Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ của chúng ta đã sử dụng hơn 100 tên, biệt hiệu, bút danh. Xin giới thiệu 70 tên gọi, bút danh, bí danh, biệt hiệu Người đã sử dụng trước cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thời thơ ấu của Bác, ở làng Sen, bà con thường gọi cậu bé Nguyễn Sinh Cung là Cậu Công. Trước khi lên tàu ra đi tìm đường cứu nước, trong phong trào đấu tranh chống sưu cao thuế nặng ở Huế, nổi lên 1 người thanh niên học sinh yêu nước tên Nguyễn Tất Thành, sau này là thày giáo Nguyễn Tất Thành ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết). Khi làm đầu bếp trên tàu La Touche Tréville, Nguyễn Tất Thành lấy tên là anh Ba hoặc Văn Ba. Trong lá thư gửi từ New York về cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của cụ Nguyễn Sinh Huy, Bác ký tên là Paul Tất Thành. Từ năm 1919, bắt đầu xuất hiện tên Nguyễn Ái Quốc ký dưới "Bản yêu sách của nhân dân An Nam" gửi đến Hội nghị quốc tế vì hoà bình họp ở Versailles và nhiều thư từ, kiến nghị, bài báo khác. Là một trong những người sáng lập Tờ báo Le Paria của Hội Liên hiệp thuộc địa, chỉ trong năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã viết gần 20 bài phơi bày dã tâm và tội ác của chủ nghĩa thực dân. Đồng thời Nguyễn Ái Quốc cũng viết hàng loạt bài đăng trên báo L’Humanité của Đảng Xã hội Pháp, các báo La Viie Ouvrière, Le Journal du Peuple, Le Libertaire và các tập san La Revue Communiste, Inprekorr dưới các bút danh: Nguyễn A. Q, Ký Viễn, N. A. Q. Tiếp đó, trong những năm 1923-1924, Nguyễn Ái Quốc còn sử dụng thêm một số bút danh và tên gọi khác dưới các bài viết và trong hoạt động cách mạng: Chú Nguyễn, N, S Chon Vang, Cheng Vang, Trần Vương, Ai Qua Que, Nguyễn Hải Khách, Lý Thụy. Thời gian từ năm 1925 đến năm 1930, hoạt động trên cương vị là Ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Văn Phòng Phương Nam của Quốc tế CS, Nguyễn Ái Quốc đảm nhận việc truyền bá chủ nghĩa CS vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng, theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước, chuẩn bị mọi điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở trong nước. Nhiều bút danh đã được Người sử dụng trong thời kỳ này là: N. A. K ký dưới Lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên và tất cả đồng bào bị áp bức, Ông Lý dưới Thư gửi đại diện Tổng Liên đoàn Lao động thống nhất Pháp ở Quốc tế Công hội, L. M. Wang dưới Thư gửi Văn phòng đại diện Đảng CS Đức ở Quốc tế CS, Vichto Lơbông dưới Thư gửi đại diện Đảng CS Pháp ở Quốc tế ****, Paul dưới Thư gửi Văn phòng đại diện Đảng CS Mỹ... Ngoài ra, Người còn dùng nhiều tên, bí danh khác như Nilốpski, Ho Wang, Trương Nhược Tường, Vương Sơn Nhi, Vương Đạt Nhân, Lonis-Berlin, Loa Roi Ta, Thọ biệt hiệu là Nam Sơn. Tiếp đó là thời gian Bác Hồ của chúng ta từ Trung Quốc qua Thái Lan rồi từ Thái Lan trở lại Trung Quốc để chuẩn bị về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Để đảm bảo bí mật, Nguyễn Ái Quốc nhiều lần cải trang