images
Thịnh hành
Cộng đồng
Bé yêu - Mẹ có quà cả nhà đều vui
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Nhà giàu Việt xưa tận hưởng 'cái sự sung sướng'...
Nhà giàu Việt xưa tận hưởng 'cái sự sung sướng' thế nào? (kỳ 2)

(ĐVO) Cờ bạc là một thú vui, mà thời nào dân cũng bị "cuốn vào", để rồi khi đã quá nghiện... dễ gây ra nỗi bất hạnh lớn.
Theo gia tộc Công tử Bạc Liêu, khi bàn về chuyện làm giàu của Hội đồng Trần Trinh Trạch cũng lắm giai thoại... Hồi đó, ở xứ Bạc Liêu, ai được ông Hội đồng mời đến chơi cũng vừa mừng, vừa lo. Mừng vì không phải dễ gì được kết thân với một gia tộc quyền thế bậc nhất ở miền Tây này; còn lo vì sợ đánh bạc. Hội đồng Trạch vốn là một tay cờ bạc khá, đêm nào nhà ông cũng sáng đèn đến tận khuya. Khách không có tiền ông bảo gia nhân mở tủ lấy tiền cho khách mượn với một câu nhẹ hều: “Lấy tiền của ông mà chơi, tính toán gì, miễn khách vui thì gia chủ mừng”. Tiếng là “lấy chơi” không tính, thế nhưng, đã có không biết bao nhiêu đất đai, ruộng vườn của các địa chủ nhỏ rơi vào tay Hội đồng Trạch một cách hợp pháp vì... thua bài.
Ông Hội đồng Trạch thỉnh thoảng cũng lên Sài gòn ghé các sòng bạc của thầy Bảy Phương, thầy Sáu Ngọ để chơi, nhưng chỉ thích “đánh bài theo kiểu cò con”, chứ không giỡn tiền, ngắt từng xấp bạc đặt xuống chiếu bài như các con của ông, mà điển hình là cậu Ba Trần Trinh Huy, sau này được mệnh danh là Công tử Bạc Liêu.
Nếu ông Hội đồng nhờ đánh bài mà thu gom đất điền... làm giàu, thì ngược lại, cậu Ba Huy lại "nướng" tài sản cho các tay cờ bạc bịp ở Chợ Lớn. Không hẳn cậu Ba không biết, mà cậu chấp nhận và cho rằng, phải tiêu tốn một phần gia sản mới xứng mặt là dân sành điệu. Thuở đó, Trần Trinh Huy chỉ vào chơi bời ở Continental, Majestic, vào cercle đánh một cây bài đôi ba chục ngàn là chuyện thường - lúa lúc ấy 7 cắc một giạ...
Không kém cạnh Công tử Bạc Liêu, theo nhà văn Hứa Hoành, nhờ thừa hưởng sự nghiệp đồ sộ của cha để lại, cậu Hai Miêng (Huỳnh Công Miêng, con Lãnh binh Huỳnh Công Tấn) ăn xài huy hoắc, phá phách, coi tiền như rác.
Dư luận Gò Công vẫn lưu truyền giai thoại về cậu Hai Miêng: Lúc mới về nước, cậu chỉ thích võ nghệ, luyện côn quyền (một loại võ khí cổ, chỉ dùng sức mạnh), múa kiếm. Cậu nổi tiếng anh hùng khắp xứ. Vì không muốn bị ràng buộc, làm tay sai cho Pháp, cậu trả chức tước Pháp ban cho. Hàng ngày, cậu đi đá gà, uống rượu, hối me (một thứ cờ bạc) thả giàn. Có lần cậu đi xuống Giồng Tháp để hốt me, nhiều đàn em theo để mang một bao bạc giấy, thứ bạc con cò, rất có giá trị hồi cuối thế kỷ 19. Cậu Hai Miêng cầm chén hốt me, có các thủ hạ là Bảy Danh, Ba Ngà, Tám Hổ lo vừa tiền và chung tiền.
Nhà văn Hứa Hoành cũng cho biết, trong các thú vui ở miền Nam thời trước, đá gà cũng là môn rất phổ thông; chỗ nào cũng chơi đá gà, dù có lệnh của hội bảo vệ gia súc Pháp cấm. Nhiều gia đình mê đá gà đến chỗ tán gia bại sản. Tại Rạch Gầm, chợ giữa Mỹ Tho, có trường gà của ông Chủ Trước, nổi tiếng là nơi quy tụ của các nhà giàu vùng Tiền Giang. Trường gà thầy Tường ở dầu kinh xàng Xà No, gần Cái Răng; trường gà Hội đồng Điếu Bạc Liêu là nơi quy tụ các đại điền chủ, các quan phủ, huyện, công tử... khắp Hậu Giang.
Nếu kể các tay chơi đá gà nổi tiếng thời đó, những người lớn tuổi như cụ Vương Hồng Sển thường nhắc: Ở Sóc Trăng có ông chủ On, tên thật là Trần On, làm hương chủ làng Nhâm Lăng, công tử con quan đàng con. Bao nhiêu đất cát châu thành Khánh Hưng đều là của tổ phụ ông chủ On để lại. Chủ On là người mê chơi đá gà khét tiếng. Mỗi lần cá độ phải ăn thua bạc ngàn trở lên (trên dưới 1000 giạ lúa). Ở quận Kế Sách, có ông Hàm Cang (Trần Như Cang) cũng là một tay chơi đá gà có hạng, ăn thua bạc ngàn. Con ông Cang là công tử Ba Oai cũng kế nghiệp cha, trường gà nào cũng thường hay có mặt.
Tại Tân An, có anh em ông Hội đồng Vận và ông Cai Nguyên, cũng là những nhà giàu lớn. Các ông vừa chơi đá gà, đua thuyền và đánh cờ tướng. Lúc đó, tại đây, trường gà Hội đồng Vận là nơi quy tụ các nhà giàu, các ông phủ, huyện, ông phán, thơ ký, các thầy cai, đội trong tỉnh. Còn trường gà Tám Kiểng là chỗ dành cho giới lao động bình dân, ai tới chơi cũng được...
Có thể nói, thời trước, nhiều gia đình giàu quá, không biết xài cách nào cho hết tiền, nên con cái cứ thế thỏa sức phung phí và cờ bạc là chuyện xưa nay lúc nào cũng "ghiền".
Yên Chi
http://baodatviet.vn/Home/congdongviet/Nha-giau-Viet-xua-tan-huong-cai-su-sung-suong-the-nao-ky-2/20124/206596.datviet
02:49 CH 27/04/2012
“Trâu già, cỏ non”: Ăn rồi bảo chưa ăn
Chồng mình hơn tới tận 14t mà nhiều khi thấy lão còn xì tin hơn cả mình. Thời bây giờ mình thấy khoảng cách tuổi tác ko quá cách biệt như xưa. Chênh nhau trên dưới 20t vẫn ko thấy có vấn đề.

Khi chồng vẫn còn dưới 60 vẫn có thể chưa thấy vẫn đề gì, nhưng khi qua tuổi đó đặc biệt khi chồng bước vào tuổi 70, 80 lúc đó mới thấy vấn đề nhất là vợ chồng hơn nhau > 20. Chồng 80 và vợ 60 khác nhau lắm, khó dung hòa hơn hẳn ông chồng 50 và vợ 30 8-|.
11:39 SA 24/04/2012
Sài Gòn đang lún
Doanh nghiệp kêu khổ vì lún

TTCT - Tại cụm công nghiệp Việt Tài (khu vực đường Hồ Học Lãm, quận Bình Tân, TP.HCM), nhà xưởng của nhiều công ty đã lún thấp hơn mặt đường 50-60cm.
Ông Hồng Tập Quân, giám đốc Công ty TNHH sản xuất thương mại và dịch vụ Phước Nguyên (chuyên sản xuất các thiết bị điện), cho biết nhà xưởng được xây dựng từ năm 2001, qua mỗi năm hoạt động tình trạng lún diễn ra ngày càng rõ.

Khu vực bậc tam cấp bị lún xuống khoảng 20cm so với nền nhà khối văn phòng Công ty TNHH sản xuất thương mại và dịch vụ Phước Nguyên - Ảnh: Q.K.
Chỉ tay về khu vực đặt máy móc sản xuất, ông Quân cho biết: “Lúc mới xây dựng, khu vực này bằng với thềm trước nhà xưởng nhưng giờ thấp hơn 60cm”. Toàn bộ mặt bằng xung quanh nhà xưởng xuất hiện tình trạng lún, làm gãy, hư một số công trình ngầm như hệ thống thoát nước, cáp điện, công ty đã phải hai lần bỏ chi phí sửa chữa.
“Lún tới đâu thì tính tới đó chứ giờ không thể ngưng hoạt động, di chuyển máy móc thiết bị để nâng nền được vì như thế sẽ tốn rất nhiều thời gian và chi phí” - ông Quân cho biết.
Cách đó không xa, tại Công ty TNHH dịch vụ - thương mại Phương Dung (ngành sơn tĩnh điện, địa chỉ 207/63D), nhiều thợ hồ đang vận chuyển cát đá để trộn bêtông nâng cao trình trước sân.
Theo chị Võ Trần Nhất Linh (quản lý nhà xưởng), vài năm qua đã có hiện tượng lún làm khu vực nhà xưởng thường xuyên bị ngập nước mỗi khi có mưa (do thấp hơn mặt đường) hay triều cường. “Thiết bị máy móc đã được lắp đặt cố định nên chưa nâng nền được, chúng tôi đã đề nghị chủ mặt bằng xây bờ bao tạm xung quanh nhà xưởng và chỉ nâng nền phía trước sân đề phòng nước tràn vào”, chị nói.
Dạo một vòng xung quanh cụm công nghiệp này, chúng tôi thấy mặt bằng hầu hết nhà xưởng, công ty đều thấp hơn mặt đường 30-50cm. Nhà nhiều hộ dân xung quanh cụm công nghiệp cũng trong tình trạng tương tự. Một người dân lâu năm ở đây cho biết khu vực này trước đây vốn là vùng trũng thấp, chủ yếu là ao, đìa. Sau đó người dân bỏ tiền mua đất phân lô bán, cho các công ty, xí nghiệp thuê để xây dựng mặt bằng làm nhà xưởng.
Việc có quá nhiều vật nặng hoạt động trên nền đất yếu có thể là nguyên nhân gây lún tại khu vực này.
QUANG KHẢI
http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Van-de-Su-kien/488163/Doanh-nghiep-keu-kho-vi-lun.html
10:38 SA 23/04/2012
Chuyện dịch thuật: sai ở khắp nơi
Nạn “dịch loạn”: độc giả chỉ có thể mua nhầm một lần...

TTCT - LTS: Sau các bài báo liên quan đến nạn “dịch loạn” trên TTCT (xem hai số TTCT ra các ngày 8 và 15-4-2012), nhiều độc giả bày tỏ quan tâm trước tình hình chất lượng sách dịch hiện nay. TTCT đã có cuộc trò chuyện với dịch giả - nhà văn Trần Tiễn Cao Đăng - đại diện biên tập mảng sách dịch của Nhã Nam.


Ảnh: Nhã Nam
Trần Tiễn Cao Đăng, sinh năm 1965, gốc Huế nhưng sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, tốt nghiệp khoa ngữ văn Nga ĐH Tổng hợp TP.HCM năm 1990. Ông là một trong hai người sáng lập trang eVăn trước đây. Trần Tiễn Cao Đăng là dịch giả của các tác phẩm Từ điển Khazar (Milorad Pavic), Biên niên ký chim vặn dây cót (Haruki Murakami - giải văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội 2007), một số tác phẩm trong bộ Nhập môn triết học của Nhà xuất bản Trẻ, Súng, vi trùng và thép (Jared Diamond), Thế giới như tôi thấy (Albert Einstein), Xứ cát (Frank Herbert)...

* Thời gian qua, một trang web văn chương trên mạng phát hiện quá nhiều lỗi dịch thuật trong tác phẩm Bản đồ và vùng đất (*) khiến Nhã Nam phải tạm ngưng phát hành. Hiện nay, ngoại trừ tuyên bố sẽ lập hội đồng thẩm định lại cuốn sách, Nhã Nam còn có động thái gì khác không?
- Chúng tôi luôn làm việc trên tinh thần thẳng thắn, cầu thị, sẵn sàng chịu trách nhiệm đối với mọi sai sót của mình. Tình trạng đáng thất vọng của cuốn Bản đồ và vùng đất là điều hiển nhiên, và hội đồng thẩm định của chúng tôi đang làm việc cật lực để có thể đưa ra kết luận sơ bộ chính thức trong thời gian sớm nhất có thể. Sau đó dựa trên kết luận sơ bộ này, chúng tôi sẽ hiệu chỉnh bản dịch, in lại bản đã hiệu chỉnh trong thời gian sớm nhất có thể. Khi đã có bản hiệu chỉnh, bất cứ độc giả nào đã mua bản đầu tiên đều có thể đến để đổi lấy bản mới.
Tuy nhiên, tôi muốn nói thêm để một cuốn sách tuyệt không có lỗi nào hết là cực kỳ khó. Mặt khác, nhiều khi một số điểm trong ngữ nghĩa của sách còn có thể tranh cãi nhiều năm. Vấn đề là mức độ lỗi còn sót lại hiện tại có phải mức thông thường, có thể tạm chấp nhận bằng một tờ đính chính đi kèm cuốn sách như xuất bản cách đây vài chục năm người ta vẫn làm, hoặc lỗi đủ ít để nhà xuất bản có cơ hội sửa chữa trong lần in tái bản. Chỉ những cuốn có quá nhiều lỗi, lỗi quá nặng mới bị thu hồi, bồi hoàn.
Văn học lớn không có quá nhiều độc giả
* Từng lên tiếng về việc có những cuốn sách là thảm họa dịch thuật, ông có nghĩ sự thất vọng của độc giả hiện tại khi hàng loạt cuốn sách "nghe nói" là những tác phẩm văn học lớn lại rất khó đọc khi chuyển ngữ sang tiếng Việt, sẽ là nguyên nhân khiến thói quen đọc sách của người Việt vừa được khơi dậy có nguy cơ chìm xuống không?
- Văn học lớn khó đọc có thể do bản thân nguyên tác khó đọc. Tuy nhiên, khi nào tác phẩm văn học lớn đến với người đọc Việt qua tay một dịch giả cừ khôi, đơn cử như Lolita với Dương Tường, chắc chắn không có lý do gì nó lại không được sự hưởng ứng của một bộ phận người đọc. Hơn nữa, nếu tình yêu văn chương ở bạn là một tình yêu đích thực, sâu sắc, nó sẽ là một tình yêu bền bỉ, không dễ gì bị thui chột chỉ vì một vài cuốn sách khó đọc và/hoặc được dịch không tốt. Ngoài ra, tôi không cho rằng văn học lớn lại có quá nhiều độc giả. Nếu không thì sao giới xuất bản và dịch thuật luôn phải bằng lòng với số phát hành nói chung vẫn giậm chân tại chỗ bao năm nay chỉ từ 1.000-2.000 bản với mỗi tác phẩm. Ở nước ngoài cũng vậy, độc giả của văn học lớn luôn luôn chỉ là một con số nhỏ so với độc giả sách thị trường, cho dù về tổng thể thì quy mô thị trường sách lớn hơn ta nhiều lần.
* Dịch sách không đơn thuần là chuyển ngữ chính xác mà còn phải đảm bảo được tính thẩm mỹ của văn học trong tác phẩm nguyên bản, nhưng gần đây nhiều cuốn sách dịch ở Việt Nam rất ngô nghê về thẩm mỹ văn học (chưa bàn đến sự đúng sai của dịch thuật). Ðã có nhận xét cho rằng các công ty sách bây giờ sử dụng các nhóm dịch thuật chuyển ngữ rồi dùng một cái tên lớn nào đó ngó xuống sửa chữa và ghi tên là người dịch để "lừa" độc giả. Anh nghĩ sao về nhận xét này?
- Về các công ty khác tôi sẽ không lạm bàn. Riêng ở Nhã Nam, chúng tôi không bao giờ cho phép điều đó xảy ra.
* Có quan niệm dịch ẩu cũng không sao, miễn là nhanh để kịp đưa tác phẩm đang "hot" đến với độc giả khát sách rồi sau này dịch lại cũng chưa muộn...
- Đó chưa bao giờ là lựa chọn của chúng tôi. Đây là vấn đề danh dự và lòng tự trọng. Danh dự và tự trọng của chúng tôi cao hơn bất cứ đồng tiền dễ dàng có nào. Nếu thảng hoặc có một số sản phẩm của chúng tôi bị nhiều sai sót, đó là lỗi ngoài ý muốn của chúng tôi và chúng tôi luôn cố hết sức để sửa chữa sai lầm của mình và không lặp lại sai lầm. Tôi tin chắc, như nhà kinh doanh nào đó đã nói, rằng một tổ chức mạnh không phải là một tổ chức không bao giờ sai lầm, mà là một tổ chức có khả năng nhìn nhận và vượt qua sai lầm của mình.

