Tránh cho con bị suy dinh dưỡng ngay từ lúc mang thai đã không còn là điều xa lạ và khó khăn bởi một chế độ dinh dưỡng phù hợp sẽ giúp thai nhi khoẻ mạnh. Vậy các bà bầu nên ăn gì và tránh những loại thực phẩm nào? Thực phẩm nên ăn Rau,quả: Cung cấp nhiều chất xơ, giúp cho bộ máy tiêu hoá hoạt động tốt. Các loại quả như: chuối, táo, dâu tây…cung cấp nhiều vitamin C, chất khoáng và ngừa dịch bệnh. Đặc biệt, ăn nhiều chuối còn có khả năng giảm thiểu hiện tượng co thắt, thư giãn các cơ bắp và kích hoạt quá trình co bóp khi sinh con. Bên cạnh đó, ăn nhiều cà rốt, cải bông xanh, cải bắp…cũng góp phần cung cấp nhiều vitamin A, axit folic tốt cho mắt của trẻ và sức khỏe của mẹ. Dầu thực vật: Hạn chế các loại dầu mỡ để tránh thừa cân cho mẹ, tuy nhiên dầu thực vật lại rất cần thiết cho quá trình chuyển hoá các loại vitamin nhóm A, E, D. Vì thế không nên loại chúng ra khỏi thực đơn của mẹ, có thể dùng xen kẽ với dầu ôliu, dầu hướng dương. Ngũ cốc và các loạt hạt (hạt điều, đậu phộng, mè…): Ngũ cốc cung cấp hydratcacbon cho hoạt động của hệ thần kinh và quá trình tiêu hoá diễn ra được tốt. Trong khi đó, ăn nhiều hạt điều, đậu phộng, mè…sẽ cung cấp cho cơ thể một lượng đạm không thua gì thịt, cá. Thịt: Khi mang thai, nhu cầu cần bổ sung chất đạm của cơ thể tăng lên 50%. Vì thế các bà mẹ nên ăn nhiều thịt, cá nhưng vẫn phải hạn chế mỡ động vật. Nên ăn nhiều thịt bò vì trong thịt bò có chứa một lượng lớn chất sắt, protein, B6, B12, colin… cần thiết cho sự phát triển của thai nhi nhất là bộ não của bé. Cá: Cá cung cấp nhiều protein lại ít béo nên tốt cho cơ thể và tim mạch. Tuy nhiên, phụ nữ mang thai nên hạn chế ăn các loại cá có hàm lượng thuỷ ngân cao (cá mú, các thu…) và cá sống sâu dưới đáy đại dương (cà ngừ, cá kiếm…). Nên ăn nhiều cá hồi, cá xac-di và tuyệt đối không nên ăn gỏi cá. Trứng: Cung cấp những axit amino axit cần thiết cho cả mẹ và bé. Nhiều bà mẹ khi mang thai lại cố ăn nhiều trứng ngỗng dù khó ăn vì nghĩ nó đặc biệt tốt cho thai nhi. Thực chất, theo các nghiên cứu không nhất thiết phải là trứng ngỗng vì xét về chất dinh dưỡng và độ ngon, trứng gà hơn hẳn trứng ngỗng. Ngoài ra, ăn lòng đỏ trứng gà trong giai đoạn mang thai còn có thể làm tăng trí thông minh và trí nhớ cho bé trong tương lai. Những cũng không nên lạm dụng, chỉ ăn không quá 5 quả một tuần. Sữa và sữa chua: Ngoài canxi, phốt pho, vitamin A, B sữa còn đóng vai trò quan trọng cho quá trình hình thành xương và răng cho trẻ do trong sữa có hàm lượng vitamin D cao. Vì thế, các bà mẹ đừng quên uống từ 1 đến 2 cốc sữa mỗi ngày. Các chuyên gia dinh dưỡng cũng cho rằng, khi mang