images
Thịnh hành
Cộng đồng
Bé yêu - Mẹ có quà cả nhà đều vui
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Thẩm mỹ viện làm chết bệnh nhân, ném xác xuống...
Gia đình chị Huyền thử liên hệ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã xem :
Chuyện ít biết về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã: Quy luật tâm linh và sự siêu thoát

Những người dù đã hoặc chưa gặp Nguyễn Văn Nhã đều tin rằng ông có khả năng “siêu phàm”. Bởi vì phương pháp của ông và một số người nữa là duy nhất. Với riêng Nguyễn Văn Nhã, ông chỉ coi đó là “quà tặng” của trời phật và muốn sẻ chia nó với tất cả mọi người. Hành trình ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã có thể nói là tuân theo quy luật tâm linh để đạt đến sự siêu thoát. Dù chưa có nhiều người trần mắt thịt hiểu được ý nghĩa thiêng liêng này nên vẫn cố công tìm kiếm, cố công trói buộc vong hồn người đã khuất vào những nắm xương, nấm mồ hoang lạnh rồi sẽ tan biến theo thời gian. Cho đến bây giờ, những người được ông Nhã trực tiếp giúp tìm mộ hoặc người nghe kể lại đều nghĩ rằng ông có khả năng điều khiển được “tín hiệu” giúp tìm mộ. Ngoại cảm là kết nối các thế giới Những cuộc tìm mộ kỳ diệu nối tiếp nhau, khi thì con người, lúc thì động vật cỏ cây, cả con sâu cái kiến cũng giúp chỉ mộ. Chuyện một vị luật sư người Mỹ gốc Việt lặn lội về nước tìm mộ mẹ ở Hà Tây, được ông vẽ sơ đồ đến giữa một cánh đồng rộng và dặn dò phải chờ một con trâu đến đứng vào chỗ đất nào thì đào lên ắt sẽ thấy mộ. Vị luật sư ngồi trên một gò đất giữa đồng chờ mãi vẫn không thấy con trâu nào. Đang lúc ông gọi điện thoại lại cho ông Nhã thì bỗng nghe tiếng sột soạt sau lưng. Ông giật mình quay lại thì thấy có một chú nghé húc liên hồi vào gò đất sau chỗ ông ngồi. Sau khi khấn nguyện, ông đào gò đất lên thì quả nhiên phát hiện hài cốt của mẹ mình. Hay trưởng một phòng của Sở GTVT Đồng Nai đi tìm mộ cha ở An Giang ngay vào mùa nước nổi. Ông Nhã sau khi miêu tả hình dáng người đã khuất để thân chủ xác nhận đã hướng dẫn người này đến một cánh đồng và đợi đúng 10h30 sẽ có một chú chó đốm trắng đứng một chỗ sủa liên hồi, chính là nơi chôn cất người chết. Vị trưởng phòng được các cán bộ xã dẫn ra giữa đồng cùng chờ đợi phần vì nhiệt tình, phần vì không tin chuyện ông Nhã nói là thật. Vì cả một vùng nước mênh mông, tìm đâu ra chó, mà lại là chó đốm trắng? Cả đoàn chờ đến gần đúng giờ thì nản, toan ra về. Bỗng nhiên, một chú chó đốm trắng từ đâu xuất hiện bơi sì sụp giữa đồng nước ra đến một khu gò leo lên sủa liên hồi. Sau khi đào lên, người ta phát hiện hài cốt người đã khuất đúng như nhận dạng của nhân thân. Cả đoàn người vừa sợ hết vía vừa thán phục trước khả năng của nhà ngoại cảm dù không biết mặt mũi ông như thế nào.
Ông Nhã trong một lần làm từ thiện ở miền Tây
“Có khi dấu hiệu đi trái với quy luật tự nhiên, chính mình cũng không nghĩ tới”-ông Nhã kể. Điển hình trường hợp gia đình một viên đại úy chế độ cũ đi tìm mộ người thân. Sau khi ông vẽ bản đồ, họ tìm đến một cánh rừng cao su và sẽ có một con sâu xanh chỉ mộ. Gia đình viên đại úy tìm đến nơi, thấy hàng chục công nhân túm tụm bàn về một con sâu xanh rất lạ. Những người lớn tuổi nhất khẳng định cả đời chưa thấy loại sâu như vậy sống ở rừng cao su bao giờ. Một người đã quét chú sâu ấy đi. Gia đình thân nhân liệt sĩ tìm đến nơi con sâu đang nằm thì phát hiện đầy đủ các dấu hiệu ông Nhã chỉ từ trước và tìm được hài cốt viên đại úy. Những câu chuyện mầu nhiệm như thế rất nhiều. Ông đã tìm kiếm gần 7.000 ngôi mộ, mỗi trường hợp là một điều mầu nhiệm. Đến mức người từng được ông giúp hoặc nghe kể kết luận rằng ông Nhã có khả năng điều khiển vạn vật làm tín hiệu để tìm mộ. “Nói ông Nhã điều khiển dấu hiệu là tự cao, ngã mạn. Sự thật tôi không cao siêu gì cả. Tôi cứ cho tín hiệu, còn tín hiệu có đến hay không là do Trời Phật, Bồ Tát thị hiện cử đến”-ông tâm sự. Lúc mới tìm mộ, ông còn tưởng đó là vong hồn của người chết nhập vào làm tín hiệu dẫn đường. Nhưng càng đi sâu vào, ông càng khám phá ra rằng, việc tìm mộ là do Bồ Tát, Trời Phật trợ lực, không một người sống hay vong hồn nào có thể làm được. Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng phương pháp ngoại cảm tìm mộ của ông thực chất là kết nối với các thế giới. Khi ông phát tâm gửi thông điệp, Trời Phật sẽ cho ông tín hiệu. Những lần như vậy, ông hiểu rằng càng vì người khác, sao cho họ bớt cực khổ tốn kém, tha lực ở các thế giới khác gửi đến càng mạnh hơn. “Cũng như người sống trên đời cũng vậy. Càng phát triển từ bi thì càng nhận được những điều tốt đẹp”-ông nhắn nhủ. Tôi nhận ra rằng, đó cũng là phương châm sống của Nguyễn Văn Nhã: Luôn vì người khác, không mưu cầu gì cho mình. Cũng như khi bước vào ngoại cảm, ông luôn trăn trở tìm đến bản chất thật của nó. Và làm sao để người nghèo nhất cũng có thể tìm mộ. Ông lên đường gặp gỡ hàng chục nhà tâm linh lúc đó để tìm câu trả lời. Rồi chưa thỏa mãn, cuối năm 2001, ông sang Ấn Độ, tìm đến Đại học Tâm linh thế giới để học thiền. Nhân chuyến đi đó, ông gặp được “kho báu” của đời mình: đó chính là Phật pháp. Ông kể rằng, khi đến gốc bồ đề nơi đức Phật đắc đạo, ông đã khóc. Rằng hành trình ngoại cảm tìm mộ chính là cơ duyên đưa ông đến với phật pháp. Và chính Phật pháp giúp ông hiểu được bản chất hành trình ngoại cảm của mình là kết nối con người với các thế giới cao hơn, rằng chết không phải là hết, vấn đề là vong hồn sẽ đi về đâu. Cách sống trên đời sẽ định đoạt lâu dài, hàng trăm ngàn năm thế giới mình sẽ đến khi lâm chung. Trò chuyện với linh hồn và hướng về cảnh giới tốt đẹp “Không riêng gì Phật pháp, tất cả các tôn giáo trên thế giới này đều hướng vong hồn vào sự siêu thoát”-ông phân tích. Vì vậy, đích đến của mọi hành trình ngoại cảm cũng là hướng đến điều này. Với ông, đó chính là cảnh giới tình thương rất an lạc mà con người cần đạt đến. Nhiều năm rồi ông không còn tìm mộ. Nhiều người cảm thấy buồn, thậm chí còn trách ông sao không giúp đỡ họ. “Thứ cần tìm bây giờ là vong hồn người chết chứ không phải là xương cốt mồ mả nữa”. Thành ra, ông vẫn giúp nhưng là giúp người sống làm thế nào để làm cho các vong hồn siêu thoát. Còn mồ mả, xương cốt chỉ là cái tạm thời, hạn hữu không cần tìm bằng mọi giá. “Còn hướng người ta vào những cuộc tìm kiếm tốn kém thời gian tiền bạc là tôi còn mang tội. Mọi người ai cũng mong được siêu thoát. Vậy thì sao cứ phải trói buộc vong hồn của người đã khuất vào những cục xương, nắm đất. Rồi những thứ đó cũng về với cát bụi cơ mà!”.
Bản đồ có bút tích của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã
hướng dẫn nguyên Phó thủ tướng Trần Phương tìm mộ em gái mình năm 1999
Trước khi nhận ra điều đó, ông cũng đã từng mê mãi trong việc tìm kiếm. Có những cuộc điện thoại nhờ tìm gọi đến, lập tức hình ảnh người đã khuất hiện ra trong ông rõ mồn một. Trời phật như thử thách ông nhưng cuối cùng ông cũng ngộ ra ý nghĩa tuyệt vời của nó. Nhờ có tìm mộ dẫn dắt ông đến với Phật pháp, ông hiểu rằng chết không hết như người ta nghĩ. Vấn đề là vong hồn đi về đâu. Con người thành tâm tin và thực hành hướng về thế giới cao thì tổ tiên sẽ siêu thoát về cõi giới tốt đẹp. Chính những người đang sống cũng vậy, sống từ bi, yêu thương người khác thì mai này chết đi, linh hồn cũng sẽ được kết nối về với những thế giới cao hơn. Nhiều người gọi điện thuyết phục ông tìm mộ hoặc hài cốt người thân. Ông thẳng thắn nói rằng: Nếu tôi tìm mà đến ngày cúng giỗ, cục xương nắm đất về nằm trên bàn thờ thì tôi tìm ngay. Nhiều người có mồ mả ông bà ngay trong vườn nhà nhưng ngày cúng giỗ vong hồn họ không về thì coi như là vẫn thất lạc như thường. Con người ràng buộc với tổ tiên bằng sự hiếu đạo, nên nghĩ rằng tìm được xương cốt mồ mả là báo hiếu. Tìm được cha mẹ rồi thì nhờ tìm ông bà, rồi đến ông tổ, thậm chí tam đại, tứ đại. Như vậy còn bát đạt, thập đại... thì sao. Không lẽ cả đời cứ tìm kiếm mãi? Nếu dùng tiền bạc vào việc thiện thì sẽ tốt hơn. Chỉ cần ăn chay niệm phật, sống tốt đời đẹp đạo thì giúp không chỉ một mà hàng loạt vong hồn siêu thoát. Đó là tạo phước đức cho mình và ông bà tiên tổ, cho cả dòng họ. Cũng có người đã tìm được hài cốt, nghe đến danh tiếng ông Nhã còn nhờ ông xác định xem phần xương cốt đó có phải của thân nhân mình. Ông giải thích rằng, mỗi dịp thờ cúng, thành tâm khấn nguyện tên người thân mình thì hồn tìm về chứ đâu phải xương cốt. Nếu có nhầm thì khấn nguyện luôn cho họ, tức là đã tạo phúc lớn rồi. Sao phải nghĩ ngợi so đo vị kỷ làm tổn phước? “Mấy năm nay, đất nước tổ chức nhiều đại lễ cầu siêu nên nhiều lần tôi trò chuyện với các linh hồn, họ cũng muốn người sống không nên dồn cả tâm sức vào những cuộc tìm kiếm đó nữa. Nhiều vong hồn ở cõi giới tốt nhưng thân nhân không biết cố tìm xương cốt, trói hồn họ vào bãi tha ma hoang lạnh”-ông Nhã kể. Họ muốn đi mà không đi được, phải ở đó nhìn xương cốt mình tan rã dần đau đớn lắm. Có lần một gia đình ngoài Hà Nội gọi vào nói với ông đã lạc mất hài cốt thân nhân. Lập tức người đó hiện về nói với ông rằng: “Tôi đứng sau lưng chúng đây. Chúng không biết nên cứ tìm kiếm mãi đâu đâu”. Có nhiều lần, những mồ mả, xương cốt ông tìm được hiện hồn về trò chuyện với ông. Nhiều vong hồn trách ông sao từ đầu không hướng dẫn gia đình họ ăn chay niệm Phật, cầu cho họ siêu thoát mà lại giúp họ tìm xương cốt về, đưa linh hồn ra những bãi tha ma đau khổ. “Nhiều linh hồn liệt sĩ nói rằng sau khi bị gia đình đưa ra khu mả, họ thấy nơi đó buồn khổ, u ám quá nên bỏ hài cốt ở đó rồi trở lại vào rừng”-ông kể tiếp. Ông nói với các linh hồn rằng lúc đầu tìm xương cốt mồ mả, ông cũng thấy họ vui vẻ. Nhưng lúc đó, ông chưa bén duyên Phật pháp. Chưa chạm được ý nghĩa chân phương của việc tìm mộ là giúp họ siêu thoát. Nay ông sẽ hướng dẫn cho gia đình gặp được chánh pháp, cùng họ cầu nguyện cho các vong hồn siêu thoát và chính họ cũng góp phần giúp người sống hiểu được chết không phải hết. “Sau khi nghe như vậy, các vong hồn như được thăng hoa. Họ hóa thành ánh sáng nhỏ bay lên tan vào không gian”-ông kể. Cũng từ đó, ông thôi không còn tìm xương cốt mà cố tâm nghiên cứu những phương pháp cầu nguyện để giải quyết vấn đề cơ bản nhất: đó là sự siêu thoát. Đó cũng chính là điều Trời Phật hướng ông đến. Mà Phật pháp, như đã nói, chính là “kho báu” cuộc đời ông, sứ mệnh của ông là đem “kho báu” ấy sẻ chia với mọi người để ai cũng biết khai thác “kho báu” tình thương của chính mình. Ngồi tiếp chuyện ông, những cuộc điện thoại nhờ tìm hài cốt vẫn đều đặn đến. Tôi băn khoăn hỏi ông liệu người trần mắt thịt có thấu hiểu được ý nghĩa cao siêu đó? Vì những cuộc tìm mộ vẫn được tổ chức đều đặn. Người ta bỏ ra nhiều công sức, thời gian tiền bạc để cố tìm bằng được. Ông buồn nói rằng chưa nhiều người hiểu được chân lý ấy. Nhưng dần dà họ sẽ hiểu ra. Và dù người nào chưa hiểu được, trách ông sao không tìm hài cốt, ông vẫn phân tích hướng dẫn cặn kẽ. Có một gia đình ở Cần Thơ thường xuyên gọi điện nhờ ông tìm hài cốt. Sau khi ông nói về việc chỉ cần khấn nguyện cho vong hồn, không cần tìm mộ. Không bằng lòng, họ vặn lại: “Nếu anh Nhã cho tôi thấy vong hồn người thân, gia đình chúng tôi sẽ tin lời và không tìm kiếm nữa”. Ông trả lời: “Chỉ cần gia đình thành tâm khấn nguyện, ắt sẽ thấy”. Ngày nọ, khi cả gia đình đang sum họp, thì thấy bóng người đã khuất hiện về lắc lư trên bàn thờ. Cả nhà họ ngỡ ngàng và cảm động. Hôm sau, họ gọi điện kể lại với ông và nói rằng đã ngộ ra được và không còn đi tìm xương cốt nữa. Ông Nhã lại giải thích rằng, nơi mà vong hồn tìm về chính là bàn thờ. Người phương Đông ta có nơi linh thiêng ấy như “trạm tiếp chuyển” kết nối vong hồn ông bà tổ tiên với cõi cực lạc. Rằng gia đình nào cũng có bàn thờ, đặt ông bà mình vào đó là hiếu thảo, là tốt đẹp hơn gấp trăm ngàn lần bãi tha ma hoang lạnh. “Những trường hợp như vậy tôi hạnh phúc lắm. Rồi có ngày tất cả đều hiểu ý nghĩa đích thực của việc tìm mộ”-ông nói. Âm siêu dương thới, âm siêu dương thịnh là quan trọng lắm, gia đình nào cũng hướng tâm như vậy, xã hội sẽ tốt đẹp hạnh phúc biết bao”. Ông luôn tin rằng tín hiệu về sự siêu thoát mà trời phật gửi đến rồi sẽ lan tỏa, sẽ cứu giúp được cả loài người. Lần đầu, tôi thấy ở ông một nụ cười rạng rỡ. Vì ông đã gửi đi được một thông điệp của cuộc đời mình. Rằng thông điệp ấy sẽ được đón nhận, truyền qua nhau, lan tỏa bất tận. Còn chúng tôi, người may mắn được kể về ông trong loạt phóng sự này cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc từ thông điệp ấy. Nó lớn lao và giá trị hơn nhiều những câu chuyện tìm mộ mầu nhiệm ly kỳ, dù tất cả chúng đều là sự thật và có thể kể hoài không hết.
05:54 CH 10/12/2013
Câu chuyện tử vi có thật - phương pháp cải tạo...
Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 2)2013-05-31 09:40:07
(
PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 16/04/2001
Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
Phía trước chúng ta đã giảng đến chỗ tiên sinh Viên Liễu Phàm bái kiến thiền sư Vân Cốc, ngồi đối diện trong thiền đường suốt ba ngày ba đêm, mà không khởi một vọng niệm nào.
Vân Cốc thiền sư thấy lạ, liền hỏi ông duyên cớ vì sao? Viên Liễu Phàm tiên sinh thưa với Vân Cốc thiền sư là vận mệnh của ông đã được Khổng tiên sinh đoán định, trong hai mươi năm nay một tơ hào cũng không sai, nên ông cho rằng khởi tâm động niệm cũng đều vô ích, do vậy tâm ông định lại.
Lúc này, Vân Cốc thiền sư mới bảo: Cuộc đời của ông đã bị số mệnh câu thúc. Có thể bị vận số câu thúc, là bởi vì ông còn có vọng niệm, không thể gọi là người có công phu, chỉ có thể gọi là một phàm phu tiêu chuẩn mà thôi. Liễu Phàm tiên sinh sau khi nghe xong, vội quay lại thỉnh giáo ông.
<dư vấn viết: nhiên tắc số khả đào hồ? viết: mệnh do ngã tác, phúc tự kỷ cầu, thi thư sở xưng, đích vi minh huấn. ngã giáo điển trung thuyết, cầu phú quý đắc phú quý, cầu nam nữ đắc nam nữ, cầu trường thọ đắc trường thọ. phù vọng ngữ nãi thích ca đại giới, chư phật bồ tát, khởi cuống ngữ khi nhân.>dư vấn viết: nhiên tắc số khả đào hồ? viết: mệnh do ngã tác, phúc tự kỷ cầu, thi thư sở xưng, đích vi minh huấn. ngã giáo điển trung thuyết, cầu phú quý đắc phú quý, cầu nam nữ đắc nam nữ, cầu trường thọ đắc trường thọ. phù vọng ngữ nãi thích ca đại giới, chư phật bồ tát, khởi cuống ngữ khi nhân.>
Trong đoạn đối thoại này, ý nghĩa hàm chứa trong đó vô cùng sâu sắc. Tiên sinh Viên Liễu Phàm hỏi: Người đều có số mạng, số mạng này có thể thay đổi sao? Ông đưa ra nghi vấn này, thiền sư đáp lại rằng “mạng là do mình tạo, phước là do mình cầu”. Hai câu nói này, phía trong ẩn chứa vấn đề rất quan trọng. Trước tiên chúng ta phải hiểu rõ, lục đạo phàm phu chạy không thoát khỏi số mạng. Số mạng từ đâu mà có? Cổ Thánh Tiên Hiền, chư Phật Bồ Tát, họ là người đến nơi đây, họ đối với chân tướng sự thật thấu triệt hiểu rõ, tơ hào cũng không sai, điều này chúng ta phải tin tưởng. Nếu như dùng cách nói của các khoa học gia hiện đại, đó chính là không gian duy thứ vô hạn, cũng chính là ba độ không gian, bốn độ không gian, năm độ không gian mà họ nói đến. Trên lí luận mà nói, không gian là độ số vô hạn. Chúng ta sinh tại nhân đạo, cho nên chỉ sinh hoạt trong ba độ không gian, chúng sanh ở duy thứ từ bốn độ không gian trở lên, chúng ta không biết được. Ngày nay khoa học gia cho chúng ta biết được xác thực là tồn tại mười một độ không gian. Nhưng làm thế nào để đột phá không gian duy thứ, hiện tại các khoa học gia vẫn còn đang nghiên cứu. Một khi đột phá được không gian duy thứ, điều mà chúng ta đã nói, tức bạn có thể biết được quá khứ, tương lai. Quá khứ đã tạo nhân gì, hiện tại phải chịu quả báo như thế nào, đời nay tạo cái nhân gì, tương lai quả báo ra sao, không phải đều hiểu rõ ràng hay sao? Đây không phải là cách suy đoán, so với Khổng tiên sinh còn cao minh hơn hay sao? Khổng tiên sinh là từ số học, “Kinh dịch” là một bộ số học, ông từ trên số học mà suy đoán, suy đoán được rất chính xác, tuy nhiên không dám nói là hoàn toàn chính xác. Bởi vì lúc suy đoán nếu có một tơ hào không chính xác thì kết quả hòan tòan không giống nhau. Nhưng nếu có thể đột phá không gian duy thứ thì quyết định là hoàn toàn chính xác, một tơ hào cũng không sai. Vì sao? vì quá khứ, hiện tại, vị lai, bạn đều là chính mắt mình nhìn thấy.
Cái sự việc này, hiện tại mà nói cũng không khó. Tại Cổ Ấn Độ, những chuyên gia về số luận, yoga, bà la môn giáo, họ đều có năng lực này. Cho nên thuyết về lục đạo luân hồi không phải của Phật giáo, mà là của cổ Bà La Môn giáo, nay là Ấn Độ giáo. Lịch sử của họ, hiện tại thế giới công nhận là có 8500 năm lịch sử. So với Phật giáo, họ ra đời sớm hơn rất nhiều. Những người này đều là tu thiền định, trong kinh Phật có nói đến tứ thiền bát định, do đó, không gian duy thứ trong lục đạo, họ cơ hồ đều đã đột phá được. Cho nên trạng huống trong lục đạo, họ nói được rất rõ ràng. Nhưng họ chỉ biết được cái đương nhiên mà không biết được cái sở dĩ nhiên. Lục đạo làm sao mà có, tại sao lại có hiện tượng này, tại sao lại có những biến hóa như vậy, họ đều không biết. Vì vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại thế gian này, Người vì sao lại xuất hiện? Là vì những người có năng lực quan sát đến được những cảnh giới như thế, nhưng lại đối với những cảnh giới này có rất nhiều nghi hoặc không thể giải trừ. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại thế gian là vì cái sự việc này. Cái gọi là, chúng sanh có cảm thì Phật, Bồ tát có ứng. Điều này đã cảm ứng Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế gian này, vì chúng ta mà thuyết minh cái sở dĩ nhiên của những hiện tượng đó. Phật tại trong kinh Đại thừa đã giảng nói được rất nhiều, nhất là trong kinh Hoa Nghiêm. Không chỉ có lục đạo, bên ngoài lục đạo còn có Tứ thánh pháp giới, còn có nhất chân pháp giới, đây đều là quy nạp lại mà nói, nếu nói tỉ mỉ thì không thể dùng ngôn ngữ để nói một cách tường tận được. Cũng giống như chỗ mà khoa học gia đã nói, không gian duy thứ vô hạn, cùng với Phật tại trong kinh nói được hòan toàn tương ưng. Làm sao phát sinh ra nhiều không gian duy thứ không đồng như vậy? Phật nói với chúng ta, đều là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Chúng ta hãy tĩnh tâm mà quan sát, vọng tưởng của chúng sanh nhiều vô lượng vô biên, niệm trước vừa diệt thì niệm sau liền sanh, một ngày không biết đã khởi bao nhiêu vọng niệm, không biết có bao nhiêu phân biệt, chấp trước, điều này tạo nên không gian duy thứ không đồng; tạo nên hiện tượng không giống nhau.

