images
Thịnh hành
Cộng đồng
Bé yêu - Mẹ có quà cả nhà đều vui
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Cơ hội xin PR ở thời điểm hiện tại?
Em không biết cụ thể họ dựa vào dk nào để xét nhưng vừa rồi em nộp đơn vào khoảng cuối 4/2013, cũng ko hy vọng nhiều nhưng đến 10/2013 thì họ thông báo là đã approve. Trường hợp của em cụ thể như sau
- ongxa nguoi sing. Sau khi ket hon nam 2012 do viec rieng nen em ko o han ben sing ma bay qua lai giua vn - sing, den thang 7/2012 khi co bau thi moi apply longtern pass. Sau khi sinh em be thi 4/2013 apply pr.
- thu nhap chong 5000/ thang
- em co bang dh truong Nhan van.
Ongxa noi (co khi) la do 1. Em co baby. 2. La do khi minh ke khai muc thu nhap. Neu muc thu nhap cua chong cao thi ben ica ho nghi muc thu nhap do van bao dam csong gia dinh dc, neu vay nguoi vo ko di lam van co the song tot thi dau nhat thiet phai cap pr. Con thu nhap muc tam vua fai thi nta nghi nguoi vo cung can di lam de bao dam csong nen cap cho pr.hehe ko biet the nao nhung nghe ongxa noi vay. Trong nam nay vc em hoan tat dc cai pr, mua nha xong nen gio chuan bi don nha ^^
10:14 SA 29/11/2013
Con em bị chứng tự kỷ?
Gần đây, chúng ta không khỏi giật mình khi số trẻ em mắc những căn bệnh về thần kinh tăng nhanh chóng. Bệnh tự kỷ là một trong những bệnh đó. Làm thế nào để phát hiện và điều trị kịp thời bệnh tự kỷ cho các em, mời các bạn cùng tham khảo ý kiến dưới đây của các chuyên gia.
Nguyên nhân gây bệnh
Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào khẳng định 100% nguyên nhân gây bệnh tự kỷ ở trẻ em. Nhưng giả thiết thì có rất nhiều.
Thừa hormon
Bệnh tự kỷ thường gặp ở các em bé trai nhiều hơn các bé gái (tỷ lệ 3/4). Chính vì thế các chuyên gia giả thiết có thể các yếu tố gene hoặc hormon gây nên căn bệnh này. Quá trình nam tính hoá bộ não gắn liền với textoxteron và chromosom Y. Theo giả thiết này, quá trình này gây ức chế cho những giao tiếp trong tương lai của các em trai (làm thay đổi quan điểm và lời nói của các em).
Điều này được thể hiện bằng sự thu mình trong thế giới riêng của các em mắc bệnh tự kỷ. Sự thay đổi hormon có hại này có thể bắc đầu từ trong giai đoạn phôi thai hoặc muộn hơn, trong thời kỳ phát triển của các em.
Nhiễm thuỷ ngân
Có giả thiết cho rằng bị nhiễm thuỷ ngân trẻ cũng có thể mắc căn bệnh này.
Thuỷ ngân đã từng được chứng minh là một trong những kim loại có thể gây nên những rối loạn thần kinh nếu người bệnh bị nhiễm một lượng lớn. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng cho biết, trẻ em nhiễm một lượng nhỏ không đáng kể thì thuỷ ngân không thể là nguyên nhân gây bệnh tự kỷ.
Hiện nay loại thuỷ ngân được dùng trong sản xuất các loại văcxin chống uốn ván, viêm gan B… Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho biết lượng thuỷ ngân này không thể đủ để gây bệnh.
Chiều cao
Các nhà nghiên cứu người Kalifornia lại đưa ra giả thiết chiều cao quá khổ cũng có thể là nguyên nhân gây nên bệnh tự kỷ. Họ tập trung vào phân tích về chu vi hộp sọ của những trẻ mắc bệnh tự kỷ khi mới sinh ra và những năm tháng đầu tiên của trẻ.
Họ nhận thấy những đứa trẻ này có vòng đầu nhỏ hơn mức trung bình nhưng não lại phát triển nhanh hơn mức bình thường. Đây cũng có thể là nguyên nhân gây ra căn bệnh này.
Yếu tố tâm lý
Các nhà nghiên cứu cũng cho biết, phần lớn những trẻ tự kỷ có cuộc sống tách biết với thế giới bên ngoài. Làm bạn với vô tuyến và 4 bức tường nhà khiến cuộc sống tinh thần của các em trở nên hạn hẹp.
Sự thiếu quan tâm của cha mẹ, ít giao tiếp với thế giới bên ngoài làm các em thu hẹp mình lại trong thế giới của mình…
Những dấu hiệu của bệnh
- Không bi bô hoặc có cử chỉ giao tiếp với những người xung quanh khi được gần 1 tuổi.