Dịch thuật không phải là nghề để sống tốt
* Nếu chỉ theo đuổi việc dịch sách đơn thuần thì dường như nhuận bút của công việc này không đủ nuôi sống một người dịch sách chân chính. Ðó có phải là lý do khiến thời gian lẽ ra cần có để dành cho một tác phẩm dịch (từ một đến hai năm) sẽ chỉ là một đến hai tháng nên không thể chờ đợi được một tác phẩm dịch hay, nghiêm túc và chính xác?
- Tôi nghĩ ai cũng hiểu nếu thấy việc có tiền nhanh là mục tiêu hàng đầu, không ai lại đi dịch sách văn học, nhất là sách văn học khó. Một số dịch giả giỏi đã và đang cống hiến vốn văn hóa, trí tuệ của họ cho xã hội. Tuy nhiên, nếu những tác phẩm có giá trị mà được không chỉ 1.000 hay 2.000 người tìm đọc như thực trạng hiện nay mà nhiều hơn, chắc hẳn chúng ta sẽ có nhiều dịch giả giỏi hơn thay vì một nhóm thiểu số đáng quý đó.
* Theo ông, đội ngũ dịch thuật ở Việt Nam đã được đãi ngộ xứng đáng để họ theo đuổi nghề này hay chưa?
- Dịch thuật không phải là nghề đủ cho ta có thể sống tốt. Điều đó đúng không chỉ ở Việt Nam mà cả ở nước ngoài, ở ngay các nước phát triển. Theo nguồn tôi biết, chính các dịch giả chuyên nghiệp ở Mỹ, châu Âu thường xuyên kêu gọi giới xuất bản hãy trả cho công sức của họ một cách xứng đáng hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam khi thấy nhuận bút dịch văn học, kể cả văn học cao cấp, chỉ là vài chục ngàn đồng/trang, ta phải cùng nhau nhìn rõ nguyên nhân đến từ đâu: từ nhà xuất bản hay từ thị trường đọc còn nhỏ bé.
* Vậy để có thể có được những tác phẩm văn học chuyển ngữ tốt thì cần có những yếu tố thiên thời địa lợi nhân hòa ra sao?
- Cá nhân dịch giả cần hiểu sâu sắc tác giả, thẩm thấu được phong cách của ông ta. Dịch giả cần có đủ tài năng về tiếng mẹ đẻ để chuyển hóa những gì độc đáo của tác giả sang một hình thức tương đương, giữ được thế đứng thăng bằng của người chuyển ngữ vừa trung thành vừa sáng tạo.
Còn nói rộng ra, văn học dịch cũng cần những quãng dài phát triển bền vững mới mong có nhiều thành quả đáng kể. Tôi nghĩ rằng ở thị trường đọc Việt Nam chúng ta, văn học dịch đã khá sôi động trong 5-7 năm gần đây, số lượng lớn nhưng chất lượng còn nhiều bất cập, cũng có nghĩa còn quá nhiều việc để các nhà xuất bản, các dịch giả phải làm để hoàn thiện bản thân.
* Làm cách nào từ phía độc giả, từ phía người làm sách chân chính và thậm chí từ phía luật pháp để ngăn chặn những thảm họa dịch thuật, thưa ông?
- Độc giả thì rõ rồi, họ có thể mua nhầm một lần chứ không thể nhiều lần. Họ sẽ tẩy chay những nhà xuất bản chuyên làm ẩu, tẩy chay những dịch giả không làm họ sung sướng với sự đọc. Cái này là sự gạn lọc tự nhiên. Còn Nhà nước hiện nay nếu muốn chung tay vào để tạo cho xã hội những lớp dịch giả ưu tú, những sản phẩm văn hóa chất lượng cao, cũng nên có những quỹ của chính Nhà nước dành cho các tác phẩm nghiêm túc. Các nhà xuất bản muốn giành được hỗ trợ từ quỹ sẽ phải chứng minh được năng lực của mình một cách sòng phẳng, minh bạch. Ngoài ra, Chính phủ không thể để nạn sách giả hoành hành đến như thế. Nhà xuất bản không có tiền để trả thêm cho các dịch giả của mình vì ít nhất 1/3 thị trường sách bán chạy hiện nay thuộc về giới "luộc" sách.
* Cảm ơn ông.
Sẽ đổi lại bản đồ và vùng đất
* Với những cuốn sách đầy lỗi dịch thuật, nhiều cuốn khi tái bản chính các nhà xuất bản cũng phải thừa nhận có sửa chữa nhiều..., vậy xin đặt ra giả định độc giả muốn được trả lại tiền cho những cuốn sách đã được thừa nhận là dịch sai nhiều lỗi, như Bản đồ và vùng đất, theo anh, nên xử sự ra sao?
- Sản phẩm có lỗi phải được thay thế bằng sản phẩm sửa lỗi. Ðộc giả mua sách lỗi phải được đổi lấy sách đã hiệu chỉnh. Còn nếu có những độc giả đã mua sản phẩm lỗi mà không muốn chờ đợi bản làm lại, không muốn đổi nữa thì nhà xuất bản, nhà sản xuất có thể cân nhắc bồi hoàn tiền cho họ qua hệ thống phân phối một cách phù hợp. Ðó là cách ứng xử tiêu chuẩn trên thế giới và tôi nghĩ rằng như vậy là đúng.

CÁT KHUÊ thực hiện
__________
(*): Bản đồ và vùng đất, tác giả Michel Houellebecq, Cao Việt Dũng chuyển ngữ, NXB Văn Học liên kết với Nhã Nam phát hành, 2012.
http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Tuoi-tre-cuoi-tuan/488169/Nan-%E2%80%9Cdich-loan%E2%80%9D-doc-gia-chi-co-the-mua-nham-mot-lan.html
02:26 CH 22/04/2012
Nửa cuối hôn nhân, ông xã thường bị vợ cho "ra...
Phụ nữ là người điều khiển các mối quan hệ

SGTT.VN - Một nghiên cứu về các cuộc gọi và tin nhắn trên điện thoại di động đăng trên tạp chí Báo cáo khoa học gần đây cho thấy phụ nữ gọi cho chồng nhiều hơn bất kỳ người nào khác trong danh sách điện thoại của họ.
Sự thay đổi sẽ diễn ra khi con cái của họ đủ lớn để có gia đình và có con, sau thời điểm này con cháu sẽ trở thành người quan trọng nhất trong cuộc sống của người phụ nữ. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người đàn ông gọi cho vợ thường xuyên nhất trong bảy năm đầu của mối quan hệ của họ. Sau đó, sự chú ý sẽ được chuyển sang những người bạn khác.
Đây là kết quả rút ra được từ phân tích các cuộc gọi điện thoại từ ba triệu người. Theo giáo sư Robin Dunbar của đại học Oxford, đồng tác giả của nghiên cứu, điều tra chỉ ra rằng sự ràng buộc vợ chồng quan trọng với người phụ nữ hơn nam giới. “Đây là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy các mối quan hệ lãng mạn được điều khiển bởi người phụ nữ. Họ là người đưa ra quyết định và một khi họ đã quyết định thì họ chỉ việc thông báo cho các anh chàng đáng thương đến khi nào “những quý ông” này ngã ngựa và chịu nhượng bộ”, ông Dunbar nói.
Tuy nhiên, dữ liệu cũng cung cấp phụ nữ bắt đầu chuyển cách nhìn về người bạn tốt nhất ở khoảng từ 30-35 tuổi, đến tuổi 45, một người phụ nữ thuộc thế hệ trẻ hơn sẽ trở thành “người bạn mới tốt nhất”. Nhiều đấng ông chồng sẽ nhăn mặt nhíu mày khi nghiên cứu cho thấy phụ nữ thường đẩy “những ông bạn già” xuống vị trí thứ hai trong danh sách những người bạn tốt nhất và gọi cho những người này ít hơn, họ dành hết sự chú ý vào con gái của họ và trông chờ được gặp những đứa cháu.
Giáo sư Dunbar nói những phát hiện này chỉ ra rằng xã hội loài người đang dịch chuyển từ chế độ gia trưởng trở về chế độ mẫu hệ. Mục đích của dự án là nhằm tìm ra làm thế nào mà các mối quan hệ gần gũi, thân mật lại thay đổi đa dạng trong suốt cuộc đời của một con người.
Loại nghiên cứu nhân học này thường rất khó thực hiện vì không dễ dàng cho các nhà nghiên cứu có được bức tranh lớn về cuộc sống của mọi người như thế này. Thế nhưng bằng cách nghiên cứu một số lượng lớn dữ liệu từ điện thoại di động, họ có thể theo dấu những thay đổi này một cách chính xác. Không khó để các nhà nghiên cứu biết được thông tin về tuổi, giới tính của những người thực hiện hơn 3 tỉ cuộc gọi và nửa tỉ tin nhắn trong thời gian 7 tháng.
Nhóm nghiên cứu muốn tìm ra làm thế nào giới tính ảnh hưởng đến việc lựa chọn người bạn tốt nhất, qua phân tích những cuộc gọi di động, những thay đổi trong các giai đoạn của cuộc đời và sự khác biệt giữa nam và nữ.
Họ tìm ra rằng nam giới có khuynh hướng chọn phụ nữ ở cùng độ tuổi, các nhà nghiên cứu phán đoán rằng đây là bạn gái hay vợ của người được nghiên cứu, là bạn tốt nhất sau này nhiều hơn nhưng trong khoảng thời gian ngắn hơn nữ giới. Điều này xảy ra trong giai đoạn những năm đầu tuổi 30, có thể là trong giai đoạn tán tỉnh, và dừng lại sau bảy năm hoặc lâu hơn.
Với phụ nữ, lựa chọn một người đàn ông ở độ tuổi tương đương mình làm bạn tốt nhất là từ khoảng 20 tuổi, giai đoạn này kéo dài khoảng 15 năm, sau đó, anh chàng sẽ bị “đá đít” bởi một đứa con gái nhỏ nhắn.
Thế giới xã hội của nữ giới, theo các nhà nghiên cứu, tập trung mạnh mẽ vào một cá nhân và sẽ thay đổi từ đấng ông chồng sang con cháu, một hệ quả tất yếu của các lợi ích sinh sản. Mối quan hệ của nam giới khá là ngẫu nhiên. Họ thường hoạt động cao độ ở các vấn đề liên quan chính trị nhưng sau đó, vào cuối ngày, cấu trúc xã hội được người phụ nữ điều khiển, giống như những gì chúng ta có thể thấy ở các loài linh trưởng.
Nhiều nhà nhân chủng học tranh luận rằng xã hội loài người theo chế độ gia trưởng trên cơ sở là hầu hết cộng đồng nam giới ở lại nơi họ sinh ra trong khi những người vợ thì di chuyển đi nơi khác. Tuy nhiên giáo sư Dunbar và các đồng sự của ông cho rằng điều này chỉ xảy ra trong xã hội gốc nông nghiệp mà thôi. Theo ông, chế độ mẫu hệ đang quay trở lại trong xã hội hậu công nghiệp, nó như một con lắc đánh đu giữa hai giới tính, giữa sức mạnh và sự khôn ngoan khi chúng ta chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế dựa trên tri thức.
NGỌC KHANH (BBC)
http://sgtt.vn/Loi-song/163214/Phu-nu-la-nguoi-dieu-khien-cac-moi-quan-he.html
01:59 CH 22/04/2012
Quyền được đẹp của người già
Tuổi cao & Thẩm mỹ

SGTT.VN - Một lão bà 80 tuổi đã tâm sự với giới truyền thông: “Tôi nghĩ rằng có người nói già 80 tuổi rồi thì nên nghĩ tới chuyện chọn mồ chọn mả, sắm quan tài, đếm xem mỗi ngày uống bao nhiêu viên thuốc. Nhưng với tôi, tôi không nghĩ tới các chuyện đó mà tôi nghĩ tới đời sống của tôi”. Và, bà đã đi mỹ viện sửa sắc đẹp.

Rủi ro có cao?
Phẫu thuật nào cũng có rủi ro. Nhưng liệu ở những người cao tuổi rủi ro này có cao hơn? Quan sát cho hay, rủi ro ở người cao tuổi cũng không nhiều hơn là ở tuổi trẻ, dù là các bác có bị cao huyết áp, bệnh tim nhưng vẫn khoẻ mạnh miễn là được bác sĩ khám sức khoẻ và đồng ý. Có thể là vết mổ chậm lành hoặc tiếp tục chảy máu, nhất là ở người dùng nhiều dược phẩm trị các bệnh khác nhau hoặc là đang hút thuốc lá, chất nicotine làm máu lưu thông chậm lại, vết mổ thiếu chất dinh dưỡng. Chẳng hạn vitamin E và thuốc chống đau không có steroid thường hay gây ra xuất huyết.
Tuổi thọ con người ngày càng tăng, thời gian cuộc sống của tuổi già kéo dài. Cho nên nhiều bác cao niên hiện nay đã nghĩ tới việc cải thiện hình dáng bề ngoài, sao cho gọn gàng, thanh lịch như vài chục năm về trước. Vì các bác nghĩ rằng mình còn sống tới vài ba chục năm nữa thì ngoài việc chăm sóc sức khoẻ ta cũng nên để ý tới nhan sắc để vui với đời. Cũng nhiều bác còn khoẻ mạnh, sống cô đơn muốn có bạn tâm tình mới thì cũng phải gọn ghẽ một chút chứ mặt mũi nhăn nhúm, cơ bắp bầy nhầy thì “ai thèm để ý tới”. Các bác đã tới các mỹ viện để làm công việc “cải lão hoàn đồng”. Để đáp ứng nhu cầu, y giới cũng sẵn sàng tiếp tay.
Tại Mỹ, theo American Society for Aesthetic Plastic Surgery (hội Thẩm mỹ Hoa Kỳ), trong năm 2010 đã có tới gần 84.685 trường hợp phẫu thuật thẩm mỹ các loại được thực hiện với người trên 65 tuổi. Trong số đó, căng da mặt facelift là 26.635 ca; 24.783 sửa sang mi mắt; 6.469 hút mỡ; 5.874 giảm ngực; 3.875 tân trang da mặt; 3.339 nâng vú và 2.414 làm to ngực.
Những phẫu thuật phổ biến ở người già
Theo một số thăm dò, đa số các bác đều coi việc loại bỏ các vết nhăn trên mặt là việc cần làm, vì căng da mặt có thể lật ngược hậu quả của sự hoá già cũng như của tia nắng gây tổn thương cho da mặt. Với bàn tay kinh nghiệm của chuyên gia, nhiều người nom trẻ đi tới mươi tuổi và cảm thấy tự tin hơn trong việc giao tế với mọi người. Tuy nhiên, facelift không ngăn cản được sự hoá già của cơ thể. Sau mươi năm, vết nhăn lại dần dần xuất hiện và khi đó lại có phương thức mới để cải thiện dung nhan mặt.
Với phẫu thuật, bác sĩ có thể: cắt bỏ một số mô béo ở dưới da mặt; loại bỏ lớp da nhăn; kéo căng các cơ thịt; hút mỡ ở cổ; dùng chỉ khâu lại vết mổ. Phẫu thuật có thể thực hiện tại phòng mạch hoặc tại bệnh viện. Vết mổ là dọc theo chân tóc thái dương và phía sau tai.
Sau căng da mặt, cần biết cách chăm sóc. Cần chú ý tuân thủ các hướng dẫn của bác sĩ.
Gần đây, tia laser được dùng thay phẫu thuật căng da. Với tia laser, lớp da trên cùng bị hư hao được lấy đi, lớp da bên dưới được làm cho chắc hơn khiến cho da nhẵn phẳng. Với các vết nhăn nằm sâu, chích botox là phương thức hữu hiệu, vết nhăn mất đi cả năm sáu tháng rồi có thể chích lại. Để làm da mặt phẳng nhẵn, còn phương pháp bào da mặt với giấy nhám hoặc bóc da bằng hoá chất.
Nhiều bác cũng thích sửa mũi vì hình dáng không vừa ý hoặc bệnh bẩm sinh. Đây là phẫu thuật khá phổ biến và việc thực hiện cần bàn tay chuyên môn kinh nghiệm.
Ngoài ra, còn có các phẫu thuật người già thường chọn như sửa mi mắt để lấy túi mỡ dư ở mi mắt trên và dưới. Rồi tiện thể gắn lông mi luôn. Phẫu thuật căng da trán, loại bỏ các vết nhăn, điều chỉnh chân mày xệ. Cắt hoặc hút mô béo dư ở dưới cằm necklift, căng da và cắt bỏ da xệ ở cằm và cổ.
Phẫu thuật nhũ hoa có thể là giảm hoặc tăng độ lớn.
Giảm mỡ ở bụng, mông, đùi đôi khi ở cánh tay, cổ, dưới cằm bằng cách hút mỡ hoặc cắt bỏ mỡ. Nên nhớ phẫu thuật này không phải là phương thức chữa béo phì hoặc để giảm cân.
Chuẩn bị
Trước khi quyết định tân trang phần nào của cơ thể thì bản thân các cụ cũng như người thân cần lưu ý mấy điểm quan trọng như sau:
Trên nguyên tắc bác sĩ nào cũng chỉnh trang làm đẹp được, nhưng hiện nay ngành thẩm mỹ đã có nhiều phẫu thuật gia chuyên ngành với học vị bài bản, kinh nghiệm cao. Ta nên chọn lựa vị nào được nhiều người tín nhiệm, để khỏi tiền mất tật mang, lợn lành chữa thành lợn què.
Khi gặp bác sĩ cần nói rõ điều mình mong muốn và hỏi rõ kết quả như thế nào. Mỗi người có cấu trúc và ý thích khác nhau, do đó bác sĩ sẽ lựa phương án nào thích hợp với từng người. Thảo luận các rủi ro có thể xảy ra cũng như cách thức chăm sóc sau phẫu thuật.
Cho bác sĩ biết về tình hình sức khoẻ của mình trong hiện tại cũng như trong quá khứ, dược phẩm đang dùng, kể cả các loại vitamin, omega-3 fatty acid, dược thảo tỏi, sâm, gingo biloba, rượu, thuốc lá, tâm trạng căng thẳng, lịch sử di truyền và nói rõ các vấn đề dị ứng…
BÁC SĨ NGUYỄN Ý ĐỨ
http://sgtt.vn/Khoe-va-Vui/162732/Tuoi-cao--Tham-my.html
09:27 SA 22/04/2012
Hậu duệ của người nổi tiếng - Kỳ 2: Người con xấu...
Hậu duệ của người nổi tiếng - Kỳ 3: Tổng thống Washington có con trai?