Phật tại trong kinh thường nói, thập pháp giới y chánh trang nghiêm, dùng lời hiện tại mà nói chính là hiện tượng vũ trụ nhân sinh, chính là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Cũng giống như trên màn ảnh ti vi hiện nay, tướng hiện trên màn ảnh ti vi là tâm, do tâm hiện, cái tướng này có thể hoạt động. Nó tại nơi này sản sinh biến hóa, những biến hóa đó gọi là thức biến. Thức chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Những thứ này có thể đem những hiện tượng cải biến, biến được vô cùng phức tạp. Đây chính là căn nguyên Phật đem hiện tượng vũ trụ nhân sinh nói rõ cho chúng ta.
Cho nên, Vân Cốc thiền sư mới nói “mệnh do ta tạo”, không phải do người khác tạo, cùng người khác không có mảy may quan hệ. Hòan cảnh bên ngòai thân là huyễn cảnh. Trên kinh Kim Cang nói được rất hay “nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”, không phải là thật. Những hiện tượng này, Phật nói với chúng ta rằng: không thể nói chúng có, cũng không thể nói chúng không có. Cũng giống như nằm mộng không khác, bạn không thể nói là không có cảnh giới mộng, trong mộng cảnh giới xác thực là có tồn tại. Nhưng bạn cũng không thể nói chúng có vì chúng là hư huyễn không thật, xác xác thực thực là liễu bất khả đắc. Nếu chúng ta tỉ mỉ quan sát, hiện tại, chúng ta ở cái thế giới này, xác xác thực thực cũng chỉ là một giấc mộng. Buổi tối, chúng ta đi ngủ, người khác mang chúng ta đi, chúng ta cũng không biết. Do đó mà thấy thân không phải là ta. Các nhà triết học phương Tây rất thông minh, họ biết thân này không phải là ta, do đó họ đưa ra lí luận rằng “tôi tư duy thì tôi tồn tại”. Điều này thừa nhận cái gì? Thân thể vật chất không phải là ta, là hư huyễn. Chỉ khi có thể tư duy, có thể tưởng tượng đó mới gọi là ta. Điều này so với người thông thường cao hơn một bậc. Đó có phải là chân tướng sự thật hay không? không phải. Chúng ta suy nghĩ là vọng tưởng, không phải là chân tướng sự thật. Cho nên cảnh giới của Phật so với họ cao hơn rất nhiều, ngay cả tư tưởng của chúng ta cũng buông bỏ thì thấu triệt căn nguyên, khôi phục chân tâm, khôi phục bổn tánh, sau đó mới có thể xem thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Cái chân tướng này trong Phật giáo có một tên gọi, là nhất chân pháp giới, hoặc gọi là chân như, cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế. Danh từ thuật ngữ mà Phật dùng để chỉ nó rất nhiều. Giáo học của Phật, tại sao lại dùng đến nhiều danh từ như thế? Ở đây có dụng ý, chính là muốn dạy chúng ta phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chứ không được chấp trước trên danh tự. Nếu chấp vào danh tự thì lại sinh ra vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Ngày nay nếu muốn đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đoạn hết; trong tâm nghĩ “tôi cũng rất muốn”, vấn đề là cái gì? Đoạn không được, vọng niệm vẫn là tiếp nối nhau không dứt, đây chính là lí do chúng ta không thể thành tựu. Chúng ta tuy là từ trong kinh giáo hiểu rõ ràng minh bạch, tin sâu không nghi. Trong Phật pháp nói, chúng ta chỉ là giải ngộ chứ không phải chứng ngộ, không khế nhập được cảnh giới chân thật. Chỉ có chứng ngộ mới có chỗ dụng, giải ngộ không có chỗ dụng, không thể giải quyết được vấn đề. Do đó sau khi giải ngộ phải tu hành, phải đem những lí luận, những phương pháp này chân thật áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt của mình, dần dần nâng cao cảnh giới của mình. Được như vậy mới có thể giải quyết được vấn đề. Ở đây nói, chúng sanh trong lục đạo, vọng tưởng phân biệt chấp trước rất nặng, “mệnh do ta tạo”. Cuộc đời chúng ta giàu nghèo sang hèn, đây là mệnh. Vận mệnh này có định số, định số này từ đâu mà có, là do chính bản thân ta tạo. Nhà Phật giảng nhân quả thông ba đời, mỗi người quyết định là đều có đời quá khứ, đời vị lai. Phật giảng đến chỗ cứu cánh. Phật giảng thời gian nói đến cái sát na, sát na, đây là thời gian rất ngắn. Chúng ta ngày nay nói về đơn vị thời gian, nhỏ nhất là giây. Trong nhà Phật nói đến sát na, sát na làm sao mà tính? Phật dùng đàn chỉ, một đàn chỉ có 60 cái sát na. Một đàn chỉ (một khảy móng tay) chưa đến một giây, nếu chúng ta khảy được nhanh thì một giây đồng hồ chúng ta có thể khảy được 4 lần. Một đàn chỉ là ¼ giây, một đàn chỉ lại có 60 cái sát na, vậy 1/60 của ¼ giây mới gọi là một sát na. Trong một sát na lại có 900 sanh diệt, đó là niệm đầu, 1 niệm sanh, 1 niệm diệt, trong một sát na có 900 niệm sanh diệt. Điều này quá vi tế, người bình thường chúng ta không thể quan sát được. Chúng ta bình thường tâm khí bao chao, sao có thể quan sát đến được. Nhập định, trong định thì tâm thanh tịnh, có thể đem vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng ta lắng xuống. Ở trong thiền định thâm sâu, chúng ta mới có thể nhìn thấy được những hiện tượng sanh diệt. Đây phải là công phu rất cao, Vân Cốc thiền sư e rằng vẫn chưa thấy được. Trong đại thừa Phật pháp có nói, có thể nhìn thấy đầu số của sát na sanh diệt, phải là bát địa bồ tát của đại thừa viên giáo. Bát địa còn gọi là bất động địa, rất gần với quả vị của Như Lai. Trên bát địa là cửu địa, thập địa, đẳng giác, rất gần với quả vị Phật, lúc này mới chân chính có thể hiểu được chân tướng của vũ trụ nhân sinh.
Hôm nay, chúng ta nói đến ý niệm là niệm thô, vô cùng vô cùng thô. Chúng ta khởi lên một thiện niệm, lợi ích cho người khác, cho xã hội, cho chúng sanh, quả báo là được phước. Chúng ta khởi lên một niệm ác, niệm ác là vì lợi ích bản thân, cái gọi là tổn người lợi mình. Cái niệm này trong nhà Phật gọi là ác niệm. Ác niệm thì quả báo là hung, là tai họa. Cho nên, cát hung họa phước trong một đời chính là quả báo của ngôn ngữ tạo tác, khởi tâm động niệm của chính chúng ta, cũng có thể nói là hiện tượng của ngôn ngữ tạo tác. Đây chính là sở dĩ mà nói “mệnh do ta tạo”. Người chân chánh minh bạch hiểu rõ thì khẳng định đối với lời nói này, khẳng định đối với sự thật này. Trong suốt cuộc đời anh ta, bất luận là gặp bất cứ hoàn cảnh trái nghịch, bất thiện thế nào, anh ta cũng quyết không oán trời, quyết không trách người. Anh ta không trách người, mà quay lại trách chính mình “bản thân tôi tạo tác bất thiện nên mới phải chịu quả báo khổ sở như thế này.” Sau khi đã hiểu rõ rồi, phước phải do chính mình cầu, làm sao mà cầu đây? Cải ác làm thiện. Khi tôi còn nhỏ, lúc nhỏ, cha tôi qua đời rất sớm, lúc tôi 21 tuổi thì cha tôi qua đời. Tôi sống đúng vào lúc chiến tranh Trung-Nhật diễn ra, phải chịu 8 năm khổ nạn của chiến tranh, việc học dở dang, vào thời gian đó tôi là học sinh lưu vong, hòan toàn thoát ly gia đình. Nhà nước đối với chúng tôi cũng tính là không tệ, thành lập rất nhiều trường trung học quốc lập, thu nạp những học sinh lưu vong như chúng tôi. Trường học là nhà chúng tôi, thầy cô là cha mẹ chúng tôi, đồng học là huynh đệ tỷ muội của chúng tôi. Cho nên vào thời gian đó, chúng tôi đối với trường học, đối với bạn học, đối với thầy cô là cả một tấm lòng thân ái chân tình. Người hiện tại không cách gì tưởng tượng được, chúng tôi là bạn bè trong hoạn nạn mà có nhau, giúp đỡ chiếu cố lẫn nhau trải qua ngày tháng khó khổ. Cha tôi qua đời, trong gia đình một người cũng không còn. Tôi lưu lạc đến Đài Loan, tại Đài Loan làm việc hết 7,8 năm, tự thấy bản thân mình không có tiền đồ. Thầy của tôi là Chương Gia đại sư, đã thay tôi chọn một nghề nghiệp, ông khuyên tôi xuất gia, khuyên tôi hoằng dương Phật pháp. Tôi đã suy nghĩ rất lâu, Lão nhân gia chỉ thị rất chính xác, tôi nghe theo giáo huấn của ông, chọn cái hành nghiệp này. Tôi học với ông ba năm, ông cho tôi nền tảng cơ bản. Sau khi từ chức, tôi đến Đài Trung học giáo với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, ở Đài Trung hơn mười năm. Vì vậy ở trong Phật pháp, tôi đã tiếp nhận sự chỉ dạy của hai vị lão sư trong 13 năm, nhưng trong giới học thuật, tôi chỉ mới tốt nghiệp sơ trung. Cuộc đời sau này của tôi, phước báu là do tôi tự mình mà cầu được. Tôi minh bạch rồi, tôi giác ngộ rồi, cho nên từ sau khi 26 tuổi học Phật, tôi cẩn thận tỉ mỉ, y giáo phụng hành. Lúc nhỏ, cũng có một số người xem tướng đóan mệnh cho tôi, đây là phong tục cổ của người Trung Quốc. Lúc nhỏ, mẹ tôi dẫn tôi đi xem đóan mệnh, tôi cũng gặp qua không ít cao nhân, nói tôi sống không quá 45 tuổi. Vận mạng của tôi so với tiên sinh Viên Liễu Phàm còn khổ cực hơn, thọ mạng cũng ngắn hơn. Ông ấy còn sống đến 53 tuổi, chứ tôi đến 45 tuổi đã hết rồi, Cho nên lúc đó học Phật, tôi đem thọ mạng của mình tính đến 45 tuổi, sau 45 tuổi thì không còn nữa. Trong thời hạn 45 năm này tôi nhất định phải có thành tựu. Thành tựu này chính là quyết định vãng sanh Tịnh độ. Tôi đem mục tiêu đặt ở chỗ này, bản thân cũng có sự tính toán. Đến năm 45 tuổi, quả nhiên tôi bị bệnh nặng, bệnh suốt một tháng. Tôi không đi bác sĩ, cũng không uống thuốc bởi vì bản thân tôi hiểu rất rõ, bác sĩ chỉ chữa được bệnh chứ không cứu được mạng. Mạng đã đến, bạn đi bác sĩ có ích gì? Vì vậy tôi đóng cửa niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ. Mỗi ngày có mấy vị học trò đến nấu cơm cho tôi, ăn cháo, rau dưa. Sau một tháng, thân thể từ từ khỏe lại. Tôi cả đời hầu như không mang bệnh, sau khi khỏe lại, tôi vẫn tiếp tục công việc giảng kinh hoằng pháp. Đến năm sau, càng ngày càng thuận lợi, tôi ở chùa Thiện Đạo gặp được vị Cam Châu Hoạt Phật, đó cũng là bạn học cũ của tôi. Ông ấy là học trò của Chương Gia đại sư, đại khái hơn tôi xấp xỉ 12 tuổi. Lúc gặp nhau, ông ấy nói với tôi, ông ấy nói: Tịnh Không pháp sư, ông qua đây. Chúng tôi rất khó có cơ hội gặp nhau được một lần, cho nên vô cùng hoan hỷ. Ông nói: số mạng của ông bây giờ đã hoàn toàn chuyển đổi rồi. Tôi hỏi: tại sao vậy? Ông nói: lúc trước chúng tôi hay nói sau lưng ông. Tôi hỏi lại: nói điều gì? Nói: ông là người tuy rất thông minh nhưng không có phước báu, lại thêm đoản mệnh nữa. Tôi nói: điều này có thể nói trước mặt tôi, không cần phải nói sau lưng. Tôi còn nói thêm: tôi biết rất rõ. Ông nói tiếp: nhưng hiện tại những năm gần đây ông hoằng dương Phật pháp nên đã hòan toàn chuyển đổi lại rồi, không những có phước báu mà còn trường thọ nữa. Tôi rất cảm khái, đến năm sau thì Cam Châu Hoạt Phật qua đời. Đây là một vị đại đức rất khó có trong Phật giáo Tây Tạng, là một vị thiện tri thức chân chánh, một người xuất gia rất có quy củ, thực sự rất hiếm thấy. Tôi ở Hương Cảng có gặp qua một người, đó là pháp sư Thánh Nhất ở chùa Bảo Lâm trên núi Đại Tự. Tôi đối với ông vô cùng tôn trọng, vô cùng kính ngưỡng. Nghe nói hai năm qua, thân thể ông không được tốt, ông có cống hiến rất lớn cho phật giáo Trung Quốc.
Cho nên mệnh có thể cải đổi, phương pháp cải mệnh chính là sau khi đã giác ngộ rồi thì không tiếp tục tạo ác nữa. Khởi tâm động niệm đều vì người khác, vì xã hội, vì chúng sanh mà nghĩ, quyết không phải vì bản thân mình. Câu nói này nói được rất dễ, nhưng làm không dễ chút nào. Liễu Phàm tiên sinh làm suốt mười mấy năm liền có cảm ứng hiện tiền. Tôi cũng làm gần 30 năm, cảm ứng cũng rất rõ ràng mà bản thân tôi có thể cảm nhận được. Sau khi học xong, tôi ra giảng kinh thuyết pháp, 20 năm mới có một đạo tràng nhỏ, chính là Hoa Tạng Đồ thư quán ở Kinh Mỹ. Tôi hoằng pháp 20 năm mới có một nơi như vậy. Sau 5 năm nữa mới có “Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội” này. Lại thêm 5 năm nữa, trên thế giới có rất nhiều nơi, chúng tôi thành lập nên “Tịnh Tông Đạo Tràng”. Cho đến năm ngoái, xác thực là lời nói của Kim Châu Hoạt Phật đã ứng nghiệm, mọi việc càng ngày càng thuận lợi, tâm cũng càng ngày càng thanh tịnh, càng ngày càng không nghĩ cho mình. Ngày nay tôi sống ở cái thế giới này là vì người khác mà sống, không phải vì chính mình, bản thân tôi không còn nữa. Danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần tôi thảy đều buông xuống cả rồi. Ấn Quang đại sư lúc cuối đời thường nói: tôi không có gì hết, tôi cũng không sợ chết. Tôi hiện tại cũng sắp nhập vào cảnh giới của đại sư rồi, bản thân không có gì, chân thật cũng không sợ chết. Chết đối với tôi mà nói là sự việc rất hoan hỷ, vô cùng hào hứng. Bởi vì tôi biết chết sẽ đi về đâu; sanh từ đâu tới, chết sẽ đi về đâu. Tất cả tôi đều rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Đây gọi là “mệnh do ngã tác, phúc tại kỷ cầu” (mệnh do mình tạo, phước tại mình cầu) vậy. Câu nói này là thật, một chút cũng không giả. Viên Liễu Phàm tiên sinh cải đổi vận mạng một cách không dễ dàng gì. Về sau khi đọc đến đoạn văn này tôi sẽ đề tỉnh cho quý vị. Tôi khi cải đổi vận mạng của mình, tôi rất may mắn, tôi so với ông thuận lợi hơn rất nhiều. Nguyên nhân là bởi tôi trước sau đều không rời thầy, thầy thường ở bên cạnh đốc thúc, chỉ dạy, điều này mang lại lợi ích rất lớn. Tôi học cùng Chương Gia đại sư 3 năm, học cùng thầy Lý 10 năm, 13 năm này tôi luôn ở bên cạnh thầy. Điều này có được lợi ích vô cùng lớn. Tôi lúc đó chung quy vẫn còn trẻ tuổi, cho dù đã rất dụng công nhưng vẫn không đạt được cái tiêu chuẩn mà người xưa nói. Bản thân tôi đã rất dụng công nỗ lực, cho dù đã cố hết sức thì điểm số cũng không vượt quá 60 điểm, cũng chỉ đủ điểm đậu mà thôi. Hiện tại đại khái có thể đạt được tám, chín mươi điểm. Hiệu quả ngày càng rõ ràng, cái sự việc này, cổ đại đức nói chính là “chân can (tức chân thành)”. Tôi tổng hợp tâm đắc của bản thân sau 50 năm học Phật viết ra 20 chữ. Có người hỏi tôi: Pháp sư, ngài tu như thế nào, dạy người ra sao? Tôi đều là ở trong 20 chữ “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Mười chữ này là dụng tâm. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên. Nhà Phật nói chữ duyên là đối với người, đối với sự; hoàn cảnh nhân sự là dùng chữ duyên để nói, hoàn cảnh vật chất là nói đến cảnh giới, thuận cảnh hay nghịch cảnh là nói về hòan cảnh vật chất, còn thiện duyên hay ác duyên là nói về hoàn cảnh nhân sự. Chúng ta cần phải trong những cảnh duyên đó mà tôi luyện bản thân, nhất định phải lấy tâm chân thành mà xử sự, đối người, tiếp vật. Người khác dùng tâm hư vọng đối với ta, không có quan hệ, đó là anh ta, cùng ta không liên can. Thậm chí là anh ta hủy báng ta, vũ nhục ta, hãm hại ta, cùng ta không liên can. Bản thân chúng ta chỉ dùng tâm chân thành để đối người. Làm được như vậy thì sẽ chuyển họa thành phước, chuyển được rất nhanh, tai tiêu phước đến.
Xử sự đối người tiếp vật cần phải dùng tâm thanh tịnh, thanh tịnh tức là một trần cũng không nhiễm, thuận cảnh tuyệt không khởi tâm tham luyến, ác cảnh không khởi tâm sân hận; phải luôn giữ được tâm thanh tịnh, bình đẳng của chúng ta, tự nhiên sẽ sinh trí huệ. Tâm ái hộ nhất thiết chúng sanh tự nhiên sinh ra, đó gọi là từ bi tâm. Từ bi tâm phải hai, ba năm mới có hiệu nghiệm. Lúc trước, tôi có đọc truyện ký của Ấn Quang đại sư, căn phòng khi đại sư mới ở, trong đó có rất nhiều muỗi, ruồi, bọ chét, chúng gây nhiều trở ngại. Thị giả của đại sư, tức người chăm sóc ông, muốn thanh trừ bọn chúng, đem bọn chúng đuổi đi hết. Đại sư nói: không cần, trong nhà có con vật, cho thấy đức hạnh tu hành của chúng ta chưa đủ, cho nên không thể cảm động được chúng, vì vậy không cần đuổi chúng đi. Sau khi đại sư 70 tuổi, trong phòng ở của Ngài muốn tìm một con cũng không thấy, quả nhiên chúng đã dọn nhà rồi, thuật ngữ trong nhà Phật gọi là “thiên đan (chuyển đến nơi khác)”, những con vật này đã chuyển đi rồi. Ấn Quang đại sư là sau 70 tuổi, tôi hiện tại cũng đã qua 70 tuổi rồi, hai năm gần đây, tôi rất hoan hỷ vì đã có hiệu quả, căn phòng tôi ở cũng có kiến, gián; cũng thường hay thấy; nhưng trong hai năm gần đây đã dần dần ít đi. Tôi ở tại một địa phương ở Toowoomba cũng đã được 1 năm 8 tháng, lúc mới mua nó, kiến rất nhiều, còn có gián, côn trùng cũng rất nhiều. Sống trên núi với tôi còn có hai vị đồng tu, tôi nói với họ nhất định không được giết chúng. Đối với những động vật nhỏ này cần phải dùng tâm thanh tịnh, dùng tâm cung kính mà đối đãi. Không những không được giết những con kiến nhỏ này, mà ngay cả ý niệm làm hại chúng cũng phải đoạn sạch. Khi nhìn thấy chúng, chúng ta phải chắp tay lại, cung kính mà nói “bồ tát kiến, bồ tát gián”, chúng ta phải dùng cái tâm này mà đối với chúng. Nói với chúng rằng: môi trường sống của chúng ta không giống nhau, bên trong căn phòng này là chỗ của chúng tôi, còn bên ngoài căn phòng này là môi trường sống của các bạn. Hy vọng chúng ta có thể đối xử hòa hài với nhau, hai bên không quấy nhiễu nhau, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Phải thường dùng cái tâm như vậy mà đối đãi với chúng, khuyến miễn chúng. Một năm rưỡi sau, tôi thấy kiến đã ít đi chín mươi phần trăm, hiện tại vẫn còn nhưng rất ít, chứ không như lúc trước chúng kéo đàn kết bè lại. Tôi nói với mọi người rằng, chúng ta nỗ lực thêm hai năm nữa, có lẽ hoàn toàn không còn nữa. Phải dùng tâm yêu thương chân thành như vậy để đối với những động vật nhỏ, không chỉ đối với động vật nhỏ mà ngay cả với thực vật cũng không ngoại lệ. Trong hoa viên của chúng ta có rất nhiều cỏ, nhiều cây cối, còn có rau nữa. Trên núi, chúng ta trồng rất nhiều rau, chúng ta cũng phải dùng tâm yêu thương để đối đãi nó, để chiếu cố nó. Hoa nở rất đẹp, cũng tỏa ra rất nhiều hương. Những loại cây cối, rau củ này sinh trưởng rất tốt. Chúng ta không cần dùng phân bón, cũng không cần dùng đến thuốc trừ sâu, hoàn toàn không cần, chỉ cần dùng tâm yêu thương để bảo hộ chúng. Có cảm ứng, ngay cả cây cối hoa cỏ cũng đều có cảm ứng, điều này khiến chúng ta nghĩ đến một truyền thuyết thời xưa “sinh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu”, ngay cả đá cũng cảm động. Chúng ta hiện nay vẫn chưa có được cái cảm ứng này. Hiên tại, tôi chỉ mới có sự tương giao với thực vật, cùng thực vật có sự cảm ứng, còn với đất đá thì vẫn chưa có. Công phu của Sinh công so với tôi đã cao hơn một bậc. Tôi vẫn chưa đạt đến công phu của ông ấy. Đây đều là muốn nói với chư vị rằng “mệnh do mình tạo, phước do mình cầu”. Trong cuộc đời tôi, đây là điều tôi mà thể nghiệm được trong suốt 50 năm học Phật, vận mạng đã hoàn toàn chuyển đổi được. Tuy rằng không thể nói là đạt được đại tự tại, đại viên mãn, nhưng cũng đã tiếp cận được đến cái gọi là tự tại, viên mãn; có tín tâm là sẽ đạt được.
Phía sau, trên văn tự viết: <thi thư sở xưng, đích vi minh huấn>thi thư sở xưng, đích vi minh huấn>, đây là những giáo huấn rất rõ ràng, minh bạch được nói đến trong các tác phẩm của Cổ Thánh Tiên Hiền, chúng ta cần phải tin tưởng.
<ngã giáo điển trung thuyết>ngã giáo điển trung thuyết>, “ngã” là chỉ cho Vân Cốc thiền sư, ông là người xuất gia. “Ngã giáo” là chỉ Phật giáo. Trong kinh điển Phật giáo có nói: , phàm phu chúng ta không thể vô cầu.
Tôi lúc mới học Phật, trong tâm cũng có mong cầu. Chương Gia đại sư nhìn thấy được đã dạy tôi: “Phật thị môn trung hữu cầu tất ứng”. Đây là lão nhân gia đã dạy cho tôi phương pháp để cầu. Viên Liễu Phàm là do Vân Cốc thiền sư dạy cho cách cầu, còn phương pháp của tôi là do Chương Gia đại sư truyền cho tôi. Ngôn ngữ so với Vân Cốc thiền sư thì đơn giản hơn nhưng lại vô cùng có hiệu quả. Ngài dạy cho tôi: khi ông dùng chân tâm để cầu mà không có cảm ứng, khi cầu mà không có cảm, đây là nguyên nhân gì? Đó là do nghiệp chướng của ông quá nặng, chướng ngại không phải ở phật pháp, không phải tại bên ngòai mà chính là từ trên thân chúng ta, do bản thân chúng ta có nghiệp chướng. Chỉ cần đem nghiệp chướng tiêu trừ hết thì cảm ứng liền hiện tiền, hữu cầu tất ứng.
Tôi lại hỏi ông, hướng đến lão sư mà thỉnh giáo, tôi hỏi: nghiệp chướng làm sao tiêu trừ? Ông nói với tôi: sám hối. “Sám trừ nghiệp chướng”, đây cũng là điều mà Phổ Hiền bồ tát trên kinh Hoa Nghiêm đã nói. Sau đó lại dạy cho tôi làm sao để sám hối? Tuyết đối không phải đi lạy Lương Hoàng sám, lạy Thủy sám, không phải làm cái việc này. Cho nên, vị thầy mà tôi gặp được, chân thật là một vị thầy giỏi. Ông nói: Phật pháp không tại hình thức, mà ở thực chất. Cái gì gọi là thực chất? chính là về sau không làm nữa. Ví như chúng ta khởi lên ý niệm không tốt, nói những lời không tốt, làm những việc không tốt, hiện tại biết đó là lỗi, là sai rồi thì về sau sẽ không phạm lại sai lầm đó nữa, đó mới gọi là chân thật sám hối, như vậy mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng.
Giả như bạn ở trước Phật, Bồ Tát tụng kinh niệm chú, cho là đã sám hối rồi, sau khi sám thì lại tạo, tạo xong lại sám. Như vậy chẳng có lợi ích gì, hòan toàn sai rồi. Thầy đã nói với tôi lời thật, phật pháp trọng thực chất, không trọng hình thức. Thí như nói đến giới luật, ông vô cùng coi trọng giới luật. Tôi theo học với ông ba năm, ông đề cập đến sự quan trọng của giới luật, tổng cộng hết 10 lần, khiến ấn tượng của tôi rất sâu.
Làm sao để trì giới? Ông nói với tôi: không cần phải đến bất cứ nơi nào cầu pháp sư thọ giới. Ông nói: không cần thiết, vô dụng. Tôi hỏi: vậy phải làm sao? Học một điều, làm được một điều, vậy thì điều này bạn giữ được. Thí như không sát sanh, bạn chân chánh làm đến được, đối với tất cả sinh vật bạn tuyệt đối không khởi lên ý niệm sát hại, như vậy bạn đối với cái giới này đã giữ được viên mãn, mà không nhất định phải đi thọ giới. Đến giới đàn thọ giới, thọ giới rồi, bạn lại không làm được, như vậy bạn hoàn toàn đã phá giới, phạm giới rồi, không phải là tội càng thêm tội hay sao?
Lão sư đã dạy cho tôi chính là cái phương pháp này; học một điều, làm một điều, làm được rồi thì chính là chân chánh trì giới. Cho nên tôi học Phật, đắc lực là ở sự giáo huấn của những đại thiện tri thức. Vào năm ngoái, tôi gặp tổng thống Nathan của Singapore, chúng tôi cùng nhau ăn cơm. Tổng thống Nathan là giáo đồ của Ấn Độ giáo (đạo Hindu). Ông nói với tôi: phật giáo trọng thực chất, không trọng hình thức. Tôi nghe xong, ngồi ngẩn ra. Câu nói này mấy chục năm trước là Chương Gia đại sư đã nói với tôi. Trong suốt mấy chục năm qua, tôi chưa từng nghe thấy ai nhắc đến câu này cả. Tôi nghe tổng thống Nathan nói vậy, liền biết ông là người “trong nghề”, người này không đơn giản. Cho nên tôi đối với ông rất kính trọng.
Chúng ta phải hiểu được rốt cuộc làm sao để cầu, chân chánh tiêu trừ nghiệp chướng rồi thì hữu cầu tất ứng. Nhưng nếu nghiệp chướng tập khí quá nặng thì sao? cái này không đáng lo, chúng ta cần phải nhẫn nại, cần thời gian để tiêu trừ. Liễu Phàm tiên sinh dùng thời gian mấy mươi năm, tôi cũng dùng từ hai mươi đến ba mươi năm, cho nên bạn không có khỏang thời gian đủ dài thì không được, không phải nói đoạn thì có thể đoạn được, nào có dễ dàng như vậy chứ.
Tập khí của chúng ta nhất định phải đè phục nó xuống, phải thường thường cảnh tỉnh bản thân. Cho nên cổ nhân rất coi trọng việc đọc tụng, điều này rất có đạo lý. Bản thân tôi một đời này có thể thành tựu, tôi biết được đó là nhờ tôi ở trên giảng đài. Hơn bốn mươi năm qua, tôi không một ngày nào gián đoạn trên giảng đài. Ngày ngày giảng kinh, ngày ngày khuyên người khác, cũng chính là ngày ngày khuyên chính mình. Người khác có được lợi ích hay không, tôi không biết, nhưng bản thân tôi chân thật có được lợi ích. Đây chính là điều trong nhà Phật thường nói: “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Nếu như không được huân tu trong thời gian dài, làm sao có được thành tựu. Tập khí xấu của chúng ta cũng là do vô lượng kiếp huân tập mà thành, đều là trường thời huân tu. Hiện tại chúng ta cần phải đem những tập khí xấu, tập khí ác này tiêu trừ, cần phải học tập Cổ Thánh Tiên Hiền, học tập Phật Bồ tát, điều này vẫn là cần phải có thời gian. Cho nên nếu như không có thời gian tương đối dài, cần có quyết tâm, có nỗ lực, đọan trừ tập khí của mình mới có thể viên mãn thành tựu.
05:46 CH 10/12/2013
Câu chuyện tử vi có thật - phương pháp cải tạo...
Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 2) 2013-05-31 09:40:07
(
PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 16/04/2001
Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
Phía trước chúng ta đã giảng đến chỗ tiên sinh Viên Liễu Phàm bái kiến thiền sư Vân Cốc, ngồi đối diện trong thiền đường suốt ba ngày ba đêm, mà không khởi một vọng niệm nào. Vân Cốc thiền sư thấy lạ, liền hỏi ông duyên cớ vì sao? Viên Liễu Phàm tiên sinh thưa với Vân Cốc thiền sư là vận mệnh của ông đã được Khổng tiên sinh đoán định, trong hai mươi năm nay một tơ hào cũng không sai, nên ông cho rằng khởi tâm động niệm cũng đều vô ích, do vậy tâm ông định lại. Lúc này, Vân Cốc thiền sư mới bảo: Cuộc đời của ông đã bị số mệnh câu thúc. Có thể bị vận số câu thúc, là bởi vì ông còn có vọng niệm, không thể gọi là người có công phu, chỉ có thể gọi là một phàm phu tiêu chuẩn mà thôi. Liễu Phàm tiên sinh sau khi nghe xong, vội quay lại thỉnh giáo ông. <dư vấn viết: nhiên tắc số khả đào hồ? viết: mệnh do ngã tác, phúc tự kỷ cầu, thi thư sở xưng, đích vi minh huấn. ngã giáo điển trung thuyết, cầu phú quý đắc phú quý, cầu nam nữ đắc nam nữ, cầu trường thọ đắc trường thọ. phù vọng ngữ nãi thích ca đại giới, chư phật bồ tát, khởi cuống ngữ khi nhân.>dư vấn viết: nhiên tắc số khả đào hồ? viết: mệnh do ngã tác, phúc tự kỷ cầu, thi thư sở xưng, đích vi minh huấn. ngã giáo điển trung thuyết, cầu phú quý đắc phú quý, cầu nam nữ đắc nam nữ, cầu trường thọ đắc trường thọ. phù vọng ngữ nãi thích ca đại giới, chư phật bồ tát, khởi cuống ngữ khi nhân.> Trong đoạn đối thoại này, ý nghĩa hàm chứa trong đó vô cùng sâu sắc. Tiên sinh Viên Liễu Phàm hỏi: Người đều có số mạng, số mạng này có thể thay đổi sao? Ông đưa ra nghi vấn này, thiền sư đáp lại rằng “mạng là do mình tạo, phước là do mình cầu”. Hai câu nói này, phía trong ẩn chứa vấn đề rất quan trọng. Trước tiên chúng ta phải hiểu rõ, lục đạo phàm phu chạy không thoát khỏi số mạng. Số mạng từ đâu mà có? Cổ Thánh Tiên Hiền, chư Phật Bồ Tát, họ là người đến nơi đây, họ đối với chân tướng sự thật thấu triệt hiểu rõ, tơ hào cũng không sai, điều này chúng ta phải tin tưởng. Nếu như dùng cách nói của các khoa học gia hiện đại, đó chính là không gian duy thứ vô hạn, cũng chính là ba độ không gian, bốn độ không gian, năm độ không gian mà họ nói đến. Trên lí luận mà nói, không gian là độ số vô hạn. Chúng ta sinh tại nhân đạo, cho nên chỉ sinh hoạt trong ba độ không gian, chúng sanh ở duy thứ từ bốn độ không gian trở lên, chúng ta không biết được. Ngày nay khoa học gia cho chúng ta biết được xác thực là tồn tại mười một độ không gian. Nhưng làm thế nào để đột phá không gian duy thứ, hiện tại các khoa học gia vẫn còn đang nghiên cứu. Một khi đột phá được không gian duy thứ, điều mà chúng ta đã nói, tức bạn có thể biết được quá khứ, tương lai. Quá khứ đã tạo nhân gì, hiện tại phải chịu quả báo như thế nào, đời nay tạo cái nhân gì, tương lai quả báo ra sao, không phải đều hiểu rõ ràng hay sao? Đây không phải là cách suy đoán, so với Khổng tiên sinh còn cao minh hơn hay sao? Khổng tiên sinh là từ số học, “Kinh dịch” là một bộ số học, ông từ trên số học mà suy đoán, suy đoán được rất chính xác, tuy nhiên không dám nói là hoàn toàn chính xác. Bởi vì lúc suy đoán nếu có một tơ hào không chính xác thì kết quả hòan tòan không giống nhau. Nhưng nếu có thể đột phá không gian duy thứ thì quyết định là hoàn toàn chính xác, một tơ hào cũng không sai. Vì sao? vì quá khứ, hiện tại, vị lai, bạn đều là chính mắt mình nhìn thấy. Cái sự việc này, hiện tại mà nói cũng không khó. Tại Cổ Ấn Độ, những chuyên gia về số luận, yoga, bà la môn giáo, họ đều có năng lực này. Cho nên thuyết về lục đạo luân hồi không phải của Phật giáo, mà là của cổ Bà La Môn giáo, nay là Ấn Độ giáo. Lịch sử của họ, hiện tại thế giới công nhận là có 8500 năm lịch sử. So với Phật giáo, họ ra đời sớm hơn rất nhiều. Những người này đều là tu thiền định, trong kinh Phật có nói đến tứ thiền bát định, do đó, không gian duy thứ trong lục đạo, họ cơ hồ đều đã đột phá được. Cho nên trạng huống trong lục đạo, họ nói được rất rõ ràng. Nhưng họ chỉ biết được cái đương nhiên mà không biết được cái sở dĩ nhiên. Lục đạo làm sao mà có, tại sao lại có hiện tượng này, tại sao lại có những biến hóa như vậy, họ đều không biết. Vì vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại thế gian này, Người vì sao lại xuất hiện? Là vì những người có năng lực quan sát đến được những cảnh giới như thế, nhưng lại đối với những cảnh giới này có rất nhiều nghi hoặc không thể giải trừ. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại thế gian là vì cái sự việc này. Cái gọi là, chúng sanh có cảm thì Phật, Bồ tát có ứng. Điều này đã cảm ứng Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế gian này, vì chúng ta mà thuyết minh cái sở dĩ nhiên của những hiện tượng đó. Phật tại trong kinh Đại thừa đã giảng nói được rất nhiều, nhất là trong kinh Hoa Nghiêm. Không chỉ có lục đạo, bên ngoài lục đạo còn có Tứ thánh pháp giới, còn có nhất chân pháp giới, đây đều là quy nạp lại mà nói, nếu nói tỉ mỉ thì không thể dùng ngôn ngữ để nói một cách tường tận được. Cũng giống như chỗ mà khoa học gia đã nói, không gian duy thứ vô hạn, cùng với Phật tại trong kinh nói được hòan toàn tương ưng. Làm sao phát sinh ra nhiều không gian duy thứ không đồng như vậy? Phật nói với chúng ta, đều là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Chúng ta hãy tĩnh tâm mà quan sát, vọng tưởng của chúng sanh nhiều vô lượng vô biên, niệm trước vừa diệt thì niệm sau liền sanh, một ngày không biết đã khởi bao nhiêu vọng niệm, không biết có bao nhiêu phân biệt, chấp trước, điều này tạo nên không gian duy thứ không đồng; tạo nên hiện tượng không giống nhau. Phật tại trong kinh thường nói, thập pháp giới y chánh trang nghiêm, dùng lời hiện tại mà nói chính là hiện tượng vũ trụ nhân sinh, chính là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Cũng giống như trên màn ảnh ti vi hiện nay, tướng hiện trên màn ảnh ti vi là tâm, do tâm hiện, cái tướng này có thể hoạt động. Nó tại nơi này sản sinh biến hóa, những biến hóa đó gọi là thức biến. Thức chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Những thứ này có thể đem những hiện tượng cải biến, biến được vô cùng phức tạp. Đây chính là căn nguyên Phật đem hiện tượng vũ trụ nhân sinh nói rõ cho chúng ta. Cho nên, Vân Cốc thiền sư mới nói “mệnh do ta tạo”, không phải do người khác tạo, cùng người khác không có mảy may quan hệ. Hòan cảnh bên ngòai thân là huyễn cảnh. Trên kinh Kim Cang nói được rất hay “nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”, không phải là thật. Những hiện tượng này, Phật nói với chúng ta rằng: không thể nói chúng có, cũng không thể nói chúng không có. Cũng giống như nằm mộng không khác, bạn không thể nói là không có cảnh giới mộng, trong mộng cảnh giới xác thực là có tồn tại. Nhưng bạn cũng không thể nói chúng có vì chúng là hư huyễn không thật, xác xác thực thực là liễu bất khả đắc. Nếu chúng ta tỉ mỉ quan sát, hiện tại, chúng ta ở cái thế giới này, xác xác thực thực cũng chỉ là một giấc mộng. Buổi tối, chúng ta đi ngủ, người khác mang chúng ta đi, chúng ta cũng không biết. Do đó mà thấy thân không phải là ta. Các nhà triết học phương Tây rất thông minh, họ biết thân này không phải là ta, do đó họ đưa ra lí luận rằng “tôi tư duy thì tôi tồn tại”. Điều này thừa nhận cái gì? Thân thể vật chất không phải là ta, là hư huyễn. Chỉ khi có thể tư duy, có thể tưởng tượng đó mới gọi là ta. Điều này so với người thông thường cao hơn một bậc. Đó có phải là chân tướng sự thật hay không? không phải. Chúng ta suy nghĩ là vọng tưởng, không phải là chân tướng sự thật. Cho nên cảnh giới của Phật so với họ cao hơn rất nhiều, ngay cả tư tưởng của chúng ta cũng buông bỏ thì thấu triệt căn nguyên, khôi phục chân tâm, khôi phục bổn tánh, sau đó mới có thể xem thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Cái chân tướng này trong Phật giáo có một tên gọi, là nhất chân pháp giới, hoặc gọi là chân như, cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế. Danh từ thuật ngữ mà Phật dùng để chỉ nó rất nhiều. Giáo học của Phật, tại sao lại dùng đến nhiều danh từ như thế? Ở đây có dụng ý, chính là muốn dạy chúng ta phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chứ không được chấp trước trên danh tự. Nếu chấp vào danh tự thì lại sinh ra vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ngày nay nếu muốn đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đoạn hết; trong tâm nghĩ “tôi cũng rất muốn”, vấn đề là cái gì? Đoạn không được, vọng niệm vẫn là tiếp nối nhau không dứt, đây chính là lí do chúng ta không thể thành tựu. Chúng ta tuy là từ trong kinh giáo hiểu rõ ràng minh bạch, tin sâu không nghi. Trong Phật pháp nói, chúng ta chỉ là giải ngộ chứ không phải chứng ngộ, không khế nhập được cảnh giới chân thật. Chỉ có chứng ngộ mới có chỗ dụng, giải ngộ không có chỗ dụng, không thể giải quyết được vấn đề. Do đó sau khi giải ngộ phải tu hành, phải đem những lí luận, những phương pháp này chân thật áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt của mình, dần dần nâng cao cảnh giới của mình. Được như vậy mới có thể giải quyết được vấn đề. Ở đây nói, chúng sanh trong lục đạo, vọng tưởng phân biệt chấp trước rất nặng, “mệnh do ta tạo”. Cuộc đời chúng ta giàu nghèo sang hèn, đây là mệnh. Vận mệnh này có định số, định số này từ đâu mà có, là do chính bản thân ta tạo. Nhà Phật giảng nhân quả thông ba đời, mỗi người quyết định là đều có đời quá khứ, đời vị lai. Phật giảng đến chỗ cứu cánh. Phật giảng thời gian nói đến cái sát na, sát na, đây là thời gian rất ngắn. Chúng ta ngày nay nói về đơn vị thời gian, nhỏ nhất là giây. Trong nhà Phật nói đến sát na, sát na làm sao mà tính? Phật dùng đàn chỉ, một đàn chỉ có 60 cái sát na. Một đàn chỉ (một khảy móng tay) chưa đến một giây, nếu chúng ta khảy được nhanh thì một giây đồng hồ chúng ta có thể khảy được 4 lần. Một đàn chỉ là ¼ giây, một đàn chỉ lại có 60 cái sát na, vậy 1/60 của ¼ giây mới gọi là một sát na. Trong một sát na lại có 900 sanh diệt, đó là niệm đầu, 1 niệm sanh, 1 niệm diệt, trong một sát na có 900 niệm sanh diệt. Điều này quá vi tế, người bình thường chúng ta không thể quan sát được. Chúng ta bình thường tâm khí bao chao, sao có thể quan sát đến được. Nhập định, trong định thì tâm thanh tịnh, có thể đem vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng ta lắng xuống. Ở trong thiền định thâm sâu, chúng ta mới có thể nhìn thấy được những hiện tượng sanh diệt. Đây phải là công phu rất cao, Vân Cốc thiền sư e rằng vẫn chưa thấy được. Trong đại thừa Phật pháp có nói, có thể nhìn thấy đầu số của sát na sanh diệt, phải là bát địa bồ tát của đại thừa viên giáo. Bát địa còn gọi là bất động địa, rất gần với quả vị của Như Lai. Trên bát địa là cửu địa, thập địa, đẳng giác, rất gần với quả vị Phật, lúc này mới chân chính có thể hiểu được chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Hôm nay, chúng ta nói đến ý niệm là niệm thô, vô cùng vô cùng thô. Chúng ta khởi lên một thiện niệm, lợi ích cho người khác, cho xã hội, cho chúng sanh, quả báo là được phước. Chúng ta khởi lên một niệm ác, niệm ác là vì lợi ích bản thân, cái gọi là tổn người lợi mình. Cái niệm này trong nhà Phật gọi là ác niệm. Ác niệm thì quả báo là hung, là tai họa. Cho nên, cát hung họa phước trong một đời chính là quả báo của ngôn ngữ tạo tác, khởi tâm động niệm của chính chúng ta, cũng có thể nói là hiện tượng của ngôn ngữ tạo tác. Đây chính là sở dĩ mà nói “mệnh do ta tạo”. Người chân chánh minh bạch hiểu rõ thì khẳng định đối với lời nói này, khẳng định đối với sự thật này. Trong suốt cuộc đời anh ta, bất luận là gặp bất cứ hoàn cảnh trái nghịch, bất thiện thế nào, anh ta cũng quyết không oán trời, quyết không trách người. Anh ta không trách người, mà quay lại trách chính mình “bản thân tôi tạo tác bất thiện nên mới phải chịu quả báo khổ sở như thế này.” Sau khi đã hiểu rõ rồi, phước phải do chính mình cầu, làm sao mà cầu đây? Cải ác làm thiện. Khi tôi còn nhỏ, lúc nhỏ, cha tôi qua đời rất sớm, lúc tôi 21 tuổi thì cha tôi qua đời. Tôi sống đúng vào lúc chiến tranh Trung-Nhật diễn ra, phải chịu 8 năm khổ nạn của chiến tranh, việc học dở dang, vào thời gian đó tôi là học sinh lưu vong, hòan toàn thoát ly gia đình. Nhà nước đối với chúng tôi cũng tính là không tệ, thành lập rất nhiều trường trung học quốc lập, thu nạp những học sinh lưu vong như chúng tôi. Trường học là nhà chúng tôi, thầy cô là cha mẹ chúng tôi, đồng học là huynh đệ tỷ muội của chúng tôi. Cho nên vào thời gian đó, chúng tôi đối với trường học, đối với bạn học, đối với thầy cô là cả một tấm lòng thân ái chân tình. Người hiện tại không cách gì tưởng tượng được, chúng tôi là bạn bè trong hoạn nạn mà có nhau, giúp đỡ chiếu cố lẫn nhau trải qua ngày tháng khó khổ. Cha tôi qua đời, trong gia đình một người cũng không còn. Tôi lưu lạc đến Đài Loan, tại Đài Loan làm việc hết 7,8 năm, tự thấy bản thân mình không có tiền đồ. Thầy của tôi là Chương Gia đại sư, đã thay tôi chọn một nghề nghiệp, ông khuyên tôi xuất gia, khuyên tôi hoằng dương Phật pháp. Tôi đã suy nghĩ rất lâu, Lão nhân gia chỉ thị rất chính xác, tôi nghe theo giáo huấn của ông, chọn cái hành nghiệp này. Tôi học với ông ba năm, ông cho tôi nền tảng cơ bản. Sau khi từ chức, tôi đến Đài Trung học giáo với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, ở Đài Trung hơn mười năm. Vì vậy ở trong Phật pháp, tôi đã tiếp nhận sự chỉ dạy của hai vị lão sư trong 13 năm, nhưng trong giới học thuật, tôi chỉ mới tốt nghiệp sơ trung. Cuộc đời sau này của tôi, phước báu là do tôi tự mình mà cầu được. Tôi minh bạch rồi, tôi giác ngộ rồi, cho nên từ sau khi 26 tuổi học Phật, tôi cẩn thận tỉ mỉ, y giáo phụng hành. Lúc nhỏ, cũng có một số người xem tướng đóan mệnh cho tôi, đây là phong tục cổ của người Trung Quốc. Lúc nhỏ, mẹ tôi dẫn tôi đi xem đóan mệnh, tôi cũng gặp qua không ít cao nhân, nói tôi sống không quá 45 tuổi. Vận mạng của tôi so với tiên sinh Viên Liễu Phàm còn khổ cực hơn, thọ mạng cũng ngắn hơn. Ông ấy còn sống đến 53 tuổi, chứ tôi đến 45 tuổi đã hết rồi, Cho nên lúc đó học Phật, tôi đem thọ mạng của mình tính đến 45 tuổi, sau 45 tuổi thì không còn nữa. Trong thời hạn 45 năm này tôi nhất định phải có thành tựu. Thành tựu này chính là quyết định vãng sanh Tịnh độ. Tôi đem mục tiêu đặt ở chỗ này, bản thân cũng có sự tính toán. Đến năm 45 tuổi, quả nhiên tôi bị bệnh nặng, bệnh suốt một tháng. Tôi không đi bác sĩ, cũng không uống thuốc bởi vì bản thân tôi hiểu rất rõ, bác sĩ chỉ chữa được bệnh chứ không cứu được mạng. Mạng đã đến, bạn đi bác sĩ có ích gì? Vì vậy tôi đóng cửa niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ. Mỗi ngày có mấy vị học trò đến nấu cơm cho tôi, ăn cháo, rau dưa. Sau một tháng, thân thể từ từ khỏe lại. Tôi cả đời hầu như không mang bệnh, sau khi khỏe lại, tôi vẫn tiếp tục công việc giảng kinh hoằng pháp. Đến năm sau, càng ngày càng thuận lợi, tôi ở chùa Thiện Đạo gặp được vị Cam Châu Hoạt Phật, đó cũng là bạn học cũ của tôi. Ông ấy là học trò của Chương Gia đại sư, đại khái hơn tôi xấp xỉ 12 tuổi. Lúc gặp nhau, ông ấy nói với tôi, ông ấy nói: Tịnh Không pháp sư, ông qua đây. Chúng tôi rất khó có cơ hội gặp nhau được một lần, cho nên vô cùng hoan hỷ. Ông nói: số mạng của ông bây giờ đã hoàn toàn chuyển đổi rồi. Tôi hỏi: tại sao vậy? Ông nói: lúc trước chúng tôi hay nói sau lưng ông. Tôi hỏi lại: nói điều gì? Nói: ông là người tuy rất thông minh nhưng không có phước báu, lại thêm đoản mệnh nữa. Tôi nói: điều này có thể nói trước mặt tôi, không cần phải nói sau lưng. Tôi còn nói thêm: tôi biết rất rõ. Ông nói tiếp: nhưng hiện tại những năm gần đây ông hoằng dương Phật pháp nên đã hòan toàn chuyển đổi lại rồi, không những có phước báu mà còn trường thọ nữa. Tôi rất cảm khái, đến năm sau thì Cam Châu Hoạt Phật qua đời. Đây là một vị đại đức rất khó có trong Phật giáo Tây Tạng, là một vị thiện tri thức chân chánh, một người xuất gia rất có quy củ, thực sự rất hiếm thấy. Tôi ở Hương Cảng có gặp qua một người, đó là pháp sư Thánh Nhất ở chùa Bảo Lâm trên núi Đại Tự. Tôi đối với ông vô cùng tôn trọng, vô cùng kính ngưỡng. Nghe nói hai năm qua, thân thể ông không được tốt, ông có cống hiến rất lớn cho phật giáo Trung Quốc. Cho nên mệnh có thể cải đổi, phương pháp cải mệnh chính là sau khi đã giác ngộ rồi thì không tiếp tục tạo ác nữa. Khởi tâm động niệm đều vì người khác, vì xã hội, vì chúng sanh mà nghĩ, quyết không phải vì bản thân mình. Câu nói này nói được rất dễ, nhưng làm không dễ chút nào. Liễu Phàm tiên sinh làm suốt mười mấy năm liền có cảm ứng hiện tiền. Tôi cũng làm gần 30 năm, cảm ứng cũng rất rõ ràng mà bản thân tôi có thể cảm nhận được. Sau khi học xong, tôi ra giảng kinh thuyết pháp, 20 năm mới có một đạo tràng nhỏ, chính là Hoa Tạng Đồ thư quán ở Kinh Mỹ. Tôi hoằng pháp 20 năm mới có một nơi như vậy. Sau 5 năm nữa mới có “Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội” này. Lại thêm 5 năm nữa, trên thế giới có rất nhiều nơi, chúng tôi thành lập nên “Tịnh Tông Đạo Tràng”. Cho đến năm ngoái, xác thực là lời nói của Kim Châu Hoạt Phật đã ứng nghiệm, mọi việc càng ngày càng thuận lợi, tâm cũng càng ngày càng thanh tịnh, càng ngày càng không nghĩ cho mình. Ngày nay tôi sống ở cái thế giới này là vì người khác mà sống, không phải vì chính mình, bản thân tôi không còn nữa. Danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần tôi thảy đều buông xuống cả rồi. Ấn Quang đại sư lúc cuối đời thường nói: tôi không có gì hết, tôi cũng không sợ chết. Tôi hiện tại cũng sắp nhập vào cảnh giới của đại sư rồi, bản thân không có gì, chân thật cũng không sợ chết. Chết đối với tôi mà nói là sự việc rất hoan hỷ, vô cùng hào hứng. Bởi vì tôi biết chết sẽ đi về đâu; sanh từ đâu tới, chết sẽ đi về đâu. Tất cả tôi đều rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Đây gọi là “mệnh do ngã tác, phúc tại kỷ cầu” (mệnh do mình tạo, phước tại mình cầu) vậy. Câu nói này là thật, một chút cũng không giả. Viên Liễu Phàm tiên sinh cải đổi vận mạng một cách không dễ dàng gì. Về sau khi đọc đến đoạn văn này tôi sẽ đề tỉnh cho quý vị. Tôi khi cải đổi vận mạng của mình, tôi rất may mắn, tôi so với ông thuận lợi hơn rất nhiều. Nguyên nhân là bởi tôi trước sau đều không rời thầy, thầy thường ở bên cạnh đốc thúc, chỉ dạy, điều này mang lại lợi ích rất lớn. Tôi học cùng Chương Gia đại sư 3 năm, học cùng thầy Lý 10 năm, 13 năm này tôi luôn ở bên cạnh thầy. Điều này có được lợi ích vô cùng lớn. Tôi lúc đó chung quy vẫn còn trẻ tuổi, cho dù đã rất dụng công nhưng vẫn không đạt được cái tiêu chuẩn mà người xưa nói. Bản thân tôi đã rất dụng công nỗ lực, cho dù đã cố hết sức thì điểm số cũng không vượt quá 60 điểm, cũng chỉ đủ điểm đậu mà thôi. Hiện tại đại khái có thể đạt được tám, chín mươi điểm. Hiệu quả ngày càng rõ ràng, cái sự việc này, cổ đại đức nói chính là “chân can (tức chân thành)”. Tôi tổng hợp tâm đắc của bản thân sau 50 năm học Phật viết ra 20 chữ. Có người hỏi tôi: Pháp sư, ngài tu như thế nào, dạy người ra sao? Tôi đều là ở trong 20 chữ “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Mười chữ này là dụng tâm. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên. Nhà Phật nói chữ duyên là đối với người, đối với sự; hoàn cảnh nhân sự là dùng chữ duyên để nói, hoàn cảnh vật chất là nói đến cảnh giới, thuận cảnh hay nghịch cảnh là nói về hòan cảnh vật chất, còn thiện duyên hay ác duyên là nói về hoàn cảnh nhân sự. Chúng ta cần phải trong những cảnh duyên đó mà tôi luyện bản thân, nhất định phải lấy tâm chân thành mà xử sự, đối người, tiếp vật. Người khác dùng tâm hư vọng đối với ta, không có quan hệ, đó là anh ta, cùng ta không liên can. Thậm chí là anh ta hủy báng ta, vũ nhục ta, hãm hại ta, cùng ta không liên can. Bản thân chúng ta chỉ dùng tâm chân thành để đối người. Làm được như vậy thì sẽ chuyển họa thành phước, chuyển được rất nhanh, tai tiêu phước đến. Xử sự đối người tiếp vật cần phải dùng tâm thanh tịnh, thanh tịnh tức là một trần cũng không nhiễm, thuận cảnh tuyệt không khởi tâm tham luyến, ác cảnh không khởi tâm sân hận; phải luôn giữ được tâm thanh tịnh, bình đẳng của chúng ta, tự nhiên sẽ sinh trí huệ. Tâm ái hộ nhất thiết chúng sanh tự nhiên sinh ra, đó gọi là từ bi tâm. Từ bi tâm phải hai, ba năm mới có hiệu nghiệm. Lúc trước, tôi có đọc truyện ký của Ấn Quang đại sư, căn phòng khi đại sư mới ở, trong đó có rất nhiều muỗi, ruồi, bọ chét, chúng gây nhiều trở ngại. Thị giả của đại sư, tức người chăm sóc ông, muốn thanh trừ bọn chúng, đem bọn chúng đuổi đi hết. Đại sư nói: không cần, trong nhà có con vật, cho thấy đức hạnh tu hành của chúng ta chưa đủ, cho nên không thể cảm động được chúng, vì vậy không cần đuổi chúng đi. Sau khi đại sư 70 tuổi, trong phòng ở của Ngài muốn tìm một con cũng không thấy, quả nhiên chúng đã dọn nhà rồi, thuật ngữ trong nhà Phật gọi là “thiên đan (chuyển đến nơi khác)”, những con vật này đã chuyển đi rồi. Ấn Quang đại sư là sau 70 tuổi, tôi hiện tại cũng đã qua 70 tuổi rồi, hai năm gần đây, tôi rất hoan hỷ vì đã có hiệu quả, căn phòng tôi ở cũng có kiến, gián; cũng thường hay thấy; nhưng trong hai năm gần đây đã dần dần ít đi. Tôi ở tại một địa phương ở Toowoomba cũng đã được 1 năm 8 tháng, lúc mới mua nó, kiến rất nhiều, còn có gián, côn trùng cũng rất nhiều. Sống trên núi với tôi còn có hai vị đồng tu, tôi nói với họ nhất định không được giết chúng. Đối với những động vật nhỏ này cần phải dùng tâm thanh tịnh, dùng tâm cung kính mà đối đãi. Không những không được giết những con kiến nhỏ này, mà ngay cả ý niệm làm hại chúng cũng phải đoạn sạch. Khi nhìn thấy chúng, chúng ta phải chắp tay lại, cung kính mà nói “bồ tát kiến, bồ tát gián”, chúng ta phải dùng cái tâm này mà đối với chúng. Nói với chúng rằng: môi trường sống của chúng ta không giống nhau, bên trong căn phòng này là chỗ của chúng tôi, còn bên ngoài căn phòng này là môi trường sống của các bạn. Hy vọng chúng ta có thể đối xử hòa hài với nhau, hai bên không quấy nhiễu nhau, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Phải thường dùng cái tâm như vậy mà đối đãi với chúng, khuyến miễn chúng. Một năm rưỡi sau, tôi thấy kiến đã ít đi chín mươi phần trăm, hiện tại vẫn còn nhưng rất ít, chứ không như lúc trước chúng kéo đàn kết bè lại. Tôi nói với mọi người rằng, chúng ta nỗ lực thêm hai năm nữa, có lẽ hoàn toàn không còn nữa. Phải dùng tâm yêu thương chân thành như vậy để đối với những động vật nhỏ, không chỉ đối với động vật nhỏ mà ngay cả với thực vật cũng không ngoại lệ. Trong hoa viên của chúng ta có rất nhiều cỏ, nhiều cây cối, còn có rau nữa. Trên núi, chúng ta trồng rất nhiều rau, chúng ta cũng phải dùng tâm yêu thương để đối đãi nó, để chiếu cố nó. Hoa nở rất đẹp, cũng tỏa ra rất nhiều hương. Những loại cây cối, rau củ này sinh trưởng rất tốt. Chúng ta không cần dùng phân bón, cũng không cần dùng đến thuốc trừ sâu, hoàn toàn không cần, chỉ cần dùng tâm yêu thương để bảo hộ chúng. Có cảm ứng, ngay cả cây cối hoa cỏ cũng đều có cảm ứng, điều này khiến chúng ta nghĩ đến một truyền thuyết thời xưa “sinh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu”, ngay cả đá cũng cảm động. Chúng ta hiện nay vẫn chưa có được cái cảm ứng này. Hiên tại, tôi chỉ mới có sự tương giao với thực vật, cùng thực vật có sự cảm ứng, còn với đất đá thì vẫn chưa có. Công phu của Sinh công so với tôi đã cao hơn một bậc. Tôi vẫn chưa đạt đến công phu của ông ấy. Đây đều là muốn nói với chư vị rằng “mệnh do mình tạo, phước do mình cầu”. Trong cuộc đời tôi, đây là điều tôi mà thể nghiệm được trong suốt 50 năm học Phật, vận mạng đã hoàn toàn chuyển đổi được. Tuy rằng không thể nói là đạt được đại tự tại, đại viên mãn, nhưng cũng đã tiếp cận được đến cái gọi là tự tại, viên mãn; có tín tâm là sẽ đạt được. Phía sau, trên văn tự viết: <thi thư sở xưng, đích vi minh huấn>thi thư sở xưng, đích vi minh huấn>, đây là những giáo huấn rất rõ ràng, minh bạch được nói đến trong các tác phẩm của Cổ Thánh Tiên Hiền, chúng ta cần phải tin tưởng. <ngã giáo điển trung thuyết>ngã giáo điển trung thuyết>, “ngã” là chỉ cho Vân Cốc thiền sư, ông là người xuất gia. “Ngã giáo” là chỉ Phật giáo. Trong kinh điển Phật giáo có nói: , phàm phu chúng ta không thể vô cầu. Tôi lúc mới học Phật, trong tâm cũng có mong cầu. Chương Gia đại sư nhìn thấy được đã dạy tôi: “Phật thị môn trung hữu cầu tất ứng”. Đây là lão nhân gia đã dạy cho tôi phương pháp để cầu. Viên Liễu Phàm là do Vân Cốc thiền sư dạy cho cách cầu, còn phương pháp của tôi là do Chương Gia đại sư truyền cho tôi. Ngôn ngữ so với Vân Cốc thiền sư thì đơn giản hơn nhưng lại vô cùng có hiệu quả. Ngài dạy cho tôi: khi ông dùng chân tâm để cầu mà không có cảm ứng, khi cầu mà không có cảm, đây là nguyên nhân gì? Đó là do nghiệp chướng của ông quá nặng, chướng ngại không phải ở phật pháp, không phải tại bên ngòai mà chính là từ trên thân chúng ta, do bản thân chúng ta có nghiệp chướng. Chỉ cần đem nghiệp chướng tiêu trừ hết thì cảm ứng liền hiện tiền, hữu cầu tất ứng. Tôi lại hỏi ông, hướng đến lão sư mà thỉnh giáo, tôi hỏi: nghiệp chướng làm sao tiêu trừ? Ông nói với tôi: sám hối. “Sám trừ nghiệp chướng”, đây cũng là điều mà Phổ Hiền bồ tát trên kinh Hoa Nghiêm đã nói. Sau đó lại dạy cho tôi làm sao để sám hối? Tuyết đối không phải đi lạy Lương Hoàng sám, lạy Thủy sám, không phải làm cái việc này. Cho nên, vị thầy mà tôi gặp được, chân thật là một vị thầy giỏi. Ông nói: Phật pháp không tại hình thức, mà ở thực chất. Cái gì gọi là thực chất? chính là về sau không làm nữa. Ví như chúng ta khởi lên ý niệm không tốt, nói những lời không tốt, làm những việc không tốt, hiện tại biết đó là lỗi, là sai rồi thì về sau sẽ không phạm lại sai lầm đó nữa, đó mới gọi là chân thật sám hối, như vậy mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng. Giả như bạn ở trước Phật, Bồ Tát tụng kinh niệm chú, cho là đã sám hối rồi, sau khi sám thì lại tạo, tạo xong lại sám. Như vậy chẳng có lợi ích gì, hòan toàn sai rồi. Thầy đã nói với tôi lời thật, phật pháp trọng thực chất, không trọng hình thức. Thí như nói đến giới luật, ông vô cùng coi trọng giới luật. Tôi theo học với ông ba năm, ông đề cập đến sự quan trọng của giới luật, tổng cộng hết 10 lần, khiến ấn tượng của tôi rất sâu. Làm sao để trì giới? Ông nói với tôi: không cần phải đến bất cứ nơi nào cầu pháp sư thọ giới. Ông nói: không cần thiết, vô dụng. Tôi hỏi: vậy phải làm sao? Học một điều, làm được một điều, vậy thì điều này bạn giữ được. Thí như không sát sanh, bạn chân chánh làm đến được, đối với tất cả sinh vật bạn tuyệt đối không khởi lên ý niệm sát hại, như vậy bạn đối với cái giới này đã giữ được viên mãn, mà không nhất định phải đi thọ giới. Đến giới đàn thọ giới, thọ giới rồi, bạn lại không làm được, như vậy bạn hoàn toàn đã phá giới, phạm giới rồi, không phải là tội càng thêm tội hay sao? Lão sư đã dạy cho tôi chính là cái phương pháp này; học một điều, làm một điều, làm được rồi thì chính là chân chánh trì giới. Cho nên tôi học Phật, đắc lực là ở sự giáo huấn của những đại thiện tri thức. Vào năm ngoái, tôi gặp tổng thống Nathan của Singapore, chúng tôi cùng nhau ăn cơm. Tổng thống Nathan là giáo đồ của Ấn Độ giáo (đạo Hindu). Ông nói với tôi: phật giáo trọng thực chất, không trọng hình thức. Tôi nghe xong, ngồi ngẩn ra. Câu nói này mấy chục năm trước là Chương Gia đại sư đã nói với tôi. Trong suốt mấy chục năm qua, tôi chưa từng nghe thấy ai nhắc đến câu này cả. Tôi nghe tổng thống Nathan nói vậy, liền biết ông là người “trong nghề”, người này không đơn giản. Cho nên tôi đối với ông rất kính trọng. Chúng ta phải hiểu được rốt cuộc làm sao để cầu, chân chánh tiêu trừ nghiệp chướng rồi thì hữu cầu tất ứng. Nhưng nếu nghiệp chướng tập khí quá nặng thì sao? cái này không đáng lo, chúng ta cần phải nhẫn nại, cần thời gian để tiêu trừ. Liễu Phàm tiên sinh dùng thời gian mấy mươi năm, tôi cũng dùng từ hai mươi đến ba mươi năm, cho nên bạn không có khỏang thời gian đủ dài thì không được, không phải nói đoạn thì có thể đoạn được, nào có dễ dàng như vậy chứ. Tập khí của chúng ta nhất định phải đè phục nó xuống, phải thường thường cảnh tỉnh bản thân. Cho nên cổ nhân rất coi trọng việc đọc tụng, điều này rất có đạo lý. Bản thân tôi một đời này có thể thành tựu, tôi biết được đó là nhờ tôi ở trên giảng đài. Hơn bốn mươi năm qua, tôi không một ngày nào gián đoạn trên giảng đài. Ngày ngày giảng kinh, ngày ngày khuyên người khác, cũng chính là ngày ngày khuyên chính mình. Người khác có được lợi ích hay không, tôi không biết, nhưng bản thân tôi chân thật có được lợi ích. Đây chính là điều trong nhà Phật thường nói: “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Nếu như không được huân tu trong thời gian dài, làm sao có được thành tựu. Tập khí xấu của chúng ta cũng là do vô lượng kiếp huân tập mà thành, đều là trường thời huân tu. Hiện tại chúng ta cần phải đem những tập khí xấu, tập khí ác này tiêu trừ, cần phải học tập Cổ Thánh Tiên Hiền, học tập Phật Bồ tát, điều này vẫn là cần phải có thời gian. Cho nên nếu như không có thời gian tương đối dài, cần có quyết tâm, có nỗ lực, đọan trừ tập khí của mình mới có thể viên mãn thành tựu.
05:41 CH 10/12/2013
Câu chuyện tử vi có thật - phương pháp cải tạo...
Hoà Thượng Tịnh Không giảng Liễu Phàm Tứ Huấn (Tập 2)2013-05-31 09:40:07
(
PPUD) Giảng tại Thẩm Quyến - Trung Quốc ngày 16/04/2001
Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
Phía trước chúng ta đã giảng đến chỗ tiên sinh Viên Liễu Phàm bái kiến thiền sư Vân Cốc, ngồi đối diện trong thiền đường suốt ba ngày ba đêm, mà không khởi một vọng niệm nào.
Vân Cốc thiền sư thấy lạ, liền hỏi ông duyên cớ vì sao? Viên Liễu Phàm tiên sinh thưa với Vân Cốc thiền sư là vận mệnh của ông đã được Khổng tiên sinh đoán định, trong hai mươi năm nay một tơ hào cũng không sai, nên ông cho rằng khởi tâm động niệm cũng đều vô ích, do vậy tâm ông định lại.
Lúc này, Vân Cốc thiền sư mới bảo: Cuộc đời của ông đã bị số mệnh câu thúc. Có thể bị vận số câu thúc, là bởi vì ông còn có vọng niệm, không thể gọi là người có công phu, chỉ có thể gọi là một phàm phu tiêu chuẩn mà thôi. Liễu Phàm tiên sinh sau khi nghe xong, vội quay lại thỉnh giáo ông.
<dư vấn viết: nhiên tắc số khả đào hồ? viết: mệnh do ngã tác, phúc tự kỷ cầu, thi thư sở xưng, đích vi minh huấn. ngã giáo điển trung thuyết, cầu phú quý đắc phú quý, cầu nam nữ đắc nam nữ, cầu trường thọ đắc trường thọ. phù vọng ngữ nãi thích ca đại giới, chư phật bồ tát, khởi cuống ngữ khi nhân.>dư vấn viết: nhiên tắc số khả đào hồ? viết: mệnh do ngã tác, phúc tự kỷ cầu, thi thư sở xưng, đích vi minh huấn. ngã giáo điển trung thuyết, cầu phú quý đắc phú quý, cầu nam nữ đắc nam nữ, cầu trường thọ đắc trường thọ. phù vọng ngữ nãi thích ca đại giới, chư phật bồ tát, khởi cuống ngữ khi nhân.>
Trong đoạn đối thoại này, ý nghĩa hàm chứa trong đó vô cùng sâu sắc. Tiên sinh Viên Liễu Phàm hỏi: Người đều có số mạng, số mạng này có thể thay đổi sao? Ông đưa ra nghi vấn này, thiền sư đáp lại rằng “mạng là do mình tạo, phước là do mình cầu”. Hai câu nói này, phía trong ẩn chứa vấn đề rất quan trọng. Trước tiên chúng ta phải hiểu rõ, lục đạo phàm phu chạy không thoát khỏi số mạng. Số mạng từ đâu mà có? Cổ Thánh Tiên Hiền, chư Phật Bồ Tát, họ là người đến nơi đây, họ đối với chân tướng sự thật thấu triệt hiểu rõ, tơ hào cũng không sai, điều này chúng ta phải tin tưởng. Nếu như dùng cách nói của các khoa học gia hiện đại, đó chính là không gian duy thứ vô hạn, cũng chính là ba độ không gian, bốn độ không gian, năm độ không gian mà họ nói đến. Trên lí luận mà nói, không gian là độ số vô hạn. Chúng ta sinh tại nhân đạo, cho nên chỉ sinh hoạt trong ba độ không gian, chúng sanh ở duy thứ từ bốn độ không gian trở lên, chúng ta không biết được. Ngày nay khoa học gia cho chúng ta biết được xác thực là tồn tại mười một độ không gian. Nhưng làm thế nào để đột phá không gian duy thứ, hiện tại các khoa học gia vẫn còn đang nghiên cứu. Một khi đột phá được không gian duy thứ, điều mà chúng ta đã nói, tức bạn có thể biết được quá khứ, tương lai. Quá khứ đã tạo nhân gì, hiện tại phải chịu quả báo như thế nào, đời nay tạo cái nhân gì, tương lai quả báo ra sao, không phải đều hiểu rõ ràng hay sao? Đây không phải là cách suy đoán, so với Khổng tiên sinh còn cao minh hơn hay sao? Khổng tiên sinh là từ số học, “Kinh dịch” là một bộ số học, ông từ trên số học mà suy đoán, suy đoán được rất chính xác, tuy nhiên không dám nói là hoàn toàn chính xác. Bởi vì lúc suy đoán nếu có một tơ hào không chính xác thì kết quả hòan tòan không giống nhau. Nhưng nếu có thể đột phá không gian duy thứ thì quyết định là hoàn toàn chính xác, một tơ hào cũng không sai. Vì sao? vì quá khứ, hiện tại, vị lai, bạn đều là chính mắt mình nhìn thấy.
Cái sự việc này, hiện tại mà nói cũng không khó. Tại Cổ Ấn Độ, những chuyên gia về số luận, yoga, bà la môn giáo, họ đều có năng lực này. Cho nên thuyết về lục đạo luân hồi không phải của Phật giáo, mà là của cổ Bà La Môn giáo, nay là Ấn Độ giáo. Lịch sử của họ, hiện tại thế giới công nhận là có 8500 năm lịch sử. So với Phật giáo, họ ra đời sớm hơn rất nhiều. Những người này đều là tu thiền định, trong kinh Phật có nói đến tứ thiền bát định, do đó, không gian duy thứ trong lục đạo, họ cơ hồ đều đã đột phá được. Cho nên trạng huống trong lục đạo, họ nói được rất rõ ràng. Nhưng họ chỉ biết được cái đương nhiên mà không biết được cái sở dĩ nhiên. Lục đạo làm sao mà có, tại sao lại có hiện tượng này, tại sao lại có những biến hóa như vậy, họ đều không biết. Vì vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại thế gian này, Người vì sao lại xuất hiện? Là vì những người có năng lực quan sát đến được những cảnh giới như thế, nhưng lại đối với những cảnh giới này có rất nhiều nghi hoặc không thể giải trừ. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại thế gian là vì cái sự việc này. Cái gọi là, chúng sanh có cảm thì Phật, Bồ tát có ứng. Điều này đã cảm ứng Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế gian này, vì chúng ta mà thuyết minh cái sở dĩ nhiên của những hiện tượng đó. Phật tại trong kinh Đại thừa đã giảng nói được rất nhiều, nhất là trong kinh Hoa Nghiêm. Không chỉ có lục đạo, bên ngoài lục đạo còn có Tứ thánh pháp giới, còn có nhất chân pháp giới, đây đều là quy nạp lại mà nói, nếu nói tỉ mỉ thì không thể dùng ngôn ngữ để nói một cách tường tận được. Cũng giống như chỗ mà khoa học gia đã nói, không gian duy thứ vô hạn, cùng với Phật tại trong kinh nói được hòan toàn tương ưng. Làm sao phát sinh ra nhiều không gian duy thứ không đồng như vậy? Phật nói với chúng ta, đều là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Chúng ta hãy tĩnh tâm mà quan sát, vọng tưởng của chúng sanh nhiều vô lượng vô biên, niệm trước vừa diệt thì niệm sau liền sanh, một ngày không biết đã khởi bao nhiêu vọng niệm, không biết có bao nhiêu phân biệt, chấp trước, điều này tạo nên không gian duy thứ không đồng; tạo nên hiện tượng không giống nhau.