khi là lính hầu, lúc là thày địa ký, có khi lại là thầy lang bôn ba đây đó chữa bệnh cứu người. Tên tuổi, bút danh của Người cũng nhiều lần được thay đổi. Những khi tiếp xúc với kiều bào, Người là Chín, Thầu Chín, Chính, Nguyễn Lai, Lý Tín Tống, Trần, Lê, Pan, Ông Lý Hồng Công, Tiết Nguyệt Lâm. Dưới các bài báo Nguyễn Ái Quốc ký nhiều tên khác nhau: Howang T.S, Wang, A.P, N.K, N. Ái Quốc, Nguyễn, H, T, Loa Shing Lan, Victo, Vector Lebm, K.K.V, Line, LW Vương, T.V.Wang, Có khi Người chỉ ký một chữ V dưới bài “Nghệ tĩnh đỏ” viết bằng tiếng Anh; lấy bút danh Quac, E.Wan dưới các bài vạch mặt đế quốc Pháp; ký một chữ K Thư gửi Ban Phương Đông của Quốc tế CS. Trong bản khai trích ngang dự Đại hội VII Quốc tế CS(1935), Người ghi “bí danh trong Đảng là Jeng Man Huân”, bí danh dùng trong Đại hội là Lan. Sau này, khi từ Tây An về Quảng Tây (Trung Quốc) hoạt động, Người đã đóng giả lính hầu cho một viên quan Trung Hoa (là người của Đảng CS Trung Quốc chọn cử), lúc lại là thiếu tá Hồ Quang bên cạnh tướng Diệp Kiếm Anh qua lại Văn phòng Bát lộ quân. Thời gian này Bác Hồ có biệt hiệu là ông Trần, là đồng chí Vương khi gặp gỡ các đại biểu từ Việt Nam sang. Bài viết đăng trên các báo được ký dưới nhiều bút danh mới như P.C.Line, Bình Sơn. Từ tháng 1-1941, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong thời gian đầu, Bác lấy bí danh là Già Thu và chọn hang Pắc Bó (Cao Bằng) làm cơ sở hoạt động cách mạng bí mật. Những tháng ngày gian khổ ở căn cứ địa Việt Bắc, Bác có bí danh là Thu Sơn, Ông Ké. Trong những ngày Tháng Tám 1945 sục sôi khí thế cách mạng, Bác ký tên Hồ dưới thư viết bằng tiếng Anh gửi Trung úy Charles Fenn, người trực tiếp điều khiển nhóm tình báo Đồng minh hoạt động trên đất Việt Nam khi đó; Ký tên C.M Hồ dưới thư gửi ông Ph.Tan, là người Mỹ gốc Hoa sẽ cùng về Việt Nam với Hồ Chí Minh để thực thi nhiệm vụ do nhóm công tác của Charles Fenn giao cho. Đó là những biệt hiệu, bút danh gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của Bác Hồ trong giai đoạn từ khi rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước mùa hè năm 1911 đến Cách mạng Tháng Tám 1945, căn cứ theo Biên niên tiểu sử và Toàn tập tác phẩm của Người.
Tình hình đầy ra đấy mà ko trả nhời:Laughing::Laughing::Laughing:
Anh thấy Chủ Nhật lè ở trên 26 Lý Thường Kiệt có Hội chợ Trung thu -- cô có cho cháu Kit đi ko ( hội chợ lè của bên Làm cha mẹ tổ chức ). Nó diễn ra cả ngày đấy:p:p:p
Cô biết ghét chồng là tốt rùi kekeke:Laughing::Laughing::Laughing:
Theo mình để xác định được số nhà thì khó lắm, nhưng ở bên tay trái bức ảnh là ngõ Văn Chương vì vậy sweetnaturevn thử định vị lại xem. Thú thực càng xem bức ảnh Khâm Thiên này có xác pháo hồng mình càng nhớ cái ngày xưa quá, nhớ tiếng pháo nổ, nhớ cái rét ngọt đậm mà so với bây giờ thì khả năng khí hậu toàn cầu ấm nên như thế này thì rất hiếm. Nhớ quá HN ơi:Thinking::Thinking::Thinking::Thinking::Thinking::Thinking::Thinking::Thinking:
Cô đi đâu mà bi giờ mới thò cái mẹt vào nhà vậy:75::76::75::76::75::76::75::76: Làm chú gà trống vàng hồi hộp chờ đợi hỏi thăm vịt xinh suốt :14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92::14::10::92:
Sai không chuẩn
Mẹ cháu nó mà muốn học làm bánh Trung Thu , thì vào khu Kinh nghiệm hay -- Ẩm thực -- Dành cho những người chăm chỉ làm bánh( hoặc là chập chững làm bánh) -- thớt của mẹ Khai Tâm mở ra hay lắm, tha hồ mà mẹ cháu học về làm khỏi phải ra ngoài hàng ăn:Laughing::p:Laughing::p:Laughing::p:Laughing::p Ở bển có chị BeBiBo làm bánh tuyệt vời lắm:LoveStruc::LoveStruc::LoveStruc:
Đọc xong đoạn này ghê quá. Những cơ sở làm bánh này của tư nhân lên làm ăn không có trách nhiệm cũng đúng thôi, chỉ chết dân đen chúng ta:Thinking::Thinking::Thinking:
Chắc là đợi chú HNman77 đi học về rùi off một thể cũng đc cô ạ kekeke:Laughing::Laughing::Laughing::Laughing::Laughing::Laughing:
Thế thư ký lên kế hoạch off đê, tranh thủ lúc cô Hoa đi Nam kỳ lục tỉnh cô carmen ạ
Cô đi Nam kỳ lục tỉnh à:Laughing::Laughing::Laughing::Laughing::Laughing::Laughing:nhớ có quà về cho anh chị em văn công đấy nhé:p:p:p:p:p:p:p
Thời thơ ấu của Bác, ở làng Sen, bà con thường gọi cậu bé Nguyễn Sinh Cung là Cậu Công. Trước khi lên tàu ra đi tìm đường cứu nước, trong phong trào đấu tranh chống sưu cao thuế nặng ở Huế, nổi lên 1 người thanh niên học sinh yêu nước tên Nguyễn Tất Thành, sau này là thày giáo Nguyễn Tất Thành ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết).
Khi làm đầu bếp trên tàu La Touche Tréville, Nguyễn Tất Thành lấy tên là anh Ba hoặc Văn Ba. Trong lá thư gửi từ New York về cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của cụ Nguyễn Sinh Huy, Bác ký tên là Paul Tất Thành.
Từ năm 1919, bắt đầu xuất hiện tên Nguyễn Ái Quốc ký dưới "Bản yêu sách của nhân dân An Nam" gửi đến Hội nghị quốc tế vì hoà bình họp ở Versailles và nhiều thư từ, kiến nghị, bài báo khác.
Là một trong những người sáng lập Tờ báo Le Paria của Hội Liên hiệp thuộc địa, chỉ trong năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã viết gần 20 bài phơi bày dã tâm và tội ác của chủ nghĩa thực dân. Đồng thời Nguyễn Ái Quốc cũng viết hàng loạt bài đăng trên báo L’Humanité của Đảng Xã hội Pháp, các báo La Viie Ouvrière, Le Journal du Peuple, Le Libertaire và các tập san La Revue Communiste, Inprekorr dưới các bút danh: Nguyễn A. Q, Ký Viễn, N. A. Q.
Tiếp đó, trong những năm 1923-1924, Nguyễn Ái Quốc còn sử dụng thêm một số bút danh và tên gọi khác dưới các bài viết và trong hoạt động cách mạng: Chú Nguyễn, N, S Chon Vang, Cheng Vang, Trần Vương, Ai Qua Que, Nguyễn Hải Khách, Lý Thụy.
Thời gian từ năm 1925 đến năm 1930, hoạt động trên cương vị là Ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Văn Phòng Phương Nam của Quốc tế CS, Nguyễn Ái Quốc đảm nhận việc truyền bá chủ nghĩa CS vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng, theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước, chuẩn bị mọi điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở trong nước.