thai không nhất thiết phải uống dành riêng cho cac bà mẹ, có thể uống sữa tươi hay các loại sữa đã quen dùng và hợp khẩu vị. Ăn nhiều sữa chua cũng cung cấp một lượng lớn canxi, kẽm và đặc biệt tốt cho việc tiêu hoá thức ăn. Nước: Rất cần cho quá trình điều tiết nhiệt độ cơ thể (cả mẹ và bé), trao đổi chất, duy trì hệ miễn dịch, thải chất độc… Vì thế, cần cung cấp cho cơ thể ít nhất là 2 lít nước mỗi ngày, tốt nhất là nước lọc hoặc nước trà và các loại nước hoa quả ép chứa nhiều vitamin C. Tránh ăn thực phẩm nào? Các nhà nghiên cứu giai đoạn thai phụ đều cho rằng, trong các loài động vật có vỏ như: trai, sò, vẹm, cua, hến, tôm…có mức độ nhiễm hoá chất rất cao dù trong môi trường tự nhiên hay nuôi nhân tạo. Do đó, phụ nữ mang thai nên tránh ăn những loại thực phẩm này. Không chỉ vậy, để bảo vệ thai nhi thai phụ cũng nên tránh các loại thức ăn như: gan động vật, patê, trứng sống hoặc chế biến chưa chín kỹ, thịt động vật còn tái (nhúng dấm…) vì dễ bị nhiễm khuẩn dẫn đến bệnh sán lá, phomat xanh, khoai lên mầm… Đặc biệt, khi mang thai người phụ nữ không nên ăn nhãn, long nhãn sẽ tăng nhiệt cho thai nhi, dễ dẫn đến khí huyết không điều hoà và dễ bị nôn. Tuyệt đối không dùng các chất kích thích như: rượu, bia, cà phê, nước ngọt có ga…làm hưng phấn trung khu thần kinh, ảnh hưởng đến sức khỏe của bé.
http://www.webtretho.com/forum/showthread.php?t=21252&page=13
Áp lực công việc, cộng thêm ô nhiễm môi trường khiến việc mang thai và sinh em bé không còn đơn giản, đặc biệt với những chị em làm văn phòng. 5 cách sau sẽ giúp bạn có thể lực tốt hơn, đảm bảo mẹ tròn con vuông.
Vận động, kiên trì vận động
Vận động, đó không chỉ là việc bạn tới các phòng thể dục thẩm mỹ. Những động tác đơn giản trong giờ nghỉ, hay vài phút giữa giờ làm cũng nâng cao sức đề kháng của bạn. Nếu không có thời gian đi bơi, chạy bộ, đi bộ, vốn là những môn thể thao rất có lợi, thì bạn cũng đừng lo lắng. Có rất nhiều bài tập dễ dàng cho bạn: Từ chỗ gửi xe lên văn phòng, hãy đi bộ, thở hít đều đặn. Tranh thủ lúc rỗi việc, hãy giải phóng đôi chân khỏi chiếc giày cao gót, xoay mình trên ghế, hoặc dạo vài bước trong phòng v.v. Nhìn chung, hãy tích cực vận động, tránh ngồi quá lâu ở một chỗ.
Ăn uống có chọn lọc
Hãy nạp thêm năng lượng bổ dưỡng cho cơ thể bằng những thức ăn lành tính, giàu dinh dưỡng: Đậu và các chế phẩm từ đậu, lạc, củ cải thịt bò, thịt lợn, những thức ăn chứa tinh bột. Không ít người cho rằng ăn nhiều hoa quả sẽ có lợi trong lúc mang bầu. Nhưng theo Trung y, hoa quả đa phần có tính hàn, mà tử cung lại kỵ hàn. Do đó, bạn không nên ăn quá nhiều hoa quả khi mang bầu.