- Không nói một từ nào khi đã được 18 tháng.
- Gần 2 tuổi mà bé chưa nói được 2 từ liên tiếp.
- Thu hẹp cuộc sống trong vỏ ốc, ít giao tiếp với những người thân và người lạ.
- Không thích tham gia các hoạt động tập thể…
- Thích chơi, hoạt động… một mình
- Hay trầm ngâm, sợ hãi bất chợt…
Phương pháp điều trị
Cho đến nay vẫn chưa có một nghiên nào khẳng định được 100% nguyên nhân gây bệnh tự kỷ ở trẻ, do đó phương pháp điều trị hiệu quả vẫn chưa được tìm ra.
Theo các chuyên gia, phương pháp điều trị bệnh tốt nhất hiện nay là kết hợp dùng thuốc điều trị tâm lý và tác động tâm lý của gia đình và nhà trường. Bố mẹ và thầy cô giáo ở trường là những người sẽ giúp các em quay trở lại với cuộc sống hoà đồng bằng những quan tâm, chia sẽ, giúp đỡ các em về mặt tinh thần.
Bạn hãy qua tâm tới đời sống tinh thần của con bạn ngay từ khi bé sinh ra để bé không bị mắc phải căn bệnh này.
Nguồn:
www.hoanmysaigon.com - mục SK Mẹ và bé. Bạn có thể gửi các thắc mắc về sức khỏe trong mục Hướng dẫn bệnh nhân tại website để được các bác sĩ trả lời
03:03 CH 26/02/2008
Uống bao nhiêu nước là đủ?
Không phải loại thức uống nào cũng tốt cho trẻ. Làm sao để biết con bạn cần bao nhiêu nước trong một ngày và dùng như thế nào cho đúng?
Thức uống cho trẻ rất đa dạng, từ nước ép trái cây (hoặc rau củ), sữa tươi, sữa đậu nành đến sinh tố... Chúng góp phần quan trọng trong việc cung cấp can-xi giúp xương phát triển, năng lượng cho hoạt động, các vi khoáng chất cần thiết cho hệ miễn dịch của bé.
Các loại sữa tươi
Đây là nguồn cung cấp can-xi dồi dào, giúp bé có khung xương chắc khoẻ khi trưởng thành. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyên rằng hàm lượng can-xi cần thiết đối với trẻ trong độ tuổi 1-2 là 500 mg/ngày. Bé 4-8 tuổi cần 800 mg/ngày và 9 tuổi trở lên là 1.300 mg/ngày. Sữa nguyên kem hoặc các loại sữa tươi đều chứa hàm lượng can-xi như nhau. Trẻ dưới 5 tuổi nên uống ít nhất 500 ml sữa/ngày. Các bé từ 5 tuổi trở lên cần khoảng 750 ml sữa/ngày là có thể cung cấp đủ lượng can-xi cần thiết.
Sữa đậu nành
Loại sữa này rất mát, giàu protein lại không gây dị ứng. Tuy nhiên, sữa đậu nành không hoàn toàn tốt đối với trẻ vì có hàm lượng canxi thấp. Đồng thời, cơ thể chỉ có thể hấp thu khoảng 75% can-xi từ nguồn nước uống này. Ngoài ra, sữa đậu nành không chứa vitamin B12. Chính vì thế, bạn không nên cho trẻ uống nhiều sữa đậu nành. Nên thay bằng sữa bò hoặc loại pha chế theo công thức dành cho từng độ tuổi.
Nước ép trái cây tươi
Nếu bé thích nước ép trái cây hoặc sinh tố như lê, dưa hấu, cà chua, táo, cam... hãy cho trẻ uống nước nguyên chất từ trái cây tươi. Tuy nhiên, trẻ 0-6 tháng không cần uống nước trái cây. Bé 6-12 tháng uống không quá 120 ml/ngày. Trẻ 1-6 tuổi khoảng 120 - 180 ml/ngày. Từ 7 tuổi trở lên nên uống 240 - 360 ml/ngày.
Đây được xem là liều lượng chuẩn, thích hợp với trẻ ở các độ tuổi khác nhau.
Nếu cung cấp nhiều hơn mức trên, bé có thể lười uống sữa, dẫn đến tình trạng không hấp thụ đủ can-xi, thừa đường. Với những trẻ có biểu hiện thừa cân, béo phì, bố mẹ nên cho uống nhiều loại trái cây ít ngọt để giúp cân bằng cơ thể như bưởi, dưa chuột, sơ-ri...Các chuyên gia dinh dưỡng khuyên nên xay nhuyễn trái cây làm sinh tố sẽ tốt hơn dùng nước ép. Trong sinh tố có chứa hàm lượng chất xơ cao.