Nhiều bút danh đã được Người sử dụng trong thời kỳ này là: N. A. K ký dưới Lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên và tất cả đồng bào bị áp bức, Ông Lý dưới Thư gửi đại diện Tổng Liên đoàn Lao động thống nhất Pháp ở Quốc tế Công hội, L. M. Wang dưới Thư gửi Văn phòng đại diện Đảng CS Đức ở Quốc tế CS, Vichto Lơbông dưới Thư gửi đại diện Đảng CS Pháp ở Quốc tế ****, Paul dưới Thư gửi Văn phòng đại diện Đảng CS Mỹ... Ngoài ra, Người còn dùng nhiều tên, bí danh khác như Nilốpski, Ho Wang, Trương Nhược Tường, Vương Sơn Nhi, Vương Đạt Nhân, Lonis-Berlin, Loa Roi Ta, Thọ biệt hiệu là Nam Sơn.
Tiếp đó là thời gian Bác Hồ của chúng ta từ Trung Quốc qua Thái Lan rồi từ Thái Lan trở lại Trung Quốc để chuẩn bị về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Để đảm bảo bí mật, Nguyễn Ái Quốc nhiều lần cải trang khi là lính hầu, lúc là thày địa ký, có khi lại là thầy lang bôn ba đây đó chữa bệnh cứu người. Tên tuổi, bút danh của Người cũng nhiều lần được thay đổi.
Những khi tiếp xúc với kiều bào, Người là Chín, Thầu Chín, Chính, Nguyễn Lai, Lý Tín Tống, Trần, Lê, Pan, Ông Lý Hồng Công, Tiết Nguyệt Lâm. Dưới các bài báo Nguyễn Ái Quốc ký nhiều tên khác nhau: Howang T.S, Wang, A.P, N.K, N. Ái Quốc, Nguyễn, H, T, Loa Shing Lan, Victo, Vector Lebm, K.K.V, Line, LW Vương, T.V.Wang, Có khi Người chỉ ký một chữ V dưới bài “Nghệ tĩnh đỏ” viết bằng tiếng Anh; lấy bút danh Quac, E.Wan dưới các bài vạch mặt đế quốc Pháp; ký một chữ K Thư gửi Ban Phương Đông của Quốc tế CS.
Trong bản khai trích ngang dự Đại hội VII Quốc tế CS(1935), Người ghi “bí danh trong Đảng là Jeng Man Huân”, bí danh dùng trong Đại hội là Lan. Sau này, khi từ Tây An về Quảng Tây (Trung Quốc) hoạt động, Người đã đóng giả lính hầu cho một viên quan Trung Hoa (là người của Đảng CS Trung Quốc chọn cử), lúc lại là thiếu tá Hồ Quang bên cạnh tướng Diệp Kiếm Anh qua lại Văn phòng Bát lộ quân. Thời gian này Bác Hồ có biệt hiệu là ông Trần, là đồng chí Vương khi gặp gỡ các đại biểu từ Việt Nam sang. Bài viết đăng trên các báo được ký dưới nhiều bút danh mới như P.C.Line, Bình Sơn.
Từ tháng 1-1941, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong thời gian đầu, Bác lấy bí danh là Già Thu và chọn hang Pắc Bó (Cao Bằng) làm cơ sở hoạt động cách mạng bí mật. Những tháng ngày gian khổ ở căn cứ địa Việt Bắc, Bác có bí danh là Thu Sơn, Ông Ké. Trong những ngày Tháng Tám 1945 sục sôi khí thế cách mạng, Bác ký tên Hồ dưới thư viết bằng tiếng Anh gửi Trung úy Charles Fenn, người trực tiếp điều khiển nhóm tình báo Đồng minh hoạt động trên đất Việt Nam khi đó; Ký tên C.M Hồ dưới thư gửi ông Ph.Tan, là người Mỹ gốc Hoa sẽ cùng về Việt Nam với Hồ Chí Minh để thực thi nhiệm vụ do nhóm công tác của Charles Fenn giao cho.
Đó là những biệt hiệu, bút danh gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của Bác Hồ trong giai đoạn từ khi rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước mùa hè năm 1911 đến Cách mạng Tháng Tám 1945, căn cứ theo Biên niên tiểu sử và Toàn tập tác phẩm của Người.