãi nhau suốt đời

Vì cho chân lí là lời

Cho nên thế giới loài người đánh nhau

Thế gian tranh cãi thắng thua

Vô ngôn trời chẳng thiếu thừa điều chi

Phật Tổ Như Lai: "Lời dẫn ta tới chân lý nhưng lời không phải là chân lý, nhiều khi lơi lại che cả ánh sáng của tâm "
03:12 CH 27/07/2013
Cửa Ô
Ô YÊN PHỤTừ phía Bắc vào nội thành Hà Nội, ta được ngắm các bốt Boong-ke có từ thời Pháp. Boong-ke này đặt ở ngã ba, một phía lên Phú Thượng, một phía vòng Hồ Tây về Bưởi, một hướng xuôi phía Nam về Yên Phụ. Hương vị Hà thành từ Hồ Gươm toả đến bốt này là hết vị. Qua cái bốt ngược lên Phú Thượng, người Hà Nội thường dừng lại trước cái bốt này, và khách bát phố coi đây là một điểm đặc biệt bên đường, nhất là khi trông thấy cái bốt boong-ke giăng kín dây thép gai, con chuột chạy không lọt, treo lơ lửng mấy vỏ bao thuốc lá và đồ hộp quăng đầy dưới chân. Thật ra, khi lãng tử Hà thành vượt qua cái bốt sẽ được thưởng thức cảnh sông nước kỳ thú. Thời xưa, cảnh đê Phú Thượng đẹp lắm. Đặc biệt, có cây gạo cao chót vót, hoa gạo nở đỏ rực, dưới bãi cỏ đầy hoa rơi. Trên cao, chim sáo, quạ, diều hâu đậu đầy, kêu ríu rít. Tụi trẻ con giương súng cao su bắn không tới, đạn rơi xuống đất thành đường cầu vồng.
Còn đoạn đê từ Boong-ke vòng sang Bưởi, hoặc về đến Quảng Bá là nơi chăn thả từng đoàn bò. Sáo sậu và sáo đen đậu trên lưng bò hàng đàn để tìm bắt ve, bọ cho bò. Có chú sáo ngoáy mỏ vào tận lỗ tai bò để bắt ve, khiến bò chạy vùng lên. Ác nỗi tụi sáo sậu và sáo đen tinh lắm, tụi trẻ chỉ giơ súng cao su lên là bay mất, chứ không như sáo đen và quạ ở Malaisya dạo chơi quanh đám người đông. Cuối cùng thì bọn trẻ vẫn thông minh hơn chim, một đứa đạp xe, một đứa ngồi đằng sau giương súng cao su lên bắn. Lúc đầu hạ được một số chim sáo. Sau đó, chim cũng khôn theo người, cứ thấy bóng xe đạp là bay vù mất.
Từ Boong-ke về đến Quảng Bá, một bên đê là cánh đồng, một bên đê là làng xóm quanh hồ. Quảng Bá, Nghi Tàm có bể bơi ngoài trời duy nhất của Hà Nội. Nếu đi từ Hà Nội lên rẽ đường chính vào thì phải mua vé, còn nếu từ trên đê đi tắt qua cánh đồng thì không mất tiền.
Bể bơi xưa rất đơn giản, trên bờ có gian nhà lá để thay quần áo, tuyệt đối không có máy nước để tráng người. Trên sân có một xà đôi và một quả tạ giành cho người yêu thể thao. Bể bơi có cái cầu phao dài khoảng 30m dẫn đến cầu nhẩy. Có lần, một người lặn bị mắc kẹt trong cầu phao, khi xác chết bốc mùi nồng nặc mọi người mới phát hiện ra, bể bơi phải đóng cửa một tuần lễ.
Trông nom bể bơi là Tỷ Điếc, người đẹp như một vận động viên thể hình. Tỷ Điếc cũng là một vận động viên bơi lội thường thường bậc trung. Thời ấy, phong trào bơi lội của ta kém lắm. Nguyễn Văn Cử giữ kỷ lục bơi tự do rất nhiều năm. Nguyễn Văn Cử bơi theo kiểu lai căng giữa bơi ếch và bơi sải. Về mặt kỹ thuật bơi lội, Cử còn kém cả những người bơi lội nghiệp dư của các bể bơi Hà Nội hiện nay. Sau đó, những con “cá kình” Hồ Tây dòng họ Quách Cương bá chiếm nhiều năm. Trước kia, họ thường tổ chức thi bơi vòng quanh Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, sau thì bỏ hẳn.
Người Hà Nội hẳn nhớ cảnh buổi sáng mùa hè, đạp xe từ Hồ Gươm lên bể bơi Quảng Bá lúc sáng tinh mơ. Thường xuất phát ở nhà lúc 5 giờ sáng thì 6 giờ tới nơi. Sở dĩ đi chậm vì đoạn đê giữa Yên Phụ đến Quảng Bá trồng đầy ổi. Ổi chín vàng ươm, chúng tôi thường mắt trước mắt sau không thấy ai canh là a la xô xuống vặt ổi trộm. Của ăn vụng dù có hái được quả xanh, ăn chát xin xít đến bứ cổ vẫn thích. Nếu chẳng may bị người canh bắt được thì cũng đến hoà, người canh ổi bắt được kẻ trộm ổi, họ cũng không đánh đập gì mà chỉ xua đuổi đi thôi. Buổi sáng mùa hè mà được đi tắm Quảng Bá thật thú vị, ra đi từ lúc mờ sáng, đường còn đèn, đến hồ sương còn phủ, xuống nước lúc đầu ngại vì hơi lạnh, nhẩy ùm xuống một lúc thấy mát rượi tới tận tâm can. Sau khi vùng vẫy, nô rỡn thoải mái, độ 1 giờ là về, lúc này ánh mặt trời đã bắt đầu gay gắt, bụng đói cồn cào, ai lo xa thì mang khoai luộc đi ăn. Bụng đói được ăn khoai luộc thấy thật chắc dạ. Còn những người quá đói thì nhẩy bừa xuống hái trộm ổi, nếu có bị người canh bắt được thì đến cười trừ là hết chuyện.
Sau thời kinh tế mở cửa, cơn sốt xây nhà biệt thự quanh Hồ Tây nổi lên, rừng ổi bị chặt trụi. Lúc đầu, Hồ Tây lơ thơ tô điểm một vài ngôi nhà biệt thự đẹp như trong mơ.
Nay thì nhà xây lên vô tổ chức trông như một đống kiến trúc lổn nhổn. Nhìn từng ngôi nhà ta thấy đẹp như nhà Tây, nhìn tổng thể lại thấy ngược lại.
Đường Thanh Niên xưa nhỏ, nhưng đẹp và thơ mộng hơn bây giờ. Đẹp vì con đường Cổ Ngư trông xa như một dải lụa vắt ngang giữa hai hồ: Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch, hàng hoa phượng vĩ đỏ rực như gấm thêu trên lụa. Nay thì đường mở rộng, các cây cối che khuất mất hàng phượng vĩ.
Hồ Tây có hai vụ chết gây xúc động: một vận động viên bơi lội vô địch đã chết vì chuột rút; đoàn văn công Trung Quốc đi chơi hồ đã bị một cơn lốc cuồng phong cuốn chìm trong một ngày trời đẹp. Tất cả mọi phương tiện cứu hộ đều bất lực. Thời Pháp, chỗ dốc Hồ Tây có khu vui chơi “Tiểu Đồ Sơn”, nhà thuyền Hùng Nhân. Sau này, Nhà nước ta làm thành chỗ cho thuê du thuyền. Ngày trước phải là tay chơi mới dám bỏ tiền ra thuê thuyền. Có hai cậu thanh niên cố dành dụm ít tiền, thuê chơi thuyền một bữa xả láng. Ác nỗi hôm đó nắng gắt. Một cậu bảo:
- Nắng quá, anh cho em vào bờ nghỉ một chút không thì mệt chết.
Cậu kia quát:
- Chết thì chết, đã mất tiền thuê thì phải đi.
Đường Thanh Niên trước gọi là đường Cổ Ngư. Ngày xưa vua Lê, Chúa Trịnh du thuyền trên Hồ Tây thường bắt cung nữ giả làm người bán hàng trên đường Cổ Ngư để các vua, chúa vào giả vờ mặc cả mua bán, bỡn cợt cho vui.
Sau ngày đầu giải phóng, học sinh Chu Văn An, Nguyễn Trãi ra sức kéo đất từ sông Hồng lên để đổ đường rộng ra như ngày nay.
Ngày ấy, học sinh đói lắm, phải kéo xe bò đất qua dốc Yên Phụ thở hồng học, vã mồ hôi. Nhưng khí thế lao động thì hừng hực. Bây giờ nghĩ lại cũng chẳng sao giải thích nổi. Nếu học sinh nào dù có giỏi nhất lớp mà lao động kéo xe bò đất thiếu nhiệt tình thì mọi thành tích đều sổ toẹt. Ngày xưa Hồ Tây kéo sát đến cây đa trước cửa đền Quán Thánh. Vườn hoa Lý Tự Trọng trước là hồ sen. Sau khi được thanh niên học sinh san lấp đi, Bác Hồ đã đổi cái tên đầy lịch sử Cổ Ngư thành Thanh Niên, rồi đặt tượng Lý Tự Trọng để thờ.
Ngày quân Pháp rút khỏi Hà Nội đã cho giật mìn phá chùa Một Cột, xác chùa Một Cột đem đổ xuống Hồ Trúc Bạch gần quán bánh tôm. Chùa Một Cột ngày nay là tân thời, xây lại bằng bê tông cốt sắt.
Có dạo du khách các nước Hồi giáo tham quan Hồ Tây, thấy nhiều đôi trai gái làm tình từ tượng Lý Tự Trọng tới chùa Trấn Quốc. Dáng các đôi làm tình đều đứng, ngồi ở các tư thế khó, họ ôm nhau bất động như La Hán, người Hồi giáo gọi là “khám bệnh”, họ không hiểu được người Việt sao lại “khám bệnh” giữa ban ngày.
Người Hà Nội xưa đi qua đường Thanh Niên cũng có những cảm giác hụt hẫng. Thứ nhất, phía Hồ Trúc Bạch xưa có đền Cẩu Nhi, Cẩu Mẫu như ốc đảo ven hồ, trông rất ấm cúng. Sau đó, chẳng hiểu vì sao lại bị phá đi rồi biến thành restaurant, sau bị nhiều nguời phê phán, lại bỏ hoang. Rồi tranh cãi xây lại như xưa. Chủ yếu chắc cũng như thường lệ: kết quả bằng con ruồi, mà chi phí bằng con voi. Cuộc bàn luận đền Cẩu Nhi, Cẩu Mẫu rồi cũng như cuộc bàn luận về bảo vệ rùa ở Hồ Gươm, có nhà học giả bảo: “Cần bảo vệ con rùa”, nhà Hà Nội học mắng: “Cụ rùa đến nghìn tuổi có vô văn hóa mới gọi cụ là con”. Cuộc họp bất phân thắng bại. Con rùa hay cụ rùa?
Còn cái quán bánh tôm đặc sản Hồ Tây thời bao cấp phải xếp hàng có khi từ sáng tới chiều mới được ăn đĩa bánh tôm. Đi trên đường Thanh Niên nhìn người ăn bánh tôm trong nhà hàng mà cứ tưởng họ đang hưởng lạc ở Niết bàn.
Xưa, Hồ Trúc Bạch có một khu nhà 8 mái gọi là nhà Kèn, nay biến thành nhà khách Bộ quốc phòng. Cây đa trước cửa đền Quán Thánh trước có một đôi, nay còn một cây thôi. Nguyên do là trong giai đoạn chiến tranh phá hoại, mục tiêu chính của không quân Mỹ là đánh sập nhà máy điện Yên Phụ. Bom thời Ních-xơn gọi là bom thông minh. Sau khi máy bay do thám chụp được hình mục tiêu, thì bức hình gắn vào bộ nhớ của bom. Bom sẽ tự động đi tìm mục tiêu. Muốn bảo vệ được nhà máy điện, trước tiên phải bịt mắt được bom thông minh Ních-xơn, bằng cách khi có báo động, ta tổ chức một đơn vị bộ đội phun khói đen, nên gọi họ là đặc công lính khói. Mỗi khi có báo động cả khu vực quanh nhà máy điện, quanh Hồ Trúc Bạch lan đến một phần trời Hồ Tây, khói đen mờ mịt.
Bịt mắt bom thông minh còn cần cả hoả lực pháo cao xạ. Trực tiếp bảo vệ nhà máy điện gồm bốn đại đội: C33 pháo 57 C anh hùng đóng ở bãi Nghĩa Dũng; đại đội pháo cao xạ 37 ly đóng ở giữa Hồ Tây; đại đội 57 ly C30 đóng trên đường Thanh Niên; trung đội 14 ly 5 đóng trên nóc nhà Quốc hội.
Riêng tầm ngắm bắn của C30 trên đường Thanh Niên bị hàng cây phượng vĩ, cây đa trước cửa đền Quán Thánh cản trở. Lệnh đơn vị là chặt phá mọi vật cản tầm ngắm để tiêu diệt kẻ thù bảo vệ Phủ Chủ tịch, nhà máy điện, trái tim của Thủ đô. Đơn vị chặt một cây đa trước cửa đền Quán Thánh, đang phá hàng phượng vĩ thì tin này đến Phủ Chủ tịch. Lệnh của Bác Hồ là tìm mọi cách bảo vệ mục tiêu, nhưng không được phá cây. Không phá cây mà vẫn bảo vệ mục tiêu, thì đơn giản nhất là phá khu nhà Kèn giữa Hồ Trúc Bạch để đặt trận địa pháo. Thế là khu di tích lịch sử nhà Kèn đã bị xe xích ủi đổ, xác của nhà Kèn bị quẳng xuống hồ gần xác của chùa Một Cột do Tây phá được “an táng” gần nhau trong lòng hồ Trúc Bạch. Tiếc rằng mộ chí của chùa Một Cột và khu nhà Kèn không có bia tưởng niệm, chỉ còn bia tưởng niệm nơi bắt sống phi công Mỹ rơi xuống hồ Trúc Bạch, có lẽ bia này nay không phù hợp nữa.
Thế là khu nhà Kèn, di tích lịch sử biến thành trận địa pháo 57 ly, C30.
Có câu chuyện cũng hay, anh em bộ đội pháo trong giờ rỗi thường dùng dây điện đánh cá để cải thiện bữa ăn. Có lần thả dây điện xuống nước chỗ gần bờ để bắt cá, ai ngờ ụ pháo hình tròn che lấp phần phía có hai đồng chí công an, đóng ở 192 Quán Thánh, phía sau sát trận địa pháo, đang tắm đã bị giật, may không ai bị chết. Chuyện đụng độ vặt giữa công an và bộ đội giải quyết rất êm thấm với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Bộ đội hồ Trúc Bạch được ưu tiên đặc biệt, sang cửa hàng bánh tôm ăn không phải xếp hàng. Mà đã có cô bán bánh tôm, có anh bộ đội hẳn phải có chuyện giăng mắc tơ tình. Cậu bộ đội lái xe, đẹp trai loại nhất đơn vị tên là Thìn được các cô bán bánh tôm cho lọt vào cặp mắt xanh. Cậu Thìn, lúc đó là thượng sỹ, lái xe, cánh lái xe tán gái có hạng, lại đẹp trai như Thìn mới có đủ khả năng cưa đổ cô hàng bánh tôm. Thời bao cấp ấy, cô nào bán hàng lương thực coi như cô tiên. Bán lương thực, bán cái ăn là bán sự sống, như chúa Jesus ban phúc lành cho nhân loại.