Nước trà
Nhiều trẻ không thích uống trà vì có vị đắng. Tuy nhiên, đây là thức uống giàu chất chống ô-xy hoá, đặc biệt là trà xanh, ô long. Loại nước này thường chứa ít calorie, giúp phòng chống bệnh tim mạch và một số bệnh ung thư. Nên cho trẻ uống tách trà nóng thêm chút đường khi gặp vấn đề về tiêu hoá hoặc các bệnh đường ruột.
Nước đóng hộp
Ngoài thức uống tươi, thế giới nước đóng hộp luôn hấp dẫn bé. Tuy nhiên, bác sĩ nhi khoa khuyên nên hạn chế cho trẻ uống các loại này vì không có tốt cho sức khoẻ.
Nguồn"
www.hoanmysaigon.com - mục Sức khỏe Mẹ và bé. Bạn có thể gửi thắc mắc các vấn đề SK cho bác sĩ tại mục Hướng dẫn
10:10 SA 21/02/2008
Bị tưa / nấm / đẹn lưỡi
Bé có nhiều nanh ở hàm, có chỗ thành mảng bám, cộng thêm lưỡi cháu phía bên trong, tưa sữa bám nhiều. Nếu đánh tưa lưỡi phía trong, bé sẽ bị nôn do vậy chỉ vệ sinh được phía bên ngoài đầu lưỡi. Vậy cách nào để bé hết nanh bám và tưa lưỡi phía trong
Thông thường khi đứa trẻ sinh ra trong miệng chưa có chiếc răng nào, nướu (lợi) răng còn mềm. Tuy nhiên, cũng có trường hợp bé mới 1-2 tháng tuổi trên vùng nướu răng đã có những nốt nhỏ nhô lên (dân gian gọi là nanh sữa) màu sắc bình thường, không đau.
Đây không phải là hiện tượng mọc răng. Trong quá trình hình thành xương ở răng (xương sẽ bao xung quanh răng khi mọc ra) và mô nướu có thể tạo ra những nốt nhô, không gây trở ngại trong ăn uống của bé và đến tuổi mọc răng những nốt nhô này có thể sẽ mất đi. Bạn nên:
- Vệ sinh trong miệng của bé sau khi bú bằng cách cho bé uống 1, 2 muỗng cà phê nước sạch.
- Dùng miếng gạc nhỏ tẩm nước sạch rơ nhẹ ở nướu và lưỡi nhất là ở vùng có nanh sữa, tránh đi sâu vào vùng đáy lưỡi, vì sẽ gây kích thích co bóp các cơ ở hầu họng làm cho trẻ bị ói, nhất là lúc vừa ăn no.
- Có thể làm sạch phía trong lưỡi lúc bé đói, không được cho bé nằm ngửa lúc rơ miệng, phải bế bé sao cho đầu thấp lúc rơ miệng để tránh chất ói chảy ngược vào khí quản gây nguy hiểm.
Nguồn:
www.hoanmysaigon.com - chuyên mục Mẹ và bé. khi có câu hỏi về sức khỏe của bé, bạn có thể đặt câu hỏi đến bác sĩ tại mục "Hướng dẫn người bệnh" tại trang web
10:43 SA 15/02/2008
Bé chậm biết đi - Những băn khoăn lo lắng của bậc...
Có những hiện tượng lạ biết đi từ lúc 10 tháng, nhưng lại có những trẻ khác chỉ rời được bàn tay mẹ vào lúc 18 tháng. Chỉ khi tới 18 tháng mà đứa trẻ còn chưa đi được thì mới có thể nói là chậm biết đi và phải đưa trẻ đi khám.
Điều kiện hội tụ cần thiết
Muốn một đứa trẻ đi được, phải có một số điều kiện hội tụ mà thiếu một trong số chúng thì xảy ra chậm trễ. Những điều kiện đó là gì? Sự tăng trưởng bình thường, tình trạng chung phải mỹ mãn, sự nảy nở tâm lý và tình cảm phải hài hòa. Bởi vì muốn đi được, đứa trẻ cần có không những cơ bắp và xương cốt, mà cần cả ý chí, sự sáng tạo, lòng can đảm, bé cũng cần có cả sự tin cậy của những người xung quanh.
Những nguyên nhân làm bé chậm biết đi
- Nếu bé vừa trải qua một thời gian bệnh tật, phải nằm ở giường một thời gian dài,…thì việc chậm trễ sẽ là vài tuần hay vài tháng.
- Nếu đứa trẻ được cho ăn uống không phù hợp, cuộc sống sinh hoạt của bé thiếu ánh nắng mặt trời cũng như không khí trong lành và sự luyện tập, dẫn đến bị còi xương thì sự chậm trễ sẽ tùy thuộc vào mức độ của tình trạng. Đứa trẻ béo và nặng quá tất nhiên sẽ chậm đi hơn những đứa trẻ khác.
- Nghiêm trọng hơn là nhu cầu về tình âu yếm và lòng tin cậy không được thỏa mãn, bé có thể đi được nhưng không muốn.