Thông tin tổng thống đầu tiên của Mỹ, George Washington (1732-1799) có nhiều hậu duệ dường như đánh đố lịch sử khi từ trước đến nay ai cũng cho rằng ông không hề có con.
Con riêng của vợ
Ngày 6.1.1759, G.Washington kết hôn với Martha Dandridge Custis, một quả phụ giàu có. Hai người cùng nuôi hai con riêng của Martha với chồng trước (Daniel Parke Custis) là John Parke Custis và Martha Parke Custis. Gia đình Washington sau đó còn chăm lo cho hai cháu của Martha là Eleanor Parke Custis và George Washington Parke Custis. Có lẽ do mắc bệnh đậu mùa vào năm 1751 nên G.Washington tuyệt đường sinh sản. Sau này John Parke Custis trở thành người quản lý đồn điền của gia đình Washington rộng đến 73 km2 ở Virginia.
Năm 2004, tác giả Linda Allen Bryant đã phát hành quyển I cannot tell a lie: The True Story Of George Washington's African American Descendants (Tôi không thể nói dối: Câu chuyện có thật về hậu duệ lai Phi của George Washington), mở ra một kết luận khác hẳn những gì lịch sử ghi nhận.
Trang tin History News Network (hnn.us) của Đại học George Mason (Mỹ) viết về quyển sách: G.Washington bắt đầu mối quan hệ với một nữ nô lệ da đen tên là Venus trong khoảng thời gian giữa năm 1784. Nhiều bằng chứng mà tác giả đưa ra dựa trên lịch sử được truyền miệng qua hơn 200 năm từ gia đình. Thời điểm đó, G.Washington đến thăm trang trại của anh trai - John Augustine mà sau này trong nhật ký cá nhân, G.Washington đã để trống. Theo tác giả Bryant và mẹ bà thì tháng 4.1784, G.Washington dự đám tang con trai 17 tuổi của John Augustine mất vì tai nạn ở Alexandria, Virginia. Đây là lúc Washington gặp và quan hệ chớp nhoáng với cô nô lệ da đen Venus tại trang trại của người anh. Kết quả mối tình này là cậu bé West Ford ra đời vào năm 1785.


Một truyền thuyết khác kể rằng, West Ford thường xuyên đi nhà thờ, săn bắn với John Augustine và vợ Hannah Washington. Bushrod, người thừa kế trang trại Mount Vernon của John Augustine, về sau là thẩm phán Tòa án tối cao Mỹ đã để lại cho West Ford một vùng đất của gia đình. Di chúc ghi West Ford là thợ mộc và quản gia của gia đình. Xem tranh vẽ thì Bushrod và West Ford rất giống nhau. Có thể West Ford chính là con riêng của Augustine. Tuy nhiên giả thuyết này bị Bryant cực lực bác bỏ.
Vẫn còn tranh cãi
Năm 1977, một nhà sử học địa phương ở hạt Fairfax, bang Virginia đã tìm ra danh sách những nô lệ của bang từ vài trăm năm trước. Theo đó, tài liệu ghi rõ West Ford từng là nô lệ của Hannah Washington, chị dâu của G.Washington. Tuy nhiên, bao nhiêu đó vẫn chưa đủ để chứng minh West Ford là con ngoài giá thú của John Augustine.
Tờ The New York Times, năm 1985, đã đăng bài phỏng vấn Judith Saunders Burton, cháu nhiều đời của West Ford. Năm đó, Burton vừa hoàn tất luận án tiến sĩ về gia phả dòng họ và cuộc giải phóng nô lệ. Tiến sĩ Burton cũng xác nhận huyền thoại cha - con giữa G.Washington và West Ford là thú vị nhưng vẫn chưa được xác nhận chính thức. Báo The New York Times nhiều năm sau đó đưa thêm thông tin, trong đó có một số trích từ quyển sách của Bryant như câu nói được mẹ Bryant, bà Elise Ford Allen, lặp đi lặp lại sau khi nghe từ ông nội, thiếu tá George W.Ford (cháu cố của West Ford): “Khi West Ford còn nhỏ, đã nghe những người nô lệ nói ông rất giống G.Washington”.
Năm 1988, xét nghiệm ADN cho thấy Tổng thống thứ ba của Mỹ Thomas Jefferson (1743-1826) từng có con ngoài giá thú với cô nô lệ da đen Sally Hemmings. Nhóm nghiên cứu đứng đầu là sử gia Joseph Ellis đã công bố kết quả ADN do tiến sĩ Eugene Foster tiến hành trên những hậu duệ đời nay của Jefferson, cho thấy cậu con trai út Eston của Sally Hemmings chắc chắn có cùng dòng máu với tổng thống. Từ câu chuyện này, năm 1999, gia đình Bryant bắt đầu chiến dịch yêu cầu xét nghiệm ADN nhằm xác minh West Ford có phải là con của G.Washington hay không.
Tuy nhiên, Hội Phụ nữ Mount Vernon (Virginia) và những người chăm sóc bất động sản của dòng họ Washington từ chối việc xét nghiệm ADN. Do đó, con cháu của West Ford không thể đưa vụ việc ra tòa án cũng như chứng minh tính hợp pháp của đơn kiện. Những gì Linda Allen Bryant viết trong quyển I cannot tell a lie qua hình thức truyền miệng chỉ mang tính “tham khảo”.
Giáo sư sử học thuộc Đại học Yale, Edmund Morgan nhìn nhận: “Tôi biết chắc không có bằng chứng hỗ trợ cho việc gia đình Bryant yêu cầu chứng minh tính hợp pháp, rằng G.Washington là cha của một đứa trẻ nô lệ”. Trong khi đó Hội Phụ nữ Mount Vernon tuyên bố chuyện truyền khẩu không thể chứng minh G.Washington là cha đẻ của West Ford. “Chúng tôi ở cạnh trang trại Mount Vernon”, Dennis Pogue, Phó giám đốc Hiệp hội Bảo tồn lịch sử, nói. “Có thể West Ford là con của một người trong dòng họ Washington nhưng chắc chắn không phải của G.Washington. Dĩ nhiên, tác giả Bryant và gia đình không hề muốn một kết luận như thế”.
“Những sử gia không thể tách rời thực tế với giả thuyết trong câu chuyện West Ford mà quyển sách của Bryant đề cập đến. Dù sao đi nữa thì I cannot tell a lie luôn là lời nhắc nhở quan trọng về đạo đức, tình dục và chủng tộc trong một xã hội còn duy trì chế độ nô lệ. Cho dù đúng hay sai, quyển sách như một lời bổ sung vào lịch sử, làm nổi bật thực tế đen tối của nền văn hóa nông nghiệp. Giờ đây, chúng ta (những người Mỹ) cần suy nghĩ về tính hợp pháp của cái gọi là câu chuyện truyền miệng như là bằng chứng của lịch sử để phản ánh thực tế rằng một số gia đình nổi bật ở Mỹ đã thật sự hy sinh, đau đớn, tủi nhục vì bị bóc lột sức lao động, bị quấy rối và khai thác tình dục”, trang History News Network bình luận.
Về phần mình, tác giả Linda Allen Bryant cho rằng: “Nếu mối quan hệ huyết thống giữa G.Washington và West Ford được chứng minh thông qua xét nghiệm ADN thì người Mỹ gốc Phi hoàn toàn nhận được sự kết nối, mối quan hệ với người sáng lập nên đất nước này, bên cạnh một chế độ nô lệ trong lịch sử. Tôi hy vọng, việc tiết lộ sự thật về G.Washington, cha một đứa con trai nô lệ sẽ là chất xúc tác nhằm đạt được sự hòa giải chủng tộc sâu rộng hơn trong lòng nước Mỹ. Tôi viết I cannot tell a lie dựa trên nhiều bằng chứng lịch sử, các trích đoạn từ di chúc, giấy trợ cấp đất, tạp chí khoa học, lịch sử, bài báo, hồ sơ thuế, tài liệu lưu trữ quốc gia… không chỉ qua truyền miệng từ gia đình. Tôi biết câu chuyện G.Washington có con trai nô lệ sẽ gây rất nhiều tranh cãi, nhưng tôi tin tự do ý kiến luôn là điều tích cực. Lịch sử phải được kể lại, thách thức và liên tục cập nhật”.
Đỗ Tuấn
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120418/hau-due-cua-nguoi-noi-tieng-ky-3-tong-thong-washington-co-con-trai.aspx
03:55 CH 19/04/2012
Chuyện dịch thuật: sai ở khắp nơi
Một số xu hướng biến dạng trong dịch thuật