Phật tại trong kinh thường nói, thập pháp giới y chánh trang nghiêm, dùng lời hiện tại mà nói chính là hiện tượng vũ trụ nhân sinh, chính là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Cũng giống như trên màn ảnh ti vi hiện nay, tướng hiện trên màn ảnh ti vi là tâm, do tâm hiện, cái tướng này có thể hoạt động. Nó tại nơi này sản sinh biến hóa, những biến hóa đó gọi là thức biến. Thức chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Những thứ này có thể đem những hiện tượng cải biến, biến được vô cùng phức tạp. Đây chính là căn nguyên Phật đem hiện tượng vũ trụ nhân sinh nói rõ cho chúng ta.
Cho nên, Vân Cốc thiền sư mới nói “mệnh do ta tạo”, không phải do người khác tạo, cùng người khác không có mảy may quan hệ. Hòan cảnh bên ngòai thân là huyễn cảnh. Trên kinh Kim Cang nói được rất hay “nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”, không phải là thật. Những hiện tượng này, Phật nói với chúng ta rằng: không thể nói chúng có, cũng không thể nói chúng không có. Cũng giống như nằm mộng không khác, bạn không thể nói là không có cảnh giới mộng, trong mộng cảnh giới xác thực là có tồn tại. Nhưng bạn cũng không thể nói chúng có vì chúng là hư huyễn không thật, xác xác thực thực là liễu bất khả đắc. Nếu chúng ta tỉ mỉ quan sát, hiện tại, chúng ta ở cái thế giới này, xác xác thực thực cũng chỉ là một giấc mộng. Buổi tối, chúng ta đi ngủ, người khác mang chúng ta đi, chúng ta cũng không biết. Do đó mà thấy thân không phải là ta. Các nhà triết học phương Tây rất thông minh, họ biết thân này không phải là ta, do đó họ đưa ra lí luận rằng “tôi tư duy thì tôi tồn tại”. Điều này thừa nhận cái gì? Thân thể vật chất không phải là ta, là hư huyễn. Chỉ khi có thể tư duy, có thể tưởng tượng đó mới gọi là ta. Điều này so với người thông thường cao hơn một bậc. Đó có phải là chân tướng sự thật hay không? không phải. Chúng ta suy nghĩ là vọng tưởng, không phải là chân tướng sự thật. Cho nên cảnh giới của Phật so với họ cao hơn rất nhiều, ngay cả tư tưởng của chúng ta cũng buông bỏ thì thấu triệt căn nguyên, khôi phục chân tâm, khôi phục bổn tánh, sau đó mới có thể xem thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Cái chân tướng này trong Phật giáo có một tên gọi, là nhất chân pháp giới, hoặc gọi là chân như, cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế. Danh từ thuật ngữ mà Phật dùng để chỉ nó rất nhiều. Giáo học của Phật, tại sao lại dùng đến nhiều danh từ như thế? Ở đây có dụng ý, chính là muốn dạy chúng ta phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chứ không được chấp trước trên danh tự. Nếu chấp vào danh tự thì lại sinh ra vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Ngày nay nếu muốn đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đoạn hết; trong tâm nghĩ “tôi cũng rất muốn”, vấn đề là cái gì? Đoạn không được, vọng niệm vẫn là tiếp nối nhau không dứt, đây chính là lí do chúng ta không thể thành tựu. Chúng ta tuy là từ trong kinh giáo hiểu rõ ràng minh bạch, tin sâu không nghi. Trong Phật pháp nói, chúng ta chỉ là giải ngộ chứ không phải chứng ngộ, không khế nhập được cảnh giới chân thật. Chỉ có chứng ngộ mới có chỗ dụng, giải ngộ không có chỗ dụng, không thể giải quyết được vấn đề. Do đó sau khi giải ngộ phải tu hành, phải đem những lí luận, những phương pháp này chân thật áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt của mình, dần dần nâng cao cảnh giới của mình. Được như vậy mới có thể giải quyết được vấn đề. Ở đây nói, chúng sanh trong lục đạo, vọng tưởng phân biệt chấp trước rất nặng, “mệnh do ta tạo”. Cuộc đời chúng ta giàu nghèo sang hèn, đây là mệnh. Vận mệnh này có định số, định số này từ đâu mà có, là do chính bản thân ta tạo. Nhà Phật giảng nhân quả thông ba đời, mỗi người quyết định là đều có đời quá khứ, đời vị lai. Phật giảng đến chỗ cứu cánh. Phật giảng thời gian nói đến cái sát na, sát na, đây là thời gian rất ngắn. Chúng ta ngày nay nói về đơn vị thời gian, nhỏ nhất là giây. Trong nhà Phật nói đến sát na, sát na làm sao mà tính? Phật dùng đàn chỉ, một đàn chỉ có 60 cái sát na. Một đàn chỉ (một khảy móng tay) chưa đến một giây, nếu chúng ta khảy được nhanh thì một giây đồng hồ chúng ta có thể khảy được 4 lần. Một đàn chỉ là ¼ giây, một đàn chỉ lại có 60 cái sát na, vậy 1/60 của ¼ giây mới gọi là một sát na. Trong một sát na lại có 900 sanh diệt, đó là niệm đầu, 1 niệm sanh, 1 niệm diệt, trong một sát na có 900 niệm sanh diệt. Điều này quá vi tế, người bình thường chúng ta không thể quan sát được. Chúng ta bình thường tâm khí bao chao, sao có thể quan sát đến được. Nhập định, trong định thì tâm thanh tịnh, có thể đem vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng ta lắng xuống. Ở trong thiền định thâm sâu, chúng ta mới có thể nhìn thấy được những hiện tượng sanh diệt. Đây phải là công phu rất cao, Vân Cốc thiền sư e rằng vẫn chưa thấy được. Trong đại thừa Phật pháp có nói, có thể nhìn thấy đầu số của sát na sanh diệt, phải là bát địa bồ tát của đại thừa viên giáo. Bát địa còn gọi là bất động địa, rất gần với quả vị của Như Lai. Trên bát địa là cửu địa, thập địa, đẳng giác, rất gần với quả vị Phật, lúc này mới chân chính có thể hiểu được chân tướng của vũ trụ nhân sinh.
Hôm nay, chúng ta nói đến ý niệm là niệm thô, vô cùng vô cùng thô. Chúng ta khởi lên một thiện niệm, lợi ích cho người khác, cho xã hội, cho chúng sanh, quả báo là được phước. Chúng ta khởi lên một niệm ác, niệm ác là vì lợi ích bản thân, cái gọi là tổn người lợi mình. Cái niệm này trong nhà Phật gọi là ác niệm. Ác niệm thì quả báo là hung, là tai họa. Cho nên, cát hung họa phước trong một đời chính là quả báo của ngôn ngữ tạo tác, khởi tâm động niệm của chính chúng ta, cũng có thể nói là hiện tượng của ngôn ngữ tạo tác. Đây chính là sở dĩ mà nói “mệnh do ta tạo”. Người chân chánh minh bạch hiểu rõ thì khẳng định đối với lời nói này, khẳng định đối với sự thật này. Trong suốt cuộc đời anh ta, bất luận là gặp bất cứ hoàn cảnh trái nghịch, bất thiện thế nào, anh ta cũng quyết không oán trời, quyết không trách người. Anh ta không trách người, mà quay lại trách chính mình “bản thân tôi tạo tác bất thiện nên mới phải chịu quả báo khổ sở như thế này.” Sau khi đã hiểu rõ rồi, phước phải do chính mình cầu, làm sao mà cầu đây? Cải ác làm thiện. Khi tôi còn nhỏ, lúc nhỏ, cha tôi qua đời rất sớm, lúc tôi 21 tuổi thì cha tôi qua đời. Tôi sống đúng vào lúc chiến tranh Trung-Nhật diễn ra, phải chịu 8 năm khổ nạn của chiến tranh, việc học dở dang, vào thời gian đó tôi là học sinh lưu vong, hòan toàn thoát ly gia đình. Nhà nước đối với chúng tôi cũng tính là không tệ, thành lập rất nhiều trường trung học quốc lập, thu nạp những học sinh lưu vong như chúng tôi. Trường học là nhà chúng tôi, thầy cô là cha mẹ chúng tôi, đồng học là huynh đệ tỷ muội của chúng tôi. Cho nên vào thời gian đó, chúng tôi đối với trường học, đối với bạn học, đối với thầy cô là cả một tấm lòng thân ái chân tình. Người hiện tại không cách gì tưởng tượng được, chúng tôi là bạn bè trong hoạn nạn mà có nhau, giúp đỡ chiếu cố lẫn nhau trải qua ngày tháng khó khổ. Cha tôi qua đời, trong gia đình một người cũng không còn. Tôi lưu lạc đến Đài Loan, tại Đài Loan làm việc hết 7,8 năm, tự thấy bản thân mình không có tiền đồ. Thầy của tôi là Chương Gia đại sư, đã thay tôi chọn một nghề nghiệp, ông khuyên tôi xuất gia, khuyên tôi hoằng dương Phật pháp. Tôi đã suy nghĩ rất lâu, Lão nhân gia chỉ thị rất chính xác, tôi nghe theo giáo huấn của ông, chọn cái hành nghiệp này. Tôi học với ông ba năm, ông cho tôi nền tảng cơ bản. Sau khi từ chức, tôi đến Đài Trung học giáo với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, ở Đài Trung hơn mười năm. Vì vậy ở trong Phật pháp, tôi đã tiếp nhận sự chỉ dạy của hai vị lão sư trong 13 năm, nhưng trong giới học thuật, tôi chỉ mới tốt nghiệp sơ trung. Cuộc đời sau này của tôi, phước báu là do tôi tự mình mà cầu được. Tôi minh bạch rồi, tôi giác ngộ rồi, cho nên từ sau khi 26 tuổi học Phật, tôi cẩn thận tỉ mỉ, y giáo phụng hành. Lúc nhỏ, cũng có một số người xem tướng đóan mệnh cho tôi, đây là phong tục cổ của người Trung Quốc. Lúc nhỏ, mẹ tôi dẫn tôi đi xem đóan mệnh, tôi cũng gặp qua không ít cao nhân, nói tôi sống không quá 45 tuổi. Vận mạng của tôi so với tiên sinh Viên Liễu Phàm còn khổ cực hơn, thọ mạng cũng ngắn hơn. Ông ấy còn sống đến 53 tuổi, chứ tôi đến 45 tuổi đã hết rồi, Cho nên lúc đó học Phật, tôi đem thọ mạng của mình tính đến 45 tuổi, sau 45 tuổi thì không còn nữa. Trong thời hạn 45 năm này tôi nhất định phải có thành tựu. Thành tựu này chính là quyết định vãng sanh Tịnh độ. Tôi đem mục tiêu đặt ở chỗ này, bản thân cũng có sự tính toán. Đến năm 45 tuổi, quả nhiên tôi bị bệnh nặng, bệnh suốt một tháng. Tôi không đi bác sĩ, cũng không uống thuốc bởi vì bản thân tôi hiểu rất rõ, bác sĩ chỉ chữa được bệnh chứ không cứu được mạng. Mạng đã đến, bạn đi bác sĩ có ích gì? Vì vậy tôi đóng cửa niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ. Mỗi ngày có mấy vị học trò đến nấu cơm cho tôi, ăn cháo, rau dưa. Sau một tháng, thân thể từ từ khỏe lại. Tôi cả đời hầu như không mang bệnh, sau khi khỏe lại, tôi vẫn tiếp tục công việc giảng kinh hoằng pháp. Đến năm sau, càng ngày càng thuận lợi, tôi ở chùa Thiện Đạo gặp được vị Cam Châu Hoạt Phật, đó cũng là bạn học cũ của tôi. Ông ấy là học trò của Chương Gia đại sư, đại khái hơn tôi xấp xỉ 12 tuổi. Lúc gặp nhau, ông ấy nói với tôi, ông ấy nói: Tịnh Không pháp sư, ông qua đây. Chúng tôi rất khó có cơ hội gặp nhau được một lần, cho nên vô cùng hoan hỷ. Ông nói: số mạng của ông bây giờ đã hoàn toàn chuyển đổi rồi. Tôi hỏi: tại sao vậy? Ông nói: lúc trước chúng tôi hay nói sau lưng ông. Tôi hỏi lại: nói điều gì? Nói: ông là người tuy rất thông minh nhưng không có phước báu, lại thêm đoản mệnh nữa. Tôi nói: điều này có thể nói trước mặt tôi, không cần phải nói sau lưng. Tôi còn nói thêm: tôi biết rất rõ. Ông nói tiếp: nhưng hiện tại những năm gần đây ông hoằng dương Phật pháp nên đã hòan toàn chuyển đổi lại rồi, không những có phước báu mà còn trường thọ nữa. Tôi rất cảm khái, đến năm sau thì Cam Châu Hoạt Phật qua đời. Đây là một vị đại đức rất khó có trong Phật giáo Tây Tạng, là một vị thiện tri thức chân chánh, một người xuất gia rất có quy củ, thực sự rất hiếm thấy. Tôi ở Hương Cảng có gặp qua một người, đó là pháp sư Thánh Nhất ở chùa Bảo Lâm trên núi Đại Tự. Tôi đối với ông vô cùng tôn trọng, vô cùng kính ngưỡng. Nghe nói hai năm qua, thân thể ông không được tốt, ông có cống hiến rất lớn cho phật giáo Trung Quốc.
Cho nên mệnh có thể cải đổi, phương pháp cải mệnh chính là sau khi đã giác ngộ rồi thì không tiếp tục tạo ác nữa. Khởi tâm động niệm đều vì người khác, vì xã hội, vì chúng sanh mà nghĩ, quyết không phải vì bản thân mình. Câu nói này nói được rất dễ, nhưng làm không dễ chút nào. Liễu Phàm tiên sinh làm suốt mười mấy năm liền có cảm ứng hiện tiền. Tôi cũng làm gần 30 năm, cảm ứng cũng rất rõ ràng mà bản thân tôi có thể cảm nhận được. Sau khi học xong, tôi ra giảng kinh thuyết pháp, 20 năm mới có một đạo tràng nhỏ, chính là Hoa Tạng Đồ thư quán ở Kinh Mỹ. Tôi hoằng pháp 20 năm mới có một nơi như vậy. Sau 5 năm nữa mới có “Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội” này. Lại thêm 5 năm nữa, trên thế giới có rất nhiều nơi, chúng tôi thành lập nên “Tịnh Tông Đạo Tràng”. Cho đến năm ngoái, xác thực là lời nói của Kim Châu Hoạt Phật đã ứng nghiệm, mọi việc càng ngày càng thuận lợi, tâm cũng càng ngày càng thanh tịnh, càng ngày càng không nghĩ cho mình. Ngày nay tôi sống ở cái thế giới này là vì người khác mà sống, không phải vì chính mình, bản thân tôi không còn nữa. Danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần tôi thảy đều buông xuống cả rồi. Ấn Quang đại sư lúc cuối đời thường nói: tôi không có gì hết, tôi cũng không sợ chết. Tôi hiện tại cũng sắp nhập vào cảnh giới của đại sư rồi, bản thân không có gì, chân thật cũng không sợ chết. Chết đối với tôi mà nói là sự việc rất hoan hỷ, vô cùng hào hứng. Bởi vì tôi biết chết sẽ đi về đâu; sanh từ đâu tới, chết sẽ đi về đâu. Tất cả tôi đều rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Đây gọi là “mệnh do ngã tác, phúc tại kỷ cầu” (mệnh do mình tạo, phước tại mình cầu) vậy. Câu nói này là thật, một chút cũng không giả. Viên Liễu Phàm tiên sinh cải đổi vận mạng một cách không dễ dàng gì. Về sau khi đọc đến đoạn văn này tôi sẽ đề tỉnh cho quý vị. Tôi khi cải đổi vận mạng của mình, tôi rất may mắn, tôi so với ông thuận lợi hơn rất nhiều. Nguyên nhân là bởi tôi trước sau đều không rời thầy, thầy thường ở bên cạnh đốc thúc, chỉ dạy, điều này mang lại lợi ích rất lớn. Tôi học cùng Chương Gia đại sư 3 năm, học cùng thầy Lý 10 năm, 13 năm này tôi luôn ở bên cạnh thầy. Điều này có được lợi ích vô cùng lớn. Tôi lúc đó chung quy vẫn còn trẻ tuổi, cho dù đã rất dụng công nhưng vẫn không đạt được cái tiêu chuẩn mà người xưa nói. Bản thân tôi đã rất dụng công nỗ lực, cho dù đã cố hết sức thì điểm số cũng không vượt quá 60 điểm, cũng chỉ đủ điểm đậu mà thôi. Hiện tại đại khái có thể đạt được tám, chín mươi điểm. Hiệu quả ngày càng rõ ràng, cái sự việc này, cổ đại đức nói chính là “chân can (tức chân thành)”. Tôi tổng hợp tâm đắc của bản thân sau 50 năm học Phật viết ra 20 chữ. Có người hỏi tôi: Pháp sư, ngài tu như thế nào, dạy người ra sao? Tôi đều là ở trong 20 chữ “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Mười chữ này là dụng tâm. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên. Nhà Phật nói chữ duyên là đối với người, đối với sự; hoàn cảnh nhân sự là dùng chữ duyên để nói, hoàn cảnh vật chất là nói đến cảnh giới, thuận cảnh hay nghịch cảnh là nói về hòan cảnh vật chất, còn thiện duyên hay ác duyên là nói về hoàn cảnh nhân sự. Chúng ta cần phải trong những cảnh duyên đó mà tôi luyện bản thân, nhất định phải lấy tâm chân thành mà xử sự, đối người, tiếp vật. Người khác dùng tâm hư vọng đối với ta, không có quan hệ, đó là anh ta, cùng ta không liên can. Thậm chí là anh ta hủy báng ta, vũ nhục ta, hãm hại ta, cùng ta không liên can. Bản thân chúng ta chỉ dùng tâm chân thành để đối người. Làm được như vậy thì sẽ chuyển họa thành phước, chuyển được rất nhanh, tai tiêu phước đến.
Xử sự đối người tiếp vật cần phải dùng tâm thanh tịnh, thanh tịnh tức là một trần cũng không nhiễm, thuận cảnh tuyệt không khởi tâm tham luyến, ác cảnh không khởi tâm sân hận; phải luôn giữ được tâm thanh tịnh, bình đẳng của chúng ta, tự nhiên sẽ sinh trí huệ. Tâm ái hộ nhất thiết chúng sanh tự nhiên sinh ra, đó gọi là từ bi tâm. Từ bi tâm phải hai, ba năm mới có hiệu nghiệm. Lúc trước, tôi có đọc truyện ký của Ấn Quang đại sư, căn phòng khi đại sư mới ở, trong đó có rất nhiều muỗi, ruồi, bọ chét, chúng gây nhiều trở ngại. Thị giả của đại sư, tức người chăm sóc ông, muốn thanh trừ bọn chúng, đem bọn chúng đuổi đi hết. Đại sư nói: không cần, trong nhà có con vật, cho thấy đức hạnh tu hành của chúng ta chưa đủ, cho nên không thể cảm động được chúng, vì vậy không cần đuổi chúng đi. Sau khi đại sư 70 tuổi, trong phòng ở của Ngài muốn tìm một con cũng không thấy, quả nhiên chúng đã dọn nhà rồi, thuật ngữ trong nhà Phật gọi là “thiên đan (chuyển đến nơi khác)”, những con vật này đã chuyển đi rồi. Ấn Quang đại sư là sau 70 tuổi, tôi hiện tại cũng đã qua 70 tuổi rồi, hai năm gần đây, tôi rất hoan hỷ vì đã có hiệu quả, căn phòng tôi ở cũng có kiến, gián; cũng thường hay thấy; nhưng trong hai năm gần đây đã dần dần ít đi. Tôi ở tại một địa phương ở Toowoomba cũng đã được 1 năm 8 tháng, lúc mới mua nó, kiến rất nhiều, còn có gián, côn trùng cũng rất nhiều. Sống trên núi với tôi còn có hai vị đồng tu, tôi nói với họ nhất định không được giết chúng. Đối với những động vật nhỏ này cần phải dùng tâm thanh tịnh, dùng tâm cung kính mà đối đãi. Không những không được giết những con kiến nhỏ này, mà ngay cả ý niệm làm hại chúng cũng phải đoạn sạch. Khi nhìn thấy chúng, chúng ta phải chắp tay lại, cung kính mà nói “bồ tát kiến, bồ tát gián”, chúng ta phải dùng cái tâm này mà đối với chúng. Nói với chúng rằng: môi trường sống của chúng ta không giống nhau, bên trong căn phòng này là chỗ của chúng tôi, còn bên ngoài căn phòng này là môi trường sống của các bạn. Hy vọng chúng ta có thể đối xử hòa hài với nhau, hai bên không quấy nhiễu nhau, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Phải thường dùng cái tâm như vậy mà đối đãi với chúng, khuyến miễn chúng. Một năm rưỡi sau, tôi thấy kiến đã ít đi chín mươi phần trăm, hiện tại vẫn còn nhưng rất ít, chứ không như lúc trước chúng kéo đàn kết bè lại. Tôi nói với mọi người rằng, chúng ta nỗ lực thêm hai năm nữa, có lẽ hoàn toàn không còn nữa. Phải dùng tâm yêu thương chân thành như vậy để đối với những động vật nhỏ, không chỉ đối với động vật nhỏ mà ngay cả với thực vật cũng không ngoại lệ. Trong hoa viên của chúng ta có rất nhiều cỏ, nhiều cây cối, còn có rau nữa. Trên núi, chúng ta trồng rất nhiều rau, chúng ta cũng phải dùng tâm yêu thương để đối đãi nó, để chiếu cố nó. Hoa nở rất đẹp, cũng tỏa ra rất nhiều hương. Những loại cây cối, rau củ này sinh trưởng rất tốt. Chúng ta không cần dùng phân bón, cũng không cần dùng đến thuốc trừ sâu, hoàn toàn không cần, chỉ cần dùng tâm yêu thương để bảo hộ chúng. Có cảm ứng, ngay cả cây cối hoa cỏ cũng đều có cảm ứng, điều này khiến chúng ta nghĩ đến một truyền thuyết thời xưa “sinh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu”, ngay cả đá cũng cảm động. Chúng ta hiện nay vẫn chưa có được cái cảm ứng này. Hiên tại, tôi chỉ mới có sự tương giao với thực vật, cùng thực vật có sự cảm ứng, còn với đất đá thì vẫn chưa có. Công phu của Sinh công so với tôi đã cao hơn một bậc. Tôi vẫn chưa đạt đến công phu của ông ấy. Đây đều là muốn nói với chư vị rằng “mệnh do mình tạo, phước do mình cầu”. Trong cuộc đời tôi, đây là điều tôi mà thể nghiệm được trong suốt 50 năm học Phật, vận mạng đã hoàn toàn chuyển đổi được. Tuy rằng không thể nói là đạt được đại tự tại, đại viên mãn, nhưng cũng đã tiếp cận được đến cái gọi là tự tại, viên mãn; có tín tâm là sẽ đạt được.
Phía sau, trên văn tự viết: <thi thư sở xưng, đích vi minh huấn>thi thư sở xưng, đích vi minh huấn>, đây là những giáo huấn rất rõ ràng, minh bạch được nói đến trong các tác phẩm của Cổ Thánh Tiên Hiền, chúng ta cần phải tin tưởng.
<ngã giáo điển trung thuyết>ngã giáo điển trung thuyết>, “ngã” là chỉ cho Vân Cốc thiền sư, ông là người xuất gia. “Ngã giáo” là chỉ Phật giáo. Trong kinh điển Phật giáo có nói: , phàm phu chúng ta không thể vô cầu.
Tôi lúc mới học Phật, trong tâm cũng có mong cầu. Chương Gia đại sư nhìn thấy được đã dạy tôi: “Phật thị môn trung hữu cầu tất ứng”. Đây là lão nhân gia đã dạy cho tôi phương pháp để cầu. Viên Liễu Phàm là do Vân Cốc thiền sư dạy cho cách cầu, còn phương pháp của tôi là do Chương Gia đại sư truyền cho tôi. Ngôn ngữ so với Vân Cốc thiền sư thì đơn giản hơn nhưng lại vô cùng có hiệu quả. Ngài dạy cho tôi: khi ông dùng chân tâm để cầu mà không có cảm ứng, khi cầu mà không có cảm, đây là nguyên nhân gì? Đó là do nghiệp chướng của ông quá nặng, chướng ngại không phải ở phật pháp, không phải tại bên ngòai mà chính là từ trên thân chúng ta, do bản thân chúng ta có nghiệp chướng. Chỉ cần đem nghiệp chướng tiêu trừ hết thì cảm ứng liền hiện tiền, hữu cầu tất ứng.
Tôi lại hỏi ông, hướng đến lão sư mà thỉnh giáo, tôi hỏi: nghiệp chướng làm sao tiêu trừ? Ông nói với tôi: sám hối. “Sám trừ nghiệp chướng”, đây cũng là điều mà Phổ Hiền bồ tát trên kinh Hoa Nghiêm đã nói. Sau đó lại dạy cho tôi làm sao để sám hối? Tuyết đối không phải đi lạy Lương Hoàng sám, lạy Thủy sám, không phải làm cái việc này. Cho nên, vị thầy mà tôi gặp được, chân thật là một vị thầy giỏi. Ông nói: Phật pháp không tại hình thức, mà ở thực chất. Cái gì gọi là thực chất? chính là về sau không làm nữa. Ví như chúng ta khởi lên ý niệm không tốt, nói những lời không tốt, làm những việc không tốt, hiện tại biết đó là lỗi, là sai rồi thì về sau sẽ không phạm lại sai lầm đó nữa, đó mới gọi là chân thật sám hối, như vậy mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng.
Giả như bạn ở trước Phật, Bồ Tát tụng kinh niệm chú, cho là đã sám hối rồi, sau khi sám thì lại tạo, tạo xong lại sám. Như vậy chẳng có lợi ích gì, hòan toàn sai rồi. Thầy đã nói với tôi lời thật, phật pháp trọng thực chất, không trọng hình thức. Thí như nói đến giới luật, ông vô cùng coi trọng giới luật. Tôi theo học với ông ba năm, ông đề cập đến sự quan trọng của giới luật, tổng cộng hết 10 lần, khiến ấn tượng của tôi rất sâu.
Làm sao để trì giới? Ông nói với tôi: không cần phải đến bất cứ nơi nào cầu pháp sư thọ giới. Ông nói: không cần thiết, vô dụng. Tôi hỏi: vậy phải làm sao? Học một điều, làm được một điều, vậy thì điều này bạn giữ được. Thí như không sát sanh, bạn chân chánh làm đến được, đối với tất cả sinh vật bạn tuyệt đối không khởi lên ý niệm sát hại, như vậy bạn đối với cái giới này đã giữ được viên mãn, mà không nhất định phải đi thọ giới. Đến giới đàn thọ giới, thọ giới rồi, bạn lại không làm được, như vậy bạn hoàn toàn đã phá giới, phạm giới rồi, không phải là tội càng thêm tội hay sao?
Lão sư đã dạy cho tôi chính là cái phương pháp này; học một điều, làm một điều, làm được rồi thì chính là chân chánh trì giới. Cho nên tôi học Phật, đắc lực là ở sự giáo huấn của những đại thiện tri thức. Vào năm ngoái, tôi gặp tổng thống Nathan của Singapore, chúng tôi cùng nhau ăn cơm. Tổng thống Nathan là giáo đồ của Ấn Độ giáo (đạo Hindu). Ông nói với tôi: phật giáo trọng thực chất, không trọng hình thức. Tôi nghe xong, ngồi ngẩn ra. Câu nói này mấy chục năm trước là Chương Gia đại sư đã nói với tôi. Trong suốt mấy chục năm qua, tôi chưa từng nghe thấy ai nhắc đến câu này cả. Tôi nghe tổng thống Nathan nói vậy, liền biết ông là người “trong nghề”, người này không đơn giản. Cho nên tôi đối với ông rất kính trọng.
Chúng ta phải hiểu được rốt cuộc làm sao để cầu, chân chánh tiêu trừ nghiệp chướng rồi thì hữu cầu tất ứng. Nhưng nếu nghiệp chướng tập khí quá nặng thì sao? cái này không đáng lo, chúng ta cần phải nhẫn nại, cần thời gian để tiêu trừ. Liễu Phàm tiên sinh dùng thời gian mấy mươi năm, tôi cũng dùng từ hai mươi đến ba mươi năm, cho nên bạn không có khỏang thời gian đủ dài thì không được, không phải nói đoạn thì có thể đoạn được, nào có dễ dàng như vậy chứ.
Tập khí của chúng ta nhất định phải đè phục nó xuống, phải thường thường cảnh tỉnh bản thân. Cho nên cổ nhân rất coi trọng việc đọc tụng, điều này rất có đạo lý. Bản thân tôi một đời này có thể thành tựu, tôi biết được đó là nhờ tôi ở trên giảng đài. Hơn bốn mươi năm qua, tôi không một ngày nào gián đoạn trên giảng đài. Ngày ngày giảng kinh, ngày ngày khuyên người khác, cũng chính là ngày ngày khuyên chính mình. Người khác có được lợi ích hay không, tôi không biết, nhưng bản thân tôi chân thật có được lợi ích. Đây chính là điều trong nhà Phật thường nói: “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Nếu như không được huân tu trong thời gian dài, làm sao có được thành tựu. Tập khí xấu của chúng ta cũng là do vô lượng kiếp huân tập mà thành, đều là trường thời huân tu. Hiện tại chúng ta cần phải đem những tập khí xấu, tập khí ác này tiêu trừ, cần phải học tập Cổ Thánh Tiên Hiền, học tập Phật Bồ tát, điều này vẫn là cần phải có thời gian. Cho nên nếu như không có thời gian tương đối dài, cần có quyết tâm, có nỗ lực, đọan trừ tập khí của mình mới có thể viên mãn thành tựu.
05:30 CH 10/12/2013
Suất ăn miễn phí, chúng ta có thể giúp được gì?...
Vì sao phải bố thí? Vì Bố thí đem lại nhiều lợi ích sau đây : Bố thí là một kho tàng phước đức luôn luôn đi theo người chủ (tức người cho) đời này sang đời khác; bố thí xây dựng hạnh phúc và tiêu trừ đau khổ; người biết bố thí thì ai cũng thương mến; bố thí làm cho tâm (người cho) được an vui, khi gần chết tâm không sợ hãi; bố thí tiêu trừ lòng tham lam bỏn xẻn; người biết bố thí thì chư Thiên ủng hộ; bố thí là con đường trong sạch mà tất cả Thánh nhân đều đã đi qua; bố thí là một thiện nghiệp sẽ cho ra quả báo tốt; bố thí là hành động của những người hùng; bố thí sẽ tiêu trừ sự nghèo và đóng cửa dẫn đến ba đường ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh); bố thí giữ gìn công đức; bố thí là điều kiện đầu tiên của con đường dẫn đến Niết Bàn; bố thí là gốc rễ của tất cả thiện pháp; bố thí là nhà ở của những người cao quý, là thú vui của những bậc Thánh (Arya) và Vĩ nhân; bố thí là một cái gương sáng đáng để cho những người thiếu phước đức và trí huệ noi theo.
(Thích Trí Siêu)
03:56 CH 10/12/2013
Suất ăn miễn phí, chúng ta có thể giúp được gì?...
Mình cũng đã chuyển khoản 500k ủng hộ Quỹ Viện Nhi, Lá check giúp mình nhé.
06:25 CH 26/11/2013
Xem Kinh Dịch lập quẻ trọn đời,lập quẻ tức thời...
Hòa Thượng Tịnh Không giảng tại Phật Ðà Giáo Dục Hiệp Hội, Hồng Công (7-17-2004):