Việc điều trị, trong những trường hợp trên đây thật đơn giản, hãy cho trẻ cái gì nó cần, nó thiếu: sự nghỉ ngơi, các vitamin, sự tập luyện, tình yêu, lòng tin cậy của những người xung quanh.
- Một loại nguyên nhân khác là do các xương và cơ, bé không đi được là do một dị dạng của háng ngăn trở. Chính sự chậm biết đi sẽ giúp ta nhận ra dị dạng đó. Về sự bất thường của bàn chân cũng vậy. Đôi khi bác sĩ phát hiện ra ở đứa trẻ 2 tuổi, được đưa tới vì còn chưa biết đi, có bị teo cơ ở chân do bị bại liệt hay do một bệnh cơ di truyền.
- Còn một loại nguyên nhân cuối của việc chậm biết đi, đó là do não bị tổn thương. Đứa trẻ có trí thông minh bình thường nhưng một tổn thương do di truyền hoặc mắc phải đã gây nên liệt, cứng nhắc, rối loạn về thăng bằng. Cũng trong lĩnh vực đó, đứa trẻ có thể không bị tổn thương, nhưng có trí não kém phát triển.
Thông thường trong nhữg trường hợp này, ngoài việc không đi được, đứa trẻ còn không biết sử dụng thìa, không biết giữ gìn sạch sẽ, chỉ biết nói vài tiếng, luôn vứt các đồ vật đi. Đó là do tuổi trí não của bé thấp hơn tuổi thực tế, và sẽ rất chậm biết đi hoặc sẽ không đi được. Bác sĩ sẽ mách bạn hướng giải quyết. Ngoài ra sự kiên trì và tình yêu của bạn sẽ giúp bé.
Nguồn:
www.hoanmysaigon.com - chuyên mục Mẹ và bé. KHi có thắc mắc về sự phát triển bạn có thể vào chuyên mục "hướng dẫn" tại trang web đặt câu hỏi cho các bác sĩ
10:27 SA 15/02/2008
Thực phẩm (thức ăn) nào giúp tăng sức đề kháng...
Cơm là món ăn rất phổ biến đối với nhiếu gia đình Việt Nam. Cơm được sử dụng thường xuyên hàng ngày nhưng không phải ai cũng biết tác dụng chữa bệnh của cơm. Bạn có thể tham khảo những thông tin sau sẽ thấy cơm thực sự là một vị thuốc quý
Cơm hến
Món cơm hến rất tốt cho các quý ông bởi có tác dụng bổ thận, tráng dương, sinh tinh, mạnh gân xương... Cách làm như sau: gạo rang qua trong niêu đất, đổ nước hến đang sôi vào để nấu cơm. Khi cơm cạn, thêm dầu, mè đen rang, rau răm thái chỉ, hành tỏi phi. Cơm nấu phải khô mới đạt tiêu chuẩn.
Cơm chè xanh
Đun sôi một nắm chè xanh, bỏ nước đầu, thêm nước vào đun sôi lần nữa, rồi dùng nước đó thổi cơm. Tác dụng: Phòng bệnh tim mạch, ung thư, đường ruột, chống ôxy hóa, giảm béo, làm đẹp da.
Cơm nướng cháy
Cơm tẻ một nắm nướng cháy gần hết, thêm 1 chén nước, sắc cho trẻ uống để chữa chứng thở khò khè.
Cơm bắp cải
Xào chín hành tây rồi cho bắp cải thái nhỏ vào xào tái, thêm gia vị, tất cả cho vào khi cạn cơm. Loại cơm này có tác dụng hoạt tràng, thông tiện, phòng chữa viêm loét, ung thư đường ruột.
Cơm hành tây
Nấu nước sôi, cho gạo, hành tây, gia vị vào nấu cơm. Tác dụng: Hạ huyết áp, hạ đường trong máu, chống bệnh đường ruột, giúp tiêu hóa tốt.
Cơm hẹ
Cơm tẻ một nắm đem rang khô, hẹ 20 lá, gừng 5 lát, cát căn 10 g, sắc với 2 bát nước lấy 1 bát. Chữa tiêu chảy, mất nước, nóng sốt. Cơm nghệ của người Mường: Dùng nước ép nghệ lượng vừa phải nhào với gạo, cho vào ống nứa hoặc tre non, đốt cháy vỏ. Có tác dụng phòng chữa bệnh gan mật.
Cơm sữa bò (hoặc trâu, dê)
Nấu cạn cơm rồi cho sữa vào đánh đều, om chín. Có tác dụng bổ dưỡng, chữa suy nhược, táo bón, bệnh đường hô hấp.
Bạn có thể tham khảo thêm nhiều thông tin hữu ích trong chuyên mục "Dinh dưỡng và Sức khỏe" tại
www.hoanmysaigon.com
04:56 CH 30/01/2008
Cách nào chữa đái dầm?