Giảm áp lực trong cuộc sống
Một điều rất khó thực hiện trong xã hội hiện đại, khi mà bạn luôn phải quay cuồng với mớ bòng bong những công việc, mối quan hệ v.v. Nhưng bạn nên tìm cách “đè nén” nó, cũng như chính nó nhiều khi đè nén bạn. Các chuyên gia tâm lý khuyên bạn hãy nghĩ tới những điều vui tươi. Vd: niềm hạnh phúc khi thấy bé chào đời. Vui vẻ với công việc hiện tại, vì ít ra bạn còn may mắn hơn vô số người đang thất nghiệp ngoài đường. Coi công việc không phải cái “nợ”, mà như những mảnh xếp hình trong trò chơi của bạn v.v.
Tận hưởng niềm vui “gần gũi” chồng
Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, phụ nữ có đời sống tình dục đầy đủ, sẽ khỏe mạnh hơn nhiều so với những phụ nữ độc thân, hoặc không được hưởng cuộc sống tình dục đúng nghĩa. Quan hệ vợ chồng nhẹ nhàng, đúng mực trong giai đoạn mang thai cũng góp phần tăng sức khỏe, làm hào hứng tinh thần cho cả hai người. Mặt khác, sự hưng phấn giúp tử cung co bóp đều đặn. Tử cung khỏe, có nghĩa là “sứ giả hộ mệnh” của em bé trong bụng bạn cũng đang khỏe mạnh, sẵn sàng cho nhiệm vụ thiêng liêng.
Giữ vệ sinh cơ thể
Cố gắng giữ cho mình sạch sẽ, sảng khoái. Nhưng không vì thế mà tắm quá nhiều, hoặc tắm lúc khuya. Mặt khác, bạn cũng nên nói “Không” với những bộ quần áo chật, giầy cao gót, chất kích thích trong giai đoạn mang bầu. Thường xuyên khám phụ khoa, có thể nhờ chồng hoặc người thân mát xa giúp bất cứ lúc nào bạn nhức mỏi. Bên cạnh đó, bạn hãy cố gắng để không gian trong nhà sạch sẽ, gọn gàng. Các cụ đã nói: “Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”. Một không gian sạch, thoáng đãng, cũng là phương thuốc tích cực bổ sung sức khỏe cho bạn và bé.
Theo aFamily http://tintuc.timnhanh.com/doi-song/suc-khoe/20090226/35A8ED0F/5-bien-phap-giu-suc-khoe-khi-mang-bau.htm
http://mainichinihongo.com/forum/viewtopic.php?id=13
http://nhacnhat.info/#Play,7947
@All: thank các mẹ nhiều. Tất cả vì trẻ thơ.
Chúng ta biết rằng thủy ngân (dạng vô cơ, dạng oxyde, dạng ion) được sử dụng khá nhiều trong công nghiệp và đời sống, chẳng hạn các loại pin thủy ngân, nhiệt kế, bình thủy, đèn neon (dạng hơi), thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm, dạng khí thải từ lò đốt rác. Trong lĩnh vực y tế, thủy ngân được pha chế làm thuốc đỏ khử trùng (Mercure au chrome), hợp chất trám răng Amalgame… Các sản phẩm có thủy ngân thải ra môi trường làm ô nhiễm không khí, mặt đất; nhưng quan trọng nhất là ô nhiễm nguồn nước – đặc biệt là nguồn nước biển. Trong môi trường nước biển, các loài vi khuẩn ưa mặn sẽ biến đổi nguồn thủy ngân vô cơ (ít độc) thành thủy ngân hữu cơ (methyl mercury) có độc tính cao. Các phiêu sinh vật là nguồn cảm nhiễm đầu tiên, kế đó là các loài cá nhỏ, rồi cá lớn (cá săn mồi). Con người là chuỗi mắt xích cuối cùng nhiễm thủy ngân, sau khi ăn các loài cá có nhiễm chất này.