Vận mạng có thể nói là một cái thường số (hằng số). Các bạn phải hiểu đạo lý này, nó chẳng phải là định số. Trong thường số có biến số, khi bạn khởi một ý niệm thiện, một hành vi thiện thì mạng của bạn tăng thêm một chút; khi bạn khởi một ác niệm hoặc làm một việc xấu thì mạng bạn giảm một chút. Bất luận là trí huệ, đức năng, tướng hảo mỗi ngày đều có thêm, bớt, nhân, trừ. Những cái thêm, bớt, nhân, trừ này là biến số. Ngài nói: “Hai chục năm nay anh bị người ta đoán chắc rồi, chẳng có gia tăng và cũng chẳng giảm bớt, nếu anh không là phàm phu thì ai mới là phàm phu?” Cho nên câu chuyện này nói rõ về nhân quả, khi bạn có ý niệm thiện, có hành vi thiện, làm lợi ích chúng sanh, lợi ích cá nhân, trí huệ của bạn sẽ tăng trưởng, khả năng và phước báo của bạn cũng sẽ tăng trưởng; cái thường số của bạn sẽ tăng trưởng. Ngược lại nếu bạn khởi ác niệm, hành vi xấu ác, thì thường số ấy sẽ giảm bớt. Thí dụ giàu có, bạn chẳng cầu giàu có! Trong vận mạng của bạn có của cải vạn ức, của cải vạn ức này chẳng xứng tánh, nếu xứng tánh thì nó sẽ vô lượng vô biên, đây là gì? Bạn tu thiện nhiều đời nhiều kiếp tích lũy lại nhân thiện này, bạn tu như thế nào? Chỉ có kinh Phật giảng rõ ràng, kinh Phật dạy chúng ta đây là “Trong cửa nhà Phật có cầu ắt ứng”. Thầy tôi dạy dùng phương pháp gì để cầu? Bạn mong muốn tiền tài, tôi chẳng muốn phát tài, chẳng mong cầu có quá nhiều tiền tài, chỉ hy vọng đời sống vật chất của mình đầy đủ là được rồi, nếu muốn như vậy cũng phải tu, tu như thế nào? Tu bố thí tài vật. Nếu không có tiền thì làm sao tu bố thí tài vật? Thầy tôi hỏi: “Anh có một đồng hay không, có mười xu không?” Như vậy cũng được, một đồng, mười xu cũng có thể tu bố thí tài vật, khi nào có bèn bố thí. Như vậy cũng tu được, thế nên chúng tôi mới hiểu. Tu bố thí gì? Vì lúc đó tôi đã tiếp xúc với Phật pháp, cũng thường đến chùa, trong chùa có người tổ chức in kinh. “Bạn ra bao nhiều tiền?”, tôi góp một đồng, góp hai đồng, "tích lông nên áo" ý nghĩa giống câu "góp gió thành bão", để những kinh điển, sách khuyến thiện này có thể xuất bản. Trong trường hợp này chúng ta lấy tiền đi bố thí, trong mạng của mình chẳng có tiền tài nhưng từ từ sẽ có tài, tiền tài ngày càng gia tăng. Chẳng có thông minh trí huệ, bố thí pháp sẽ được thông minh trí huệ; in kinh luận và sách khuyến thiện là bố thí pháp, từ từ sẽ có trí huệ, đây là cách tu trí huệ; khoẻ mạnh sống lâu là do bố thí vô úy. Học bố thí vô úy thì tôi làm hai việc: thứ nhất là phóng sanh, thứ nhì là bố thí thuốc men; bố thí thuốc men lúc bấy giờ rất khó nhọc, tôi chẳng có tiền, hai ba tháng mới để dành được một ít tiền, chỉ được hai ba chục đồng thôi, hai ba tháng mới có hai ba chục đồng để tặng cho bịnh viện, giúp cho những người nghèo khổ mua thuốc men, cho họ tiền thuốc. Quả báo của phóng sanh và bố thí thuốc men là được khoẻ mạnh và trường thọ. Bạn hãy làm suốt đời chẳng gián đoạn, có bao nhiêu sức lực thì làm bấy nhiêu, chúng ta hãy làm những chuyện thiện này. Tôi đã làm được năm mươi ba năm, càng làm càng hoan hỷ, các bạn có thể nhìn thấy quả báo chăng? Trong mạng tôi chẳng có phước báo, trong số mạng tôi chẳng có trường thọ, thầy bói đoán mạng tôi chẳng bằng ông Liễu Phàm, ông Liễu Phàm thọ được năm mươi ba tuổi, thọ mạng của tôi chỉ được bốn mươi lăm tuổi thôi. Ấn Quang đại sư, các bạn cũng biết lúc Ấn Quang đại sư còn trẻ tuổi, người ta đoán mạng Ngài chỉ có ba mươi tám tuổi, Ngài đã sống đến tám mươi tuổi, cả đời khổ hạnh tu thành một vị Tổ Sư, đây là do Ngài tu mà được chứ chẳng phải trong mạng có sẵn, đây là phương pháp cải tạo vận mạng. Cho nên ông Liễu Phàm được sự dạy dỗ của Vân Cốc thiền sư, Trung Phong thiền sư, ông y giáo phụng hành nên đã thành công. Lúc tôi còn trẻ, người ta đoán mạng cho tôi, mạng tôi rất bần tiện, “bần” nghĩa là không giàu có, “tiện” nghĩa là không có địa vị, số tôi là số mạng một người công chức nhỏ, miễn cưỡng có thể duy trì được no ấm, thọ mạng chẳng dài, tôi rất tin. Ở đây chúng ta cử ra một thí dụ, thí dụ chuyện phát tài, phía trước cũng đã nói qua, trong mạng của bạn có một ức (một trăm triệu), giả sử có nhiều tiền như vậy, nếu tâm của bạn hiền hậu, hành vi lương thiện, tuyệt đối chẳng làm việc hại người lợi mình, còn có thể hy sinh cống hiến, thế thì trong đời này bạn sẽ không chỉ có một ức thôi đâu, có thể sẽ có hai ức, tại sao? Nó tăng thêm, do tâm hạnh của bạn quá tốt, trong số mạng đã có mà cả đời còn tiếp tục tu bố thí nữa, làm những việc từ thiện, đem phước lợi cho xã hội, nếu bạn chịu làm những chuyện này, lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội, tiền tài của bạn từ mức căn bản này càng tăng thêm lên, đây là trồng thiện nhân gặt được thiện quả. Nếu chẳng hiểu đạo lý ấy, bạn làm thế nào kiếm ra tiền tài? Bạn phải gạt người khác, trong tâm luôn luôn nghĩ chuyện hại người lợi mình, bạn có thể phát tài hay không? Cũng phát tài nhưng đại khái chỉ có ba chục triệu, năm chục triệu, một ức đã bị giảm hết phân nửa, giảm hết một phần ba, đó là tại sao? Do nghiệp chẳng thiện của bạn tạo thành, nó giảm bớt, do đó có thể hiểu tại sao lại thêm, bớt, nhân, trừ. Là vì tiền tài trong số mạng của bạn quá nhiều, tuy tạo rất nhiều ác nghiệp nhưng vẫn còn dư, sau khi giảm bớt cũng còn dư một số, số còn dư này cũng khá lớn, đạo lý là như vậy. Nếu bạn thông hiểu đạo lý này, thông minh trí huệ, khoẻ mạnh sống lâu đều giống như vậy. Chúng ta phải hiểu đạo lý nhân quả, sự thật nhân quả đều ở ngay trước mắt, chỉ cần bạn quan sát kỹ lưởng, bạn xem hết thảy chúng sanh, bạn xem họ suy nghĩ những gì, họ làm chuyện gì, họ nói những gì, nếu những thứ đó tương ứng với tâm tánh, thì phước báo nhất định sẽ tăng trưởng, phước báo vốn có trong số mạng tăng lên cũng như có thêm lời. Nếu cách suy nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm, đều là hại người, chỉ biết tự tư tự lợi, chẳng màng người khác sống chết ra sao, thế thì những gì họ đạt được sẽ bị giảm bớt rất nhiều, những gì còn lại chẳng bao nhiêu! Chỉ cần bạn để ý quan sát thì đều ở ngay trước mặt. Trên thế gian này bất luận lúc nào, bất luận ở đâu, nếu bạn quan sát thì sẽ thấy được rõ ràng, sau đó bạn mới biết mình phải làm như thế nào. Tôi ở đây hiện thân thuyết pháp cho các bạn xem, trong số mạng tôi chẳng có phước báo, chẳng trường thọ, chỉ có một chút thông minh trí huệ, rất may mắn gặp được duyên tốt, cả đời này gặp được thầy tốt chỉ đạo, tự mình là một học trò ngoan, có thể y giáo phụng hành, chuyển biến vận mạng đời này quay ngược một trăm tám mươi độ. Chẳng có tiền tài, nhưng ngày nay tôi muốn chi dùng gì được nấy, tuy chẳng có tiền nhưng khi làm việc gì cần bao nhiêu thì tiền tự động đến, lúc chẳng làm việc gì thì cái gì cũng không có, khi muốn làm thì có đầy đủ. Thông minh trí huệ, mấy năm nay các bạn coi tôi giảng kinh, nghe tôi giảng kinh, tôi đã giảng kinh hết bốn mươi chín năm, mỗi năm mỗi khác, so sánh tôi giảng năm nay với những cuồn băng thâu hình cũ thì sẽ thấy rõ, trí huệ ngày càng gia tăng. Khỏe mạnh sống lâu thì khỏi nói nữa, số mạng tôi chỉ sống đến bốn mươi lăm tuổi, năm nay tôi bảy mươi tám tuổi rồi. Thân thể khỏe mạnh, về thể lực thì lần này chúng tôi đi du lịch Âu châu, người đi chung lớn tuổi nhất cũng chỉ là sáu mươi mấy tuổi, thể lực những người bốn mươi mấy tuổi chẳng bằng tôi, tôi chẳng bị thời sai (náo lộn giờ giấc khi đến một địa phương khác múi giờ trên trái đất). Cho nên cả đời tôi hoàn toàn chứng minh cho câu mà thầy tôi đã dạy: “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”, câu này là một sự thật vững chắc như đinh đóng cột. Bạn phải hiểu lý luận, biết phương pháp, mong cầu đúng như lý, như pháp thì chẳng gì cầu không được, ngay cả việc thành Phật làm Tổ cũng có thể làm được huống chi là tiền tài, thông minh trí huệ, khoẻ mạnh sống lâu trên thế gian, đây là những chuyện trong Phật pháp gọi là chuyện lông gà, vỏ tỏi, chuyện quá nhỏ nhoi, rất dễ đạt được. Nhưng chúng ta phải cầu chuyện lớn hơn nữa, phải cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, cầu nâng cao linh tánh của mình, đề cao đức hạnh, trí huệ của mình, những thứ này đều quan trọng. Bây giờ đã hết giờ, xin cám ơn quý vị.
06:19 CH 25/11/2013
Hội những người yêu thích môn Tử Vi ( phần 5)
Hòa Thượng Tịnh Không giảng tại Phật Ðà Giáo Dục Hiệp Hội, Hồng Công (7-17-2004)
Vận mạng có thể nói là một cái thường số (hằng số). Các bạn phải hiểu đạo lý này, nó chẳng phải là định số. Trong thường số có biến số, khi bạn khởi một ý niệm thiện, một hành vi thiện thì mạng của bạn tăng thêm một chút; khi bạn khởi một ác niệm hoặc làm một việc xấu thì mạng bạn giảm một chút. Bất luận là trí huệ, đức năng, tướng hảo mỗi ngày đều có thêm, bớt, nhân, trừ. Những cái thêm, bớt, nhân, trừ này là biến số. Ngài nói: “Hai chục năm nay anh bị người ta đoán chắc rồi, chẳng có gia tăng và cũng chẳng giảm bớt, nếu anh không là phàm phu thì ai mới là phàm phu?” Cho nên câu chuyện này nói rõ về nhân quả, khi bạn có ý niệm thiện, có hành vi thiện, làm lợi ích chúng sanh, lợi ích cá nhân, trí huệ của bạn sẽ tăng trưởng, khả năng và phước báo của bạn cũng sẽ tăng trưởng; cái thường số của bạn sẽ tăng trưởng. Ngược lại nếu bạn khởi ác niệm, hành vi xấu ác, thì thường số ấy sẽ giảm bớt. Thí dụ giàu có, bạn chẳng cầu giàu có! Trong vận mạng của bạn có của cải vạn ức, của cải vạn ức này chẳng xứng tánh, nếu xứng tánh thì nó sẽ vô lượng vô biên, đây là gì? Bạn tu thiện nhiều đời nhiều kiếp tích lũy lại nhân thiện này, bạn tu như thế nào? Chỉ có kinh Phật giảng rõ ràng, kinh Phật dạy chúng ta đây là “Trong cửa nhà Phật có cầu ắt ứng”. Thầy tôi dạy dùng phương pháp gì để cầu? Bạn mong muốn tiền tài, tôi chẳng muốn phát tài, chẳng mong cầu có quá nhiều tiền tài, chỉ hy vọng đời sống vật chất của mình đầy đủ là được rồi, nếu muốn như vậy cũng phải tu, tu như thế nào? Tu bố thí tài vật. Nếu không có tiền thì làm sao tu bố thí tài vật? Thầy tôi hỏi: “Anh có một đồng hay không, có mười xu không?” Như vậy cũng được, một đồng, mười xu cũng có thể tu bố thí tài vật, khi nào có bèn bố thí. Như vậy cũng tu được, thế nên chúng tôi mới hiểu. Tu bố thí gì? Vì lúc đó tôi đã tiếp xúc với Phật pháp, cũng thường đến chùa, trong chùa có người tổ chức in kinh. “Bạn ra bao nhiều tiền?”, tôi góp một đồng, góp hai đồng, "tích lông nên áo" ý nghĩa giống câu "góp gió thành bão", để những kinh điển, sách khuyến thiện này có thể xuất bản. Trong trường hợp này chúng ta lấy tiền đi bố thí, trong mạng của mình chẳng có tiền tài nhưng từ từ sẽ có tài, tiền tài ngày càng gia tăng. Chẳng có thông minh trí huệ, bố thí pháp sẽ được thông minh trí huệ; in kinh luận và sách khuyến thiện là bố thí pháp, từ từ sẽ có trí huệ, đây là cách tu trí huệ; khoẻ mạnh sống lâu là do bố thí vô úy. Học bố thí vô úy thì tôi làm hai việc: thứ nhất là phóng sanh, thứ nhì là bố thí thuốc men; bố thí thuốc men lúc bấy giờ rất khó nhọc, tôi chẳng có tiền, hai ba tháng mới để dành được một ít tiền, chỉ được hai ba chục đồng thôi, hai ba tháng mới có hai ba chục đồng để tặng cho bịnh viện, giúp cho những người nghèo khổ mua thuốc men, cho họ tiền thuốc. Quả báo của phóng sanh và bố thí thuốc men là được khoẻ mạnh và trường thọ. Bạn hãy làm suốt đời chẳng gián đoạn, có bao nhiêu sức lực thì làm bấy nhiêu, chúng ta hãy làm những chuyện thiện này. Tôi đã làm được năm mươi ba năm, càng làm càng hoan hỷ, các bạn có thể nhìn thấy quả báo chăng? Trong mạng tôi chẳng có phước báo, trong số mạng tôi chẳng có trường thọ, thầy bói đoán mạng tôi chẳng bằng ông Liễu Phàm, ông Liễu Phàm thọ được năm mươi ba tuổi, thọ mạng của tôi chỉ được bốn mươi lăm tuổi thôi. Ấn Quang đại sư, các bạn cũng biết lúc Ấn Quang đại sư còn trẻ tuổi, người ta đoán mạng Ngài chỉ có ba mươi tám tuổi, Ngài đã sống đến tám mươi tuổi, cả đời khổ hạnh tu thành một vị Tổ Sư, đây là do Ngài tu mà được chứ chẳng phải trong mạng có sẵn, đây là phương pháp cải tạo vận mạng. Cho nên ông Liễu Phàm được sự dạy dỗ của Vân Cốc thiền sư, Trung Phong thiền sư, ông y giáo phụng hành nên đã thành công. Lúc tôi còn trẻ, người ta đoán mạng cho tôi, mạng tôi rất bần tiện, “bần” nghĩa là không giàu có, “tiện” nghĩa là không có địa vị, số tôi là số mạng một người công chức nhỏ, miễn cưỡng có thể duy trì được no ấm, thọ mạng chẳng dài, tôi rất tin. Ở đây chúng ta cử ra một thí dụ, thí dụ chuyện phát tài, phía trước cũng đã nói qua, trong mạng của bạn có một ức (một trăm triệu), giả sử có nhiều tiền như vậy, nếu tâm của bạn hiền hậu, hành vi lương thiện, tuyệt đối chẳng làm việc hại người lợi mình, còn có thể hy sinh cống hiến, thế thì trong đời này bạn sẽ không chỉ có một ức thôi đâu, có thể sẽ có hai ức, tại sao? Nó tăng thêm, do tâm hạnh của bạn quá tốt, trong số mạng đã có mà cả đời còn tiếp tục tu bố thí nữa, làm những việc từ thiện, đem phước lợi cho xã hội, nếu bạn chịu làm những chuyện này, lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội, tiền tài của bạn từ mức căn bản này càng tăng thêm lên, đây là trồng thiện nhân gặt được thiện quả. Nếu chẳng hiểu đạo lý ấy, bạn làm thế nào kiếm ra tiền tài? Bạn phải gạt người khác, trong tâm luôn luôn nghĩ chuyện hại người lợi mình, bạn có thể phát tài hay không? Cũng phát tài nhưng đại khái chỉ có ba chục triệu, năm chục triệu, một ức đã bị giảm hết phân nửa, giảm hết một phần ba, đó là tại sao? Do nghiệp chẳng thiện của bạn tạo thành, nó giảm bớt, do đó có thể hiểu tại sao lại thêm, bớt, nhân, trừ. Là vì tiền tài trong số mạng của bạn quá nhiều, tuy tạo rất nhiều ác nghiệp nhưng vẫn còn dư, sau khi giảm bớt cũng còn dư một số, số còn dư này cũng khá lớn, đạo lý là như vậy. Nếu bạn thông hiểu đạo lý này, thông minh trí huệ, khoẻ mạnh sống lâu đều giống như vậy. Chúng ta phải hiểu đạo lý nhân quả, sự thật nhân quả đều ở ngay trước mắt, chỉ cần bạn quan sát kỹ lưởng, bạn xem hết thảy chúng sanh, bạn xem họ suy nghĩ những gì, họ làm chuyện gì, họ nói những gì, nếu những thứ đó tương ứng với tâm tánh, thì phước báo nhất định sẽ tăng trưởng, phước báo vốn có trong số mạng tăng lên cũng như có thêm lời. Nếu cách suy nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm, đều là hại người, chỉ biết tự tư tự lợi, chẳng màng người khác sống chết ra sao, thế thì những gì họ đạt được sẽ bị giảm bớt rất nhiều, những gì còn lại chẳng bao nhiêu! Chỉ cần bạn để ý quan sát thì đều ở ngay trước mặt. Trên thế gian này bất luận lúc nào, bất luận ở đâu, nếu bạn quan sát thì sẽ thấy được rõ ràng, sau đó bạn mới biết mình phải làm như thế nào. Tôi ở đây hiện thân thuyết pháp cho các bạn xem, trong số mạng tôi chẳng có phước báo, chẳng trường thọ, chỉ có một chút thông minh trí huệ, rất may mắn gặp được duyên tốt, cả đời này gặp được thầy tốt chỉ đạo, tự mình là một học trò ngoan, có thể y giáo phụng hành, chuyển biến vận mạng đời này quay ngược một trăm tám mươi độ. Chẳng có tiền tài, nhưng ngày nay tôi muốn chi dùng gì được nấy, tuy chẳng có tiền nhưng khi làm việc gì cần bao nhiêu thì tiền tự động đến, lúc chẳng làm việc gì thì cái gì cũng không có, khi muốn làm thì có đầy đủ. Thông minh trí huệ, mấy năm nay các bạn coi tôi giảng kinh, nghe tôi giảng kinh, tôi đã giảng kinh hết bốn mươi chín năm, mỗi năm mỗi khác, so sánh tôi giảng năm nay với những cuồn băng thâu hình cũ thì sẽ thấy rõ, trí huệ ngày càng gia tăng. Khỏe mạnh sống lâu thì khỏi nói nữa, số mạng tôi chỉ sống đến bốn mươi lăm tuổi, năm nay tôi bảy mươi tám tuổi rồi. Thân thể khỏe mạnh, về thể lực thì lần này chúng tôi đi du lịch Âu châu, người đi chung lớn tuổi nhất cũng chỉ là sáu mươi mấy tuổi, thể lực những người bốn mươi mấy tuổi chẳng bằng tôi, tôi chẳng bị thời sai (náo lộn giờ giấc khi đến một địa phương khác múi giờ trên trái đất). Cho nên cả đời tôi hoàn toàn chứng minh cho câu mà thầy tôi đã dạy: “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”, câu này là một sự thật vững chắc như đinh đóng cột. Bạn phải hiểu lý luận, biết phương pháp, mong cầu đúng như lý, như pháp thì chẳng gì cầu không được, ngay cả việc thành Phật làm Tổ cũng có thể làm được huống chi là tiền tài, thông minh trí huệ, khoẻ mạnh sống lâu trên thế gian, đây là những chuyện trong Phật pháp gọi là chuyện lông gà, vỏ tỏi, chuyện quá nhỏ nhoi, rất dễ đạt được. Nhưng chúng ta phải cầu chuyện lớn hơn nữa, phải cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, cầu nâng cao linh tánh của mình, đề cao đức hạnh, trí huệ của mình, những thứ này đều quan trọng. Bây giờ đã hết giờ, xin cám ơn quý vị.
06:16 CH 25/11/2013
Suất ăn miễn phí, chúng ta có thể giúp được gì?...
Lâu lâu tặng mọi người một bài pháp của pháp sư Tịnh Không để thêm ý chí thiện nguyện nhé :
Vận mạng có thể nói là một cái thường số (hằng số). Các bạn phải hiểu đạo lý này, nó chẳng phải là định số. Trong thường số có biến số, khi bạn khởi một ý niệm thiện, một hành vi thiện thì mạng của bạn tăng thêm một chút; khi bạn khởi một ác niệm hoặc làm một việc xấu thì mạng bạn giảm một chút. Bất luận là trí huệ, đức năng, tướng hảo mỗi ngày đều có thêm, bớt, nhân, trừ. Những cái thêm, bớt, nhân, trừ này là biến số. Ngài nói: “Hai chục năm nay anh bị người ta đoán chắc rồi, chẳng có gia tăng và cũng chẳng giảm bớt, nếu anh không là phàm phu thì ai mới là phàm phu?”
Cho nên câu chuyện này nói rõ về nhân quả, khi bạn có ý niệm thiện, có hành vi thiện, làm lợi ích chúng sanh, lợi ích cá nhân, trí huệ của bạn sẽ tăng trưởng, khả năng và phước báo của bạn cũng sẽ tăng trưởng; cái thường số của bạn sẽ tăng trưởng. Ngược lại nếu bạn khởi ác niệm, hành vi xấu ác, thì thường số ấy sẽ giảm bớt. Thí dụ giàu có, bạn chẳng cầu giàu có! Trong vận mạng của bạn có của cải vạn ức, của cải vạn ức này chẳng xứng tánh, nếu xứng tánh thì nó sẽ vô lượng vô biên, đây là gì? Bạn tu thiện nhiều đời nhiều kiếp tích lũy lại nhân thiện này, bạn tu như thế nào? Chỉ có kinh Phật giảng rõ ràng, kinh Phật dạy chúng ta đây là “Trong cửa nhà Phật có cầu ắt ứng”. Thầy tôi dạy dùng phương pháp gì để cầu? Bạn mong muốn tiền tài, tôi chẳng muốn phát tài, chẳng mong cầu có quá nhiều tiền tài, chỉ hy vọng đời sống vật chất của mình đầy đủ là được rồi, nếu muốn như vậy cũng phải tu, tu như thế nào? Tu bố thí tài vật. Nếu không có tiền thì làm sao tu bố thí tài vật? Thầy tôi hỏi: “Anh có một đồng hay không, có mười xu không?” Như vậy cũng được, một đồng, mười xu cũng có thể tu bố thí tài vật, khi nào có bèn bố thí. Như vậy cũng tu được, thế nên chúng tôi mới hiểu.
Tu bố thí gì? Vì lúc đó tôi đã tiếp xúc với Phật pháp, cũng thường đến chùa, trong chùa có người tổ chức in kinh. “Bạn ra bao nhiều tiền?”, tôi góp một đồng, góp hai đồng, "tích lông nên áo" ý nghĩa giống câu "góp gió thành bão", để những kinh điển, sách khuyến thiện này có thể xuất bản. Trong trường hợp này chúng ta lấy tiền đi bố thí, trong mạng của mình chẳng có tiền tài nhưng từ từ sẽ có tài, tiền tài ngày càng gia tăng. Chẳng có thông minh trí huệ, bố thí pháp sẽ được thông minh trí huệ; in kinh luận và sách khuyến thiện là bố thí pháp, từ từ sẽ có trí huệ, đây là cách tu trí huệ; khoẻ mạnh sống lâu là do bố thí vô úy. Học bố thí vô úy thì tôi làm hai việc: thứ nhất là phóng sanh, thứ nhì là bố thí thuốc men; bố thí thuốc men lúc bấy giờ rất khó nhọc, tôi chẳng có tiền, hai ba tháng mới để dành được một ít tiền, chỉ được hai ba chục đồng thôi, hai ba tháng mới có hai ba chục đồng để tặng cho bịnh viện, giúp cho những người nghèo khổ mua thuốc men, cho họ tiền thuốc. Quả báo của phóng sanh và bố thí thuốc men là được khoẻ mạnh và trường thọ.
Bạn hãy làm suốt đời chẳng gián đoạn, có bao nhiêu sức lực thì làm bấy nhiêu, chúng ta hãy làm những chuyện thiện này. Tôi đã làm được năm mươi ba năm, càng làm càng hoan hỷ, các bạn có thể nhìn thấy quả báo chăng? Trong mạng tôi chẳng có phước báo, trong số mạng tôi chẳng có trường thọ, thầy bói đoán mạng tôi chẳng bằng ông Liễu Phàm, ông Liễu Phàm thọ được năm mươi ba tuổi, thọ mạng của tôi chỉ được bốn mươi lăm tuổi thôi. Ấn Quang đại sư, các bạn cũng biết lúc Ấn Quang đại sư còn trẻ tuổi, người ta đoán mạng Ngài chỉ có ba mươi tám tuổi, Ngài đã sống đến tám mươi tuổi, cả đời khổ hạnh tu thành một vị Tổ Sư, đây là do Ngài tu mà được chứ chẳng phải trong mạng có sẵn, đây là phương pháp cải tạo vận mạng. Cho nên ông Liễu Phàm được sự dạy dỗ của Vân Cốc thiền sư, Trung Phong thiền sư, ông y giáo phụng hành nên đã thành công. Lúc tôi còn trẻ, người ta đoán mạng cho tôi, mạng tôi rất bần tiện, “bần” nghĩa là không giàu có, “tiện” nghĩa là không có địa vị, số tôi là số mạng một người công chức nhỏ, miễn cưỡng có thể duy trì được no ấm, thọ mạng chẳng dài, tôi rất tin.
Ở đây chúng ta cử ra một thí dụ, thí dụ chuyện phát tài, phía trước cũng đã nói qua, trong mạng của bạn có một ức (một trăm triệu), giả sử có nhiều tiền như vậy, nếu tâm của bạn hiền hậu, hành vi lương thiện, tuyệt đối chẳng làm việc hại người lợi mình, còn có thể hy sinh cống hiến, thế thì trong đời này bạn sẽ không chỉ có một ức thôi đâu, có thể sẽ có hai ức, tại sao? Nó tăng thêm, do tâm hạnh của bạn quá tốt, trong số mạng đã có mà cả đời còn tiếp tục tu bố thí nữa, làm những việc từ thiện, đem phước lợi cho xã hội, nếu bạn chịu làm những chuyện này, lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội, tiền tài của bạn từ mức căn bản này càng tăng thêm lên, đây là trồng thiện nhân gặt được thiện quả. Nếu chẳng hiểu đạo lý ấy, bạn làm thế nào kiếm ra tiền tài? Bạn phải gạt người khác, trong tâm luôn luôn nghĩ chuyện hại người lợi mình, bạn có thể phát tài hay không? Cũng phát tài nhưng đại khái chỉ có ba chục triệu, năm chục triệu, một ức đã bị giảm hết phân nửa, giảm hết một phần ba, đó là tại sao? Do nghiệp chẳng thiện của bạn tạo thành, nó giảm bớt, do đó có thể hiểu tại sao lại thêm, bớt, nhân, trừ. Là vì tiền tài trong số mạng của bạn quá nhiều, tuy tạo rất nhiều ác nghiệp nhưng vẫn còn dư, sau khi giảm bớt cũng còn dư một số, số còn dư này cũng khá lớn, đạo lý là như vậy.
Nếu bạn thông hiểu đạo lý này, thông minh trí huệ, khoẻ mạnh sống lâu đều giống như vậy. Chúng ta phải hiểu đạo lý nhân quả, sự thật nhân quả đều ở ngay trước mắt, chỉ cần bạn quan sát kỹ lưởng, bạn xem hết thảy chúng sanh, bạn xem họ suy nghĩ những gì, họ làm chuyện gì, họ nói những gì, nếu những thứ đó tương ứng với tâm tánh, thì phước báo nhất định sẽ tăng trưởng, phước báo vốn có trong số mạng tăng lên cũng như có thêm lời. Nếu cách suy nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm, đều là hại người, chỉ biết tự tư tự lợi, chẳng màng người khác sống chết ra sao, thế thì những gì họ đạt được sẽ bị giảm bớt rất nhiều, những gì còn lại chẳng bao nhiêu! Chỉ cần bạn để ý quan sát thì đều ở ngay trước mặt. Trên thế gian này bất luận lúc nào, bất luận ở đâu, nếu bạn quan sát thì sẽ thấy được rõ ràng, sau đó bạn mới biết mình phải làm như thế nào.
Tôi ở đây hiện thân thuyết pháp cho các bạn xem, trong số mạng tôi chẳng có phước báo, chẳng trường thọ, chỉ có một chút thông minh trí huệ, rất may mắn gặp được duyên tốt, cả đời này gặp được thầy tốt chỉ đạo, tự mình là một học trò ngoan, có thể y giáo phụng hành, chuyển biến vận mạng đời này quay ngược một trăm tám mươi độ. Chẳng có tiền tài, nhưng ngày nay tôi muốn chi dùng gì được nấy, tuy chẳng có tiền nhưng khi làm việc gì cần bao nhiêu thì tiền tự động đến, lúc chẳng làm việc gì thì cái gì cũng không có, khi muốn làm thì có đầy đủ. Thông minh trí huệ, mấy năm nay các bạn coi tôi giảng kinh, nghe tôi giảng kinh, tôi đã giảng kinh hết bốn mươi chín năm, mỗi năm mỗi khác, so sánh tôi giảng năm nay với những cuồn băng thâu hình cũ thì sẽ thấy rõ, trí huệ ngày càng gia tăng. Khỏe mạnh sống lâu thì khỏi nói nữa, số mạng tôi chỉ sống đến bốn mươi lăm tuổi, năm nay tôi bảy mươi tám tuổi rồi. Thân thể khỏe mạnh, về thể lực thì lần này chúng tôi đi du lịch Âu châu, người đi chung lớn tuổi nhất cũng chỉ là sáu mươi mấy tuổi, thể lực những người bốn mươi mấy tuổi chẳng bằng tôi, tôi chẳng bị thời sai (náo lộn giờ giấc khi đến một địa phương khác múi giờ trên trái đất). Cho nên cả đời tôi hoàn toàn chứng minh cho câu mà thầy tôi đã dạy: “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”, câu này là một sự thật vững chắc như đinh đóng cột.
Bạn phải hiểu lý luận, biết phương pháp, mong cầu đúng như lý, như pháp thì chẳng gì cầu không được, ngay cả việc thành Phật làm Tổ cũng có thể làm được huống chi là tiền tài, thông minh trí huệ, khoẻ mạnh sống lâu trên thế gian, đây là những chuyện trong Phật pháp gọi là chuyện lông gà, vỏ tỏi, chuyện quá nhỏ nhoi, rất dễ đạt được. Nhưng chúng ta phải cầu chuyện lớn hơn nữa, phải cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, cầu nâng cao linh tánh của mình, đề cao đức hạnh, trí huệ của mình, những thứ này đều quan trọng. Bây giờ đã hết giờ, xin cám ơn quý vị.
Hòa Thượng Tịnh Không giảng tại Phật Ðà Giáo Dục Hiệp Hội,
Hồng Công (7-17-2004)
05:51 CH 23/11/2013
Cậu bé 1 tuổi đã trở thành... tỷ phú, Chủ tịch...
Luật Nhân quả thật là cao viễn
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai
04:35 CH 29/10/2013
Việt Nam có phải là con rồng châu Á mới?
Kinh tế ngày một gian nan mà Chính phủ vẫn vang bài ca cũ