Khoảng 15-20% trẻ em dưới 5 tuổi có đái dầm. Khi đã lớn hơn (con gái 5 tuổi, con trai 6 tuổi), nếu trẻ vẫn không kiểm soát được việc đi tiểu trong lúc ngủ thì đó là đái dầm bệnh lý.
Trẻ tới 5 tuổi vẫn đái dầm liên miên, đó là đái dầm loại 1 (chiếm khoảng 15-20%). Trẻ 5-12 tuổi, có lúc đã khỏi được 6 tháng, rồi bị trở lại, là đái dầm loại 2 (khoảng 3-8%). Một số ít trẻ đã lớn, thậm chí ở tuổi vị thành niên vẫn còn đái dầm.
Nếu bố hay mẹ thuở nhỏ đái dầm thì con cái có 40% nguy cơ cũng bị bệnh này. Nếu cả bố lẫn mẹ thuở nhỏ bị bệnh đái dầm thì nguy cơ lên tới 70-75%.
Nguyên nhân đái dầm chưa rõ, có thể do: Khả năng phát triển bàng quang không tốt, bàng quang quá nhỏ, không kiểm soát được hoạt động của ống dẫn tiểu, không kiểm soát được hoạt động của bàng quang, chậm phát triển hệ thống thần kinh.
Trẻ em bị những chứng bệnh sau đây có thể hay đái dầm:
- Tâm lý căng thẳng.
- Ngủ ngáy lớn vì bị adenoids hay có cục thịt dư lớn trong họng.
- Đi tiểu thường xuyên vì nhiễm trùng đường tiểu.
- Đi tiểu nhiều, giảm trọng lượng (bị bệnh đái tháo đường, bệnh thận).
- Đường tiểu yếu, đêm ngày đều tiểu són (bị nghẹt đường tiểu).
Đái dầm ảnh hưởng tới tâm tính trẻ em
Đái dầm gây nhiều vấn đề tâm lý cho trẻ. Nếu trên 10 tuổi mà chưa khỏi, có thể trẻ đã có bệnh tâm lý vì không được săn sóc, bị chú ý quá mức, căng thẳng, buồn rầu, không thích chơi với những trẻ khác. Tâm tính trẻ sẽ trở nên bất thường, khó chịu vì cảm thấy tự mình không kiểm soát được chính mình.
Có một số thuốc giúp trị đái dầm, nhưng cần sử dụng theo đơn và có bác sĩ theo dõi. Bố mẹ có thể áp dụng thêm một số biện pháp: Hạn chế cho con uống nhiều nước trước khi đi ngủ, đánh thức con dậy đi tiểu, giảm những thực phẩm như chocolate, sữa, nước cam, trà, coca cola. Nên để đèn đêm gần chỗ tiểu để trẻ không ngại trở dậy đi tiểu.
Nên giúp đỡ con chứ không trừng phạt trẻ. Không nên đổ lỗi cho trẻ mà ngược lại nên giúp trẻ hiểu biết, có trách nhiệm, để nó làm được những gì cần phải tự làm. Nếu con thức giấc, nên khuyên trẻ cố gắng tự đi tiểu; đêm nào không đái dầm thì khen ngợi. Điều này sẽ giúp trẻ tự tin lên và dễ khỏi bệnh.
Nguồn:
www.hoanmysaigon.com - chuyên mục Sức khỏe Mẹ và bé
04:32 CH 30/01/2008
Các bệnh viện nhận khám bệnh tại nhà
chi oi cho e hoi, hien e dang o Q2. Con e đang bị sốt phát ban. Liệu có BS nào chiu chạy đến Q2 khám k chị?

chào chị, em hỏi thử rồi, ở BV đa khoa Hoàn Mỹ có nhận khám bệnh tại nhà ở quận 2. Chị có thể liên hệ số đt (08) 8119783 – 8119785 – 9316944 để cung cấp địa chì và một số thông tin khác cho bác sĩ.
06:43 CH 29/01/2008
Bệnh tiểu són
Nhiều người có triệu chứng nước tiểu thoát ra một cách tự nhiên mà không kiểm soát được. Nhưng vì xấu hổ và cho rằng điều này không ảnh hưởng đến sức khỏe nên họ chấp nhận sống chung với "sự ẩm ướt" mà không điều trị.