Còn đơn vị pháo 37 ly, C64 đóng ở giữa Hồ Tây lại có một niềm vui khó tả đó là khi mang ống nhòm, hoặc máy đo xa nhìn vào phía đường Thanh Niên thấy từng đôi nam nữ ngồi sau bụi cây, hướng ra ngoài mặt hồ, tưởng là kín đáo, nên cùng nhau mân mó, làm tình. Nhiều khi được xem người khác làm tình lại được hưởng khoái cảm dai dẳng hơn là được làm tình. Chuyện này rồi cũng lộ, sau đó chính trị viên cấm, anh em chỉ đành xem trộm, ống nhòm, máy đo xa chỉ nhìn lên trời xanh, thỉnh thoảng ngó không thấy cán bộ mới dám lia vội vào phía đường Thanh Niên để… cải thiện.
Ở giữa hồ còn có thú vui, lia máy đo xa về phía Quảng Bá sẽ được ngắm những bãi lau, sậy lan xa đến mặt hồ:
“Vi lau san sát hơi may
Một trời thu để rừng say một người”
Có lần, một phái đoàn Pháp đến thăm đơn vị. Vì đây là đơn vị pháo 37, nên được phép tiết lộ bí mật cho phái đoàn nước ngoài, riêng pháo 57 thì cấm. Phái đoàn Pháp phát biểu rất cảm động về ba vấn đề:
*Thứ nhất, khi ngắm vết đạn thành cửa Bắc, họ bảo: ngay như chiến hạm mà khẩu pháo của Pháp do Hăng-ri-vi-e, Frăng-xi-gac-nhi-ê bắn vào thành cửa Bắc ta hiện chưa chế tạo được, mà ta lại bắn rơi được máy bay siêu hiện đại của Mỹ.
*Thứ hai, họ vẫn thấy những toa xe điện méo mó, tã tời chạy leng keng trên đường Quán Thánh, họ khen ta là giữ lâu dùng bền, thứ xe điện này thế giới đã thải cách đây cả nửa thế kỷ.
*Thứ ba, họ khen ta, trong chiến đấu ác liệt vẫn lạc quan, vừa bắn máy bay xong lại ra thanh thản ngồi câu cá, mang ống nhòm ngắm phía đường Thanh Niên (vì họ không hiểu anh em đang sung sướng ngắm các đôi nam nữ làm tình).
Cách bắt cá ở đại đội pháo giữa hồ rất đặc biệt. Trận địa pháo giữa hồ làm bằng những thùng tên lửa neo lại với nhau. Nếu ta dùng một chòng sắt hoặc gỗ thọc mạnh vào bụng thùng tên lửa sẽ có tiếng vang tần số mạnh dưới nước. Cá sợ nhẩy lên trên trận địa hàng đàn.
Còn cách kiếm cá thứ hai, khi công ty Hồ Tây kéo lưới cá, anh em bộ đội mời họ thuốc lá. Sau đó, họ sẽ thể hiện tình cảm quân dân như cá với nước, đem trao đổi với anh em bộ đội cá lấy thuốc lá hút, thì chỉ có quyền khen trở lên, chứ thời ấy đố ai dám mang ra phê bình, phê bình thì chỉ có là phản động. Chỉ tiếc sau này mới biết Phùng Quán cũng ngồi câu trộm cá ở Hồ Tây mà mình không biết, mà có biết thì bố bảo cũng không dám quan hệ với tên Nhân văn Giai phẩm khét tiếng này.
Trận địa pháo giữa Hồ Tây buộc một cái dây cáp từ trận địa vào tới trường Chu Văn An. Lớp học của trường Chu Văn An biến thành bếp của anh nuôi. Anh nuôi bíu vào dây cáp kéo thuyền chở cơm ra trận địa.
Tất nhiên, họa – phúc thường liền kề nhau. Đồng chí quản lý tưởng là trận địa ở mãi giữa hồ, không phải bỏ tiền mua cá, đã lấy hết tiền quỹ sắm sửa, ăn chơi. Khi đánh đùng một cái, nghe tin đơn vị cơ động rời lên bờ thì ngã ngửa người ra, và phải về quê xin tiền vợ, vay mượn tiền anh em đơn vị để đắp điếm vào chỗ quỹ hở.
Có một chiến sỹ C64 đóng giữa hồ, khi nhìn vào ngôi trường Chu Văn An lòng không khỏi bồi hồi, vì lớp lớp kỷ niệm dập dờn trên sóng nước đầy ắp tâm hồn. Chiến sỹ này là học sinh trường Chu Văn An cũ, lớp học cũ nay đã thành bếp anh nuôi.
Những kỷ niệm xưa như khói, như mây bay về. Anh bộ đội lại thấy những người muôn năm cũ: đây là hình ảnh vợ chồng thầy giáo dậy pháp văn người Pháp tên là Tông-gác. Thầy cô Tông-gác dáng người mảnh mai, mang đầy đủ phong cách của người thầy mẫu mực. Giữa thầy cô và học sinh người Việt, ông bà Tông-gác cao hơn một cái đầu.
Học sinh thời đó đầy sục sôi tinh thần Cách mạng. Họ sẵn sàng ra đi bất cứ đâu khi Cách mạng yêu cầu. Sau khi ra trường, học sinh Chu Văn An sẵn sàng đi xây dựng đất nước ở bất cứ nơi nào khó khăn nhất. Lúc đó, câu thơ của Bùi Minh Quốc nguyên học sinh của trường làm rạo rực tâm linh tuổi học trò:
“Đây miền Tây núi rừng giang tay đón
Những con người sung sướng nhất trần gian
Là được lên đây đem sức lực căng tròn
Với sứ mệnh vinh quang: vỡ đất”
Buổi nghe nói chuyện của nhà hùng biện Việt Phương khiến hồn trẻ như bốc lên tận mây xanh. Thầy dậy vẽ Nguyễn Dung đã mất lâu rồi, còn thầy dậy nhạc Nguyễn Quỳ nay vẫn sống, nhưng giọng nói đã khác xưa. Mọi người bảo giọng thầy xướng âm như tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Đặc biệt, trường Chu Văn An được nhiều lần Bác Hồ đến thăm. Trong một buổi nói chuyện với tổng thống Pra-xát của Ấn Độ, Bác Hồ nói về thành tích ta đánh thắng đế quốc lớn. Còn Pra-xát lại trình bầy dân Ấn Độ tránh đụng độ với các đế quốc lớn. Sợ có sự dịch nhầm, Bác Hồ đã tự dịch lời của tổng thống Pra-xát ra tiếng Việt, để tránh cho các em học sinh trình độ chính trị non nớt dễ hiểu nhầm.
Học sinh Chu Văn An còn nhớ hình ảnh thầy Tòng dậy Anh văn, xương mặt to, dáng cao, đi hơi khòng. Sau giải phóng, ta bỏ học tiếng Anh, điều thầy Tòng xuống làm mộc. Một lần văn nghệ, thầy Tòng được mời biểu diễn kéo đàn Vi-ô-lông, thầy Bách dậy Pháp văn thì hát. Thầy Tòng mang cái đục kéo vào cái cưa bảo: “Thầy làm nghề thợ mộc lâu quá nên quên cả nghề đàn”. Ban giám hiệu tưởng thầy diễu cợt nhà trường, đã đề nghị đưa thầy đi cải tạo. Về sau, thầy sống chết thế nào không thấy ai nhắc tới.
Còn thầy Bách dậy Pháp văn mặt trái xoan, da trắng đẹp kiểu tài tử, chủ hãng thuốc lá Hàng Bông, thầy hát rất hay, trước là sỹ quan Đà Lạt Ngụy.
Có lần một cậu học sinh từ kháng chiến trở về, cậu học sinh này chưa quen nếp người Hà Nội, đã dí sát mồm vào mặt thầy nói:
- Xin phép thầy cho em ra khỏi lớp để đi tiểu.
Thầy Bách bất ngờ tát vào mặt cậu học trò mắng:
- Không biết phép lịch sự, mồm hôi không chịu đánh răng lại thở vào mặt thầy.
Sau đó, thầy Bách bị bắt đi cải tạo mấy năm. Khi thầy được thả, học sinh đến thăm, thầy bảo:
- Khi ở tù, thầy quyết bảo vệ sức khoẻ, ngày ngày đều tập khí công, thầy quyết sống để thấy sự thay đổi cuộc đời. Hôm nay, thầy rất mãn nguyện khi thấy đất nước này đã mở cửa, cuộc sống đã được thay đổi một cách rất tốt đẹp. Những cái sai lầm ấu trĩ xưa được xóa sạch. Nhưng mối hận của thầy có thể nên quên đi nhưng không bỏ đi.
Cũng như Lê Đạt thời đó phải sống cơ cực. Cho đến ngày chính cái hội nhà văn, nơi kết án Lê Đạt, lại phải tôn vinh Lê Đạt. Không biết Lê Đạt có cùng một ý nghĩ bên Hồ Tây như thầy Bách.
Nhận ơn phải nhớ trả ơn
Phú quý nhớ thuở mình còn hàn vi
Hận thù có thể quên đi
Nhưng ta không thể bỏ đi hận thù
Cách trường Chu Văn An một quãng là đền Quán Thánh. Nước Hồ Tây vẫn còn cau mặt với tang thương vì đền Quán Thánh còn cọc cạch một cây đa. Nhưng chắc khách cũng thanh tâm hơn, khi mặt đầu phía phố Quán Thánh có nhà tiếp khách của chùa rất trang trọng mà thời trước đặt ở đấy một đồn cảnh sát nghiêm trang, có lẽ vừa tiện cho việc giữ trật tự trị an, vừa để đánh tan tư tưởng mê tín duy tâm của khách thập phương. Thời 1990, võ sư Nguyễn Tỵ kết hợp với võ sư Nguyễn Bảo Sinh thành lập môn phái Nam Hồng Sơn ở đền Quán Thánh và ở 167 Trương Định.
Chiều chiều, khách đi hóng mát Hà Nội thường tập trung đông thưởng thức các thế võ của Nam Hồng Sơn. Các võ sinh mặc áo của môn phái, nghiêm chỉnh tu luyện về võ thuật, võ sinh ngồi tập khí công trông như các vị thiền sư. Tiếng tụng kinh, gõ mõ trong chùa nhịp nhàng ngân rung cùng sự uyển chuyển của các miếng võ dân tộc ngoạn mục, nhạt nhoà trong sương chiều. Phủ màn hương khói dưới những bóng cây cổ thụ, khiến người xem tưởng như đang lạc trong ngôi chùa cổ, chỉ khác một điểm là các võ sinh, võ sư chưa vị nào xuống tóc cả.
Thời thập niên 1980, tinh thần thượng võ dâng cao, khí thế ngút trời. Trai gái tấp nập rủ nhau đi tập võ. Người dân lành tập võ để phòng thân, công an tập võ để đi bắt kẻ cướp. Thời đó, cứ hễ va chạm nhau là thường dùng võ để giải quyết. Bây giờ thì con người mới ngộ ra thế võ mạnh nhất là võ kiếm tiền, nên mọi người chỉ đua nhau làm kinh tế. Một số tay anh chị thích thượng cẳng chân, hạ cẳng tay thì sau đó thường mắc nghiện. Cho nên bây giờ nếu có va chạm người ta ít đánh nhau hơn và thường chỉ dùng võ mồm để giải quyết. Hai phái võ mạnh nhất những năm đó là Nhất Nam của Ngô Xuân Bính và Nam Hồng Sơn của Nguyễn Tỵ. Xuân Bính đặt tên phái võ mình là “Nhất Nam” cho nên các phái khác giận lắm, họ bảo Xuân Bính kiêu căng cho là mình giỏi nhất dưới trời nam, chả là họ chiết tự từ chữ “Nhất Nam”.
Còn Nguyễn Tỵ nguyên là thầy giáo dậy ghi ta ở số 50, phố Hồng Mai, khi thấy phong trào võ lên cao thì nhẩy vào làm kinh tế. Nguyễn Tỵ cũng chưa thi đấu với ai, nhưng tự nhận là trưởng môn nhân, vì Nguyễn Tỵ cho rằng mình thừa kế chức trưởng môn nhân Nam Hồng Sơn của bố đẻ Nguyễn Tộ. Cụ Tộ là võ sỹ nổi tiếng, tôi có đến chơi nhà cụ nhiều lần. Có hôm tôi đang tìm cái mỏ lết để vặn đôi tai hồng xe đạp. Cụ bảo tôi, cụ chỉ cần dùng tay không mà cũng đủ để vặn đôi ốc tai hồng mà kìm cũng phải chịu. Cụ Tộ đã thi đấu nhiều trận, giới mãi võ giang hồ đều khâm phục.
Nguyễn Tỵ làm kinh tế giỏi hơn bố nhiều. Độ ấy, các võ sư thường có nếp sống cổ là mình đi ở ẩn, võ sinh phải tam cố thảo lư như Lưu Bị mới thu nhận. Riêng Nguyễn Tỵ là võ sư đầu tiên đăng quảng cáo, nên võ sinh theo học rất đông, nhờ trời cũng kiếm ăn được. Nguyễn Tỵ đăng quảng cáo ngay ở dưới chỗ trúng giải xổ số kiến thiết Thủ đô nên đập ngay vào mắt người đọc.
Còn lò võ Nam Hồng Sơn của Nguyễn Bảo Sinh và Nguyễn Tỵ có lần bị rắc rối to, nếu võ mồm không khéo chắc xẩy ra tỷ thí dễ đổ máu.
Chẳng là căn nhà cạnh lò võ của Bảo Sinh có người bán ống cống. Anh ta quảng cáo bằng cách viết to trên tường hàng chữ “Thăng long đệ nhất ống”. Giới lục lâm giang hồ lại tưởng là Nguyễn Bảo Sinh viết thách đầu toàn quốc. “Thăng long đệ nhất ống”, họ đọc nhầm thành “Thăng long đệ nhất ông”. Thế là các tay mãi võ rầm rập kéo đến đòi tỷ thí. May mà võ sư Nguyễn Bảo Sinh dùng võ mồm mới thoát khỏi cảnh đổ máu:
“Cao thủ đệ nhất võ môn
Cứ đấu với loại võ mồm là thua”
Từ năm 1990 trở về trước, chơi quyền anh coi như tính cao thượng của giới quý tộc. Từ năm 1990 cho đến nay, quyền anh bị hạ thấp, võ Tầu lên ngôi. Quyền anh bị đánh giá thấp vì tính tự vệ không cao bằng quyền Tầu, được dùng cả chân và các loại vũ khí. Quyền anh Châu Âu đã có bộ phận biến tướng từ boxing, được sử dụng thêm cả đá nên tính chất sát thương đối thủ cao hơn boxing.
Từ đền Quán Thánh theo đường chim bay độ 200m là nhà Quốc hội. Thời chiến tranh phá hoại, có một trung đội pháo cao xạ 14 ly 7 bảo vệ trực tiếp Phủ Chủ tịch, chính trị viên tên là Sinh. Trung đội pháo này có ưu tiên đặc biệt là được xuống phòng dưới xem đoàn văn công tổng cục chính trị biểu diễn cho các cán bộ cao cấp của Trung ương Đảng và Chính phủ xem.
Ngày 2/9/1969, đồng chí chính trị viên Sinh, mặt rất chân quê, về họp ban chính trị, nói là ở trên nóc nhà Quốc hội nhìn xuống qua ô cửa thấy có người đặt trong quan tài kính trông giống Bác Hồ lắm. Sau phát biểu đó, đồng chí Sinh đã chuyển công tác đi đâu không biết. Sau này nhiều lần họp hội cựu chiến binh của đơn vị E234, không ai gặp lại nữa.