Thứ bảy, 10/12/2005, 09:23
Nguyễn Duy Bình
Trong dịch văn học, việc trung thành tuyệt đối với bản gốc là điều bất khả. Để bản dịch của mình được công nhận như là một tác phẩm nghệ thuật đích thực, dịch giả thường tiến hành các thao tác khiến cho bản dịch có các xu hướng biến dạng nhất định.
Bài viết này sẽ đề cập đến các xu hướng như hợp lý hóa, tường minh hóa, xu hướng kéo dài, thẩm mỹ hóa hay xu hướng giảm chất. Việc nghiên cứu các xu hướng này sẽ giúp chúng ta hiểu hơn những băn khoăn, trăn trở của những người dịch văn học.
Ngày nay, trong số những người làm công tác dịch văn học hay phê bình dịch văn học, không ai lại không biết đến câu ngạn ngữ của Ý “Traductore, tradittore”, “dịch là phản” hay, nặng lời hơn, có người còn nói “dịch là diệt”. Không phải ngẫu nhiên mà từ lâu đời nay, dịch giả thường sống trong một sự mặc cảm, nếu không phải là vì “nhai lại” điều người khác đã nói thì cũng là vì họ bị xem, hoặc là tự xem, là một kẻ phản bội. Mặc dầu vậy, ít người có thể trả lời câu hỏi: “Họ phản bội như thế nào?”. Trong bài viết này, dựa vào công trình nghiên cứu của Antoine Berman và vốn hiểu biết ít ỏi về dịch thuật của mình, chúng tôi sẽ cố gắng trả lời câu hỏi này bằng cách đề cập tới một số xu hướng biến dạng trong dịch thuật.
Antoine Berman là một nhà triết gia, nhà dịch thuật học nổi tiếng ở Pháp cũng như ở phương Tây. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về dịch thuật nói chung và dịch văn học nói riêng. Ta có thể kể đến cuốn Thử thách từ nước ngoài (Epreuve de l’Etranger) trong đó tác giả đã nghiên cứu lý thuyết dịch thuật của các văn nghệ sĩ theo trường phái lãng mạn Đức và nêu ra tầm quan trọng của dịch văn học trong việc hình thành nền văn học và bản sắc văn hóa nước Đức. Ngoài ra ông còn thành công với cuốn Hướng tới phê bình dịch thuật: John Donne (Pour une critique des traductions: John Donne) và cuốn Bản dịch và bản gốc hay quán trọ từ miền xa (La traduction et la lettre ou l’auberge du lointain). Trong cuốn này, tác giả đã phân tích các xu hướng dịch thuật mà ông gọi là biến dạng ở Pháp.
Ngay trong phần đầu chương sách có tên Phân tích dịch thuật và phân loại sự biến dạng, Antoine Berman đã thông báo: “Tôi sẽ nghiên cứu ngắn gọn cách thức biến dạng văn bản gốc trong tất cả các bản dịch và làm cho bản dịch không đạt được mục tiêu đích thực của nó” (49:1999).
Các xu hướng biến dạng tạo thành một thể thống nhất và có mục đích là phá đi một cách có hệ thống bản gốc để bảo toàn “nghĩa” và “hình thức đẹp”. Điều này có nghĩa là khi dịch một văn bản, ta chỉ quan tâm đến việc chuyển tải được nghĩa của văn bản gốc và diễn đạt nó bằng một ngữ đích trong sáng, trau chuốt, hợp lời ăn tiếng nói của độc giả bản dịch (chúng tôi tạm gọi là công chúng đích). Quan niệm về dịch thuật như thế này không có gì xa lạ vì xưa nay, bất cứ ở nước nào, phần lớn tất cả mọi người đều hướng tới một bản dịch như vậy. Bởi thế các dịch giả Việt nam thường lấy quy tắc dịch của Nghiêm Phục “Tín, Đạt, Nhã” làm phương châm của mình. Tuy nhiên, kiểu dịch “dân tộc trung tâm” (ethnocentriste) này không phải khi nào cũng làm cho giới phê bình dịch thuật hài lòng vì các thao tác biến dạng của các dịch giả.
Antoine Berman liệt kê được một số xu hướng biến dạng trong dịch thuật. Đó là: hợp lý hóa, tường minh hóa, xu hướng kéo dài, thanh cao hóa, tầm thường hóa, giảm chất, giảm lượng, thuần nhất hóa, phá nhịp điệu, phá lớp nghĩa hàm ẩn, phá tính hệ thống của văn bản, phá hệ phương ngữ, phá thành ngữ, tục ngữ.
Trong giới hạn bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày một số xu hướng chủ yếu:
1. Xu hướng hợp lý hóa
Đây là xu hướng thay đổi cấu trúc cú pháp của các câu văn hoặc đoạn văn của bản gốc để sắp xếp lại theo một trình tự hợp lý hơn với tư duy công chúng đích. Theo Antoine Berman, các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận, thường có cấu trúc rườm rà theo hình cây (nhiều câu lặp lại, nhan nhản các quan hệ từ và phân từ quá khứ, câu dài, câu không có động từ) và chúng hoàn toàn đối lập với tư duy logic theo đường thẳng. Chính vì thế mà một dịch giả tác phẩm Anh em nhà Karamazoz của Dostoievski đã viết: “Văn phong nặng nề của Dostoievski đặt ra cho dịch giả một vấn đề nan giải. Việc tái tạo lại các câu văn rườm rà của nhà văn này là điều không thể mặc dù nội dung rất phong phú”.
Đặc điểm của văn xuôi là “đầy bụi rậm”. Ngôn ngữ văn xuôi có đặc điểm là đa logic. Hợp lý hóa trong dịch thuật triệt tiêu điều đó. Thông thường thì việc hợp lý hóa trong dịch thuật biến cái cụ thể trong bản gốc thành cái trừu tượng, biến cái riêng thành cái chung để sắp xếp lại cấu trúc cú pháp theo đường thẳng. Điều này được thể hiện bằng việc dịch động từ bằng danh từ hoặc dịch hai danh từ bằng một danh từ khác chung nhất. Ví dụ khi dịch câu: “Tôi đi săn về” sang tiếng Pháp. Người dịch có xu hướng danh từ hóa việc đi săn và chỉ giữ lại động từ “về”: “Je reviens de la chasse” (Thí dụ của Cadière). Hoặc khi dịch sang tiếng Việt câu: "Dans la chambre de Marie, il y a le salon (bộ xa-lông), la table (bàn), le fauteuil(ghế bành), la chaise (ghế dựa)", ta có xu hướng dịch bằng một danh từ chung chung đại loại như "bàn ghế".
2. Xu hướng tường minh hóa
Nhà thơ Galway Kinnel có một nhận xét rất xác đáng và có thế coi đó như là định nghĩa của xu hướng này: “Bản dịch có khả năng rõ hơn bản gốc chút ít” (The translation should be a little clearer than the original).
Như thế, khi mà dịch giả gặp trong bản gốc câu nào đó, hoặc đoạn nào đó tối nghĩa, khó hiểu hoặc là hàm ẩn thì dịch giả thường giải nghĩa ra, diễn đạt lại. Kết quả là bản dịch dễ hiểu hơn, dễ tiếp cận hơn. Antoine Berman khẳng định có một xu hướng tường minh hóa tích cực và một xu hướng tường minh hóa tiêu cực. Tường minh hóa tích cực là nói rõ cái gì đó không hiển nhiên, ẩn giấu, kìm nén trong bản gốc. Nhận xét sau đây của Heidegger biện minh một cách thuyết phục kiểu dịch này: “Qua việc dịch thì tư duy được chuyển tải vào tinh thần của ngôn ngữ khác và khả năng bị biến đổi là không tránh khỏi. Nhưng sự biến đổi này có thể trở nên phong phú vì nó làm cho trung tâm của vấn đề xuất hiện dưới một ánh sáng mới”. (Questions I, Gallimard, Paris, 1968, tr. 10)
Nhưng chúng ta đều biết là nhiều khi tác giả cố tình đưa vào tác phẩm những chỗ khó hiểu, hàm ẩn và điều đó có thể tạo nên phong cách hoặc thể hiện ý đồ nghệ thuật của ông ta. Khi đó tường minh hóa sẽ mang ý nghĩa tiêu cực. Việc chuyển từ văn bản đa nghĩa sang văn bản đơn nghĩa hay việc dịch theo kiểu giải thích đều là kiểu dịch tường minh hóa mà ta vừa nêu ra.
3. Xu hướng kéo dài
Tường minh hóa hay hợp lý hóa làm cho bản dịch có xu hướng dài hơn bản gốc. Antoine Berman nhận định rằng xu hướng kéo dài có thể làm phương hại tới nhịp điệu của tác phẩm. Xem xét đoạn Hai thái cực (les deux infinis) của Pascal mà Phạm Quỳnh dịch sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về xu hướng này:
Bản gốc bằng tiếng Pháp:
« …Car enfin qu’est-ce que l’homme dans la nature ? Un néant à l’égard de l’infini, un tout à l’égard du néant, un milieu entre rien et tout. Infiniment éloigné de comprendre les extrêmes, la fin des choses et leur principe sont pour lui invinciblement cachés dans un secret impénétrable ; également incapable de voir le néant d’où il est tiré, et l’infini où il est englouti ».
Bản Việt ngữ của Phạm Quỳnh:
“Vì rút lại thì người ta trong cảnh vật này là gì? Đối với cái thái cực thì người ta là một cái hư vô, đối với cái hư vô thì người ta là một cái thái cực, nghĩa là một khoảng giữa cái có và cái không. Người ta còn xa lắm mới hiểu được cái cùng cực, cho nên cái nhẽ cứu cánh cùng cái nguyên lý vạn vật còn bí mật không tài nào khám phá được; không thể biết được cái hư vô ở đấy mà ra, mà cũng không thể biết được cái thái cực tiêu diệt về đấy”.
Ta có thể thấy là bản Việt ngữ dài hơn bản gốc. Bản tiếng Pháp dài 66 từ trong khi bản Việt ngữ dài đến 104 từ. Dịch giả Phạm Quỳnh đã thêm đại từ, lặp lại động từ để chuyển tải được nghĩa của văn bản nguồn và bảo đảm một tiếng Việt uyển chuyển và phong phú. Chẳng hạn trong bản gốc, "l’homme" (con người) chỉ xuất hiện một lần nhưng trong bản dịch "người ta" xuất hiện đến 4 lần. Như vậy, để hợp với tư duy công chúng đích, để trở nên dễ hiểu, rõ ràng thì bản dịch phải dài hơn bản gốc. Đây là một xu hướng khó có thể tránh khỏi.
4. Thẩm mỹ hóa
Về hình thức, bản dịch có xu hướng "nhã" hơn bản gốc. Các dịch giả văn học thường cố dịch cho hay, cho uyển chuyển cho nên khi dịch thơ thì họ thi vị hóa, dịch văn thì họ tu từ hóa. Antoine Berman cho rằng tu từ thẩm mỹ hóa nhằm dùng những lời văn thanh nhã bằng cách sử dụng bản gốc như một nguyên liệu. Từ nguyên liệu này dịch giả thêm "hoa lá cành" để bản dịch của mình hay hơn. Lâu nay người ta khen ông này dịch hay, chê ông kia dịch dở thực chất là khen chê về khả năng ngôn ngữ và văn chương của dịch giả. Còn để nhận xét về một bản dịch thì điều kiện tối thiểu là phải biết cả ngữ đích và ngữ nguồn. Những người khen ông Thúy Toàn dịch thơ Nga hay, tán dương ông Huỳnh Lý dịch văn Pháp giỏi chắc gì đã đọc cả bản gốc lẫn bản dịch? Khi chúng ta đọc bản dịch bài thơ Mes heures perdues của Félix Arvers qua bản Việt ngữ của Khái Hưng thì ta thấy là bản dịch có vẻ thơ mộng hơn, trữ tình hơn, nhiều chất thơ hơn là bản gốc:
"Lòng ta chôn một khối tình.
Tình trong giây phút mà thành thiên thu.
Tình tuyệt vọng, nghĩa thảm sầu.
Mà người gieo thảm cơ hầu không hay.
Hỡi ơi, người đó ta đây.
Sao ta thui thủi tháng ngày chiếc thân.
Dẫu ta đi trọn đường trần.
Tình ta dễ đã một lần hé môi.
Người dù ngọc nói hoa cười.
Nhìn ta như thể nhìn người không quen.
Đường đời lặng lẽ gót tiên.
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình.
Một niềm tiết liệt đoan trinh.
Xem thơ nào biết có mình ở trong.
Xem rồi lòng lại hỏi lòng.
Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?"
Bằng thể lục bát uyển chuyển đặc trưng Việt Nam, bằng những hình ảnh ước lệ rất phương Đông, bằng những câu chữ trau chuốt, bóng bảy, trữ tình, bản dịch này là một thí dụ tiêu biểu cho xu hướng thẩm mỹ hóa trong dịch dịch thơ nói riêng và dịch văn học nói chung.
Mặt trái của xu hướng thẩm mỹ hóa là khi dịch đoạn văn mang tính thông tục, dịch giả thường dùng một thứ tiếng lóng giả tạo, ít dung tục hơn và như thế không phản ảnh đúng tinh thần của bản gốc. Trong dịp tranh luận về vấn đề "Tín, Đạt, Nhã", dịch giả Trần Thiện Đạo có nêu quan điểm của mình như sau: "Nhã là nếu trong tác phẩm, có những câu hết sức lủng củng, thì tôi dịch cũng lủng củng. Nhã là phải tôn trọng văn phong của tác giả. Tôi muốn nói thêm là không phải tác giả nào có tiếng thì cái gì cũng hay cả. Camus có những đoạn viết rất lủng củng, có những chữ rất xoàng nữa. Như thế mà một dịch giả lại “nâng cao” những chỗ ấy thì đó không phải là dịch mà là phản". Như vậy, thẩm mỹ hóa trong dịch thuật, dịch cho hay, cho suôn sẻ, đẹp đẽ chưa hẳn là tốt.
5. Giảm chất
Bản dịch thường thường bị "nghèo hóa" về chất lượng, tức là nó không đảm bảo được cái hay của phong cách, sự phong phú tượng thanh, tượng hình của ngôn từ, của ngữ điệu hay cách nói, sự giàu có về ngữ nghĩa… Đặc biệt, khi chúng ta dịch những tác phẩm văn thơ từ tiếng Việt sang tiếng Anh hay tiếng Pháp, khả năng không bảo toàn sự giàu đẹp của tiếng Việt là rất lớn. Ta có thể nhận xét rằng, tiếng Việt của chúng ta là một ngôn ngữ rất giàu chất thơ. Efim Etkind, một nhà phê bình dịch thuật, cho rằng tiếng Nga là một trong những thứ tiếng giàu chất thơ nhất. Ta cũng có thể khẳng định như vậy đối với tiếng Việt giàu đẹp của mình. Một trong những đặc trưng của tiếng Việt là từ láy. Cho nên khi dịch các từ này sang tiếng Pháp chẳng hạn thì xu hướng giảm chất trong quá trình chuyển dịch được thể hiện rất rõ ràng:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo". (Nguyễn Khuyến)
Trong hai câu thơ này, các từ láy "lạnh lẽo", "tẻo teo", rất tượng hình, rất đặc trưng. Bản dịch sang tiếng Pháp trong cuốn Mille ans de littérature vietnamienne (Nghìn năm nền văn học Việt Nam, được xuất bản tại Pháp) không diễn tả được các từ ấy:
"Une mare automnale morne et froide
Sur l"onde limpide, un petit sampan, tout menu".
Từ "froide" (lạnh, rét) trong tiếng Pháp không đúng sắc thái của "lạnh lẽo". Tương tự như vậy đối với từ "petit" (nhỏ) và tiếp theo nó là "tout menu" (rất nhỏ) không thể diễn tả được từ "tẻo teo" trong tiếng Việt.
Như vậy, dịch văn học là một công việc đầy rủi ro vì người dịch có khả năng không trung thành với bản gốc về phong cách hay thẩm mỹ, ngữ nghĩa hay ngôn từ, nội dung hay hình thức. Các xu hướng biến dạng đã trình bày ở trên chưa phải là tất cả nhưng đã thể hiện phần nào mặt trái của tấm huân chương mà các dịch giả, dù cho tầm cỡ nhất, thường mang trên mình. Thế đôi ngả mà dịch giả thường phải đối diện là: Bản dịch của mình hoặc trở thành một cô gái đẹp mà không chung thủy (Belle infidèle, theo cách nói của G. Mounin) hoặc trở thành một cô gái chung thủy mà không ưa nhìn. Trong phần lớn trường hợp, dịch giả thường đi theo con đường của cô gái đẹp, và như thế, trong các bản dịch của họ, các xu hướng biến dạng mà chúng tôi vừa trình bày xong được thể hiện một cách rõ ràng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BERMAN, Questions I, Gallimard, Paris, 1968.
2. Berman Antoine, La traduction et la lettre ou l"auberge du lointain, Editions du Seuil, 1999.
3. BERMAN, Antoine. Pour une critique des traductions: John Donne. Gallimard, 1995. 279 p.
4. LEDERER Marianne, (1994), La traduction aujourd’hui, Hachette F.L.E, Vanves.
5. MARGOT Jean-Claude, (1979), Traduire Sans Trahir, L’Age d’Homme.
6. Milly Jean, (1992), Poétique des textes, Nathan, Paris.
7. NGUYEN, Khac Vien et HUU Ngoc. Mille ans de littérature vietnamienne, une anthologie. Cahors. Editions Philippe Picquier: 1996. 411 p.
8. OSEKI-DÉPRÉ Inês, (1999), Théories et pratiques de la traduction littéraire, Armand Colin.
9. Vu Van Dai, (2002), Aspect théorique de la traduction, Université des langues étrangères Hanoi.
http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/dich-thuat/2005/12/3B9ACAF5/
05:00 CH 18/04/2012
Chuyện dịch thuật: sai ở khắp nơi
Trịnh Lữ: 'Phải lấy tư cách người đọc để dịch'

"Đối với người dịch, đặc biệt là dịch văn học, thì ngôn ngữ mình dịch gần như phải trở thành ngôn ngữ thứ hai, phải sống trong nền văn hoá đó. Nếu không sống cùng, không thật hiểu nền văn hóa đó, chỉ tầm chương trích cú thì rất khó dịch tốt", dịch giả Trịnh Lữ tâm sự.

- Đến bây giờ, ông đã quen với danh hiệu "dịch giả chuyên nghiệp" mà mọi người gọi mình chưa?

Dịch giả Trịnh Lữ (Lao động).
- Tôi chưa bao giờ nghĩ mình là một dịch giả - một danh từ hàm nghĩa chuyên nghiệp rất cao. Chuyên một nghiệp tức là phải sống được bằng nghiệp đó, tỉ như họa sĩ thì phải sống được bằng bán tranh, nhà văn phải sống được bằng tiền bán sách... thì đúng là tôi không phải chuyên nghiệp.
Nhưng tôi đã làm việc với tất cả sự toàn tâm toàn ý, kỹ năng, điều kiện... của mình. Chuyên nghiệp trong nghệ thuật, xét cho cùng là sự điêu luyện và toàn tâm toàn ý.
- Ông quan niệm thế nào là một bản dịch tốt?
- Rõ ràng bản dịch không phải là một "nhái bản" của nguyên tác. Và người dịch cũng không phải là "con khỉ" chỉ biết ngây ngô nhại lại nhà văn. Lần đầu tiên tôi đọc cuốn Nỗi buồn chiến tranh (của Bảo Ninh) là qua bản dịch tiếng Anh (The Sorrow of War), từ hồi còn ở Mỹ, và thấy xúc động ghê lắm. Đến khi về nhà, được đọc nguyên tác, không hiểu sao lại không thấy hay nữa, mà có cảm giác như bản tiếng Việt là bản dịch. Có người bạn Đức bảo tôi anh ta thích đọc truyện của Schlink qua bản dịch tiếng Anh hơn là nguyên tác tiếng Đức. Truyện Kiều thực ra cũng là một bản dịch.
Nói về dịch văn học, tôi lại nhớ đến một bài viết của Giáo sư Edward Fowler - Chủ nhiệm khoa Nghiên cứu ngôn ngữ và văn học Đông Á tại ĐH California ở Berkeley. Nhan đề của bài viết này là: "Rendering Words, Traversing Cultures" - nghĩa nôm na là "Tái tạo câu chữ để bắc cầu nối các nền văn hoá khác nhau"...
- Nhưng tái tạo đến đâu thì cũng vẫn phải trung thành với nguyên bản chứ, thưa ông?
Những tác phẩm chính do Trịnh Lữ dịch: Cuộc đời của Pi của Yann Martel (Giải thưởng về dịch thuật của Hội Nhà văn HN 2004 và Hội Nhà văn VN 2005), Con nhân mã ở trong vườn của Moacyr Scliar, Truyện ngắn Australia, Hội họa Trung Hoa, Bí mật chôn vùi, sự thật tàn bạo (của nhóm phóng viên tờ Blade đoạt giải Pulitzer năm 2004), Tuyển tập 15 nhà thơ Mỹ đương đại (cùng dịch với Hoàng Hưng)...
Những tác phẩm dịch sắp xuất bản: Rừng Na Uy (Haruki Murakami), Utopia - nhân gian ảo mộng (Thomas Moore), Tập truyện ngắn 20 tác giả đương đại VN (sẽ phát hành ở Australia)...