Hầu hết thủy ngân làm ô nhiễm không khí và nước đều xuất phát từ việc khai thác quặng, sản xuất công nghiệp nặng và từ các nhà máy điện chạy bằng than…
Độc tính của thủy ngân:
Khi xâm nhập vào cơ thể, thủy ngân có thể liên kết với những phân tử như nucleic acid, protein.... làm biến đổi cấu trúc và ức chế hoạt tính sinh học của tế bào. Sự nhiễm độc thủy ngân gây nên những thương tổn trung tâm thần kinh với triệu chứng run rẩy, khó khăn trong diễn đạt, giảm sút trí nhớ ... và nặng hơn nữa có thể gây tê liệt, nghễnh ngãng, nói lắp, thao cuồng. Nếu nhiễm độc thủy ngân qua đường ăn uống với liều lượng cao, một thời gian sau (có thể từ 10 - 20 năm) sẽ gây tử vong.
Sự biến đổi độc tính của thủy ngân theo dạng tồn tại:
Độc tính này sẽ tăng dần nếu có hiện tượng tích luỹ sinh học. Sự tích luỹ sinh học là quá trình thâm nhiễm vào cơ thể gây nhiễm độc mãn tính. Quá trình này diễn ra gồm hai giai đoạn: Sự tích luỹ sinh học bắt đầu bởi cá thể, sau đó được tiếp tục tích lũy nhờ sự lan truyền giữa các cá thể, từ động vật ăn cỏ, động vật ăn cá, cho đến con người. Do đó nồng độ thủy ngân được tích luỹ dần dần cho đến khi “tới ngưỡng” gây hại. Hiện tượng tích luỹ sinh học này rất nguy hiểm, nhất là với methyl thủy ngân - xuất phát từ môi trường lúc đầu ít ô nhiễm (nồng độ thủy ngân thấp), nồng độ đó có thể tăng lên đến hàng nghìn lần và trở thành rất độc.
Những phụ nữ có thai, những trẻ sơ sinh còn bú mẹ và các trẻ nhỏ dễ bị nguy hiểm nhất, bởi vì một lượng lớn thủy ngân có thể gây hại cho não bộ đang phát triển. Nếu bà mẹ dùng nhiều các loại cá biển (loại chứa hàm lượng thủy ngân cao), thì sự phát triển não bộ của đứa bé có thể bị ảnh hưởng và thậm chí là thủy ngân tích lũy sẽ gây biến chứng nặng về sau, hoặc gây ra những vấn đề về sự thông minh của trẻ…
Những sự kiện nhiêm độc thủy ngân nổi tiếng trong lịch sử:
Việc sử dụng thủy ngân bừa bãi trong quá khứ đã dẫn đến những hậu quả khôn lường. Những nạn nhân đầu tiên là các nhà giả kim thuật. Từ thời cổ đại, các nhà giả kim thuật Ai Cập, Ả Rập, Trung Quốc… đã biết sử dụng thủy ngân để phân tách một số kim loại, nhất là vàng. Họ không biết rằng, hơi thủy ngân đã xâm nhập qua đường hô hấp, ngấm qua da đi vào cơ thể họ. Hậu quả cuối cùng, những người tiếp xúc với thuỷ ngân lâu dài đều mắc những chứng bệnh kỳ lạ như bị ảo giác, ám ảnh, cơ thể suy nhược và chết một cách bí hiểm. Sự kiện nổi tiếng khác có liên quan đến thủy ngân là công trình mạ vàng mái vòm nhà thờ Saint Petersburg (thuộc Nga) khởi công từ năm 1703, hoàn thành vào năm 1727, đã cướp đi hàng chục ngàn sinh mạng người thợ (do hít phải hơi độc thủy ngân). Năm 1926, nhà hóa học người Đức Alfred Stock và người cộng sự, cũng chết vì nhiễm độc thủy ngân trong suốt quá trình làm việc tại phòng thí nghiệm. Gần đây nhất là vụ ngộ độc thủy ngân tại Iraq (1971-1972), công nhân tiếp xúc với hóa chất diệt nấm có chứa Methyl thủy ngân, khiến 6530 người ngộ độc và 459 người chết. Người ta cũng chưa quên sự kiện “amalgam có chứa thủy ngân” – loại vật liệu dùng trám răng này đã có lúc bị lên án dữ dội vì người ta e ngại sự thôi nhiễm thủy ngân có trong đó vào cơ thể; tuy nhiên, Tổ chức y tế thế giới và Hiệp hội Nha khoa quốc tế bác bỏ nguy cơ này, vì trên thực tế hàm lượng thủy ngân trong amalgam rất khó thôi nhiễm và nếu có thì cũng chưa đủ liều gây độc.