Ngày 3/9/1969, toàn trung đoàn họp nghe đồng chí chính uỷ báo tin quốc tang Bác Hồ. Tất cả mọi người lặng đi, hôm đó trời mưa như trút:
“Đã mấy hôm rầy đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”
Nhiều đồng chí bộ đội cũng sụt sùi khóc, không biết vì sao đồng chí chính uỷ đọc nhầm chủ tịch tang lễ Lê Đức Thọ thành Nguyễn Hữu Thọ.
Đặc biệt, trung đội pháo trên nóc nhà Quốc hội không được lên xuống trong ngày tang lễ Bác. Từ trước, tất cả mọi phương tiện hậu cần của đơn vị đều ở tầng một. Bị cô lập trên nóc nhà Quốc hội không có chỗ đi vệ sinh, tắm rửa thật nan giải. Chỉ có tối mới được kéo cơm từ dưới bãi cỏ lên nóc cho các chiến sỹ ăn. Lúc đó đơn vị được lệnh rút nhưng không rút ngay được, vì thời khắc ấy tất cả mọi sự sắp xếp trong nhà Quốc hội phải chờ ban tang lễ và chủ tịch là đồng chí Lê Duẩn quyết định.
Mãi sau mới được lệnh chờ đêm tối, không có ai phúng viếng, trung đội pháo cao xạ này mới được rút khỏi nóc nhà Quốc hội.
Mạng lưới pháo cao xạ vòng cung kéo dài đến bãi Nghĩa Dũng, nơi ngày xưa là chỗ đổ pháo hạm của Pháp do Hăng-ri-vi-e chỉ huy bắn vào thành Cửa Bắc còn để lại vết đạn sâu hoắm ở cửa thành năm 1884.
Có lần trận địa bị oanh tạc ác liệt. Một quả bom tấn thả trúng một khẩu pháo. Khẩu pháo nặng hơn chục tấn bị hất tung khỏi công sự. Toàn bộ chiến sỹ đều bị hy sinh. Một quyển nhật ký của đồng chí tên là Minh, rất có tài ban đêm đi bắt ếch ộp nên gọi là Minh Ộp. Quyển nhật ký của Minh Ộp, trang cuối cùng viết: “Đêm nay, ngồi trên khẩu pháo, ngắm dòng sông Hồng cứ chẩy xuôi chẩy mãi chắc sẽ qua con đê quê mình”. Hình ảnh anh và khẩu pháo in xuống dòng sông Hồng có trôi được về đến bến sông nơi vợ anh hàng ngày lội xuống gánh nước tưới bãi ngô non trên đồi không? Quyển nhật ký dính bết máu và lỗ chỗ bom bi, tôi nhặt được cất đi để sáng mai đưa cho đơn vị gửi về gia đình. Sáng hôm sau, quyển nhật ký vẫn còn tanh mùi máu.
Trận địa pháo bị oanh kích, cả mấy con bò của đơn vị cũng bị chết. Anh nuôi mổ bò ăn và mang một yến lên biếu trung đoàn bộ, một đồng chí khều ra trong miếng thịt bò có cả ngón tay bị lẫn vào. Thế là bữa cơm thịnh soạn mà không ai nuốt miếng nào. Tối đó, mọi người lên giường ngủ sớm, không ai còn kể chuyện tiếu lâm rồi cười ằng ặc lên một cách phồn thực.
Nghĩ tới tập truyện của tác giả trên quân chủng viết về “Một ngày trận địa”, mô tả bị bom tấn rơi trúng, khẩu pháo bay lên không trung. Trong khi đó anh em pháo thủ vẫn nhằm thẳng máy bay thù mà bắn, rõ là tác giả nói phét không biết ngượng. Lạ cái thời đó ta đọc mà vẫn tin.
Bộ đội pháo cao xạ không mệt nhọc như bộ binh, song lại rất ít được ngủ. Đồng chí nào cũng đói ngủ vì luôn luôn bị báo động. Chỉ có máy bay địch cất cánh từ sân bay Cò-rạt là đơn vị đã có báo động từ xa. Nghe tin tình báo địch sẽ đánh vào mục tiêu là tất cả phải trực chiến 100%. Anh em pháo thủ thường không được ra ngoài. Có cậu chiến sỹ nhờ tiếp phẩm mua hộ chiếc vé số. Cậu này ghi trộm được số của vé. Sau đó, anh lính lại nhờ cậu này đi xem kết quả hộ. Dạo ấy không có ti vi để biết kết quả xổ số. Cậu này đùa ghi luôn lên bảng số vé của bạn trúng số độc đắc. Cậu này nhẩy cẫng lên sung sướng, cố chờ trời sáng để đi xin phép đại đội ra lĩnh thưởng. Nhưng sáng đó bộ đội được lệnh 100% trực chiến đấu. Cậu này bàn rất kỹ sẽ mua cái gì, tặng ai, mua quà gì biếu gia đình. May có cậu bạn đồng hương thương cảm nói thật là bị cậu tiếp phẩm đùa. Cậu ta tức giận, xông lên định tẩn cho tiếp phẩm một trận, anh em can mãi mới được.
Năm 2006, tôi có dịp đến thăm một gia đình dưới bãi Phúc Xá. Tình cờ tôi đến đúng khu C Bộ C33. Cái sân chơi bóng chuyền nay đã biến thành đường nhựa. Căn bếp, nhà truyền thống, nhà C bộ đã bị chia hết cho các gia đình bộ đội. Khu trận địa pháo biến thành khu phố nhà binh. Đặc biệt, vùng quanh sân bay Bạch Mai, cả khu cánh đồng đã biến thành đường phố nhà binh.
Nhân dân hợp tác xã Khương Trung gửi đơn thắc mắc là bộ đội lấy đất của xã viên thời chiến để làm trận địa, thì không ai thắc mắc, thời bình lại chiếm đất làm nhà là sai. Mấy cậu bộ đội còn ở quân ngũ, thương cho chúng tôi phục viên trước năm 1975 ra về tay không. Còn sau này, đồng chí nào cũng được chia đất mặt phố rộng lắm. Những phố nhà binh này cũng đặt tên toàn tướng tá cả như: Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn…
Còn trận địa pháo đóng trên nền nhà Kèn tại Hồ Trúc Bạch thì bị biến thành khu kinh doanh restaurant của quân đội. Nghe đâu thành phố yêu cầu bộ đội trả đất để phục hồi di tích lịch sử nhà Kèn, chứ không thể để làm quán ăn trục lợi được.
Cao mưu hơn, bộ đội chuyển khu này thành nhà khách bộ quốc phòng, còn vẫn cho thuê làm phòng cưới, quán giải khát to và đẹp nhất khu quanh Hồ Trúc Bạch. Nhà khách này đeo biển số 1 và cũng oách số 1.
Nhờ cái nhà khách khổng lồ này mà các buổi họp cựu chiến binh, anh em lại được tập hợp nhau trên trận địa cũ mà lòng bồi hồi xúc động. Nhất là các anh em đơn vị pháo cao xạ 234. Khi đến khu nhà khách bộ quốc phòng này cố đi tìm xem khẩu đội 1,2 ... nay đang ở đâu, bếp anh nuôi ở đâu, C bộ ở đâu. Đồng chí Ngoạn, chính trị viên C30, ngồi trên chiến địa cũ lặng yên soi bóng mình xuống Hồ Trúc Bạch, cái bóng tan ra theo sóng nước, và nhoè ra trên khoé mắt rơm rớm lệ.
Ai đến thăm khu nhà máy điện ngày nay thấy thật tiêu điều. Những ngôi chùa cổ, những tháp chàm khi bị xuống cấp và chìm vào quên lãng lại có một vẻ đẹp huyền bí, thâm u của cảnh cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giầy:
“Đền Vũ Tạ nhện giăng cửa mốc
Thú ca lâu dế khóc canh dài”
Nhưng những kiến trúc hiện đại, hoặc khu trại lính khi bỏ hoang thì chỉ thấy thê lương.
Ngày xưa ấy, người Hà Nội được coi là khác dân các tỉnh ở chỗ: được dùng nước máy, được ăn gạo bông, điện lấp lánh.
Nếu ta đi xa Hà Nội, đêm tối nhìn bốn phương trời đen như mực, chỉ có phía Hà Nội, ánh đèn điện ửng hồng một vùng trời trong đêm tối mịt mùng. Cái khoảng sáng ấy đã làm xúc động những người Hà Nội đi xa nơi đèo heo hút gió để xây dựng công nông trường. Ban ngày lại đầy khí thế hừng hực, mộng tưởng về chủ nghĩa cộng sản làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, còn đêm về thì nỗi buồn nhớ Hà Nội như một hiện hữu tràn về. Dạo ấy, thanh niên Hà Nội rời bỏ thủ đô đi xây dựng đất nước cũng mang tâm trạng bi tráng, hào hùng như người lính thời Tây Tiến trong thơ Quang Dũng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh mầu áo dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội giáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Ở công trường Đại Từ, Thái Nguyên có cậu thanh niên Hà Nội lao động tạp vụ. Cậu này trong một buổi tập xà đơn bị ngã bất tỉnh. Trước khi chết cậu ta ghi tất cả ai nợ nần tiền của bạn bè. Nhưng cậu ta lại ghi nhầm. Sau này làm bạn bè rất khó xử.
Cái nhà máy điện Yên Phụ, trái tim của Hà Nội, đều bị chính quyền cả ta lẫn địch vừa giữ, vừa phá.
Năm 1946, khi rút khỏi Hà Nội, ta đã phá huỷ nhà máy điện. Nhà máy điện lại được Pháp khôi phục. Từ 1946-1954, Pháp tìm mọi cách bảo vệ nhà máy điện, canh gác rất cẩn mật để phục vụ cho chính quyền thuộc địa.
Năm 1954, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, Pháp rút khỏi Hà Nội. Pháp tìm mọi cách phá huỷ nhà máy điện, ta tìm mọi cách giữ. Biết bao tấm gương anh dũng của quân dân ta hy sinh bảo vệ nguồn sáng này, giữ sáng niềm tin cho chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1965-1972, không quân Mỹ tìm cách phá bằng được nhà máy điện, ta thì bảo vệ bằng mọi giá. Lúc đó nhà máy điện sơn đen nguỵ trang. Còn tầu điện chạy trong thành phố thì đổi bến để đề phòng máy bay oanh kích.
Đặc biệt khu nhà phố Quán Thánh phải hứng chịu nhiều đợt bom nhất vì gần nhà máy điện, giấc mơ của người dân.
“Được trở lại mầu hồng quanh nhà máy điện
Tầu điện leng keng lại về đúng bến
Hồ Tây chỉ sóng biếc du thuyền”
Hiến pháp của ta khác với thế giới, vì coi đất là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, còn nhà là sở hữu cá nhân. Nên cứ sau mỗi đợt ném bom, khói đạn còn đương khét mùi, gia đình nào nếu chết hết cả thì thôi, nếu còn một người thì dù có bị thương cũng phải dựng lại ngay một cái lều như lều vịt, thì vẫn coi như là nhà sở hữu. Nếu vì đi sơ tán hoặc bất cứ vì một lý do gì mà không dựng ngay cái lều vịt kiểu đó thì coi như nhà bị sung công.
Vì vậy, cứ sau mỗi đợt ném bom tàn khốc, bên cạnh việc cấp cứu các nạn nhân chiến tranh, thì còn có một công việc cũng khẩn cấp không kém là dựng ngay một cái lều trên sàn nhà còn khét mùi bom đạn.
Dãy nhà phố Huế, đối diện phía dưới của rạp Đại Nam, bom Mỹ đã đánh sập hoàn toàn. Tất cả các gia đình không còn ai sống sót, hoặc sống mà không dựng ngay cái lều vịt nên đã bị sung công, trở thành một cửa hàng của nhà nước rộng nhất phố Huế. Sau thời mở cửa sang nhượng lại cho tư nhân thành quán massage.
Sau này, ngắm cảnh hoang phế của nhà máy điện Yên Phụ, ta nghĩ mà buồn cười. Buồn cười vì nếu ai đã đi thăm các nhà máy như thủy điện Hoà Bình đồ sộ…thì không hiểu tại sao dạo ấy, cái nhà máy điện Yên Phụ nhỏ bằng quả quýt mà thấy đồ sộ một cách thiêng liêng. Đi trên phố dạo ấy, ngắm nhà máy điện rực hồng, máy chạy rầm rầm, ta vô cùng bái phục sự hiện đại hoành tráng. Trời, bây giờ, ta chỉ thấy nó bé bằng quả quýt thôi. Đất nước ta quả là sau thời mở cửa đã hoà nhập vào văn minh thế giới.
Chính cái nhà máy điện, quân dân ta đổ xương máu bảo vệ trong chiến tranh phá hoại, lại chính ta phá bỏ đi trong thời mở cửa vì quá lạc hậu:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Từ cái nhà máy điện Yên Phụ, ta lại nhớ tới tầu điện ngày xưa. Trên đường phố Hà Nội sẽ mãi mất hút hình ảnh chiếc tầu điện lù lù đi giữa đường Hà Nội với tiếng leng keng như sự sống thủ đô. Ga chính tầu điện đặt ở Bưởi. Từ đấy toả đi năm cửa ô. Một chuyến chạy từ Bưởi qua Quán Thánh, Hàng Giấy, Hàng Đào rồi đổ bến chính ở Bờ Hồ, bên Bờ Hồ chia ba tuyến đi Hà Đông, Cầu Giấy và Chợ Mơ. Đường tầu điện vào nội thành thì chìm, ra ngoại ô thì nổi như đường tầu hoả. Còn một tuyến đi ô Yên Phụ thì chạy thẳng từ Bưởi. Tầu đi Chợ Mơ rất đông vào ngày 2 và ngày 7 là phiên chợ, còn phiên chợ Hà Đông ngày 5 và ngày 10, chợ Bưởi ngày 4 và ngày 9. Ngày xưa các chợ chỉ đông vào ngày phiên, còn giờ thì gần như không có phiên, ngày nào cũng đông như ngày nào. Chỗ bến xe điện Bờ Hồ nay chỉ là nơi đỗ ô tô. Tầu điện đi đến cuối phố Huế coi như hết Hà Nội, sẽ cắt thành hai toa, một toa về Bờ Hồ, một toa ra ngoại ô xuống Bạch Mai. Bắt đầu từ phố Bạch Mai đến Chợ Mơ coi như nhà quê. Tầu điện chạy đường nổi như tầu hoả. Đường Bạch Mai lúc đó, hai bên đường cỏ xanh mướt đường phố chỉ rộng bằng 1/5 ngày nay. Ngồi trên tầu điện nghe tiếng bụi tre quệt vào thành tầu rào rào, thò tay ra ngoài cửa sổ tầu là hái lá, hoa, bứt được cả nắm hoa bên đường, bướm cập quạng bay cả vào toa xe. Hai bên đường phố Bạch Mai toàn ruộng chỉ lơ thơ mấy nóc nhà. Đầu phố Bạch Mai có trại Hồng Bích, trong trồng toàn hoa hồng. Tầu điện có hai toa, toa đầu chở khách, toa sau chở hàng hoá, chó, mèo, gà, lợn thối um. Những người có hàng hoá đều phải trả tiền cước.