- Haruki Murakami - nhà văn lớn hiện nay của Nhật Bản - có ba người chuyên dịch sách của mình ở Mỹ, đều là các giáo sư dạy văn học Nhật ở các đại học lớn, đều đã sinh sống và làm việc ở Nhật lâu năm. Thế mà đối với từng tiểu thuyết, ông còn chọn ra ai là người dịch chính thức cho loại độc giả nào. Ví dụ, cuốn Rừng Na Uy có hai bản dịch, nhưng một bản thì được Murakami cho phép ấn hành ở nước ngoài, còn bản kia thì cho in trong nước dưới dạng song ngữ để phục vụ sinh viên học tiếng Anh. Các tiểu thuyết của ông khi dịch sang tiếng Anh đều được biên tập rất nhiều, và người dịch đóng vai trò chính trong quá trình biên tập này. Cuốn Biên niên chim giây cót chẳng hạn, một tiểu thuyết đồ sộ trong nguyên bản là 3 tập, đã được người dịch - ông Jay Rubin - cắt tổng cộng khoảng 25 nghìn chữ. Vậy mình không nên nghĩ rằng chỉ có bản dịch "trung thành nguyên xi đầy đủ" mới là có giá trị. Ngay nguyên tác cũng tồn tại ở nhiều bản khác nhau nữa là.
- Trong quá trình dịch, ông thường chú ý điều gì nhất?
- Tôi thường không câu nệ lắm những chi tiết nhỏ, chẳng hạn như tên một loại bánh, một nghi thức, một phong tục... Bởi vì đối với người đọc, những chi tiết đó rồi sẽ bị lướt qua rất nhanh. Nhưng những chỗ có ẩn ý đằng sau, có chứa một triết lý, thì phải tập trung dịch, chú giải thật kỹ. Trong khi dịch, luôn phải lấy tư cách là một người đọc chứ không phải một người dịch.
- Bên cạnh niềm vui khi nhận được giải thưởng, ông có cảm thấy buồn cho nền dịch thuật nước nhà khi để một người dù sao cũng mới bước chân vào nghề dịch ẵm hết giải thưởng?
- Tôi chẳng buồn đâu. Ở ta cũng có nhiều sách dịch tốt, nhiều dịch giả giỏi lắm chứ. Chuyện dịch sai, dịch ẩu, một cuốn sách xé lẻ ra cho nhiều người dịch... như báo chí vẫn nói chỉ là cá biệt, ở đâu chẳng có. Cũng như khi ta bổ củi, tránh thế nào được gỗ vụn văng ra.
- Qua việc tham gia dịch thuật mấy năm nay, ông nghĩ sao khi nhiều người cho rằng "văn hoá đọc suy đồi lắm rồi"?
- Tôi thì không nghĩ thế. Đơn cử Cuộc đời của Pi là một cuốn sách khá nặng, với óc tưởng tượng phong phú và những triết lý tưởng như khô khan như về bản ngã và nhân tính, Thượng đế, con người và thiên nhiên... Nếu quả thực bạn đọc bây giờ chỉ thích đọc sách viết về kinh doanh kiếm tiền, quản trị doanh nghiệp, sức khoẻ thường thức... tóm lại là tất cả những gì giúp họ thành đạt, thư giãn trong thời buổi kim tiền này, thì có lẽ "cậu Pi" của tôi chết đã lâu rồi chứ đừng nói gì đến việc được tặng giải, được tái bản, nối bản dài dài. Hay Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm cũng không thể in nổi 200.000-300.000 bản. Thị hiếu văn chương, đặc biệt của giới trẻ ở ta, không xoàng đâu, thậm chí còn cao là đằng khác. Nếu có những phàn nàn này khác thì có khi chính các nhà xuất bản, các tác giả, dịch giả phải xem lại mình trước.
- Ông có thể kể một chút về quãng thời gian 15 năm ông sống ở Mỹ. Vì sao năm 1987 ông quyết định đưa cả gia đình sang đó, rồi 15 năm sau lại quyết định quay về?
- Mọi việc đơn giản thôi. Tôi đi Mỹ thì cũng xác định như thực hiện một chuyến phiêu lưu, cho biết đây biết đó. Sang đấy thì cũng phải làm nhiều việc: chuyên gia cho Liên Hợp Quốc, làm trong ngành truyền hình, quảng cáo, ngân hàng... Ở nhà thuê, chẳng nghèo nhưng cũng chẳng giàu, giống như mọi người làm công ăn lương ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Đến một ngày, khi con cái đã đi học đại học, tôi bỗng thấy mình chẳng việc gì phải đi làm từ 9 giờ sáng tới 5 giờ chiều, làm giàu cho cái thằng vốn đã giàu nứt đố đổ vách. Thế là tôi về, tin chắc rằng ở nhà cuộc sống sẽ thú vị hơn.
- Ông là người chỉ làm những gì mình thích?
- Nói đúng ra thì trong cuộc đời, có lúc cũng phải làm những điều mình không thích. Nhưng quan trọng nhất là không được quên những gì mình thích. Tôi thích sách, thích vẽ tranh. Mấy chục năm nay tôi không dịch sách nhưng không đêm nào tôi không đọc sách. Đọc trang sách hay tôi luôn nghĩ là nếu dịch ra tiếng Việt thì sẽ dịch như thế nào. Bây giờ, có cơ hội làm điều mình thích, không hạnh phúc gì hơn.
- Vì sao ông lại đặt tên cho cả hai đứa con của mình là Hữu Tuệ và Minh Tuệ. Trong văn chương của mình, ông cũng rất hay dùng từ tuệ nhãn?
- Đơn giản thôi. Mẹ tôi thường đi chùa nên lấy chữ Tuệ đặt tên cho các cháu. Tuệ trong nhà Phật có nghĩa là Biết.
(Nguồn: Lao động)
http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/dich-thuat/2006/01/3B9ACA95/
04:35 CH 18/04/2012
Bao giờ mới hết những chữ vô hồn?
Chị Người Hà Nội, em hỏi thật chị có thù oán riêng tư gì với bác Tường không, mà sao chị đi hết topic này đến topic kia, viết hàng chục comments để đả kích một tác phẩm mà-chị-mới-đọc-được-vài-dòng, nhai đi nhai lại một cái chị-cho-là-lỗi để đả kích bác Tường??????
Nếu chị có thù oán riêng tư gì với bác ấy, mong chị hãy thẳng thắn gọi điện cho bác ấy để xử lý mâu thuẫn, đừng làm phiền chúng em với một luận điệu cũ rích và thái độ nghiệt ngã của chị. XIn chị đừng nói là không thích ý kiến của chị thì ignore chị đi. Ignore thế nào được khi chị cũng đang tham gia trao đổi đúng đề tài mà chúng em đang trao đổi.
Nếu chị không có thù oán riêng tư gì, thì em cũng khá ngạc nhiên với thái độ thù địch dai dẳng và nghiệt ngã của chị với những thứ tương đối vô hại và chẳng liên quan gì đến chị.

Spam: ignore còn có nghĩa là cho ID nào đó vào sổ đen và sau đó nếu me Bống đọc bài trên wtt bằng ID "me Bống" thì sẽ không bao giờ đọc được bài của ID đó nữa (trừ khi bấm vào link của bài viết đó cho nó hiện ra, và trừ trường hợp bài viết đó được trích dẫn). Vào Thao tác (ở ngay thanh menu xanh xanh phía trên diễn đàn) -> Thay đổi tùy chọn -> Chỉnh sửa sổ đen (ở gần cuối danh sách các tùy chọn ở phía bên trái) -> thêm ID muốn ignore vào (mỗi lần một ID) -> bấm vào nút Thêm vào sổ đen.
04:20 CH 17/04/2012
Gia đình bong bóng và Tri Giao vào chung kết Got...
Hương Thảo hát hay nhưng sao mình không có cảm xúc hay thích phần trình diễn của Hương Thảo, không biết có phải do khi Hương Thảo hát mình nhớ đến Christine - Emmy Rossum trong phim Bóng ma nhà hát khi hát Think of me không:
05:11 CH 16/04/2012
Du lịch trong nước - mỏ vàng bị bỏ quên
Cần có cái nhìn đúng về du lịch trong nước

“Đầu tư cho du lịch trong nước những năm qua, phía Nhà nước gần như chẳng có gì. Một số doanh nghiệp có đầu tư bài bản vào việc này nhưng không phổ biến” - TS Phạm Trung Lương, viện phó Viện Nghiên cứu và phát triển du lịch, trao đổi với TTCT và cho rằng chỉ khi những người có thẩm quyền nhận thức đầy đủ và thể hiện bằng hành động thì mới có những thay đổi căn bản làm nền tảng để phát triển du lịch trong nước trong tương lai.

Lượng khách du lịch trong nước đầy tiềm năng, đa số là người trẻ vẫn chưa được chú ý và chăm sóc đúng mức - Ảnh: T.T.D.
Theo ông Lương, sản phẩm du lịch của VN khá đa dạng, có thể đáp ứng từ nhu cầu bình dân, đại chúng đến nhóm khách cao cấp, vì vậy khách du lịch trong nước của VN có nhiều lựa chọn. Nhưng nếu cho rằng người dân VN thu nhập ngày càng cao nên đi du lịch trong nước nhiều hơn là chưa chính xác.
Nhìn một cách khoa học, con số 30 triệu lượt du khách trong nước đã đi du lịch chưa thật sự chính xác. Luật du lịch quy định khách được xem như khách du lịch khi có lưu trú khách sạn, nhà nghỉ nhưng cách thống kê của ta thì khách đi chùa, tham gia các lễ hội, vào khu du lịch, tham quan... cũng được thống kê là khách du lịch.
* Nghĩa là công tác thống kê du lịch của VN có vấn đề?
- Thực tế khách du lịch trong nước vẫn tăng nhưng chỉ tăng ở một mức độ thấp mà ta cũng chưa ước lượng được cụ thể. Chính vì vậy, Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch VN, Tổng cục Du lịch đang yêu cầu các cơ quan liên quan hoàn thiện hệ thống thống kê du lịch, trong đó có thống kê theo tài khoản vệ tinh để từ đó có được các con số thống kê chính xác. Từ đây đưa ra các chính sách, chỉ đạo, xúc tiến quảng bá... phù hợp hơn.

TS Phạm Trung Lương - Ảnh: Minh Đức
Thống kê theo tài khoản vệ tinh là hình thức thống kê theo thông lệ quốc tế trong du lịch, trong đó đưa ra các tiêu chí thống kê rõ ràng, đầy đủ dưới mọi góc độ. Cách thống kê này với các nước trên thế giới không mới nhưng VN chưa từng áp dụng bởi luật thống kê của mình có nhiều điều chưa phù hợp. Cách thức thống kê theo tài khoản quốc gia của VN chưa chuẩn.
Chẳng hạn, cho đến thời điểm này doanh thu du lịch chỉ được tính từ dịch vụ lữ hành, khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ mát và những nguồn thu khác như ăn uống, dịch vụ... trong khách sạn, các nguồn thu khác chưa được tính. Điều này là bất hợp lý vì về bản chất, khách du lịch chi tiêu bất cứ loại hình gì trong thời gian đi du lịch thì đều phải được tính là doanh thu du lịch.
Chẳng hạn trong thời gian đi thăm Huế khách có dùng đến taxi để tham quan, chúng ta cũng thu thuế hãng taxi... nên vẫn phải tính là thu nhập từ du lịch đem lại.
* Như vậy thực tế doanh thu từ du lịch mang lại cho nền kinh tế này còn lớn hơn cả con số 110.000 tỉ đồng báo cáo trong năm 2011?
- Tôi cho là vậy. Con số này thực tế sẽ còn lớn hơn nhiều lần, tỉ lệ đóng góp của du lịch trong GDP cũng lớn hơn con số thống kê hiện nay. Khi áp dụng thống kê theo tài khoản vệ tinh, Tổng cục Thống kê cũng được mời vào cùng soạn thảo để dần dần thay đổi tài khoản quốc gia đứng theo góc độ du lịch.
Tôi hi vọng một khi các lãnh đạo có thẩm quyền nhìn thấy được thực chất vai trò và vị trí của ngành du lịch trong tổng quan nền kinh tế, các chính sách hỗ trợ, giúp cho ngành du lịch phát triển sẽ thay đổi theo.

Nhiều du khách cho rằng chất lượng dịch vụ họ được hưởng chưa xứng với đồng tiền mà họ bỏ ra - Ảnh: Thanh Đạm
* Điều gì đã cản trở sự phát triển du lịch trong nước thời gian qua?
- Dòng khách du lịch trong nước không phát triển được là do các yếu tố liên ngành và giá (chủ yếu là giá vận chuyển quá cao), khiến giá tour trong nước của VN cũng thành quá cao, lượng khách đi từ miền này sang miền khác ít vì khó khăn, chi phí đắt đỏ.
Một thực tế đáng buồn là với chi phí tương đương, nếu đi du lịch nước ngoài thì tour sẽ chất lượng hơn. Một yếu tố khác làm kìm hãm sự phát triển của du lịch trong nước là sản phẩm du lịch tuy đa dạng nhưng chất lượng chưa cao. Du khách thấy rằng chất lượng dịch vụ họ được hưởng chưa xứng với đồng tiền mà họ bỏ ra...
Vấn đề là khi tất cả những hạn chế này rất nặng nề đối với du lịch VN thì các nước láng giềng lại đã giải quyết rất tốt. Cho nên, ngoài việc thu hút khách quốc tế thì khách trong nước của họ cũng tăng vì chất lượng dịch vụ du lịch của họ tốt. Cách điều hành chính sách vĩ mô hiệu quả, giá cả trong du lịch lại hợp lý, môi trường cạnh tranh rất dữ dội.
Tôi thấy ngay cả trong mùa cao điểm các phương tiện vận chuyển còn hạ giá để khuyến khích và tăng lượng người dân đi lại, thay vì thu được 1 đồng/khách thì họ hạ giá xuống 0,75 đồng, đổi lại có hai khách đi, họ lấy được 1,5 đồng...

Nguồn: Tổng cục Thống kê
* Ông thấy đầu tư cho du lịch trong nước những năm qua thế nào?
- Phía Nhà nước gần như chẳng có gì. Hầu hết doanh nghiệp chưa đầu tư bài bản, chuyên nghiệp, chẳng hạn trước khi tung ra sản phẩm mới, tiến hành khảo sát khách hàng trẻ, già, thu nhập thấp, cao, phụ nữ, thanh niên... xem thật sự họ cần gì ở tour này, dịch vụ như thế nào thì hợp lý, giá cả ra sao... Rồi có kế hoạch tiếp thị, quảng bá sản phẩm, đưa ra điểm khác biệt để thu hút du khách...
Điều cơ bản là giá tour của VN quá cao, khả năng liên kết, giảm giá giữa các đối tượng liên quan gần như không có hoặc có thì hoàn toàn không tự nguyện, ai cũng khư khư giữ cho nồi cơm của mình nên rất khó kêu gọi họ san sẻ, giảm giá.
Có ba điểm cần phải có sự đầu tư mạnh mẽ của Nhà nước để có thể phát triển du lịch trong nước: đầu tư cho xúc tiến quảng bá điểm đến du lịch, đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách, của thị trường khách du lịch cao cấp. Hạ tầng cơ sở ở các điểm đến du lịch trọng điểm cũng phải được đầu tư sâu nhằm nâng cấp vị thế của chúng.
Chúng ta vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nghiêm túc về phát triển du lịch trong nước. Để có thể tạo điều kiện cho du lịch trong nước phát triển, khai thác “mỏ vàng” này lâu dài, bền vững thì phải giải quyết ngay những hạn chế của ngành. Những người quản lý, có thẩm quyền có nhận thức đầy đủ đến mức thay đổi hành vi của họ trong việc điều chỉnh chính sách hay không mới là điều quan trọng.
Họ phải nhận thức thật sự và thể hiện bằng hành động chứ không phải bằng lời nói hoa mỹ thì mới có những thay đổi căn bản làm nền tảng để phát triển du lịch trong nước trong tương lai.
LÊ NAM thực hiện
http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Tuoi-tre-cuoi-tuan/486852/Du-lich-trong-nuoc---mo-vang-bi-bo-quen.html
03:23 CH 16/04/2012
Trời chuyển oi nóng, trẻ ồ ạt nhập viện
Vật vờ chờ khám cho con tại Viện Nhi đầu mùa oi nóng

Dù nhiệt độ ngoài trời đầu hè chưa quá cao, song, vì quá đông đúc, phải chờ lâu nên có thể dễ dàng bắt gặp cảnh cha mẹ mồ hôi nhễ nhại, trẻ mặt đỏ gay, kêu khóc bên ngoài các phòng khám.
Dưới đây là hình ảnh Vnexpress.net ghi lại tại Bệnh viện Nhi trung ương sáng 16/04.