Bác sĩ Nguyễn Văn Nhàn cho biết, triệu chứng nước tiểu thoát ra theo đường tự nhiên nhưng không kiểm soát được gọi là "són tiểu". Hiện tượng này thường xảy ra khi có tình trạng gia tăng áp lực trong ổ bụng như cười to, hắt hơi, ho mạnh, khiêng vật nặng, hoặc khi chơi thể thao (tennis, chạy bộ, bóng chuyền, bóng rổ…). Són tiểu không ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như không bị di chứng gì về sau nhưng có thể gây viêm nhiễm đường sinh dục vì luôn trong tình trạng ẩm ướt
Cũng theo bác sĩ Nhàn, có đến 10- 20% phụ nữ trong cộng đồng mắc triệu chứng "són tiểu". Phụ nữ sau khi sinh hoặc từ 55 tuổi trở lên dễ mắc nhất. Do vùng tầng sinh môn phụ nữ có cấu trúc đặc biệt nên dễ bị ảnh hưởng trong quá trình mang thai hay ảnh hưởng về nội tiết tố trong thời kỳ mãn kinh. Các ảnh hưởng đó làm mềm và nhão mô tế bào vùng cơ quan niệu - sinh dục gây nên són tiểu. Những phụ nữ trẻ làm việc căng thẳng, thường chơi thể thao nặng hoặc nghỉ ngơi quá ít sau kỳ thai sản cũng thường gặp triệu chứng này.
Có 2 loại són tiểu thường gặp
- Một là tiểu không kiểm soát được do gắng sức. Thường xảy ra ở phụ nữ do sự suy yếu của các cơ vùng tầng sinh môn và cơ thắt kiểm soát sự đi tiểu. Dưới ảnh hưởng gia tăng áp lực ổ bụng, nước tiểu tự động thoát ra ngoài.
- Hai là tiểu không kiểm soát do bàng quang (bọng đái) không ổn định hoặc hoạt động quá mức hoặc do bế tắc đường tiểu, thường xảy ra ở đàn ông lớn tuổi. Phì đại tiền liệt tuyến (bướu tiền liệt tuyến) là bệnh lý thường đưa đến hiện tượng này.
Hiện nay, đa số các trường hợp són tiểu có thể chữa trị khỏi. Có những trường hợp bệnh nhân chỉ cần tập các động tác nhằm tăng cường sức cơ của cơ quan kiểm soát sự đi tiểu theo lời khuyên của bác sĩ là đã có thể giải quyết được.
Những trường hợp nghiêm trọng, bác sĩ sẽ thực hiện các thăm khám và làm xét nghiệm đầy đủ bằng các kỹ thuật chẩn đoán chuyên môn (gọi là Niệu động lực học). Căn cứ trên kết quả để chỉ định điều trị bằng thuốc hay phẫu thuật.
Với tiểu không kiểm soát do gắng sức thường xảy ra ở phụ nữ dưới ảnh hưởng gia tăng áp lực ổ bụng, chỉ cần giảm các yếu tố gắng sức phối hợp với tập luyện tăng cường sức cơ vùng hội âm là có thể giảm hoặc loại trừ hẳn hiện tượng này. Sau khi thực hiện luyện tập theo chỉ dẫn của bác sĩ mà bệnh vẫn không thuyên giảm, kéo dài bác sĩ chuyên khoa mới cho chỉ định điều trị bằng phẫu thuật. Phổ biến nhất hiện nay là phẫu thuật đặt miếng nâng đỡ niệu đạo (TVT - TOT) chỗ cơ thắt kiểm soát đi tiểu. Phẫu thuật này qua đường tự nhiên rất nhanh (xuất viện sau 24 giờ) và không đau. 90% phụ nữ khỏi bệnh hoàn toàn sau khi được phẫu thuật.
Riêng với tiểu không kiểm soát do bế tắc đường tiểu bởi bướu tiền liệt tuyến, có thể được điều trị nội khoa bằng thuốc. Nếu trường hợp nặng sẽ được phẫu thuật để lấy đi bướu gây tắc nghẽn đường tiểu. Với trường hợp bàng quang hoạt động quá mức, điều trị bằng thuốc thất bại, bác sĩ có thể tiêm thuốc vào bàng quang qua nội soi (Toxine botulique A) để điều trị. Với kỹ thuật này bệnh nhân sẽ được gây mê toàn thân, bác sĩ thực hiện khoảng 30 phút. Bệnh nhân có thể xuất viện ngay trong ngày.
Vì đa số phụ nữ rất hay gặp bệnh són tiểu này, do đó, khi thấy có dấu hiệu són tiểu hãy ghi lại thời gian và hoàn cảnh xảy ra các triệu chứng. Và nên đến bác sĩ chuyên khoa niệu để được khám và tư vấn phương pháp điều trị phù hợp. Vì triệu chứng són tiểu có thể xảy ra với bất kỳ người nào từ nam giới, nữ giới, người già đến trẻ em. "Mặc dù nó không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe nhưng ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý, sự tự tin và cuộc sống gia đình của nhiều người", bác sĩ Nhàn khuyến cáo.
NGuồn:
www.hoanmysaigon.com - chuyên mục Bệnh thường gặp
05:34 CH 26/01/2008
Biểu đồ tăng trọng của mẹ
Tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ khi mang thai được biểu hiện qua mức tăng cân. Nếu tăng dưới 3 kg trong quý giữa của thai kỳ thì nghĩa là bạn cần bồi dưỡng thêm.