Đại biểu Quốc hội Phạm Xuân Thăng nhận xét “nền kinh tế có nét tươi sáng nhưng cũng nhiều mảng xám”. Ảnh minh họa - Nguồn: ANTĐ.
Kinh tế ngày một gian nan mà Chính phủ vẫn vang bài ca cũ với những điệp khúc cũ cả trong cách đánh giá lẫn việc đưa ra giải pháp, là tâm tư của nhiều đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận tại tổ cả ngày 24/10 về tình hình kinh tế - xã hội.
Nhiều liên tưởng đến sự việc thật như đùa vừa diễn ra được dư luận cho là không chỉ cực hiếm gặp trong lịch sử hàng không Việt Nam mà còn trong cả lịch sử hàng không... thế giới, đó là một chiếc ATR 72 của Vietnam Airlines rơi mất một chiếc bánh lúc nào không hay, đại biểu Bùi Sỹ Lợi nói nền kinh tế Việt Nam như một chiếc xe chạy với 4 bánh mà 3 bánh đã “xịt lốp”!
“Nghe thì rất hay, làm thì loay hoay”
“Chúng ta cần phải nói thẳng với nhau rằng sức khỏe của nền kinh tế hiện nay là rất xấu, với những căn bệnh còn xấu hơn cả nợ xấu”, đại biểu Bùi Sỹ Lợi nói. Dẫn chứng ra một loạt những căn bệnh xấu hơn nợ xấu như đầu tư bất chấp hiệu quả, cơ sở dữ liệu hoạch định chính sách là rất rủi ro, độ tin cậy rất đáng nghi ngờ, nguồn nhân lực vừa thừa vừa thiếu đã lên đến mức nghiêm trọng...
Ông Lợi còn nhấn mạnh: “đã thế lại còn xuất hiện thêm căn bệnh xấu mới nữa là tồn kho chính sách, tồn kho thể chế”.
Bình luận thêm về tiến độ cũng như kết quả của tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, vị đại biểu này tỏ ra đầy hoài nghi về việc “Chính phủ luôn khẳng định quyết tâm tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, nhưng có một câu chuyện mà chúng ta vẫn nói nhiều năm qua là việc cho thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước, đến nay vẫn chưa thấy tổng kết để biết nó thế nào, thì biết tái thế nào? Vì thế, không xảy ra những vụ ầm ĩ như Vinashin, Vinalies mới là... lạ!”.
“Tái cơ cấu, nghe thì rất hay, làm thì loay hoay”, đại biểu Lê Minh Thông hưởng ứng “như việc tái cơ cấu các tập đoàn thì chuyển nó sang thành các tổng công ty, rồi đầu tư ngoài ngành thì giờ thành thoái vốn, còn bản chất tái cơ cấu như thế nào thì không thể biết ra sao!”.
Nhắc đến hai cơn bão vừa liên tục vùi dập miền Trung, ông Thông bình luận về việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó có tái cơ cấu cây trồng rằng “Không cơ quan nào lên tiếng can ngăn về việc đem cây cao su ra trồng miền Trung (một loại cây công nghiệp không thích hợp với vùng này vì không chịu được gió mạnh) và cũng không có cơ quan nào chịu trách nhiệm khi nông dân trắng tay”.
Đại biểu Nguyễn Văn Phúc đưa ra bình luận về việc đánh giá về tiến độ tái cơ cấu nền kinh tế, Chính phủ nói thế nào cũng đúng nhận định “đạt được kết quả bước đầu” nhưng ở địa phương thì là “chậm và lúng túng”.
Khẩu hiệu chung chung, sao thoát khó?
Cũng theo đại biểu Lê Minh Thông “Hoan nghênh cao với Chính phủ là về ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, đây là thành công đáng ghi nhận và phát huy”, nhưng gần như ngay lập tức, ông Thông nêu lên các thực trạng không sáng sủa khác của nền kinh tế như tồn kho vẫn là bài toán nổi lên đầy nhức nhối, tình hình thị trường bất động sản không có gì tích cực hơn so với năm ngoái và đến nay cũng không thấy có ánh sáng nào cho con đường tối này, vấn đề hấp thụ vốn của doanh nghiệp vẫn tiếp tục bế tắc dù ngân hàng có đến tận nơi để tiếp thị...
Đại biểu này kết luận: “Nỗi lo của nền kinh tế chúng ta là rất nặng nề. Cứ ca tụng là chúng ta vượt qua khủng hoảng, nhưng vượt qua không phải để đứng đấy hay thụt lùi, mà phải để tiến lên. Chúng ta chưa tận dụng được những cơ hội “lóe” ra từ khó khăn”.
Ông Thông còn nhận xét Chính phủ trong điều hành quá bận rộn với việc xử lý tình huống nên không có thời gian dành cho hoạch định các đường hướng phát triển nền kinh tế ổn định, lâu dài, đã thế, lại luẩn quẩn trong tư duy để cho “anh” nào trong nền kinh tế cũng sống được, nên rút cuộc là không “anh” nào sống cho ra sống để vượt qua gió bão.
Cùng một quan điểm như vậy, đại biểu Lê Thanh Vân đánh giá các chính sách của Chính phủ trong việc gỡ khó cho nền kinh tế chủ yếu mang tính “khẩu hiệu” và chung chung, luôn lặp lại từ năm này sang năm khác. Kinh tế ngày một gian nan nhưng vẫn luôn vang bài ca cũ thì làm sao nền kinh tế thoát khó?
Phân tích rõ hơn về bài ca cũ luôn vang lên, đại biểu Trần Ngọc Vinh nói “một điều rất quen thuộc khi đọc các báo cáo kinh tế xã hội hàng năm của Chính phủ, là thành tích bao giờ cũng nêu hết, liệt kê hết, nhưng tồn tại, hạn chế chỉ đề ra có “mức độ” thôi. Cứ khám bệnh như vậy thì đến giờ mới chữa được cho hết bệnh?”.
Đại biểu này còn phàn nàn “trong khi các nước trong khu vực đều phải trải qua khó khăn như ta cả nhưng họ đều đã vượt qua khó khăn được và phát triển tốt hơn ta vì họ có tầm nhìn trong hoạch định chính sách và một tinh thần thẳng thắn nhìn vào thực tế” và “khi chẻ nhỏ ra để phân tích thì ở ngay cả những lĩnh vực được coi là thành tích, tình hình cũng rất đáng nghi ngại! Như việc động lực cho tăng trưởng kinh tế đang nằm ở khu vực FDI. Chúng ta yên tâm làm sao được khi đi bằng đôi chân của người khác?”.