Giữa giờ sáng, nhiều người tỏ ra mệt mỏi khi phải ngồi xếp hàng trước phòng khám đa khoa đợi tới lượt con.

Hành lang trước khoa cấp cứu chật cứng. Theo các bác sĩ, mấy ngày nay ghi nhận số trẻ nhỏ sốt cao do nhiễm virus tăng cao do thời tiết chuyển mùa.

Trong lúc đợi khám, bà mẹ trẻ phải bế con đi vòng quanh các khu hành lang vì bé không ngừng quấy khóc.

Oi nóng đầu mùa, không khí ngột ngạt do quá đông người, các ông bố không ngưng tay quạt cho con dù hành lang những khu khám đều bố trí khá nhiều quạt.

Đi sớm từ quê ra khám cho con, ông bố trẻ mệt mỏi tranh thủ chợp mắt trong lúc đợi trước cửa phòng khám.

Bác sĩ Cấn Phú Nhuận khám cho một em bé ở Bắc Ninh nghi bị tay chân miệng. Ông cho biết, gần đây, nhiều bố mẹ đưa con tới khám vì lo sợ bệnh này, nhưng con số mắc thật sự rất ít.

Gần 12 rưỡi trưa, trước cửa bệnh viện Nhi trung ương vẫn tắc do quá đông xe vào, xe ra.
Vương Linh
http://vnexpress.net/gl/suc-khoe/2012/04/troi-chuyen-oi-nong-tre-o-at-nhap-vien/page_1.asp
12:16 CH 16/04/2012
Cổ tích một hoa khôi thoát về từ tổ quỷ
Cổ tích một hoa khôi thoát về từ tổ quỷ - tiếp

TP - Quyết không chịu đi khách khi bị bán qua Trung Quốc, cô gái Tày xinh đẹp Lục Thị Tuyết nhảy lầu và trở thành người tàn phế. Nhưng ý chí và nghị lực phi thường đã giúp cô đứng dậy trở thành người có ích cho đời và tìm được hạnh phúc trọn vẹn.


Vợ chồng Lục Thị Tuyết đưa con thăm Đồn Biên phòng Tân Thanh.
Khi Tuyết được các chiến sĩ biên phòng Đồn Tân Thanh giải thoát, đưa đến bệnh viện khám, soi chụp, bố mẹ cô đau khổ khi biết con gái bị gãy cả hai chân, trật khớp, chùn 3 đốt cột sống, rạn xương háng…
Điều trị được một thời gian, một hôm, tình cờ, Tuyết nghe được mấy bác sĩ nói nhỏ với nhau: “Xem những phim chụp thì vô vọng rồi, chẳng thể đi lại được nữa. Tội nghiệp con bé mới chưa đầy 20 tuổi đời mà tàn tật, suốt đời phải ngồi xe lăn…”. Nghe vậy, Tuyết buồn bã vô cùng, mấy đêm liền không ngủ được…
Tuyết đang điều trị trong bệnh viện thì lần lượt hai em gái bị tai nạn giao thông. Thấy bố mẹ quá vất vả, Tuyết quyết định xin xuất viện.
Các bác sĩ ở Trung tâm Nhân đạo Hương Sen - Tuyên Quang thương tình cảnh của Tuyết nên dành tặng một chiếc xe lăn nhưng Tuyết chỉ cảm ơn, không nhận.
Mọi người đều không ai hiểu lý do vì sao, hỏi gặng mãi, Tuyết mới thổ lộ: “Cháu xin cảm ơn các cô chú, nếu cháu ngồi vào chiếc xe lăn này thì suốt đời cháu sẽ không thoát khỏi nó”.
Về nhà, Tuyết tập bò từ tầng 1 lên gác rồi lại bò xuống một thời gian dài khiến hai đầu gối chai sần. Sau khi đã đứng dậy được, Tuyết nhờ bố đóng cho 2 cái ghế rồi hai tay nắm chắc hai ghế lần đi từng bước, từng bước.
Sáu tháng sau, Tuyết bỏ ghế, vịn vào thành cầu thang miệt mài tập lên xuống. Lòng quyết tâm và sự kiên trì, bền bỉ của cô gái 18 tuổi đã được đền đáp: Hơn một năm sau, Tuyết đã có thể tự đi lại được trong nhà mà không cần vịn vào bất cứ vật gì.
Một hôm, Tuyết ngỏ ý xin phép bố mẹ cho ra Hà Nội tìm việc làm. Bố, mẹ kêu trời vì tình trạng sức khỏe và ý định của con gái, nhưng ý Tuyết đã quyết, ông bà đành đồng ý.
Do từng sinh hoạt và học nghề tại Trung tâm Nhân đạo dạy nghề cho trẻ em khuyết tật tại Tuyên Quang nên đặt chân lên đất Thủ đô, Tuyết tìm đến các trung tâm Chữ thập đỏ hoặc dành cho người khuyết tật để vừa tìm việc, vừa học nghề.
Thời gian đầu quả là đầy thử thách, vì đi đứng nhiều khi không vững, có lúc Tuyết nản lòng định gọi điện nhờ bố mẹ đón về.
Nhưng nghĩ đến cuộc đời vô dụng ăn bám bố mẹ, cô lại cắn răng chăm chỉ học nghề, đồng thời học thêm ngoại ngữ và theo lớp kế toán có niên hạn 2,5 năm.
Cũng chính thời gian theo học lớp kế toán này mà hạnh phúc mỉm cười với cô gái Tày.
Dạo đó, để tiết kiệm tiền xe ôm, Tuyết nhờ người bạn cùng lớp giúp tập đi xe đạp. Một hôm, đang loay hoay với chiếc xe đạp tuột xích thì có một anh bộ đội đến giúp. Chàng trai tên Dũng đang là cảnh vệ tại Tổng cục Chính trị.
Họ quen nhau, biết được hoàn cảnh của Tuyết, Dũng đã dành hết thời gian rảnh rỗi để động viên, khích lệ Tuyết trong công việc cũng như tập luyện đi lại hằng ngày. Một năm sau, tình yêu nảy nở nhưng gặp một trở ngại lớn là phía nhà Dũng kiên quyết phản đối vì sợ con trai rước một người tàn tật về sẽ phải “hầu hạ” suốt đời.
Đôi tình nhân trẻ tìm mọi cách thuyết phục nhưng vẫn không lay chuyển được ý chí sắt đá của bố mẹ Dũng nên cuối cùng phải dùng đến “chiêu” giả vờ “ăn cơm trước kẻng” và bắn tin cho gia đình là Tuyết đã mang thai 3 tháng.
Nhưng nhà Dũng cũng chẳng vừa, buộc Tuyết đi siêu âm, “âm mưu” của đôi bạn trẻ bị lộ tẩy. Chẳng còn cách nào khác, đôi uyên ương buộc chuyển từ “giả vờ” thành “làm thật” và khi Tuyết mang trong mình một bé trai 2 tháng tuổi thì bên nội đành phải thuận ý.
Chẳng ai ngờ, chỉ về làm dâu một thời gian, bố mẹ chồng đã yêu quý Tuyết như con đẻ bởi nết ăn, nết ở và sự tháo vát, đảm đang của cô con dâu vùng cao.
Khi Tuyết cầm tấm chứng chỉ kế toán trong tay thì cũng là lúc Dũng xuất ngũ. Dũng theo học lớp lái xe và tìm được việc làm. Tuyết, ngoài chuyên môn kế toán, còn thành thạo nghề may nên cũng vượt qua vòng tuyển chọn vào một công ty dệt may tại Hà Nội.
Để thuận tiện cho công việc, Tuyết thuê gian nhà gần công ty và tập đi xe máy. Khi công việc ổn định, Tuyết nhớ lại quãng thời gian đi tìm việc, học nghề ở các trung tâm dành cho người khuyết tật.
Vì đã trải qua những ngày cam go của người mất khả năng di chuyển, nên Tuyết luôn dành tình cảm đặc biệt cho những người có số phận bất hạnh, nhất là trẻ em mồ côi, tàn tật.
Có thời kỳ ở Hà Nội khi còn chưa kiếm được việc làm, dù bản thân đi lại còn khó khăn, Tuyết vẫn dành nhiều thời gian đi tìm việc làm giúp các em nhỏ khuyết tật.
Có dịp, Tuyết bỏ ra cả tháng trời đi khắp 14 xã một huyện của Bắc Giang, xin tổ chức biểu diễn văn nghệ cho các em ở 13 xã. Đi biểu diễn về, các em đều yêu quí, quyến luyến chị Tuyết.
Giờ đây, hằng ngày, sau khi hoàn tất công việc ở công ty, Tuyết vẫn dành thời gian đưa các em khiếm thính, khiếm thị đi đến những khu vực đông người như bến xe, nhà ga, gầm cầu chui… để bán sản phẩm do các em làm ra.
Hôm dọn đến chỗ thuê mới, Tuyết nhớ ngay đến Thanh Bình, một cô gái cũng xấp xỉ tuổi Tuyết, có hoàn cảnh rất éo le. Bố Bình nhiễm chất độc da cam, cả 4 đứa con của ông mà Bình là chị cả đều bị di chứng.
Do bệnh tình quá nặng, bố mất sớm, mẹ vừa ốm yếu, vừa một mình nuôi các con bệnh tật nên cũng lao lực mà qua đời để lại 4 chị em côi cút. Tuyết quen Bình qua những buổi biểu diễn văn nghệ và đi bán hàng rong.
Nay, đã có công ăn việc làm, có chỗ trú thân, Tuyết không quản khó khăn, vất vả để tìm được cho Bình một việc làm hợp với sức khỏe với mức thu nhập 85 ngàn đồng/ngày.
Rồi Tuyết rủ Bình về ở chung với mình để gánh đỡ cho Bình tiền ăn, ở. Bình vui lắm và rất chịu khó làm việc, mỗi tháng chắt chiu được trên dưới 2 triệu đồng gửi về cho 3 đứa em không nơi nương tựa ở Nghệ An.
Khi thấy Bình bị hẫng hụt bởi mối tình đầu với một chàng trai khiếm thị vừa hé nở đã lụi tàn, Tuyết càng dành nhiều thời gian để chăm sóc, động viên Bình đi tiếp trên chặng đường đời đầy gian truân…

Trung úy Biên phòng Hoàng Sơn Thoại, người góp phần cứu Lục Thị Tuyết và động viên cô đứng dậy sống tiếp.
Qua cơn mưa, trời lại sáng. Đến nay, vợ chồng Tuyết đã xây dựng được một ngôi nhà 80m2 vững chắc ở quê chồng (Hà Nam). Đất thì bố mẹ chồng cho, bên ngoại cũng “kỷ niệm” 4 vạn gạch, tiền xây thì vay mượn mỗi người một chút cộng với số tiền hai vợ chồng tích góp cũng vừa đủ.
Khi đứa con đầu lòng ra đời, Tuyết viết thư cho Trung úy Biên phòng Hoàng Sơn Thoại, người có công đầu trong việc cứu cô về từ Trung Quốc: “… Anh Thoại à, em chẳng bao giờ quên được những ngày cuối năm Ất Dậu đầu năm Bính Tuất đó, nghĩ đến thật là khủng khiếp.
Sau khi em bị lừa bán sang Trung Quốc và bị mấy người vô nhân tính đó bán em vào động mại dâm, em không chịu nên bị chúng nó đánh đập rất dã man. Sau đó em đã nhảy lầu tự tử, may em không chết nhưng bị gãy cả hai chân, chùn 3 đốt cột sống, rạn xương háng.
Em nghĩ mình đã bị tàn phế, chẳng còn một tia hy vọng nào, rất may là em đã được các anh, các chú Đồn Biên phòng giải cứu về Đồn, được anh chải tóc, rửa mặt rồi bón cơm cho em, tình cảm thiêng liêng đó em sẽ chẳng bao giờ quên…
Em còn nhớ anh đã từng nói với em bức thư trước: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền…”. Những khi em đau buồn, tuyệt vọng, em lại nhớ đến những lời khuyên trong những lá thư anh viết cho em nên em đã rất cố gắng luyện tập không ngừng, ngày đêm luyện tập cực khổ hơn 3 năm…
Đến nay, sự cố gắng của em đã được đền đáp, em đã xây dựng gia đình, em rất hạnh phúc, hạnh phúc hơn là em đã sinh được 1 bé trai rất kháu khỉnh. Đã từ rất lâu, em coi các chú các anh cán bộ Đồn Biên phòng Tân Thanh - Lạng Sơn đã sinh ra em lần thứ hai”.
Tiếp theo và hết
Mạnh Việt
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/phong-su/573502/Co-tich-mot-hoa-khoi-thoat-ve-tu-to-quy---tiep-tpp.html
11:45 SA 16/04/2012
Chuyện dịch thuật: sai ở khắp nơi
Hài hước chuyện dịch tựa phim

Thứ Hai, 15/09/2008, 20:10 (GMT+7)