Mức tăng cân của bà mẹ khi mang thai liên quan chặt chẽ tới cân nặng của trẻ khi sinh. Chỉ số này thấp dẫn đến nguy cơ đẻ con cân nặng dưới 2.500 g (đẻ non hoặc suy dinh dưỡng bào thai).
Mức tăng cân phụ thuộc vào chế độ ăn uống, lao động, nghỉ ngơi của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của mẹ trước khi có thai. Trong suốt thai kỳ, người mẹ cần tăng 10-12 kg. Trong đó, ba tháng đầu tăng 1 kg, ba tháng giữa tăng 4-5 kg và ba tháng cuối tăng 5-6 kg.
Nếu 3 tháng giữa tăng dưới 3 kg và 3 tháng cuối tăng dưới 4 kg thì người mẹ cần ăn uống và bồi dưỡng tăng cường thêm.
Tăng cân quá mức cũng không tốt. Nếu trong 3 tháng cuối, mỗi tháng tăng quá 2 kg hay mỗi tuần tăng trên 1 kg thì đó thường là dấu hiệu bệnh lý như phù, cao huyết áp. Bà mẹ cần phải đi khám để có những can thiệp kịp thời.
Nhu cầu năng lượng trong khẩu phần của phụ nữ có thai là 2.550 kcal, nhiều hơn khi không có thai 350 kcal. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia đình, bà mẹ có thể ăn thêm cơm (chỉ cần ăn thêm 2 bát mỗi ngày là đủ đưa vào cơ thể thêm 300 kcal), hoặc thêm củ khoai, bắp ngô, quả trứng, đậu, vừng, lạc, hoa quả… Nếu có điều kiện, ăn thêm thịt, cá, sữa…
Nguồn:
www.hoanmysaigon.com - chuyên mục Mẹ và bé
04:20 CH 23/01/2008
Bé chậm biết đi - Những băn khoăn lo lắng của bậc...
Có những hiện tượng lạ biết đi từ lúc 10 tháng, nhưng lại có những trẻ khác chỉ rời được bàn tay mẹ vào lúc 18 tháng. Chỉ khi tới 18 tháng mà đứa trẻ còn chưa đi được thì mới có thể nói là chậm biết đi và phải đưa trẻ đi khám.
Điều kiện hội tụ cần thiết
Muốn một đứa trẻ đi được, phải có một số điều kiện hội tụ mà thiếu một trong số chúng thì xảy ra chậm trễ. Những điều kiện đó là gì? Sự tăng trưởng bình thường, tình trạng chung phải mỹ mãn, sự nảy nở tâm lý và tình cảm phải hài hòa. Bởi vì muốn đi được, đứa trẻ cần có không những cơ bắp và xương cốt, mà cần cả ý chí, sự sáng tạo, lòng can đảm, bé cũng cần có cả sự tin cậy của những người xung quanh.
Những nguyên nhân làm bé chậm biết đi
- Nếu bé vừa trải qua một thời gian bệnh tật, phải nằm ở giường một thời gian dài,…thì việc chậm trễ sẽ là vài tuần hay vài tháng.

- Nếu đứa trẻ được cho ăn uống không phù hợp, cuộc sống sinh hoạt của bé thiếu ánh nắng mặt trời cũng như không khí trong lành và sự luyện tập, dẫn đến bị còi xương thì sự chậm trễ sẽ tùy thuộc vào mức độ của tình trạng. Đứa trẻ béo và nặng quá tất nhiên sẽ chậm đi hơn những đứa trẻ khác.
- Nghiêm trọng hơn là nhu cầu về tình âu yếm và lòng tin cậy không được thỏa mãn, bé có thể đi được nhưng không muốn.
Việc điều trị, trong những trường hợp trên đây thật đơn giản, hãy cho trẻ cái gì nó cần, nó thiếu: sự nghỉ ngơi, các vitamin, sự tập luyện, tình yêu, lòng tin cậy của những người xung quanh.
- Một loại nguyên nhân khác là do các xương và cơ, bé không đi được là do một dị dạng của háng ngăn trở. Chính sự chậm biết đi sẽ giúp ta nhận ra dị dạng đó. Về sự bất thường của bàn chân cũng vậy. Đôi khi bác sĩ phát hiện ra ở đứa trẻ 2 tuổi, được đưa tới vì còn chưa biết đi, có bị teo cơ ở chân do bị bại liệt hay do một bệnh cơ di truyền.
- Còn một loại nguyên nhân cuối của việc chậm biết đi, đó là do não bị tổn thương. Đứa trẻ có trí thông minh bình thường nhưng một tổn thương do di truyền hoặc mắc phải đã gây nên liệt, cứng nhắc, rối loạn về thăng bằng. Cũng trong lĩnh vực đó, đứa trẻ có thể không bị tổn thương, nhưng có trí não kém phát triển.