Cái nhà Văn hoá quận Hai Bà Trưng ngày nay, xưa là nhà thổ ế. Ngồi trên tầu điện nhìn xuống, cái nhà thổ ế chơ vơ giữa cánh đồng lúa, rêu mốc thâm sỳ, ảm đạm giữa vùng lúa xanh mướt. Sở dĩ đây là nhà thổ ế, vì có mấy đôi nam nữ vào đây, sau khi làm tình đã treo cổ tự tử tập thể.
Trên tầu thường có bố con ông hát sẩm. Ông sẩm giương đôi mắt toàn lòng trắng, kéo nhị, ê a hát điệu não nề, đứa con gái khoảng 6 tuổi, gầy quắt queo, bẩn thỉu, nhem nhuốc dơ cái nón rách ra xin tiền khách với câu thơ quá quen tai một cách thảm hại:
“Con cá nó sống vì nước
Chúng tôi sống vì các ông, các bà”
Xin được nhiều hay ít thì khi đến ga là bố con ông hát sẩm lại hối hả dìu nhau xuống tầu. Rồi từ chuyến tầu này, khách lại thấy bố con ông hát sẩm lên chuyến tầu ngược chiều. Khách đi toa đầu là khách khá, khách toa ba là khách nghèo buôn thúng bán bưng. Khách trung lưu đi buôn hàng bằng xích lô. Còn hầu như người Tây không đi tầu điện. Tất cả những phố Tây đều không có tầu điện chạy qua.
Tầu điện đông khách nhất từ Bờ Hồ đến Chợ Hôm, Từ Bờ Hồ đến bóp Hàng Đậu, từ Bờ Hồ đến chợ Cửa Nam, sau đó khách vắng dần.
Chuyến tầu vét khoảng 10 giờ đêm là vắng nhất, có khi vắng quá cũng chẳng cần phải mua vé. Tụi trẻ con nhiều đứa đi tầu điện tìm mọi cách lậu vé, song người bán vé đầy kinh nghiệm, thoáng cái là biết ngay nhưng họ cũng không đánh đập gì mà chỉ đuổi thẳng cổ đi thôi.
Tầu điện chạy dĩ nhiên chỉ đỗ đúng ga, nhưng khách trên tầu nóng ruột thường cứ nhẩy bừa xuống. Khách chân quê họ nhẩy xuống đường tầu chạy như kiểu nhẩy từ giường xuống đất, nhiều khi ngã quay cu đơ trên đất. Có đơn vị bộ đội nhẩy từ tầu xuống ngã quay cu đơ cả nút, đè lên nhau thành một đống. Thường thì chỉ ngã bươu đầu sứt trán, nhưng cũng không khỏi nhiều trường hợp đưa chân vào bánh để bị nghiến cụt một hoặc cả hai cẳng chân. Nhà thơ Văn Thao, con cố nhạc sỹ số một Văn Cao cũng vì nhẩy tầu điện mà bị nghiến mất một cẳng chân.
Hà Nội có đến hàng nghìn người bị nghiến đứt chân bởi tầu điện chứ chẳng chơi.
Nhưng lại có một thanh niên chống nạng, cụt một chân nhẩy tầu điện thoăn thoắt, không chịu mua vé, tự khai là thương binh Điện Biện Phủ. Xé vé lôi thôi là hắn quắc mắt, thời đó ai cũng kính trọng thương binh chống Pháp. Sau đó mới hiểu đỏ là thương binh giả. Tay này hồi nhỏ nhẩy tầu ngã bị bánh tầu nghiền nát một chân chứ chẳng phải thương binh mẹ gì cả.
Thời chiến tranh phá hoại, có phái đoàn kinh tế Pháp sang thăm ta, ta yêu cầu mua phụ tùng xe điện để thay thế. Phái đoàn Pháp cho giá, ta thấy hời nhận luôn, nhưng phái đoàn Pháp yêu cầu ta phải mua gấp 1000 lần kế hoạch, vì tất cả thế giới không ai mua. Nhà máy sản xuất phụ tùng xe điện này chỉ làm để bán một lần cho riêng Việt Nam, sau đó nhà máy này cũng huỷ bỏ.
03:15 CH 25/06/2013
Cửa Ô
Ô CẦU DỀNTương Mai xưa là Mơ Cơm. Lính tráng, quan lại từ Huế ra thường dừng lại nghỉ ngơi, ăn uống lấy lại sức khoẻ, tinh thần rồi mới tiếp tục vào Hà Nội. Tương Mai thuộc quận Hoàng Mai.
Thần hoàng làng Tương Mai là tướng Lê Chân. Dân Tương Mai sợ phạm huý nên đổi chữ chân thành chữ chơn. Đi bất cứ đâu, thấy cụ già gọi bàn chân là bàn chơn thì biết ngay người làng Tương Mai gốc.
Tương Mai cũng là điểm xuất phát của người Hà Nội tản cư ngày toàn quốc kháng chiến về phía Đồng Quan, Cống Thần, chợ Cháy…
Trong những người tản cư có nhà thơ Nguyễn Hữu Mão. Người ta thường bảo cụ là người mê thơ nhất nước Việt Nam. Cụ làm thơ từ năm lên 10 tuổi, tận năm 95 tuổi (năm 2006). Khi chạy loạn, cụ đã gánh một gánh thơ đi đến tận Đồng Quan, tản cư thơ thật gian khổ. Cụ chưa hề gánh nên vai tím bầm, chân tướp máu. Bom đạn thì mù mịt phía sau, người chạy loạn thì nhớn nhác mặt xanh lợt như đít nhái. Chỉ có nhà thơ vẫn hành thiền như Sa Tăng gánh hành lý về Tây Trúc.
Thời Pháp tạm chiếm Hà Nội, cụ Mão đã bị phòng nhì Pháp sờ gáy vì cụ chép bài thơ vào tiền, địch nghi là mật hiệu của Việt minh. Sau đó thì cũng hoà cả làng.
Năm 2006, cụ Mão ốm nặng, cụ cầm tay anh con trai cũng mê thơ như cụ và hỏi:
- Người thì bảo thơ tôi hay hơn thơ anh, người thì bảo thơ anh hay hơn thơ tôi, anh thấy thế nào?
Anh con trai xúc động đáp:
- Thơ của bố hơn con là cái chắc.
Cụ ngồi phắt dậy, mắt rạng rỡ:
- Thế là anh đã báo hiếu quá đủ cho tôi rồi. Bao nhiêu sự sai lầm của anh với bố, bố cho qua tất.
Người tản cư thời đó lập một góc Hà Nội tại chợ Đồng Quan. Sáng sáng mọi người tập trung ở quán chợ uống cà phê, uống nước chè, ngước về phía Hà Nội nhớ nhung, xao xuyến.
Tương Mai như trạm trung chuyển mở cửa để người Hà Nội đi tản cư, rồi Tương Mai cũng mở cửa để đón người Hà Nội hồi cư.
Khu đất ngõ 176 Trương Định xưa là phố Hoàng Mai, sau này thành khu sản xuất đồng nhôm. Ngày xưa khu này là nghĩa trang. Ngồi trên gò đống ở đây nhìn về phía khu lắp ghép Trương Định là cánh đồng lúa xanh rì, tầm mắt phóng nhìn tới tận cánh đồng làng Phương Liệt. Trẻ con hàng ngày đến đây câu nhái, câu ếch. Ếch thì ít, nhái thì nhiều vô kể, châu chấu, cào cào bay rào rào. Trẻ con bắt nhái làm chả, bắt châu chấu về xào ăn thú vị lắm.
Năm đói 1945, đây là mả chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày xe bò chở đầy xác chết trên phủ mảnh chiếu, chân tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, cẳng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả. Trước khu mả ăn mày xưa là khu gò, xung quanh chơ vơ một vài lò gạch bỏ hoang. Chiều hoàng hôn mưa phùn lất phất, khách đa tình ngắm bãi tha thấy hun hút một nỗi buồn sâu thẳm.
Cõi dương thế chan hòa ánh nắng
Dưới đất sâu lạnh trắng xương khô
Não nùng thay những đêm mưa
Ai lau giọt lệ ma xưa dưới mồ
Trước cửa ngõ 176, là một cây bàng, năm 1945 có bà bán cơm nắm ngồi ở đó. Một cửa hàng cơm phải có ba vệ sỹ để phòng người đói xông vào cướp. Có lần, một người đói xông vào vồ nắm cơm định nuốt chửng, chạy vào nghĩa địa ngõ 176 thì ngã xuống ao lò gạch chết đuối.
Chiều chiều, từng đàn cò trắng bay rợp trời, đậu trắng cả bụi tre. Trẻ con ra gò chơi sợ nhất cò ỉa vào đầu, vì các cụ bảo cò ỉa vào đầu độc lắm. Khoảng năm 1957, dân làng Tương Mai bắt sống một con trăn dài 5m, treo lên cây đa giếng làng. Cái giếng này sau đó bị quận san lấp làm nơi cho gia đình thương binh lấy chỗ làm ăn, sau đó bán cho công ty may Hồ Gươm. Các cụ bô lão trong làng kiện đòi lại giếng làng. Công ty “bo” cho làng đâu có 40 triệu là xong.
Cánh đồng làng Tương Mai xưa có trường bắn. Anh Hoàng Văn Thụ bị xử bắn và chôn ở đây, nên sau này đổi tên làng Tương Mai thành xã Hoàng Văn Thụ.
Mộ anh Hoàng Văn Thụ nằm cạnh khu lao động Tân Mai, được xây dựng khá bề thế, nên các đôi nam nữ đưa nhau đến ngồi trên mộ Hoàng Văn Thụ hôn nhau thắm thiết. Để như thế sợ bất tiện nên nhà nước di chuyển mộ anh Hoàng Văn Thụ lên nghĩa trang Mai Dịch.
Còn khu đồng Tương Mai giáp với Hoàng Mai xưa là bãi chiến trường của trẻ con, đôi khi của cả người lớn hai làng. Thời cải cách ruộng đất, nơi đây là bãi đấu và xử bắn địa chủ. Nếu ghi âm được cuộc đấu tố chắc cũng có nhiều điều ngộ nghĩnh, và cuộc đời này, cái trang nghiêm cũng chỉ vớ vẩn thôi.
Chị cố nông chỉ vào mặt cụ địa chủ bị trói giật cánh khuỷu và nói:
- Thằng địa chủ, mày có nhớ lần mày vào nhà cưỡng hiếp tao xong rồi ăn hết cả nồi cá kho không?
Cụ địa chủ:
- Thưa bà con nông dân, con không nhớ ạ.
Bà con nông dân sát khí đằng đằng hô to:
- Đả đảo địa chủ cường hào gian ác, ngoan cố.
Sau đó địa chủ bị xử bắn tại chỗ. Cố nông cầm súng run run bắn đoành vào địa chủ mấy loạt súng mà không trúng trọng tâm, chỉ sượt qua trán, qua tai mà địa chủ chưa chết. Cuối cùng, cán bộ cải cách ruộng đất phải dí sung vào tai nổ đoành. đầu địa chủ mới gục xuống. Cuối cánh đồng làng Tương Mai là nơi xử bắn Hoàng Văn Thụ. Mộ anh Hoàng Văn Thụ được xây rất hoành tráng. Nhưng có dư luận cho rằng: xác anh Hoàng Văn Thụ bị Tây mang đi thủ tiêu mất tích. Còn mộ anh Hoàng Văn Thụ chỉ là chôn xác tên trộm bị Pháp xử tử cùng với anh Hoàng Văn Thụ.
Đầu cánh đồng Tương Mai là nơi đấu tố, xử bắn địa chủ, xác chết cũng không biết ở đâu. Dù là kẻ thắng trận hay bại trận thì Nguyễn Du cũng thương xót như nhau trong văn tế thập loại chúng sinh:
“Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ, lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha trong lòng
Nghe gà gáy tìm đường tránh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn bò ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng hỡi lại mà nghe kinh”
Làng Tương Mai có hai người đặc biệt: một là ông Đại Hưng, chủ hàng cho thuê xe xích lô nổi tiếng đầu tiên ở Hà Nội, có một trăm nóc nhà cho thuê, 1000 mẫu ruộng; một người nữa là cụ Tỵ – một nữ anh hùng . Cụ Ty là thân gia với tiến sỹ thượng thư Từ Đạm, Từ Diễn Đông, được vua Tự Đức ban danh hiệu: “Nữ nhân anh hùng”. Đặc biệt nhất, cụ Đại Hưng và cụ Ty đều mù chữ.
Cuối cánh đồng Tương Mai, cạnh thôn Giáp Nhị là chùa Sét. Chùa Sét thời cải cách thật thê lương. Chùa thành hoang phế, còn độc một vị sư ghẻ coi chùa, còn sư cụ phiêu bạt nơi nào không ai biết. Sư ông ghẻ gặp ai cũng than thở:
Sư cụ để sư ông giữ chùa nên không về quê tham gia cải cách ruộng đất để được chia đến mẫu ruộng. Nay thì sư ông không còn chùa, chùa thì không ai đến lễ, về quê thì đã chia hết ruộng, phận sư ông bèo bọt rồi không biết ra sao trong đợt sóng cách mạng này.
Khoảng năm 1960, chùa bị lấn chiếm gần hết. Mái tam quan sụt lở tan hoang. Dân mộ đạo chỉ còn cầu lễ ở cái đền con. Nhưng sợ lễ nhiều thành mê tín dị đoan, nên đồn công an đóng ngay tại mặt tiền cửa đền. Muốn vào hậu cung lễ phải qua đồn công an. Đồn rằng, chùa từ đấy mất thiêng. Trường cấp III Trương Định chiếm sân chùa làm lớp học. Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò. Phá chùa mạnh nhất mà vô tội là học trò ngây thơ, không có tội, Phật nào phạt được trẻ vô tư.
Phía đông bắc Tương Mai là chùa Hưng Ký. Chùa này do cụ Hưng Ký bỏ tiền ra xây. Cụ Hưng Ký làm gạch ngói nổi tiếng nhất Hà Nội. Hiện nay, rất nhiều ngôi nhà cổ ở Hà Nội còn dùng ngói Hưng Ký. Ngói Hưng Ký đều có ghi chữ nổi ở sau mặt ngói.
Chùa Hưng Ký cũng như rất nhiều chùa miền Bắc đều bị phá huỷ hoang phế thời cải cách. Thời kỳ xoá bỏ bao cấp, kinh tế thị trường, tự do tín ngưỡng được đảm bảo, chùa trùng tu lại khang trang. Tuy nhiên cũng không mấy chùa đòi lại được hết phần đất bị lấn chiếm. Báo Hà Nội đăng tin chùa đã dựng lại tượng Phật Bà Quan Âm cao hơn 1m mà tốn những 60 triệu. Trong khi giá thành lúc đó chỉ độ 5 triệu.