Có tươi sáng nhưng nhiều mảng xám

Đại biểu Phạm Xuân Thăng nhận xét “nền kinh tế có nét tươi sáng nhưng cũng nhiều mảng xám”. Về chuyện “xám” này, Đại biểu Nguyễn Hữu Quang nói “Theo báo cáo Chính phủ thì nền kinh tế chưa đến nỗi màu xám, nhưng thực tiễn lại khác, không những xám, mà còn rất xám, khi sau 13 năm vượt thu và vượt thu ngân sách ở mức cao, năm 2013, đã hụt thu. Ngay trong 11 chỉ tiêu đạt được, độ tin cậy cũng có vấn đề, đó là chưa nói đến bản chất của việc đạt, như nhập siêu giảm, tưởng là tích cực, nhưng thực tế là vì sức khỏe doanh nghiệp vẫn trong đà suy kiệt”.
Chung một hoài nghi như vậy, đại biểu Trần Văn Minh nhắc đến “căn bệnh kinh niên ở cấp độ toàn quốc là tăng trưởng thấp nhưng việc làm vẫn giữ nguyên không bị ảnh hưởng gì”. “Giờ tôi cũng không tin nợ xấu của mình là bao nhiêu? Nếu vấn đề này không được rõ ràng, minh bạch thì càng giấu nợ xấu kỹ bao nhiêu thì hậu quả càng nguy hiểm bấy nhiêu”, đại biểu Lê Văn Lai nêu quan điểm.
“Chúng tôi làm việc với các chuyên gia, họ cũng rất muốn có các con số chính xác để tham mưu nhưng rất khó. Trong khi, muốn đánh giá đúng thực trạng thì các con số phải chính xác”- Đại biểu Nguyễn Văn Phúc nhận định và cho biết về thực tế “chúng tôi đi các địa phương, đều nghe thấy doanh nghiệp phản ánh tình hình doanh nghiệp là cực kỳ khó khăn, vậy nói tăng trưởng kinh tế năm nay dự kiến đạt mức tăng 5,4% là dựa vào đâu?”.
Còn về chuyện “tươi sáng” của nền kinh tế, dưới góc nhìn của đại biểu Trương Trọng Nghĩa là: “Các thành tựu hiện nay nói với nhau chỉ để an ủi vậy thôi. Như việc chúng ta vẫn hay nói Việt Nam là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng thực chất đó là điểm đến của công nghệ lạc hậu, quản lý lỏng lẻo, chuyển giá...”.
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam)


http://vneconomy.vn/20131025124234369P0C9920/kinh-te-gian-nan-vang-bai-ca-cu.htm
06:38 CH 25/10/2013
Bộ trưởng Bộ Y tế nên từ chức!
Báo này gấu thật.Anh Như Phong dạo này gấu quá..
06:35 CH 25/10/2013
Rúng động: Sự thật về cái gọi là "Nhà ngoại cảm"
Công việc ngoại cảm là công việc mang tính chất tâm linh, đòi hòi phải có cái tâm, phải tu thập thiện, nếu không có tâm, mà lại kiêu ngạo hoặc ham hố vật chất hư danh thì sớm muộn cũng bị mất khả năng,do như Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã đã nói ở trên, là kết nối tâm linh , phát tín hiệu cho chư Phật, chư Bồ Tát, rồi chư Thiên, tâm mình ham hố không tương ưng với tâm Chư Phật, Bồ Tát, long thiên thiện thần, thiện quỷ liền mất khả năng, xưa Quốc sư Ngộ Đạt 10 kiếp tu hành, chỉ một giây nảy tâm kiêu ngạo khi nhìn vào gương nạm vàng kim cương do nhà vua tặng mà bị oan gia lọt vào gây bệnh khổ sở.
10:48 SA 24/10/2013
Rúng động: Sự thật về cái gọi là "Nhà ngoại cảm"
Chuyện ít biết về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã: Quy luật tâm linh và sự siêu thoát
Những người dù đã hoặc chưa gặp Nguyễn Văn Nhã đều tin rằng ông có khả năng “siêu phàm”. Bởi vì phương pháp của ông và một số người nữa là duy nhất. Với riêng Nguyễn Văn Nhã, ông chỉ coi đó là “quà tặng” của trời phật và muốn sẻ chia nó với tất cả mọi người. Hành trình ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã có thể nói là tuân theo quy luật tâm linh để đạt đến sự siêu thoát. Dù chưa có nhiều người trần mắt thịt hiểu được ý nghĩa thiêng liêng này nên vẫn cố công tìm kiếm, cố công trói buộc vong hồn người đã khuất vào những nắm xương, nấm mồ hoang lạnh rồi sẽ tan biến theo thời gian. Cho đến bây giờ, những người được ông Nhã trực tiếp giúp tìm mộ hoặc người nghe kể lại đều nghĩ rằng ông có khả năng điều khiển được “tín hiệu” giúp tìm mộ.
Ngoại cảm là kết nối các thế giới
Những cuộc tìm mộ kỳ diệu nối tiếp nhau, khi thì con người, lúc thì động vật cỏ cây, cả con sâu cái kiến cũng giúp chỉ mộ. Chuyện một vị luật sư người Mỹ gốc Việt lặn lội về nước tìm mộ mẹ ở Hà Tây, được ông vẽ sơ đồ đến giữa một cánh đồng rộng và dặn dò phải chờ một con trâu đến đứng vào chỗ đất nào thì đào lên ắt sẽ thấy mộ. Vị luật sư ngồi trên một gò đất giữa đồng chờ mãi vẫn không thấy con trâu nào. Đang lúc ông gọi điện thoại lại cho ông Nhã thì bỗng nghe tiếng sột soạt sau lưng. Ông giật mình quay lại thì thấy có một chú nghé húc liên hồi vào gò đất sau chỗ ông ngồi. Sau khi khấn nguyện, ông đào gò đất lên thì quả nhiên phát hiện hài cốt của mẹ mình. Hay trưởng một phòng của Sở GTVT Đồng Nai đi tìm mộ cha ở An Giang ngay vào mùa nước nổi. Ông Nhã sau khi miêu tả hình dáng người đã khuất để thân chủ xác nhận đã hướng dẫn người này đến một cánh đồng và đợi đúng 10h30 sẽ có một chú chó đốm trắng đứng một chỗ sủa liên hồi, chính là nơi chôn cất người chết. Vị trưởng phòng được các cán bộ xã dẫn ra giữa đồng cùng chờ đợi phần vì nhiệt tình, phần vì không tin chuyện ông Nhã nói là thật. Vì cả một vùng nước mênh mông, tìm đâu ra chó, mà lại là chó đốm trắng? Cả đoàn chờ đến gần đúng giờ thì nản, toan ra về. Bỗng nhiên, một chú chó đốm trắng từ đâu xuất hiện bơi sì sụp giữa đồng nước ra đến một khu gò leo lên sủa liên hồi. Sau khi đào lên, người ta phát hiện hài cốt người đã khuất đúng như nhận dạng của nhân thân. Cả đoàn người vừa sợ hết vía vừa thán phục trước khả năng của nhà ngoại cảm dù không biết mặt mũi ông như thế nào.