Thông thường trong nhữg trường hợp này, ngoài việc không đi được, đứa trẻ còn không biết sử dụng thìa, không biết giữ gìn sạch sẽ, chỉ biết nói vài tiếng, luôn vứt các đồ vật đi. Đó là do tuổi trí não của bé thấp hơn tuổi thực tế, và sẽ rất chậm biết đi hoặc sẽ không đi được. Bác sĩ sẽ mách bạn hướng giải quyết. Ngoài ra sự kiên trì và tình yêu của bạn sẽ giúp bé.
Nguồn:
www.hoanmysaigon.com - chuyên mục Sức khỏe Mẹ và bé
08:21 SA 15/01/2008
Bệnh tiểu đường ở trẻ em
Không chỉ xuất hiện ở người lớn, bệnh tiểu đường cũng dễ xâm nhập và gây biện chứng khó lường ở trẻ em. Làm thế nào để nhận biết căn bệnh này?
Đột nhiên trẻ ăn nhiều, uống nhiều nhưng vẫn sụt cân, sức khỏe ngày càng kém đi. Các bé bị tiểu đường thường khát nước, đi tiểu nhiều về đêm. Sự bất thường này khiến quá trình lọc và bài tiết của thận yếu dần đi, có nguy cơ dẫn đến suy thận. Nhiều gia đình đã nhận thấy tình trạng sức khỏe của con mình nhưng không biết đó chính là biểu hiện của bệnh tiểu đường.
Một số nguyên nhân như ô nhiễm môi trường, chế độ ăn uống không hợp lý, di truyền đã làm ảnh hưởng và làm cho hệ miễn dịch ở trẻ bị thay đổi. Điều này góp phần làm số trẻ mắc bệnh tiểu đường ngày càng tăng.
Nguy cơ từ những biến chứng
Theo các bác sĩ, căn bệnh này diễn tiến một cách âm thầm. Khi trẻ mắc bệnh, người lớn rất khó nhận biết các triệu chứng. Để lâu ngày, trẻ có nguy cơ bị các bệnh về tim mạch như: suy tim, cao huyết áp, xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, dị ứng da, lao phổi, vi trùng xâm nhập đường tiểu, nhiễm trùng bàn chân...
Ngoài ra, chứng tiểu đường còn ảnh hưởng không nhỏ đến mắt của bé. Nếu tình trạng bệnh càng kéo dài sẽ tác động mạnh lên mạch máu võng mạc, làm cho thị lực của trẻ ngày càng yếu đi. Trẻ có thể bị đục thủy tinh thể, loạn thị hoặc có nguy cơ mù mắt vĩnh viễn. Đây là điều đáng lo ngại nhất ở các gia đình có trẻ em bị tiểu đường.
Căn bệnh này làm cho thể trạng bé ngày một gầy rộc dù ăn uống đầy đủ. Đặc biệt, sự rối loạn tiêu hóa khiến trẻ ngày càng suy dinh dưỡng nặng. Khả năng tiếp nhận thông tin cũng như phát triển trí tuệ kém đi. Kèm theo đó, những bất thường của cơ thể có nhiều khả năng gây nên chứng trầm cảm, lo lắng ở bệnh nhi. Những thất thường ồ ạt kéo đến làm cho trẻ bị rối loạn tri giác, dẫn đến hôn mê.
Làm sao thoát khỏi vòng vây?
- Tại Việt Nam hiện nay, việc chữa trị cho bệnh nhi bị tiểu đường rất khó khăn và tốn kém. Chính vì thế, phòng bệnh vẫn hơn chữa bệnh. Bố mẹ cần thường xuyên đưa con đi khám sức khỏe tổng quát, thực hiện các xét nghiệm về đường huyết.
- Nếu phát hiện bệnh sớm, nên cho trẻ chích Insulin và điều trị kịp thời. Đây là cách tốt nhất giúp trẻ thoát khỏi vòng vây của căn bệnh khó nhận biết này. Ngoài ra, bố mẹ không nên nhồi nhét quá nhiều chất dinh dưỡng vào bữa ăn hàng ngày của con. Những bé béo phì và thừa chất dinh dưỡng sẽ có nguy cơ tiểu đường cao hơn các bé khác.
- Với bệnh nhi tiểu đường, phụ huynh cần hướng dẫn cho bé biết cách bảo vệ mình về sự lây nhiễm ký sinh trùng từ môi trường ô nhiễm.
NGuồn:
www.hoanmysaigon.com - chuyên mục Sức khỏe Mẹ và bé
02:56 CH 11/01/2008
c
chuongkhanh026
Bắt chuyện
893Điểm·31Bài viết
Báo cáo