“Của Bụt mất một đền mười
Bụt vẫn còn cười, Bụt chẳng nhận cho”
Để nhớ công ơn người có công xây chùa, hoằng dương đạo Phật, chính phủ bảo hộ Pháp đã đặt tên mặt phố chùa Hưng Ký thành phố Hưng Ký.
Sau giải phóng Thủ đô, chính phủ Việt Nam xoá bỏ tên phố Hưng Ký thành tên mang tính cách mạng: đường Nguyễn Thị Minh Khai, tên phố từ hai chữ thành hẳn bốn chữ.
Con cụ Hưng Ký hình như hay qua lại phố Hàng Đào, đời sống kinh tế cũng gặp khó khăn, vì thời bao cấp, ai dính líu tới chùa, nhà thờ đều dễ bị coi nhầm là tà đạo, mê tín dị đoan. Thỉnh thoảng con cháu cụ Hưng Ký có đến thăm chùa Hưng Ký, được một số tín chủ giúp đỡ kinh tế. Biết đâu một ngày nào đó, đường Nguyễn Thị Minh Khai lại thành phố Hưng Ký. Một người có công với cách mạng, một người có công xây chùa, cả hai đều đáng kính phục cả, nếu có sự vô thường thì cũng vô thường thôi!
Phía bắc phố Tương Mai có cổng làng Hoàng Mai. Cổng này trước có đền thờ, ngoài cổng có đặt bốn con chó đá, nên khu này gọi là khu bốn chó đá. Có mấy bà ngồi bán bún ở cạnh bốn con chó đá, nên những người ngụ cư không hiểu lịch sử, họ gọi nhầm thành khu vực “bún cháo đá”.
Đền bốn chó đá sau thời kỳ mở cửa được trùng tu lại. Mấy vị nam thu tiền dân, trông nom xây dựng. Sau đó, họ thường vào chùa nhậu nhẹt. Chính quyền mời họ ra khỏi đền với lý do hợp lòng dân: “Đây là đền thờ bà chúa – nữ, nam vào chơi đêm sợ thụ thụ bất thân, ô uế miếu đường”.
Đi đến đầu đường Hoàng Mai là chợ Mơ – chợ Mai. Chợ Mơ nằm giữa Bạch Mai, Tương Mai, Hoàng Mai, Mai Động, Thanh Mai… Có lẽ xưa đây là chợ bán mai ở giữa rừng mai. Rừng mai sau này chỉ còn sót lại ở Đông Mỹ – quê hương Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Chợ Mơ phiên họp ngày 2 và ngày 7. Trước cửa chợ là ga xe điện đường ray nổi như đường tầu hoả. Phía chợ Mơ trông ra đường Hưng Ký là bãi đất rộng dành cho ngày phiên, bà con nông dân xung quanh mang hàng ra bán. Các lái buôn thường đón hàng ở tận Đuôi Cá, Vĩnh Tuy, Ngã tư Vọng. Tất cả những hàng hoá tốt đều bị các lái hớt trước. Ngày phiên, bà con nông dân mang mèo, gà, lợn, chó, ngô, khoai, sắn… ra chợ bán. Chợ phiên họp ở giữa trời, chợ phiên có hai cái mùi rất đặc biệt: phân lợn, phân chó, phân gà… và mùi mồ hôi người được nung dưới ánh nắng mặt trời thành mùi khăm khẳm không thể tả được. Dân quanh vùng rất cần đi chợ Mơ để sắm sửa hàng hoá. Đặc biệt, đi chợ phiên còn là thú đi chơi của một số người. Họ đi như du lịch, họ nghiện được chen chúc, được dẫm đạp vào nhau, được ngửi cái mùi khăm khẳm cùa mồ hôi người và các loại phân súc vật… Họ đi chơi mệt nhoài như khách du lịch đi chùa Hương trèo đèo, lội suối.
Mỗi lái buôn đều có thủ thuật câu khách, lừa khách riêng. Ông lái lợn thì dựng độc chiêu bán cho khách phiên này, phiên sau mới lấy tiền. Khách tuyệt đối tin cậy vì nếu lợn ốm đau thì trả lại. Nhưng khách đã nhầm. Lợn thời đó nếu có mắc bệnh thì phải đến 10 ngày mới phát bệnh. Sau năm ngày khách vui vẻ trả tiền. Nhưng có biết đâu, phải đến 7 ngày sau lợn phát bệnh.
Ông lái gà có độc chiêu riêng, tay luôn cầm nắm gạo, thấy ai định mua, ông lái tung nắm gạo, gà tranh nhau mổ trông rất vui mắt và khỏe khoắn, khách dễ cắn câu. Biết đâu, giống gà có đặc biệt dù là ốm sắp chết, nhưng khi thấy gạo là vẫn cứ ăn, ăn cho tới thẳng cổ ra mà chết. Khác hẳn với vịt, ngan và ngỗng, cứ ốm là quyết không ăn.
Mấy ông lái gà chọi lại có độc chiêu riêng: thỉnh thoảng ông ta lại thả hai con gà mồi ra chọi nhau để câu khách. Còn các lái bao giờ cũng luyện được một con gà mái tuyệt đẹp, chấp nhận bất cứ một con gà con của bất cứ gà mẹ nào và nuôi như con mình. Khách xem gà mẹ thấy mê, biết đâu bị lừa.
Cụ bán gà chọi nổi tiếng thời 1955 ở chợ Mơ là cụ Lạc. Cụ có dáng tay chơi tiên phong đạo cốt, râu ba chỏm, mặt như khô mộc tiên sinh.
Trong chợ gà có một góc riêng dành cho những lái buôn mang gà Từ Hồ, Đông Cảo sang bán. So với các loại gà ta thì gà Từ Hồ, Đông Cảo đẹp như tranh vẽ, ai đi qua ngắm nhìn đều say mê: người nung núc những thịt, da đỏ gay. Thời đó, dân ta đói cứ nhìn gà ngồn ngộn thịt là mê. Còn loài gà Ri trên dưới một cân giá rẻ lắm, ngày nay thì ngược lại, ta lại mê ăn thứ gà Ri - gà đi bộ, gà Mạnh Hoạch. Còn gà Đông Cảo to như gà công nghiệp, trông đã ngấy đến tận mang tai.
Khách đi chợ Mơ sành thì họ đầy kinh nghiệm. Họ cũng không kém lái buôn, đón luồng hàng trực tiếp của nông dân từ Đuôi Cá, Vĩnh Tuy, Vọng… Khi đến chợ, họ đều nhẵn mặt các lái buôn, nên họ chỉ mua của người sản xuất. Lái buôn chó, mèo, lợn, gà… khác nông dân sản xuất ở chỗ họ đều dùng lồng nan sắt, còn nông dân dựng lồng nan tre.
Mãi sau này ta mới có khu bán cây cảnh, ngày xưa chợ chỉ bán cây và hạt giống: rau cải, su hào, bắp cải, rau cần… May lắm mới có một vài người bán hoa hồng, hoa sói… toàn những thứ hoa để cúng lễ chứ không ai bán cây cảnh cả.
Từ chợ Mơ ta đi lên hết đường Bạch Mai gặp con đê Đại Cồ Việt. Đê Đại Cồ Việt để ngăn khi lụt vỡ đê sông Hồng thì nước không tràn vào nội thành. Từ phố Huế ngược lên Bờ Hồ mới gọi là nội thành. Đã có lần đê Vĩnh Tuy, nước vỡ tràn về ngập lụt cả một vùng từ phố Bạch Mai đến huyện Thanh Trì nhờ có đê Đại Cồ Việt nên Thủ đô không bị lụt.
Từ dưới chùa Sét lên đến đê Đại Cồ Việt thời Pháp chỉ có một cảnh sát Pháp giữ trật tự trị an, người dân quen gọi là Tây Lùn. Tây Lùn một ngày chỉ lướt qua chợ Mơ và các khu một lần là trật tự đâu vào đấy. Sau khi hoà bình lập lại, ta chia Hà Nội thành bốn khu: khu Hai Bà Trưng, khu Hoàn Kiếm, khu Ba Đình, khu Đống Đa. Mỗi khu lại chia thành các tiểu khu, mỗi tiểu khu có một phái viên của quân lãnh đạo ban đại diện tiểu khu. Ban đại diện tiểu khu do dân tự bầu hầu như không có lương. Còn khu công an cũng thành lập mỗi tiểu khu một ban bảo vệ, ban bảo vệ cũng do dân bầu và không lương. Nhưng đặc biệt trật tự trị an rất tốt. Ngày nay, số cán bộ hành chính, cảnh sát tăng đến hàng nghìn lần, ngốn một khối lượng ngân sách khổng lồ mà vẫn không giữ được trật tự trị an bằng trước, chẳng biết vì đâu? Ngày xưa, cán bộ chuyên nghiệp cũng như dân bầu thanh liêm lắm.
Đầu Bạch Mai, cuối phố Huế là khu chợ giời. Chợ giời là điểm nóng của thời bao cấp. Chợ giời thành lập từ khi ký hiệp định Giơ-ne-vơ. Đồng bào vùng tạm chiếm theo lời kêu gọi của chính quyền Ngô Đình Diệm di tản vào Nam. Lúc đó, Hà Nội đầy những dũng chữ dụ dỗ đồng bào Thủ đô di cư vào Nam:

“Cụ Ngô thống nhất sơn hà
Già Hồ chia sẻ nước nhà làm đôi”
Sau này, khi nhà thơ Bút Tre nửa nạc nửa mỡ đề thêm vào câu thơ này bằng cái kiểu rất Bút Tre:
“Trên rừng con khỉ đánh đu
Thằng Ngô Đình Diệm mút cu cụ Hồ”
Trước khi di tản, người Hà Nội mang tất cả gia sản ra bầy bán tại hè phố Hà Nội như thời ta xua đuổi người Hoa, họ cũng bầy bán gia sản tại các vỉa hè Hàng Buồm, Hàng Chiếu…
Nơi đồng bào di cư bầy hàng bán nhiều nhất là quanh hồ Ha-le. Vì chợ họp giữa trời nên gọi là chợ giời. Phóng viên báo Tia Sáng thời đó bảo là chợ “Rời”, nghĩa là vật rời khỏi chủ. Sau khi bán hết gia sản như chó, thậm chí bán cả nhà cửa, người Hà Nội xuống tầu há mồm ở Hải Phòng di cư vào Nam. Chợ giời ra đời từ đó.
Sau cái thời hỗn loạn linh tinh, quân ta chưa tiếp quản xong xuôi, quân địch chưa đi hẳn, Hà Nội hỗn độn lắm. Các băng cướp nổi lên. Nhân dân mỗi gia đình treo cái mâm ở ban công, và tích luỹ gạch ngói, chai lọ, khi có cướp báo động mọi người thi nhau gõ mâm đồng, thấy cướp chạy dưới thì ném vỏ chai và gạch đá xuống. Dân Hà Nội tự vệ kiểu này nên cũng dẹp được nhiều toán cướp thời tranh tối, tranh sáng.
Khi ta đã ổn định chính quyền, chợ giời chuyển về khu Thịnh Yên, trông ra cuối phố Huế.
Khu chợ giời trở thành một tụ điểm buôn bán nổi tiếng nhất Hà Nội. Những mặt hàng chiếm vị trí mạnh nhất thời đó: xe đạp, đồng hồ, loa đài…
Nhà nước rất nhiều lần dẹp chợ giời, chợ giời bung ra rồi tụ lại như hòn đá ném xuống ao bèo. Vì chắc chắn có người muốn bán hàng mình thừa, có người muốn mua thứ mình thiếu. Không thể xóa bỏ điều hiện thực này, không thể chống lại quy luật tạo hoá, nên chợ giời dẹp chỗ này lại phình ra chỗ kia. Sở công an Hà Nội vật lộn với chợ giời cũng giống như Đông-ky-sốt đánh cối say gió, như Lý Bạch:
Uống rượu tiêu sầu lòng thêm sầu
Rút gươm chém nước, nước chảy mạnh thêm
Các lực lượng cảnh sát, mật có, công khai có, đồn có cảnh sát mật của đồn, quận có cảnh sát mật của quận, tỉnh có cảnh sát mật của tỉnh, các lực lượng cảnh sát nhiều khi bắt lẫn nhau, quân ta lại bắt quân mình. Nhiều lúc thành quẩn. Ra lệnh cấm họp chợ, nhưng chợ giời là chợ mà không phải chợ, các con phe cứ lững thững chỉ đi tay không, ai cần gì, hỏi họ sẽ dẫn đến chỗ có hàng. Vô lý lại đi bắt người đi tay không, mà có bắt thì cũng như bắt cóc bỏ đĩa. Có lần ta chụp ảnh tất cả những người buôn bán ở chợ giời đem bêu ra giữa phố. Chính dân phe đứng dưới ảnh mình, ai đến xem, phe bảo:
- Xem làm gì mấy tên phe đấy mà.
Trông ảnh bọn phe, nhìn xa cứ tưởng là ảnh giới thiệu ứng cử hội đồng nhân dân phố.
Đúng là bán hàng cũng phải có duyên. Cùng phe tem phiếu tay không, cùng đứng một chỗ mà có người lãi gấp mười lần nhau.
Nghĩ cũng buồn cười, nhiều nơi phe thuốc Tây lại là người mù, người mù lại bán thuốc Tây. Đến người sáng không có bằng dược sỹ cũng không được phép bán, ví rằng người mù bán thuốc Tây, công an có bắt lên đồn đành phải tha, bắt người mù cũng khó giải quyết, nên những người bán thuốc Tây vỉa hè toàn mù tịt, trình độ thường mù chữ, đứng cạnh là cố vấn mặt trông như kẻ cướp.
Bất cứ ai đi qua khu chợ giời cũng bị hỏi:
- Có gì mua, có gì bán không?
Nhiều ông bạn đùa với cô phe:
- Chỉ có thẻ đàn ông thôi, em có mua không?
Còn trong nhà vệ sinh công cộng gần chợ giời thì đầy những giấy tờ. Kẻ gian sau khi móc túi khách, vào nhà vệ sinh móc hết sạch tiền bạc và vứt chứng minh thư và các loại giấy tờ. Chợ giời người đi đông như kiến, nhiều khi kẻ cắp trở thành kẻ cướp. Ai giắt xe đạp vào chợ bán là tất cả vây chặt rồi thả cửa móc túi hoặc vặt đồ phụ tùng xe. Khi chủ xe tháo chạy khỏi đám đông mới biết đã bị lột sạch.
Công an hoạt động ở chợ giời cũng có nhiều kinh nghiệm. Để truy lùng kẻ cắp chợ giời, công an thường có kinh nghiệm nhìn xuống đất, người lương thiện thì hay đi dép lê không quai hậu, còn kẻ cắp thường đi dép nhựa tiền phong cài quai hậu chặt chẽ. Theo báo cáo của công an, cứ mười người bắt ở chợ giời đi dép nhựa có quai thì có đến tám là kẻ cắp.
Có lần vì bí quá, công an đành dùng hạ sách: bất cứ ai đi qua khu chợ giời dù là công an, hay cán bộ nhà nước đều bị bắt chở cả xe cộ lên tỉnh để thanh lọc rồi sẽ thả ra sau. Mặc dầu đã dùng cả đến biện pháp cuối cùng mà chợ giời vẫn tồn tại.
Thế rồi, cái gì đến sẽ đến, cái gì đi sẽ đi. Sau thời gian mở cửa nền kinh tế xã hội đi đúng với quy luật, chợ giời tự tan rã. Cái phố chợ giời xưa đông như tổ kiến, nhà nước không làm sao giải tán nổi thì nay tự tan.
Một lần, tôi ngồi trên tầng 4 ngôi nhà giữa chợ giời với ông Doanh, người buôn bán loa đài lâu nhất ở chợ giời. Ông Doanh chỉ xuống phía dưới bảo:
- Tôi thấy chợ giời xưa ta dẹp không nổi mà nay lại tự tan, không thể ai chống nổi đạo trời. Còn bọn lưu manh quanh chợ giời, tôi theo dõi 30 năm nay chẳng đứa nào thành người cả:
“Đạo cao một thước
Ma cao một trượng
Cửa Phật bao dung
Đừng quên báo ứng”