Sự kiện nhiễm độc thủy ngân tiêu biểu của thế kỷ 20:
Vào năm 1970, cả nước Nhật và thế giới đều chấn động, khi chính phủ Nhật Bản công khai sự kiện ngộ độc thủy ngân, do người dân ăn phải cá biển tại vùng vịnh Minamata. Các loài hải sản vùng biển này bị nhiễm thủy ngân do nhà máy hóa chất Chisso có sử dụng thủy ngân và chất thải có thủy ngân không xử lý triệt để được xả thẳng vào nước biển. Theo đánh giá của Bộ Y tế Nhật Bản, trong quá trình hoạt động từ năm 1932 đến khi sự cố xảy ra, nhà máy hóa chất Chisso đã thải ra vùng biển này 81 tấn thủy ngân! Thảm họa trên khởi phát từ 1956 và kéo dài hậu quả đến 1978 và người ta tiếp tục điều tra, phát hiện nạn nhân mới đến những năm cuối thập niên 1990 (là con, cháu những người bị nhiễm thuỷ ngân đầu tiên). Thảm họa trên gây cho trên 30.000 người bị tàn phế (suy kiệt toàn thân, liệt, rối loạn nhận thức, mù mắt, lãng tai, dị dạng bào thai…) và đã có trên 2.000 người tử vong.
Được biết từ đầu năm 1950, tại vùng biển này đã có hiện tượng lạ xuất hiện, như hàng lọat cá biển bị chết phơi bụng trên mặt biển, thỉnh thoảng các loài chim bói cá hoặc quạ đen đâm đầu vào đá, nhiều con mèo (có thói quen ăn cá chết) bị co giật, hoảng loạn nhảy xuống biển mà chết… Sau đó ít lâu một số người dân đến bệnh viện khai báo những chứng bệnh đau nhức dai dẳng, tê liệt, tổn thương thị giác… Lúc ấy cư dân tại vùng này tỏ ra hoang mang, nhưng chưa giải thích được căn nguyên của “chứng bệnh kỳ quái” trên. Mãi đến năm 1956, với sự giúp đỡ của các nhà khoa học người Anh đến tận hiện trường khảo sát, ba năm sau sự thật đã được phơi bày: vùng biển này đã bị nhiễm thủy ngân toàn bộ (thủy ngân dạng Methyl hữu cơ). Lúc đầu Xí nghiệp Chisso vẫn không thừa nhận trách nhiệm về mình, chính quyền địa phương tỏ ra không mấy tích cực trong việc nhìn nhận vấn đề, nên nhà máy vẫn còn xả chất thải có chứa thủy nhân xuống biển, đến năm 1968, dưới áp lực cuả báo chí và dư luận xã hội, nhà máy này mới ngừng hẳn việc đổ chất thải ra môi trường. Nhưng cũng còn may mắn, vì nếu hiện tượng trên không bị chặn đứng, chắc chắn sự thiệt hại về sức khỏe người dân tại Minamata và các vùng phụ cận sẽ lớn hơn nhiều!
Năm 1965, một vụ nhiễm độc trên diện rộng ở Nigata (Nhật Bản) cũng xảy ra tương tự như ở Minamata và thủ phạm là chất thải chứa thủy ngân của một công ty khai khoáng trên địa bàn, gây cho hàng trăm người thương tật và tử vong.
Sự kiện “Minamata” không giới hạn trong ranh giới nước Nhật, mà cả thế giới đều bị chấn động, đặc biệt các nước có tiếp giáp vùng biển Nhật Bản. Trong y văn người ta còn đặt tên cho hậu quả khốc liệt trên là “chứng bệnh Minamata”. Vì vậy từ năm 1975 nhiều tổ chức môi trường, Viện nghiên cứu tài nguyên đại dương không ngừng có các công trình nghiên cứu về độ tồn lưu của thủy ngân nói riêng và kim loại nặng (chì, cadmium, arsen… nói chung) trong môi trường sống, đặc biệt vùng sinh thái biển và sinh vật biển.