Bộ phim Dạ yến của Phùng Tiểu Cương được Hollywood đặt lại thành The Legend of Black Scorpion (Huyền thoại bò cạp đen), dù trong phim không có huyền thoại bò cạp đen nào!
Cách đây không lâu, những người ghiền phim té ngửa khi bộ phim Thương thành của Hong Kong khi đến Việt Nam được đặt tựa là Vô gian đạo 5. Mùa hè năm nay, một loạt phim Hollywood cũng được đặt tên lại “cho hợp thị hiếu khán giả nội địa”.
Bên cạnh khá nhiều phim được dịch tựa sát nghĩa như Wanted (Truy sát), The Incredible Hulk (Người khổng lồ xanh siêu phàm), Iron man (Người sắt), hay Dark Knight (Kỵ sĩ bóng tối), phim mùa hè 2008 khi đến Việt Nam được Việt hóa tựa phim khá xa với với tựa gốc: WALL-E thành Robot biết iu, còn Mamma Mia! đơn giản thành Giai điệu hạnh phúc. Nếu Hancock hấp dẫn hơn với tên Siêu nhân cái bang thì Vantage Point (Điểm ưu thế) dễ hiểu hơn với tên Sát thủ.
Không ít khán giả bực bội vì việc dịch tựa phim không sát nghĩa, nhất là khi họ đọc thông tin giới thiệu về bộ phim với tựa gốc tiếng Anh và hoàn toàn không hề biết bộ phim ấy khi về đến Việt Nam sẽ mang tên gì. Ngay cả nhân viên rạp chiếu phim khi được hỏi liệu rạp có đang chiếu bộ phim XYZ bằng tựa gốc, họ cũng chào thua vì không biết bộ phim đã được dịch thành tựa nào.
Trên thực tế, khi một bộ phim được mang sang nước khác, việc đặt lại tựa phim cho thị trường nội địa là rất bình thường. Nếu ở Việt Nam, Get Smart (Bắt lấy Smart) trở thành Điệp viên 86: Nhiệm vụ bất khả thi thì tại Mexico, bộ phim có tựa là Siêu điệp viên 86, tại Pháp là Max mối đe dọa, ở Ý là Điệp viên Smart: Sòng bạc “toàn da”, ở Trung Quốc là Điệp viên lộn xộn và ở Đài Loan là Chàng điệp viên dễ bắt hay không?
Các tựa phim thường không được dịch sát nghĩa nhằm mục đích dễ tiếp thị và quảng bá. Thường thì các tựa phim được đặt sao cho thuận miệng người nói hoặc gợi ý khán giả về nội dung của bộ phim. Ví dụ như bộ phim The Happening (tạm dịch là Biến cố) khi sang các nước khác đều được đặt lại tên để gợi ý về nội dung chính của phim, thế nên ở Việt Nam nó có tên Thảm họa toàn cầu và ở Mexico có tên là Tận thế.
Cũng có khi các tựa phim được đặt tên giảm nhẹ so với tựa gốc, nhưng cũng không ít phim được “giật” hơn để lôi kéo sự chú ý người xem. Ở Việt Nam, Sex and the city (Tình dục đô thị) được nói tránh đi với Chuyện ấy là chuyện nhỏ, còn Lakeview Terrace (Mái hiên nhìn ra hồ) giật gân hơn nhờ tên Gã hàng xóm kinh dị. Tương tự, phim Knocked up (Dính bầu) khi sang Peru, nơi dân số chủ yếu theo đạo Cơ đốc, được đặt một tựa ngộ nghĩnh là Hơi hơi có thai. Ở Việt Nam, nó mang tên Tình một đêm, còn tại Trung Quốc lại là Một đêm, bụng bự.
Đôi khi các tựa phim đi rất xa so với tựa gốc. Chẳng hạn, dù là fan của Julia Roberts, có lẽ bạn chưa xem bộ phim Chim sẻ thành nữ hoàng. Kỳ thực, đó chính là tên của bộ phim Pretty Woman (Người đàn bà đẹp) ở Trung Quốc. Ly kỳ hơn, Bệnh nhân người Anh đến Hong Kong được đặt thành Đừng hỏi anh là ai! Phim Pháp Léon sang Mỹ có tựa The Professional (Kẻ chuyên nghiệp), nhưng ở Hong Kong nó là Gã sát thủ này không lạnh lùng như hắn nghĩ!
Hài hước hơn, bộ phim The Full Monty (Những gì cần thiết) ở Trung Quốc có tựa Sáu con heo trần truồng! Ở Việt Nam, chỉ vì bộ phim Thương thành có Lương Triều Vỹ, xoay quanh giới xã hội đen và cảnh sát Hong Kong cùng tấm poster tương tự phim Vô gian đạo mà bộ phim được gọi là Vô gian đạo 5, dù bộ phim này chẳng có dây mơ rễ má gì với bộ phim Vô gian đạo, chưa kể làm gì có Vô gian đạo 4 mà đã sang phần 5! Hãng nhập phim hy vọng rằng khán giả thích xem Vô gian đạo sẽ tò mò đi xem Vô gian đạo 5 - nhưng cách làm đó gây bất bình với những người am hiểu phim ảnh.
“Hollywood đang cố gắng can thiệp vào việc kiểm soát dịch tựa phim cho thị trường nước ngoài trong vài năm gần đây” - David Weitzner, nguyên Trưởng phòng Phát triển phát hành phim thế giới của 20th Century Fox và Universal cho biết như vậy. Doanh thu của nhiều phim Hollywood trong vài năm trở lại đây chủ yếu thu lợi từ thị trường quốc tế và các hãng phim Hollywood không muốn vì tựa phim dở mà bị mất khách.
Thế nhưng ngay cả Hollywood khi đưa phim nước ngoài sang Mỹ chiếu cũng đặt lại tựa phim và không ít trong số đó khá ngớ ngẩn. Bộ phim Open Your Eyes (Anh hãy mở mắt) của Tây Ban Nha khi được Hollywood làm lại đã được đổi tên thành Vanilla Sky (Bầu trời vani). Bộ phim Hoàng Kim Giáp của Trương Nghệ Mưu có tựa tiếng Anh The Curse of the Golden Flower (Lời nguyền hoa vàng), Thập diện mai phục có tựa tiếng Anh là House of Flying Daggers (Phi đao gia) và Vô cực của Trần Khải Ca được đặt tên The Promise (Lời hứa).
Bộ phim Thái Tom Yum Goong sang Mỹ có tựa The Protector (Người bảo vệ). Táo tợn hơn cả là bộ phim Dạ yến của Phùng Tiểu Cương được Hollywood đặt lại thành The Legend of Black Scorpion (Huyền thoại bò cạp đen), dù trong phim không có huyền thoại bò cạp đen nào.
Huyền thoại bò cạp đen cũng chỉ là một trong vô số phim châu Á được các hãng phát hành phim Hollywood gắn vào hai chữ Huyền thoại để dễ bề bán phim hơn, giống như Túy Quyền thành Huyền thoại Túy Quyền, Phương Thế Ngọc 1 và 2 thành Huyền thoại 1 và 2, Tiếu ngạo giang hồ thành Huyền thoại kiếm khách, Hồng Hi Quan chuyển sang Huyền thoại tân Thiếu lâm tự, rồi tiếp tục bị đổi thành Huyền thoại Rồng Đỏ. Trong tiềm thức của các nhà phát hành phim Mỹ, phim cổ trang châu Á cứ phải là huyền thoại mới ăn khách.
Theo QUANG ANH
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Dien-anh/278545/Hai-huoc-chuyen-dich-tua-phim.html
04:54 CH 15/04/2012
"Với tôi, từ thời trẻ đã luôn khinh của cải..."
Thư Einstein gửi các em học sinh

– “Hy vọng một ngày kia thế hệ các em sẽ khiến thế hệ chúng tôi phải hổ thẹn” – Albert Einstein.
Hầu như tất cả mọi người đều nghĩ giáo dục là một trong những điều quan trọng nhất đối với con người. Tuy thế, còn có điều quan trọng hơn. Đó là học tập.
Học tập là một thái độ chủ động tiếp nhận thông tin và kiến thức - để phục vụ cho nhu cầu hiểu biết của bản thân; còn giáo dục là một trong những biện pháp truyền đạt và đối tượng thụ hưởng sẽ tiếp thu một cách thụ động thông tin đó. Như vậy, thực ra với người học, việc học tập cần được chú trọng hơn giáo dục.
Trong khi tìm hiểu về Einstein, chuyên mục Đọc chậm cuối tuần tìm thấy một trích dẫn, trong đó ông nói: "Tôi không bao giờ dạy học sinh của mình; tôi chỉ thử cung cấp cho các em những điều kiện mà ở đó các em có thể học được" ("I never teach my pupils; I only attempt to provide the conditions in which they can learn".)
Tinh thần tôn trọng con người của Einstein - đặc biệt với những người đang tích cực học tập, lao động và ứng xử với thế giới xung quanh bằng tình thân ái - sẽ tiếp tục được tìm hiểu trong trích đoạn dưới đây.

Einstein trên lớp học
Dưới đây là trích đoạn "Thế giới như tôi thấy" với sự đồng ý của NXB Tri Thức – đơn vị giữ bản quyền tiếng Việt. Dịch giả Đinh Bá Anh dịch từ bản gốc tiếng Đức.
***
(Năm 1923)
GỬI CÁC EM HỌC SINH NHẬT BẢN
Khi tôi gửi tới các em - những học sinh Nhật Bản - lời chào này, là tôi có quyền đặc biệt để làm thế đấy nhé. Bởi đích thân tôi đã tới thăm đất nước Nhật Bản xinh đẹp của các em; tôi đã nhìn thấy những thành phố, những ngôi nhà, những ngọn núi và những cánh rừng; đã thấy ở đó những cô bé, cậu bé Nhật Bản nuôi dưỡng tình yêu quê hương mình. Trên bàn làm việc của tôi luôn đặt một cuốn sách lớn đầy những họa phẩm màu của trẻ em Nhật Bản.
Khi các em ở nơi xa xôi ấy đón nhận lời chào của tôi, các em hãy nghĩ rằng, phải ở thời đại chúng ta, con người từ nhiều quốc gia khác nhau mới có thể tiếp xúc với nhau một cách vui vẻ và hiểu biết, trong khi trước đây các dân tộc ở đâu sống đó, không hiểu biết, thậm chí sợ hãi hoặc thù ghét lẫn nhau. Mong rằng tình huynh đệ hiểu biết giữa các dân tộc ngày càng được bám rễ bền chặt! Trong tinh thần ấy, ông già này xin gửi lời chào tới các em - những học sinh Nhật Bản ở nơi xa xôi, và hy vọng một ngày kia thế hệ các em sẽ khiến thế hệ chúng tôi phải hổ thẹn.
***
THẦY VÀ TRÒ
Bài phát biểu trước các em học sinh dưới đây được Einstein công bố chính thức trong lần xuất bản đầu tiên của cuốn "Mein Weltbild", Amsterdam, 1934.
Nghệ thuật quan trọng nhất của người thầy là đánh thức niềm vui trong lao động và trong nhận thức.
Các em học sinh thân mến!
Tôi vui mừng được thấy các em tụ hội về đây ngày hôm nay, tuổi trẻ vui tươi của một đất nước đầy nắng ấm và an lành.
Hãy nghĩ rằng những điều tuyệt diệu mà các em được làm quen ở trường là thành quả của nhiều thế hệ, được tạo dựng nhờ khát vọng hăng say với nhiều nỗ lực từ mọi nơi trên thế giới. Tất cả được trao vào tay các em như phần gia tài thừa kế, để các em đón nhận, trân trọng, tiếp tục trau dồi và một ngày kia, trung thành trao lại vào tay con cháu các em. Bằng cách đó, những con người trần thế chúng ta sẽ trở thành bất tử trong những thành quả để lại, những thành quả mà chúng ta cùng nhau tạo dựng.
Nếu các em luôn nghĩ tới điều đó, các em sẽ tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống và trong nỗ lực của mình. Các em cũng sẽtìm được thái độ ứng xử đúng đắn với các dân tộc và các thời đại khác. - Albert Einstein (năm 1934)

Vân Sam (chọn)
http://vietnamnet.vn/vn/van-hoa/68301/thu-einstein-gui-cac-em-hoc-sinh.html
03:09 CH 15/04/2012
Chuyện dịch thuật: sai ở khắp nơi
Hố hố hố!!! Cái này gọi là đã dốt còn hay nói chữ... Cái mà bạn đang nói tới nó gọi là groin bạn ạ.

Không hiểu mọi người cãi nhau về cái gì? Có mỗi tra từ điển xem nghĩa trong tự điển của từ đó là gì mà cũng cãi nhau rồi chửi nhau là sao :o? Ai cũng học cao hiểu rộng, kè kè tự điển, google ầm ầm sao không kiểm chứng cụ thể mà cứ nhè chửi nhau, tranh luận kiểu gì vậy?
Trích từ Cambridge Dictionary online:
****
loins: (literary or humorous)
the part of the body which is above the legs and below the waist, especially the sexual organs
****groin:
a) the place where your legs meet the front of your body
He pulled a muscle in his groin.
a groin strain
b) the male sex organs
He was kicked in the stomach and the groin.

Thiệt tình không hiểu gì hết :-
12:58 CH 15/04/2012
Nhai bón thức ăn cho trẻ
Phương Tây với trào lưu nhai mớm cơm cho con

Diễn viên Mỹ Alicia Silverstone đã tạo ra một làn sóng tranh cãi tuần trước khi đưa lên blog một đoạn video ghi hình cô đang nhai cơm rồi mớm cho cậu con trai 10 tháng tuổi. Trong khi nhiều người tỏ ý phản đối, thì không ít nhà khoa học lại khẳng định đây là phương pháp nuôi con lành mạnh.
Trong đoạn video của Alicia Silverstone, cậu con trai tỏ ra thích thú như một con chim non háo hức chờ mồi từ mẹ. "Cu cậu thường bò quanh phòng và sẵn sàng xô vào miệng mẹ khi tôi đang ăn gì đó", Silverstone viết trên blog.
Trong khi hầu hết mọi người đều phản ứng bằng thái độ ghê sợ và phản đối cách cho ăn kiểu này, rằng như vậy chỉ truyền bệnh cho con, thì các nhà khoa học lại gọi đó là cách giúp trẻ học nhai và thực sự là một phương pháp cho ăn lành mạnh, truyền thống.
Trước đây, khi những chiếc máy xay sinh tố chưa xuất hiện, thì việc nhai và mớm cơm cho con khá phổ biến ở nhiều nền văn hóa ngoài phương Tây. Việc nhận nước bọt từ mẹ có thể thúc đẩy hệ miễn dịch của trẻ - điều mà chúng không thể có được từ cách ăn thực phẩm nghiền nát tiệt trùng đóng hộp.

Hình ảnh diễn viên Alicia Silverstone mớm thức ăn cho con khiến nhiều người tranh cãi về phương pháp cho trẻ ăn này. Ảnh: Youtube.
Lợi ích của việc nhai cơm cho trẻ chỉ mới được nghiên cứu gần đây, nhưng thực tế, nó đã xuất hiện song song với nuôi con bằng sữa mẹ.
Trẻ bắt đầu tập ăn dặm lúc khoảng 6 tháng tuổi, nhưng mãi tới 18-24 tháng tuổi chúng mới mọc răng hàm để nhai. Theo một nghiên cứu do Gretel Pelto, một nhà nhân chủng học tại Đại học Cornell (Mỹ), mớm cơm là cách cho trẻ ăn từng xuất hiện trong hầu hết các nền văn minh nhân loại và phương pháp này tới nay vẫn tồn tại ở một số nền văn hóa.
Trái ngược với ý kiến gọi đây là cách cho trẻ ăn không hợp vệ sinh, Pelto và nhiều nhà khoa học khác cho rằng phương pháp cho ăn này cùng với việc nuôi con bằng sữa mẹ, giúp xây dựng hệ miễn dịch tốt cho trẻ. Việc tiếp nhận những dấu vết vi khuẩn có trong nước bọt của mẹ giúp hệ miễn dịch của trẻ nhận diện và học cách đối phó với những tác nhân gây bệnh tương tự sau này. Trong quá trình này, cơ thể trẻ sẽ sản xuất các kháng thể cần thiết.
Việc này cũng có thể ngăn chặn sự khởi đầu của bệnh tự miễn dịch như hen suyễn - bệnh rất phổ biến trong xã hội công nghiệp hóa. Đây là loại bệnh tăng lên khi hệ miễn dịch tấn công nhầm chính những tế bào trong cơ thể mình, và liên quan chặt chẽ với chuyện ít tiếp xúc vi khuẩn trong thời thơ ấu.
Căn cứ khiến nhiều người chống lại việc nhai thức ăn cho con là có một số trường hợp trẻ bị truyền bệnh từ nước bọt của mẹ. Chẳng hạn, những phụ nữ nhiễm HIV được khuyên là không nên mớm cơm cho trẻ. Tuy nhiên, các nhà khoa học lại chỉ ra rằng sự truyền bệnh thông qua nhai thức ăn ít phổ biến hơn là các giả định trước đây bởi vì các kháng thể tự nhiên trong nước bọt giảm đáng kể sự lây nhiễm mầm bệnh có trong đó.
Nghiên cứu của nhà miễn dịch học Samuel Baron tại Trung tâm Y tế của Đại học Taxas (Mỹ) chứng minh rằng nguy cơ lây nhiễm HIV qua nước bọt thực sự rất thấp, thấp hơn sự lây truyền qua bú mẹ.
Nuôi con bằng sữa mẹ từng trở nên lỗi thời vào những năm 1950 và sau đó, cho tới nay, nó lại được hưng thịnh trở lại.
"Các bằng chứng đều cho thấy sữa mẹ là ưu việt nhất. Và tôi nghĩ là câu chuyện về nuôi con bằng sữa mẹ và nhai cơm cho con có nét tương đồng - đều đảm bảo chế độ dinh dưỡng tốt và giúp tăng hệ miễn dịch của trẻ. Bằng chứng cho việc nhai thức ăn cho trẻ chưa thực sự hoàn thiện nhưng có logic rõ ràng", ông Pelto nói trên Foxnews.
Vương Linh
http://vnexpress.net/gl/doi-song/gia-dinh/2012/04/phuong-tay-voi-trao-luu-nhai-mom-com-cho-con/
07:57 CH 14/04/2012
Bolero lại sáng đèn
Bolero và kỷ niệm với nhạc sĩ Trúc Phương

LTS: Loạt bài "Bolero lại sáng đèn" đã nhận được hơn 100 email phản hồi của độc giả yêu thích dòng nhạc bolero. Nhiều độc giả cũng chia sẻ thêm những kỷ niệm của mình gắn với các ca khúc thuộc dòng nhạc này.