Ô CẦU GIẤYTừ Ô Cầu Giấy vào thăm Thủ đô, phải chờ tầu điện ở gần Voi Phục. Tầu điện từ Bờ Hồ tới đây là hết đường. Cuối đường tầu có barierre chắn lại. Barierre làm bằng Tà vẹt tầu. Kỷ niệm khó quên của sinh viên trường Đại học Sư phạm là đoạn đường từ trường tới bến tầu dài đến gần 2km, sinh viên phải cuốc bộ. Voi Phục thời 1950 đối với người Hà Nội coi như xa lắc. Học sinh Hà Nội đi cắm trại ở Voi Phục có cảm tưởng như ngày nay ta lên tận Sa pa.
Ô Cầu Giấy có nhánh bên phải về Ô Chợ Dừa. Mọi người cũng khó hiểu tại sao hai lần Fran-xi-gác-nhiê và Hăng-ri-vi-e kéo hơn trăm lính ra Bắc Hà chiếm Hà Nội như bỡn. Mặc dầu, lúc đó trấn thủ trong thành Hà Nội có đến hàng vạn quân mà Nguyễn Tri Phương thì tử thương, còn Hoàng Diệu thì tự tử. Thế mà cái đội quân Pháp bách chiến bách thắng lại bị quân cờ đen chặt đầu dễ như củ chuối, vào năm 1874-1884. Có lẽ người Pháp thấy nhục cho nên cũng không nhắc nhở tới hai tên bại tướng này. Còn ta cũng thấy nhục vì trong tay thiên binh vạn mã mà thua nhục nhã. Ta nhục, Pháp nhục, nên sau đó ngôi mộ này ta đào đi mà dân cũng chẳng biết ở xó xỉnh nào, Pháp cũng chẳng nhắc tới. Chứ không như gò Đống Đa, người Tầu thì thờ Tôn Sỹ Nghị coi như kẻ anh hùng nghĩa khí. Ta lại tự hào vì chiến thắng và bức tử được kẻ anh hùng Tôn Sỹ Nghị. Một trận đánh mà hai bên cùng thắng, ngược lại với Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương và Pháp thì hai bên cùng thua.
Giữa khách sạn Daewoo và Trúc Sơn Dạ Quán xưa là cái gò dài, có con đường mòn đi bộ hoặc xe đạp ở giữa. Cái gò này cách đường xe điện Cầu Giấy gần 200m, gò có hàng muỗm cổ thụ cao chót vót. Chân hàng muỗm kéo đến đường nhựa là ruộng rau muống. Hàng ngày bà con vẫn ra hái đem vào Hà Nội bán. Hàng cây muỗm cổ thụ bên ruộng rau muống thu hút khá nhiều loại chim đến đậu, song trẻ con không thể dùng súng cao su bắn. Súng cao su bắn rất có hiệu quả khi buổi tối chim sẻ bay về ngủ ở các loại cây thấp như cây cơm nguội, cây bàng… Đặc biệt, nếu đêm soi đèn pin dùng ống sì đồng bắn thì có mà được hàng sâu chim. Ống sì đồng bắn không tiếng động, ta có thể hạ gục từng con một, còn súng cao su dễ gây tiếng động, chỉ bắn được một phát là tất cả chim bay đi hết.
Rồi cảnh dâu chìm bể nổi, khu cây cổ thụ bị đốn đổ để trở thành trung đoàn bộ của pháo cao xạ 234 bảo vệ Thủ đô, khu hậu cần gần sát khách sạn Daewoo, rồi đến ban tham mưu, ban chính trị, khu anh nuôi, khu chiêu đãi sở kề sát với Trúc Sơn Dạ Quán, Trường Sơn Dạ Quán bây giờ.
Đặc biệt khu chiêu đãi sở để dành cho vợ lính lên thăm chồng. Các chàng bộ đội khệ nệ bưng cơm lên bồi dưỡng vợ trước sự chọc ghẹo và thèm khát của đồng đội. Tất cả phòng chiêu đãi sở nếu ta quan sát kỹ thế nào cũng thấy bị đục một số lỗ để có thể lính tráng từ ngoài nhìn trộm cảnh làm tình của cảnh lính xa nhà gặp vợ.
Cũng có trường hợp hai cậu lính ngứa nghề hợp đồng đổi vợ. Một cậu đêm vào phòng vợ bạn hoàn thành tốt hợp đồng. Một cậu kia theo hợp đồng đêm mò vào phòng vợ bạn bị phát hiện, hô hoán ầm lên. Kết quả là hai anh lính này đều phải ra toà án binh.
Nhiều người còn được chứng kiến cảnh tượng hy hữu. Trước khi máy bay A3J rơi xuống phố Lê Trực, có một chị nông dân nghe báo động, bom đạn choáng tai hốt hoảng ngồi thụp bên hè phố, lấy nón che người, mặt xanh lét. Đồng chí dân phòng đeo băng đỏ vội dắt chị nông dân xuống hầm công cộng. Máy bay A3J rơi ngay xuống cạnh cửa hầm, phá nát ô tô chở xăng, ngọn lửa bùng cao tới nóc nhà và chùm vào chiếc hầm công cộng. Chị nông dân như ngọn đuốc Lê Văn Tám chạy sang đường túm lấy ông bảo vệ chỉ kịp nói:
- Nếu ông không bắt sang hầm có phải tôi vẫn sống không!
Nói xong, chị nông dân gục xuống. Một lúc sau chỉ còn là một đống than. Không ai biết nạn nhân ở đâu để báo cho gia đình biết.
Dân quân ở nhà máy in Tiến Bộ tiếp đạn cho trận địa pháo C35 đóng ở cạnh sân vận động Hàng Đẫy reo mừng vỡ trời khi thấy máy bay Mỹ rơi gần trận địa tưởng là đơn vị mình bắn trúng. Thật ra thì trận chiến đấu đó, đơn vị C35 chỉ bắn tan dãy đèn cao áp cao ngất ngưởng trên sân vận động Hàng Đẫy thôi!
03:08 CH 25/06/2013
Á Kinh Siêu Sinh Tịnh Độ
Đạo cao một thước