Ông Nhã trong một lần làm từ thiện ở miền Tây

“Có khi dấu hiệu đi trái với quy luật tự nhiên, chính mình cũng không nghĩ tới”-ông Nhã kể. Điển hình trường hợp gia đình một viên đại úy chế độ cũ đi tìm mộ người thân. Sau khi ông vẽ bản đồ, họ tìm đến một cánh rừng cao su và sẽ có một con sâu xanh chỉ mộ. Gia đình viên đại úy tìm đến nơi, thấy hàng chục công nhân túm tụm bàn về một con sâu xanh rất lạ. Những người lớn tuổi nhất khẳng định cả đời chưa thấy loại sâu như vậy sống ở rừng cao su bao giờ. Một người đã quét chú sâu ấy đi. Gia đình thân nhân liệt sĩ tìm đến nơi con sâu đang nằm thì phát hiện đầy đủ các dấu hiệu ông Nhã chỉ từ trước và tìm được hài cốt viên đại úy. Những câu chuyện mầu nhiệm như thế rất nhiều. Ông đã tìm kiếm gần 7.000 ngôi mộ, mỗi trường hợp là một điều mầu nhiệm. Đến mức người từng được ông giúp hoặc nghe kể kết luận rằng ông Nhã có khả năng điều khiển vạn vật làm tín hiệu để tìm mộ. “Nói ông Nhã điều khiển dấu hiệu là tự cao, ngã mạn. Sự thật tôi không cao siêu gì cả. Tôi cứ cho tín hiệu, còn tín hiệu có đến hay không là do Trời Phật, Bồ Tát thị hiện cử đến”-ông tâm sự. Lúc mới tìm mộ, ông còn tưởng đó là vong hồn của người chết nhập vào làm tín hiệu dẫn đường. Nhưng càng đi sâu vào, ông càng khám phá ra rằng, việc tìm mộ là do Bồ Tát, Trời Phật trợ lực, không một người sống hay vong hồn nào có thể làm được. Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng phương pháp ngoại cảm tìm mộ của ông thực chất là kết nối với các thế giới. Khi ông phát tâm gửi thông điệp, Trời Phật sẽ cho ông tín hiệu. Những lần như vậy, ông hiểu rằng càng vì người khác, sao cho họ bớt cực khổ tốn kém, tha lực ở các thế giới khác gửi đến càng mạnh hơn. “Cũng như người sống trên đời cũng vậy. Càng phát triển từ bi thì càng nhận được những điều tốt đẹp”-ông nhắn nhủ. Tôi nhận ra rằng, đó cũng là phương châm sống của Nguyễn Văn Nhã: Luôn vì người khác, không mưu cầu gì cho mình. Cũng như khi bước vào ngoại cảm, ông luôn trăn trở tìm đến bản chất thật của nó. Và làm sao để người nghèo nhất cũng có thể tìm mộ. Ông lên đường gặp gỡ hàng chục nhà tâm linh lúc đó để tìm câu trả lời. Rồi chưa thỏa mãn, cuối năm 2001, ông sang Ấn Độ, tìm đến Đại học Tâm linh thế giới để học thiền. Nhân chuyến đi đó, ông gặp được “kho báu” của đời mình: đó chính là Phật pháp. Ông kể rằng, khi đến gốc bồ đề nơi đức Phật đắc đạo, ông đã khóc. Rằng hành trình ngoại cảm tìm mộ chính là cơ duyên đưa ông đến với phật pháp. Và chính Phật pháp giúp ông hiểu được bản chất hành trình ngoại cảm của mình là kết nối con người với các thế giới cao hơn, rằng chết không phải là hết, vấn đề là vong hồn sẽ đi về đâu. Cách sống trên đời sẽ định đoạt lâu dài, hàng trăm ngàn năm thế giới mình sẽ đến khi lâm chung.
Trò chuyện với linh hồn và hướng về cảnh giới tốt đẹp

“Không riêng gì Phật pháp, tất cả các tôn giáo trên thế giới này đều hướng vong hồn vào sự siêu thoát”-ông phân tích. Vì vậy, đích đến của mọi hành trình ngoại cảm cũng là hướng đến điều này. Với ông, đó chính là cảnh giới tình thương rất an lạc mà con người cần đạt đến. Nhiều năm rồi ông không còn tìm mộ. Nhiều người cảm thấy buồn, thậm chí còn trách ông sao không giúp đỡ họ. “Thứ cần tìm bây giờ là vong hồn người chết chứ không phải là xương cốt mồ mả nữa”. Thành ra, ông vẫn giúp nhưng là giúp người sống làm thế nào để làm cho các vong hồn siêu thoát. Còn mồ mả, xương cốt chỉ là cái tạm thời, hạn hữu không cần tìm bằng mọi giá. “Còn hướng người ta vào những cuộc tìm kiếm tốn kém thời gian tiền bạc là tôi còn mang tội. Mọi người ai cũng mong được siêu thoát. Vậy thì sao cứ phải trói buộc vong hồn của người đã khuất vào những cục xương, nắm đất. Rồi những thứ đó cũng về với cát bụi cơ mà!”.

Bản đồ có bút tích của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã

hướng dẫn nguyên Phó thủ tướng Trần Phương tìm mộ em gái mình năm 1999

Trước khi nhận ra điều đó, ông cũng đã từng mê mãi trong việc tìm kiếm. Có những cuộc điện thoại nhờ tìm gọi đến, lập tức hình ảnh người đã khuất hiện ra trong ông rõ mồn một. Trời phật như thử thách ông nhưng cuối cùng ông cũng ngộ ra ý nghĩa tuyệt vời của nó. Nhờ có tìm mộ dẫn dắt ông đến với Phật pháp, ông hiểu rằng chết không hết như người ta nghĩ. Vấn đề là vong hồn đi về đâu. Con người thành tâm tin và thực hành hướng về thế giới cao thì tổ tiên sẽ siêu thoát về cõi giới tốt đẹp. Chính những người đang sống cũng vậy, sống từ bi, yêu thương người khác thì mai này chết đi, linh hồn cũng sẽ được kết nối về với những thế giới cao hơn. Nhiều người gọi điện thuyết phục ông tìm mộ hoặc hài cốt người thân. Ông thẳng thắn nói rằng: Nếu tôi tìm mà đến ngày cúng giỗ, cục xương nắm đất về nằm trên bàn thờ thì tôi tìm ngay. Nhiều người có mồ mả ông bà ngay trong vườn nhà nhưng ngày cúng giỗ vong hồn họ không về thì coi như là vẫn thất lạc như thường. Con người ràng buộc với tổ tiên bằng sự hiếu đạo, nên nghĩ rằng tìm được xương cốt mồ mả là báo hiếu. Tìm được cha mẹ rồi thì nhờ tìm ông bà, rồi đến ông tổ, thậm chí tam đại, tứ đại. Như vậy còn bát đạt, thập đại... thì sao. Không lẽ cả đời cứ tìm kiếm mãi? Nếu dùng tiền bạc vào việc thiện thì sẽ tốt hơn. Chỉ cần ăn chay niệm phật, sống tốt đời đẹp đạo thì giúp không chỉ một mà hàng loạt vong hồn siêu thoát. Đó là tạo phước đức cho mình và ông bà tiên tổ, cho cả dòng họ. Cũng có người đã tìm được hài cốt, nghe đến danh tiếng ông Nhã còn nhờ ông xác định xem phần xương cốt đó có phải của thân nhân mình. Ông giải thích rằng, mỗi dịp thờ cúng, thành tâm khấn nguyện tên người thân mình thì hồn tìm về chứ đâu phải xương cốt. Nếu có nhầm thì khấn nguyện luôn cho họ, tức là đã tạo phúc lớn rồi. Sao phải nghĩ ngợi so đo vị kỷ làm tổn phước? “Mấy năm nay, đất nước tổ chức nhiều đại lễ cầu siêu nên nhiều lần tôi trò chuyện với các linh hồn, họ cũng muốn người sống không nên dồn cả tâm sức vào những cuộc tìm kiếm đó nữa. Nhiều vong hồn ở cõi giới tốt nhưng thân nhân không biết cố tìm xương cốt, trói hồn họ vào bãi tha ma hoang lạnh”-ông Nhã kể. Họ muốn đi mà không đi được, phải ở đó nhìn xương cốt mình tan rã dần đau đớn lắm. Có lần một gia đình ngoài Hà Nội gọi vào nói với ông đã lạc mất hài cốt thân nhân. Lập tức người đó hiện về nói với ông rằng: “Tôi đứng sau lưng chúng đây. Chúng không biết nên cứ tìm kiếm mãi đâu đâu”. Có nhiều lần, những mồ mả, xương cốt ông tìm được hiện hồn về trò chuyện với ông. Nhiều vong hồn trách ông sao từ đầu không hướng dẫn gia đình họ ăn chay niệm Phật, cầu cho họ siêu thoát mà lại giúp họ tìm xương cốt về, đưa linh hồn ra những bãi tha ma đau khổ. “Nhiều linh hồn liệt sĩ nói rằng sau khi bị gia đình đưa ra khu mả, họ thấy nơi đó buồn khổ, u ám quá nên bỏ hài cốt ở đó rồi trở lại vào rừng”-ông kể tiếp. Ông nói với các linh hồn rằng lúc đầu tìm xương cốt mồ mả, ông cũng thấy họ vui vẻ. Nhưng lúc đó, ông chưa bén duyên Phật pháp. Chưa chạm được ý nghĩa chân phương của việc tìm mộ là giúp họ siêu thoát. Nay ông sẽ hướng dẫn cho gia đình gặp được chánh pháp, cùng họ cầu nguyện cho các vong hồn siêu thoát và chính họ cũng góp phần giúp người sống hiểu được chết không phải hết. “Sau khi nghe như vậy, các vong hồn như được thăng hoa. Họ hóa thành ánh sáng nhỏ bay lên tan vào không gian”-ông kể. Cũng từ đó, ông thôi không còn tìm xương cốt mà cố tâm nghiên cứu những phương pháp cầu nguyện để giải quyết vấn đề cơ bản nhất: đó là sự siêu thoát. Đó cũng chính là điều Trời Phật hướng ông đến. Mà Phật pháp, như đã nói, chính là “kho báu” cuộc đời ông, sứ mệnh của ông là đem “kho báu” ấy sẻ chia với mọi người để ai cũng biết khai thác “kho báu” tình thương của chính mình. Ngồi tiếp chuyện ông, những cuộc điện thoại nhờ tìm hài cốt vẫn đều đặn đến. Tôi băn khoăn hỏi ông liệu người trần mắt thịt có thấu hiểu được ý nghĩa cao siêu đó? Vì những cuộc tìm mộ vẫn được tổ chức đều đặn. Người ta bỏ ra nhiều công sức, thời gian tiền bạc để cố tìm bằng được. Ông buồn nói rằng chưa nhiều người hiểu được chân lý ấy. Nhưng dần dà họ sẽ hiểu ra. Và dù người nào chưa hiểu được, trách ông sao không tìm hài cốt, ông vẫn phân tích hướng dẫn cặn kẽ. Có một gia đình ở Cần Thơ thường xuyên gọi điện nhờ ông tìm hài cốt. Sau khi ông nói về việc chỉ cần khấn nguyện cho vong hồn, không cần tìm mộ. Không bằng lòng, họ vặn lại: “Nếu anh Nhã cho tôi thấy vong hồn người thân, gia đình chúng tôi sẽ tin lời và không tìm kiếm nữa”. Ông trả lời: “Chỉ cần gia đình thành tâm khấn nguyện, ắt sẽ thấy”. Ngày nọ, khi cả gia đình đang sum họp, thì thấy bóng người đã khuất hiện về lắc lư trên bàn thờ. Cả nhà họ ngỡ ngàng và cảm động. Hôm sau, họ gọi điện kể lại với ông và nói rằng đã ngộ ra được và không còn đi tìm xương cốt nữa. Ông Nhã lại giải thích rằng, nơi mà vong hồn tìm về chính là bàn thờ. Người phương Đông ta có nơi linh thiêng ấy như “trạm tiếp chuyển” kết nối vong hồn ông bà tổ tiên với cõi cực lạc. Rằng gia đình nào cũng có bàn thờ, đặt ông bà mình vào đó là hiếu thảo, là tốt đẹp hơn gấp trăm ngàn lần bãi tha ma hoang lạnh. “Những trường hợp như vậy tôi hạnh phúc lắm. Rồi có ngày tất cả đều hiểu ý nghĩa đích thực của việc tìm mộ”-ông nói. Âm siêu dương thới, âm siêu dương thịnh là quan trọng lắm, gia đình nào cũng hướng tâm như vậy, xã hội sẽ tốt đẹp hạnh phúc biết bao”. Ông luôn tin rằng tín hiệu về sự siêu thoát mà trời phật gửi đến rồi sẽ lan tỏa, sẽ cứu giúp được cả loài người. Lần đầu, tôi thấy ở ông một nụ cười rạng rỡ. Vì ông đã gửi đi được một thông điệp của cuộc đời mình. Rằng thông điệp ấy sẽ được đón nhận, truyền qua nhau, lan tỏa bất tận. Còn chúng tôi, người may mắn được kể về ông trong loạt phóng sự này cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc từ thông điệp ấy. Nó lớn lao và giá trị hơn nhiều những câu chuyện tìm mộ mầu nhiệm ly kỳ, dù tất cả chúng đều là sự thật và có thể kể hoài không hết.
Tâm thư nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã gửi bạn đọc
“Sau hơn 10 năm trải nghiệm tâm linh về việc tìm mộ, tôi luôn cầu nguyện hôn thiêng đất nước và trời phật giúp cho tôi có một phương pháp nào để bà con, cô bác ít hao tổn tiền bạc và sức khỏe đồng thời đạt được kết quả tốt về mặt tâm linh cho gia tộc và sao cho mọi thành phần, tầng lớp nhân dân đều có thể áp dụng được. May mắn đã đến, tôi gặp và thực hành được Phật pháp nhiều năm nay.
Từ trải nghiệm đó, bản thân tôi cảm nhận được tín hiệu về tâm linh tốt nhất là đối với người mất và ông bà tổ tiên là rất mong muốn vong hồn siêu thoát về cảnh giới đẹp hơn (nghĩa là thoát ra khỏi khu vực có hài cốt hay mồ mả về với cảnh giới tiên phật). Từ đó, hài cốt trở về cát bụi, không còn quan trọng nữa và vong hồn sẽ có sức mạnh tâm linh để trợ lực cho gia đình và con cháu. Đây cũng là ý nghĩa tìm mộ sâu xa nhất mà tôi có thể khẳng định. Nếu mọi người quan tâm, tôi sẽ hướng dẫn cách thực hành tâm linh để giúp vong hồn thân nhân siêu thoát. Còn nếu ai vẫn muốn tìm hài cốt mồ mả thì xin liên hệ với các nhà ngoại cảm, tâm linh khác để được giúp đỡ
.”
Nguyễn Văn Nhã


10:38 SA 24/10/2013
Bàn luận về chung cư vp5 linh đàm
Pháp lý của dự án này thì không đến mức quá nghiêm trọng đâu bác, chỉ có là:
- Chưa làm thủ tục thay đổi công năng toà nhà đã xây và không xin phép thay đổi thiết kế cũng như số tầng
- Chủ đầu tư định chơi bài "vừa làm vừa xin" nhưng bị phường và quận Hoàng Mai đình chỉ thi công. Tuy bị đình chỉ nhưng mà do là đại gia nên bác ấy vẫn cứ xây chẳng ai làm gì được nhau :d
- Ngân hàng bây giờ khi giải quyết cho vây luôn đặt cao nhất là rủi ro. Dự án này vì pháp lý chưa ổn như trên nên Ngân hàng họ lo sẽ khó trong vấn đề cấp sổ hồng. Từ đó dẫn tới là các căn hộ họ nhận thế chấp không có giá trị nữa.

Bác này chắc người trong ngành nên biết rõ thế, mà nói cũng chuẩn nữa.
07:18 CH 19/10/2013
Đại tướng giữa lòng dân
Có nhiều điểm mình không thống nhất với bạn, nhưng chỉ lấy 2 điểm trên làm ví dụ:

Nếu ông Huy Đức ấy không lấy tư liệu của người khác (người khác ở đây chính là những người tham dự trong hai cuộc chiến, những cây đa cây đề nào thì bạn tự đọc tên trên quyển sách của ông ấy là biết) thì theo bạn là như thế nào mới là chân lý? Nghĩa là mỗi người tham chiến phải tự viết ra 1 quyển, có vài triệu quyển như thế? Còn khi người ta chia sẻ để người khác viết sách thì không có giá trị?

Bạn có thể chỉ ra cho mình cùng thời đó, ông nào (thuộc phe chống tướng Giáp) giỏi làm kinh tế hơn tướng Giáp không? Hồi đó mình đã được nghe là sau khi giải phóng, tướng Giáp có nhiều chủ trương để phát triển kinh tế. Một trong số đó là không gây thù chuốc oán đối với phe thua cuộc để tận dụng được tiềm lực của giới tri thức, phát triển đất nước. Ông LD - LĐT chủ trương bắt giam, bỏ tù và tống đi cải tạo hàng loạt, dẫn đến việc di tản tang thương, hàng trăm nghìn người bỏ xác nơi biển cả. Đều là người Việt Nam máu đỏ da vàng mình. Ông LD khi vào tiếp quản Sài Gòn còn ngạo mạn tuyên bố là từ nay về sau, các gia đình ở Việt Nam có ít nhất 1 cái tủ lạnh, TV và hơn thế nữa. Kết quả sau 10 năm giải phóng như thế nào thì ai cũng biết.

Ngay sau giải phóng, tướng Giáp cũng chủ trương tiếp quản lại các hòn đảo thuộc 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa của chế độ vốn có trữ lượng dầu rất lớn, chưa kể nguồn lợi hải sản nhưng không được phe LD - LĐT ủng hộ. Kết quả gần 40 năm sau thế nào thì ai cũng biết, giờ VN phải bắt tay TQ cùng khai thác chung nguồn lợi thiên nhiên, đáng lẽ 100% thuộc về Việt Nam. Ai cũng có thể nhìn thấy tổn thất về mặt kinh tế của VN đối với vấn đề này thế nào.

Tướng Giáp tốt nghiệp tú tài trường Pháp, thủ khoa kinh tế chính trị, tài năng quân sự xuất sắc, chắc chắn hơn đứt mấy thằng cha chả được học hành gì, toàn lấy tư tưởng giáo điều để lãnh đạo đất nước.


Tội lỗi của các lão lịch sử sẽ phán xét, nhân dân sẽ phán xét,
07:55 CH 17/10/2013
Đại tướng giữa lòng dân
Có cái ảnh hay này :
webtretho
08:02 SA 17/10/2013
Sẽ phê chuẩn người thay ông Nguyễn Thiện Nhân, Vũ...
Theo lộ trình thì đến năm 2016 mới hết nhiệm kỳ lần 2 của bác Ba. Giờ này đã nói ông nọ bà kia sẽ làm Thủ tướng tiếp theo là không có cơ sở. Nói chuyện chính trị 5 năm nữa mà cứ như ngày mai vậy, 30 chưa phải là Tết nhé.

Lại nhớ hồi đầu năm 2011, hầu hết các nguồn tin quán nước đều cho rằng ông PQN sẽ làm Chủ tịch QH, nhưng cuối cùng lại là ông NSH đấy thôi.

Mà từ trước đến nay ở vị trí tứ trụ triều đình chưa có ai là nữ cả. Cùng lắm là Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch QH, Trưởng Ban của
Đảng hoặc Bộ trưởng mà thôi.

Với tình hình bây giờ thì đúng là 30 chưa phải là tết nhé, đề xuất là 1 chuyện, bỏ phiếu lại là chuyện khác, như vừa rồi 2 lần bỏ phiếu TƯ đều ngoài dự kiến đó.
07:05 CH 16/10/2013
Đại tướng giữa lòng dân
Bạn này dũng cảm thật, dám viết ra. Sau khi được nghe bài đáp từ của con trai Cụ, mình đã rất băn khoăn cùng bao nhiêu câu hỏi không có lời giải đáp. Mình đã lặng lẽ ... đi tìm cách trả lời cho những thắc mắc của mình bằng cách nhờ đến google, mình search cụm từ cô lập, cô đơn và mình khám phá ra mọi chuyện :(. Cuộc đời cụ thời chiến hiển hách là như vậy mà trong thời bình thì buồn quá.

Mình có gợi ý cho các mẹ là search cụm từ cô lập với cô đơn ngay trong topic về Cụ. Nhưng một vài mẹ tìm không ra kết quả là bởi vì các mẹ search thiếu cái chủ ngữ, ai cô lập, ai cô đơn. Những kết quả google đưa ra thì gần như bị chặn hết, nhưng ở bản cache thì vẫn đọc được bình thường. Và mình ngồi lặng lẽ đọc hàng giờ, mình lặng lẽ rơi nước mắt. Thương Cụ quá! Nhưng mình lại không hề làm được gì để giúp Cụ, mình chỉ dám gợi ý cho các mẹ search cụm từ cô lập, cô đơn với mong muốn nhỏ nhoi: Hãy trả lại sự thật cho lịch sử.

Thưa Cụ, chúng con cũng có quyền được biết đủ, biết đúng về lịch sử của Cụ phải không? Bởi vì, chúng con là con dân của nước VN, chúng con cũng là con cháu của Cụ!

Cảm ơn bạn be-buti một lần nữa. Ở những bài mình đọc được, còn nhắc rõ tới ai, nhân vật nào đã góp phần đưa cụ từ một người Tướng trong thời chiến, nhưng lại thua trong thời bình! Dã man quá.

Về chuyện Mậu thân trong quyển hồi ký Tổng Hành dinh trong mùa xuân toàn thắng Đại tướng đã nói rõ có sai lầm không chuyển chiến tranh kịp thoi từ thành thị về nông thôn, sách chính thống nhé, đúng như bạn gì nói lúc đó Đại tướng ở Hungary. Lịch sử và nhân dân, và nhân quả sẽ phán xét những kẻ đã vùi dập Đại tướng.
06:07 CH 16/10/2013
Sẽ phê chuẩn người thay ông Nguyễn Thiện Nhân, Vũ...
03:56 CH 16/10/2013
b
be-buti
Chuyên gia
8.5kĐiểm·75Bài viết
Báo cáo