Nhạc sĩ Trúc Phương - Ảnh tư liệu
Tuổi Trẻ trích đăng:
Khoảng giữa năm 1985, nhạc sĩ Trúc Phương - người từng được xem như là "ông hoàng" của dòng nhạc bolero - được nhận vào công tác tại Hội Văn nghệ Cửu Long và được cấp một căn phòng tại số 6 Hưng Ðạo Vương, thị xã Vĩnh Long để ở. Trúc Phương có dáng người cao, lưng hơi tôm. Anh bị cận thị, lãng tai và mắc bệnh suyễn nặng. Anh có thói quen ăn mặc rất chỉnh tề, thích ăn ngọt và không uống rượu. Sau khi chia tay vợ, đã có mấy phụ nữ thoáng qua cuộc đời anh... Mỗi khi quen với chị nào, anh thường tặng nhạc do anh mới sáng tác cho mỗi chị. Hà, vợ tôi, là liên lạc viên rất tích cực cho những cuộc tình chóng vánh này.
Có một kỷ niệm tôi nhớ mãi là vào năm 1988, lúc này Trúc Phương đang sống ở Sài Gòn, tôi đang theo học Trường đại học Mỹ thuật. Ngoài giờ học, tôi cùng một số bạn bè đi làm thêm về mỹ thuật cho nhà hàng Ðại Dương (nằm trên đường Kỳ Ðồng, gần nhà thờ Chúa Cứu Thế, Q.3) do thầu khoán Chín Củi lãnh xây dựng. Anh Chín Củi gốc là dân Trà Vinh, quen thân với anh Trúc Phương, đã cưu mang anh trong thời gian này.
Một lý giải khác về hai từ “nhạc sến”
Báo Tuổi Trẻ đã có loạt bài thú vị về dòng nhạc bolero, nhắc nhớ những kỷ niệm khó quên của lớp người Sài Gòn nay đã ở độ tuổi 60-70 trở lên. Bài báo cũng có nhắc đến cách giải thích từ “nhạc sến” xuất phát từ tên minh tinh người Áo Maria Schell, điều này cần được minh xác.
Để giải thích nguồn gốc từ “nhạc sến”, xin được nhắc lại là sau cuộc di cư của hàng triệu người miền Bắc vào Nam những năm 1954-1955, từ “con sen” dành chỉ các cô giúp việc nhà đã khá phổ biến trong đời sống tại Sài Gòn. Trong ngôn ngữ của một số nhà văn viết phóng sự lúc bấy giờ và cả trong ngôn ngữ thường nhật, hai từ “Mari Sến” được dành để giễu cợt các cô sen thường có cách nghĩ, cách sống của lớp người bình dân trong xã hội, mà trong cách sống đó, phổ biến nhất là học và ca những bài hát dễ thuộc, dễ ca. Chính do hai từ “Mari Sến” dành chỉ tầng lớp con sen hay hát dòng nhạc trên mà phát sinh thêm hai từ “nhạc sến”.
LÊ NGUYỄN
(TP.HCM)

Gần chỗ công trình đang xây dựng có một quán cơm bụi giá rẻ như bèo. Hằng ngày, chúng tôi thường cùng ra ăn cơm ở đó. Hôm đó nhằm chiều thứ bảy cuối tuần, anh Chín Củi dẫn cả bọn tôi ra quán cơm bụi này để bồi dưỡng ...cơm bình dân và lai rai rượu thuốc. Anh Trúc Phương dù không uống rượu nhưng cũng ngồi chung với chúng tôi. Cuộc vui kéo dài nửa chừng, trời bắt đầu mưa tầm tã. Bất chợt có hai người hành khất, một cụt chân, một mù hai mắt đội mưa bước vào! Cả hai - một đàn guitar thùng, một hát bài Mưa nửa đêm.
Lúc đó ánh mắt của anh Trúc Phương tối sầm lại. Anh lẩm bẩm: "Nhạc của mình biến thành nhạc ăn mày rồi!".
Thấy vậy, anh Chín Củi đứng dậy, kéo tay hai người hành khất kia, miệng nói:
- Lại đây hai chú em, ngồi xuống cùng ăn cơm và lai rai với chúng tôi cho vui.
Khi cả hai cùng ngồi xuống, bất chợt Trúc Phương buột miệng:
- Hai chú mày hát nhạc của ai, biết không?
Một người nhanh nhảu trả lời:
- Dạ biết, nhạc Trúc Phương đó!
Trúc Phương cười buồn, mắt ngân ngấn nước:
- Trúc Phương chính là anh, chính tác giả đây!
Hai người ăn mày sửng sốt trong giây phút, rồi người cụt chân chợt quỳ sụp xuống, hai tay nâng cây đàn lên ngang mày, miệng nói:
- Ôi, em xin bái kiến sư phụ. Em hát nhạc của sư phụ, mãi đến hôm nay mới được diện kiến sư phụ. Xin sư phụ chỉ giáo cho em!
Trúc Phương cầm lấy cây đàn:
- Ðể anh hát tặng mấy chú em bài hát này nhé!
Tôi muốn hỏi có phải đời chưa trọn vòng tay/ Có phải vì tâm tư giấu kín tâm tư còn đây/ Nên những khi mưa nửa đêm/ Làm xao xuyến giấc ngủ chưa đến tìm... Anh hát say sưa giữa hè phố Sài Gòn, hát tặng những người hành khất trong một quán cơm nghèo! Những người lao động có mặt trong buổi chiều mưa hôm đó ngồi lặng lẽ rồi lần lượt đến vây quanh anh. Cô bé con chủ quán cơm xúc động, giơ tay dụi mắt giấu lệ! Hôm ấy, Trúc Phương hát như một lời than đau đớn...
Ấy vậy mà đã 16 năm trôi qua, kể từ ngày anh qua đời, 21-9-1996.
Tôi ghi lại những dòng này để thay nén hương tưởng nhớ hương hồn anh, một nhạc sĩ đã để lại cho đời những bài nhạc bolero đi sâu vào lòng người như: Mưa nửa đêm, Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ niệm, Ðò chiều, Tàu đêm năm cũ, Hai chuyến tàu đêm...; và những bài hát sáng tác sau 1975: Về chín dòng sông hò hẹn, Về An Quãng Hữu, Hoa sách... (mà trong đó nhan đề ca khúc Về chín dòng sông hò hẹn của anh được chọn làm tên cho chương trình hội diễn văn nghệ quần chúng hằng năm của các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long hiện nay).
TÍN ÐỨC
(hội viên Hội Văn nghệ Vĩnh Long)
http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/487029/Bolero-va-ky-niem-voi-nhac-si-Truc-Phuong.html
02:48 CH 14/04/2012
Những bóng hồng trong thơ nhạc: Ngày xưa Hoàng...
Những bóng hồng trong thơ nhạc
Từ Bến xuân đến Cô láng giềng

Trong dòng nhạc tiền chiến, 2 ca khúc Bến xuân (của Văn Cao) và Cô láng giềng (của Hoàng Quý) chẳng có chút liên hệ. Tuy nhiên, hẳn ít ai biết đã có một “bóng hồng” chen vào giữa cuộc đời của họ.
Em đến tôi một lần
Không ai có thể phủ nhận sự tài hoa của nhạc sĩ Văn Cao - cây đại thụ của nền tân nhạc. 16 tuổi đã có sáng tác đầu tay (Buồn tàn thu, năm 1939) và các tình khúc tiếp theo của ông được sánh vào hàng “siêu phẩm”: Suối mơ, Thiên thai, Cung đàn xưa, Bến xuân, Thu cô liêu, Trương Chi… Vào đầu những năm 40 của thế kỷ trước, những bài hát của Văn Cao đã lan tỏa từ bắc chí nam. Người có công đầu là Phạm Duy, lúc đó chưa sáng tác nhạc mà đi theo đoàn cải lương Đức Huy - Charlie Miều lưu diễn xuyên Việt, Phạm Duy chuyên hát “phụ diễn”, bài hát ruột là Buồn tàn thu. Tri âm đến nỗi Văn Cao đã đề tặng dưới cái tựa Buồn tàn thu trong bản nhạc: “Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn”. Còn những người hát nhạc Văn Cao ở phía bắc là ca sĩ Kim Tiêu (nam), Thương Huyền, Thái Thanh (nữ)… Văn Cao sinh năm 1923 tại Lạch Tray (Hải Phòng) nên tham gia vào nhóm Đồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng Quý. Cũng chính ở thành phố biển này, Văn Cao đã gặp một giai nhân để rồi dòng nhạc tiền chiến có thêm một viên ngọc lấp lánh: ca khúc Bến xuân (đồng sáng tác với nhạc sĩ Phạm Duy).

Bìa bản nhạc Cô láng giềng
Trong cuốn băng video Văn Cao - Giấc mơ đời người (đạo diễn Đinh Anh Dũng, Hãng phim Trẻ sản xuất năm 1995, tái bản năm 2009), trong phần giới thiệu ca khúc Đàn chim Việt (tức Bến xuân), nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Ngày xưa tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi. Vì thế nên mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”… Người con gái ấy chính là Hoàng Oanh, nữ ca sĩ ở Hải Phòng (sau này trong miền Nam cũng có nữ ca sĩ Hoàng Oanh hiện ở hải ngoại, không phải Hoàng Oanh trong bài viết). Nhưng tại sao nhạc sĩ Văn Cao yêu mà không dám nói? Là bởi con tim của nhạc sĩ “chậm xao động” hơn hai ông bạn thân. Biết được cả Kim Tiêu lẫn Hoàng Quý đều đem lòng yêu thương Hoàng Oanh, chàng nhạc sĩ trẻ đành nín lặng, ôm mối tình đơn phương… Tuy thế, sau những lần gặp gỡ, qua ánh mắt, nụ cười nàng đã hiểu tấm chân tình của chàng. Rồi một hôm, Văn Cao đang ở Bến Ngự (Hải Phòng) thì nàng tìm đến. Không chỉ thăm suông mà nàng còn ngồi làm mẫu cho chàng vẽ (Văn Cao còn là một nhà thơ kiêm họa sĩ), rồi ân cần ngồi quạt cho chàng sáng tác nhạc… Có thể nói ca khúc Bến xuân không chỉ là một bài hát làm xuyến xao lòng người mà còn là một bức tranh hết sức sống động, một bài thơ với những ca từ đầy biểu cảm. Tóm lại cả ba năng khiếu (thơ, nhạc, họa) tài hoa của Văn Cao đều dồn vào Bến xuân: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần, bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân”. Hình ảnh thẹn thùng, khép nép của giai nhân trong nhạc của Văn Cao sao mà đáng yêu chi lạ: “Mắt em như dáng thuyền soi nước. Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân”. Hôm đó có lẽ nàng cũng có hát nữa nên mới “nghe réo rắt tiếng Oanh ca”. Bản nhạc được NXB Tinh Hoa ấn hành năm 1942 với lời ghi “nhạc: Văn Cao, lời: Văn Cao - Phạm Duy” (sau này nhạc sĩ Văn Cao đặt lời mới và đổi tựa thành Đàn chim Việt). Chẳng biết nhạc sĩ Phạm Duy “đóng góp” như thế nào trong phần lời nhưng ở đoạn cuối, rõ ràng là tâm trạng của Văn Cao: “Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác. Em vắng tôi một chiều. Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu. Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ù u ú. Lệ mùa rơi lá chan hòa” (dùng chữ “lệ mùa rơi lá” quá hay!). Cái cảnh chàng gột áo phong sương trở về bến cũ sao mà buồn đến nao lòng: “Người đi theo mưa gió xa muôn trùng. Lần bước phiêu du về chốn cũ. Tới đây mây núi đồi chập chùng. Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng. Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xưa”.
Nàng đến thăm chàng một lần, rồi… thôi, chừng đó cũng đủ hiểu lòng nhau và đã quá lãng mạn. Sau này gia đình ca sĩ Kim Tiêu có dạm hỏi Hoàng Oanh nhưng hôn sự bất thành vì gia đình nhà gái thách cưới cao quá. Bản thân Kim Tiêu cũng gặp phải nhiều sóng gió và nghe nói chết trong nghèo đói ở thềm ga Hàng Cỏ (Hà Nội). Rồi Hoàng Oanh lên xe hoa, trở thành vợ của nhạc sĩ Hoàng Quý.
Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về
Nhạc sĩ Hoàng Quý sinh năm 1920 (lớn hơn Văn Cao 3 tuổi) và là thủ lĩnh nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng. Ông được biết tới như là một nhạc sĩ tiên phong sáng tác thể loại nhạc hùng, hát cộng đồng (tráng ca) với các ca khúc: Bên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Bóng cờ lau, Tiếng chim gọi đàn... Tuy nhiên, người ta nhớ đến Hoàng Quý nhiều nhất bởi ông là tác giả của ca khúc Cô láng giềng bất hủ.
Thời điểm nhạc sĩ sáng tác Cô láng giềng cũng gần như cùng lúc với Văn Cao viết ca khúc Bến xuân (khoảng năm 1942, 1943). Lúc này Hoàng Quý phải rời Hải Phòng để lên Sơn Tây làm thư ký cho một trang trại nuôi bò. Chuyến đi khiến ông phải chia tay với người yêu (rất có thể là Hoàng Oanh). Ở Sơn Tây, Hoàng Quý luôn nhớ đến người yêu và mơ một ngày trở về. Đó là chất liệu để ông viết Cô láng giềng: “Hôm nay trời xuân bao tươi thắm. Dừng bước phiêu du về thăm nhà. Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi, tôi đã hình dung nét ai đang cười… Tôi mơ trời xuân đôi môi thắm. Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền. Làn tóc mây cùng gió ngàn dâng sóng. Xao xuyến nỗi niềm yêu… Cô láng giềng ơi! Tuy cách xa phương trời tôi không hề. Quên bóng ai bên bờ đường quê. Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về…”.
Năm 2002, người viết có phỏng vấn nhạc sĩ Tô Vũ (em ruột nhạc sĩ Hoàng Quý), ông cho biết nhạc sĩ Hoàng Quý chỉ ở Sơn Tây 6 tháng rồi về quê. Trên đường về, ông có ghé Hà Nội thăm Tô Vũ (lúc đó còn dùng tên thật là Hoàng Phú) và đưa bản nhạc ra khoe với người em. Ông em (Tô Vũ) rất thích giai điệu của ca khúc này, liền xin phép đặt lời 2 cho bản nhạc. Đó là cảnh tượng và tâm trạng của chàng trai khi về tới đầu ngõ thì nghe tiếng pháo vu quy tiễn người yêu đi lấy chồng: “Trước ngõ vào sân vang tiếng pháo. Chân bước phân vân lòng ngập ngừng. Tai lắng nghe tiếng người nói cười xôn xao. Tôi biết người ta đón em tưng bừng… Đành lòng nay tôi bước chân ra đi. Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi. Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi. Đừng nói đến phân ly… Cô láng giềng ơi! Nay mối duyên thơ đành lỡ rồi. Chân bước xa xa dần miền quê. Ai biết cho bao giờ tôi về?”.
Hoàng Quý tham gia Việt Minh từ rất sớm và hoạt động tích cực trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Tiếc rằng tài hoa yểu mệnh, ông mất năm 1946 vì bệnh lao, khi mới 26 tuổi.
Người góa phụ trẻ Hoàng Oanh nửa đường gãy gánh không biết số phận sau này thế nào.
Hà Đình Nguyên
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120414/tu-ben-xuan-den-co-lang-gieng.aspx
02:46 CH 14/04/2012
r
Ran_Mouri
Hóng
0Điểm·835Bài viết
Báo cáo