Ma cao một trượng

Cửa phật bao dung

Đừng quên báo ứng

Hồ ly tinh tu nghìn năm mà không siêu thoát. Một lần hồ ly tâm sự với thiền sư:

- Cố tu đắc đạo để ra ngoài nhân quả.

Thiền sư bảo:

- Phật cũng trong nhân quả.

Hồ ly bỗng đại ngộ biến thành ánh đạo vàng bay về Tây Thiên. Cạnh chân thiền sư chỉ còn bộ xương trắng xóa tan theo gió bay đi.


Dương Quý Phi
-Tứ đại mỹ nhân tàu-
Thiên hương quốc sắc đâu rồi
Chỉ còn thảm cỏ chân đồi Mã Ngôi
Nghiêng thành nghiêng nước đâu rồi
Ngàn năm mây trắng nghiêng trời vẫn bay
Khi Đường Minh Hoàng tháo chạy vào Ba Thục đến đèo Mã Ngôi thì quân sỹ nổi loạn đòi giết Dương Quý Phi. Trước khi chết, Dương Quý Phi vào chùa hỏi thiền sư:
- Có kiếp sau không?
Thiền sư đáp:
- Có.
Quý Phi chắp tay cầu Phật:
- Kiếp sau được kết duyên cùng Minh Hoàng.
Sau đó Quý Phi ra sau chùa lấy dải lụa hồng tự treo cổ trên cành hoa đại dưới thảm cỏ xanh rì.
Ngày nay du khách đến đèo Mã Ngôi thường cắm nén hương trên thảm cỏ dưới cây đại nghìn năm mà hồn như chìm vào mộng.
__________________
Trang Châu mộng hồ điệp
Sống gửi biết nơi đâu mà gửi
Thác về chẳng biết thác về đâu
Trang Châu gửi mộng tan thành bướm
Bướm về tan mộng hóa Trang Châu
Trang Châu tức Trang Tử đêm mơ thành bướm, sáng tỉnh dậy bàng hoàng không biết mình mơ thành bướm hay bướm mơ thành mình.
Thiền dân gian
Thiền dân gian: giải thích điều khó hiểu nhất như thiền bằng cách dễ hiểu nhất.
Thiền bác học: giải thích một điều khó hiểu bằng một điều khó hiểu hơn.
Sinh, lão, bệnh, tử
Không chỉ ở người
Tinh tú trên trời
Cũng sinh cũng tử
Tự nhiên chờ cái đến
Thanh thản tiễn cái đi
Yêu những điều không muốn
Tâm nhàn hơn mây trôi
Nếu gương lưu bóng hình qua
Thì đâu còn chỗ để mà soi gương
Trời trao sinh mệnh cho mình
Thì mình phải quyết Bảo Sinh trên đời
Không tranh sinh mệnh với trời
Trời đòi ta trả mệnh người lên tiên
Buông thõng hai tay đi vào chợ
Họa phúc mua đều có hóa không
Sinh tử bán rồi đời hết nợ
Buông tay đi suốt chợ âm dương
Nhà mình bảo bãi tha tha
Quán trọ lại nhận đây là nhà ta
Vào nhà lại bảo rằng ra
Đến trọ lại bảo rằng ta về nhà
* Có người bảo vừa ở bãi tha ma về. Người kia bảo bãi tha ma mới là ngôi nhà vĩnh cửu, còn nhà ta ở chỉ là quán trọ.
* Khi Trang Tử sắp chết. Học trò hỏi thầy chôn ở đâu. Trang Tử bảo đưa xác lên núi. Học trò bảo không được vì không thể để xác thầy cho quạ tha, diều mổ.
Trang Tử bảo nếu chôn ta dưới đất để giun đùn, mối đục thì có khác gì?
Cố biết giờ chết của mình
Coi như đã bị tử hình khai đao
Không cần biết chết lúc nào
Coi như lạc lối đi vào thiên thai
Một người hỏi Phật: Thầy Xá Lợi Phất ở đâu. Phật bảo thấy ai có vòng hào quang là thầy Xá Lợi Phất. Trên đường đi, người đó gặp đám ma thấy ai cũng có vòng hào quang nên không tìm ra. Người đó về bạch Phật. Phật dạy:
- Khi đưa đám ma ai cũng có vòng hào quan vì đều ngộ lễ vô thường, hãy ra chợ xem!
Quả nhiên hôm sau ra chợ tìm ngay được thầy Xá Lợi Phất. Vì chỉ có Thầy là đắc đạo nên có vòng hào quang.
Đừng mong ôm trọn chữ tình
Lặng im mình ngắm bóng mình đáy sông
Đừng bàn chữ nghiệp chưa xong
Lặng im nghe tiếng hàng thông bên mồ
Muốn hiểu hết được mệnh trời
Phải đi đến tận cuối nơi suối vàng
Du lịch trăm năm vòng đời là đủ
Ai cho tiền rủ nữa cũng không đi
Áo quan không túi không quần
Mặc đều vừa vặn không cần số đo
Cuối cùng tất cả chúng ta
Đều lên nóc tủ ngắm gà khỏa thân
Già rồi đóng bỉm đi chơi
Chứ quyết không chết ở nơi nó giường
Sướng nhất chết ở chiến trường
Sướng nhì chết ở trên giường mỹ nhân
Con chuột mắc phải sai lầm
Khi rơi vào bẫy không ăn miếng mồi
Nhiều người cũng vậy mà thôi
Rơi vào sinh tử chỉ đòi thoát ra
* Một người bị ung thư giai đoạn cuối. Bác sĩ bảo sang phòng mổ. Bệnh nhân đi thẳng vào nhà hàng karaoke.
Ung dung khắc đến khắc đi
Còi to cho vượt tranh gì trước sau
Bước chân dù chậm hay mau
Đường ta đi giữa hai đầu tử sinh
Khi biết mỗi sai lầm đều là bệnh
Chắc lòng người sẽ lượng cả bao dung
Khi biết có thể ta gặp nhau lần cuối
Thế giới này chắc chỉ có yêu thương
Chúa Giêsu: Các con hãy đối xử với nhau như ngày mai là ngày tận thế.
* Một người hận đời đi ở ẩn bỗng gặp ma. Anh ta run như cầy sấy. Ma bảo:
- Làm cho anh thân tàn ma dại, phải trốn vào rừng hoang núi vắng do người hay ma?
Đời là bể khổ mênh mông
Sao ai cũng muốn sống trong bể đời
Quy tiên là được lên trời
Sao ai cũng muốn sống đời trần gian
* Con người tưởng minh triết lại hết sức ngớ ngẩn. Ngoài cửa nhà tang treo đầy trướng gấm: “Cưỡi hạc quy tiên về Tây Thiên cực lạc”, trong nhà lại khóc lóc thảm thiết, kèn trống não nùng.
* Dưới ánh trăng xanh, Trang Tử cầm đầu lâu lên hỏi: Có khổ không?
- Đầu lâu đáp: Ta sống tự do tự tại, không có kẻ đè đầu, không có nắng mưa, đói rét, ốm đau… hỏi đâu sướng bằng!
Bỗng nghe kèn trống đám ma
Giật mình lại tưởng người ta khóc mình
Vào xem cho rõ sự tình
Vẫn không biết được khóc mình hay ta
Chuẩn bị đón dâu về nhà
Cũng là sắp tiễn cụ già ra đi
Mùi xuân của gái đang thì
Mùi thơm của đất có gì khác đâu
N.H.M
Làm tình phải làm từ từ
Quy tiên cưỡi hạc phải vù thật mau
Bất ngờ bạn chết đêm qua
Nghe tin bỗng thấy lòng ta thẫn thờ
Tiếc thương pha lẫn ước mơ
Mong sao cũng được bất ngờ ra đi
Đau một giây đi một giờ
Vừa ngoảnh mặt đã thành ra mộng
Chưa quay nhìn đã hóa cố nhân
Với người chết ta thấy lòng trống vắng
Với người còn ta thầm lặng bơ vơ
Đừng trách đời làm khổ ta
Ta làm khổ họ gấp ba bốn lần
Nên khi nhắm mắt lìa trần
Chỉ xin được nói một lần: Sorry
Vô tư như nắng giữa trời
Cũng làm cho đổ mồ hôi bao người
Hữu thân hữu tội trên đời
Đẹp xinh làm tủi nhiều người xấu hơn
Xin lỗi tôi, xin lỗi người
Vì tôi đã sống trên đời quá lâu
Tre nhiều măng mọc ở đâu!
Anh đã chết, Không!
Anh không được chết
Bởi vì anh chưa sống thật bao giờ
Ta tuy tuổi mới bảy hai
Mà như đã sống được vài trăm năm
Còn hơn ối kẻ trăm năm
Sống thực chỉ được tính bằng phút giây
Kẻ vô đạo khi sống chỉ được gọi là đang thở, khi chết chỉ được gọi là tắt thở.
Khổng Tử nói: Sáng đắc đạo chiều chết đủ mãn nguyện.
Sống được giàu, chết được nghèo
Thác xuống âm phủ mang theo nụ cười
Nếu trăng cũng chết như đời
Thì ta đâu thấy kiếp người phù du
Vì trăng sống mãi ngàn thu
Cho nên càng thấy phù du kiếp người
03:06 CH 11/05/2013
Thơ Bảo Sinh
Hoàng đế - Càn Long

Cung phi ngủ với con trời

Chứ đâu ngủ với cái tôi của mình

Càn Long rời bỏ cung đình

Để đi tìm những mối tình không vua

Càn Long vào chốn lầu xanh

Hưởng trinh bạch giữa ô danh dâm tình

Thúy Kiều,Từ Hải ,Thúc sinh

Cả ba đắc đạo mối tình thanh lâu
Đáy lòng của gái mại dâm
Đều mơ thánh thiện thánh nhân trên đời
Đáy lòng thiên tử - con trời
Mong tận hưởng hết muôn đời mỹ nhân
Tâm tà sợ kính chiếu dâm
"Lộn lèo" run sợ thơ Xuân Hương Hồ
03:06 CH 21/03/2013
Tình đạo Phật (p2)
BQT sửa bài giúp mình với mình post thơ đăng lên mà cứ thành bài viết liền
03:28 CH 18/03/2013
d
duonghip
Bắt chuyện
659Điểm·45Bài viết
Báo cáo