Khuyến cáo về việc ăn cá biển:
Theo công trình nghiên cứu của Viện bảo tồn tài nguyên biển từ năm 2002; tháng giêng, năm 2008 và qua khuyến cáo của Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA). Theo đó, các nhóm cá có nồng độ thủy ngân cao nhất (từ 0,70 – 1,45 ppm) là cá nhám, cá lưỡi kiếm (swordfish), cá heo, cá mú vàng (tilefish), cá thu chúa (king mackerel). Các loại cá này thường sống ở tầng sâu của biển, có trọng lượng rất lớn, chuyên ăn các loại cá nhỏ (còn gọi là cá săn mồi), vì vậy theo thời gian lượng thủy ngân tích lũy càng nhiều. Các bà mẹ đang mang thai được khuyến cáo không nên ăn các loại cá này. Đối với loại cá có nồng độ thủy ngân thấp (từ 0,09- 0,25 ppm ), bà mẹ có thai được khuyến cáo chỉ nên ăn không quá 2 lần mỗi tuần, (tính theo trọng lượng không quá 340g), gồm cá bơn, cá chép, cá mú, cá thu nhỏ, cá than, cá đuối, cá chỉ vàng, cá ngừ, cá hồi đại dương, cá marlin, tôm hùm Bắc Mỹ. Các loại cá có nồng độ thủy ngân rất thấp, không đáng kể (mức thủy ngân dưới 0,08 ppm) như cá hồi nước cạn (salmon), cá mòi (sardine), cá mực, cá da trơn, cá đối, cá trồng (Anchovies), cá tầm (sturgon), trứng cá muối (caviar), cá pollock, cá trích (shad), cá mối, cá bạc má (mackerel chub), cá ngừ đóng hộp (light tuna), cá tuyết morue, cá hồi nước ngọt (trout), tôm hùm, tôm càng, sò, trai, hến… thì không được xếp vào loại giới hạn sử dụng. Ngoài ra ngành y tế các nước còn khuyến cáo mọi người không nên ăn các loại cá được câu từ ao, hồ xung quanh khu công nghiệp có thải ra chất thải độc hại.
nước ngoài)
2008/08/21 11:34
Tránh cho con bị suy dinh dưỡng ngay từ lúc mang thai đã không còn là điều xa lạ và khó khăn bởi một chế độ dinh dưỡng phù hợp sẽ giúp thai nhi khoẻ mạnh. Vậy các bà bầu nên ăn gì và tránh những loại thực phẩm nào?
Thực phẩm nên ăn
Rau,quả: Cung cấp nhiều chất xơ, giúp cho bộ máy tiêu hoá hoạt động tốt. Các loại quả như: chuối, táo, dâu tây…cung cấp nhiều vitamin C, chất khoáng và ngừa dịch bệnh. Đặc biệt, ăn nhiều chuối còn có khả năng giảm thiểu hiện tượng co thắt, thư giãn các cơ bắp và kích hoạt quá trình co bóp khi sinh con. Bên cạnh đó, ăn nhiều cà rốt, cải bông xanh, cải bắp…cũng góp phần cung cấp nhiều vitamin A, axit folic tốt cho mắt của trẻ và sức khỏe của mẹ.
Dầu thực vật: Hạn chế các loại dầu mỡ để tránh thừa cân cho mẹ, tuy nhiên dầu thực vật lại rất cần thiết cho quá trình chuyển hoá các loại vitamin nhóm A, E, D. Vì thế không nên loại chúng ra khỏi thực đơn của mẹ, có thể dùng xen kẽ với dầu ôliu, dầu hướng dương.
Ngũ cốc và các loạt hạt (hạt điều, đậu phộng, mè…): Ngũ cốc cung cấp hydratcacbon cho hoạt động của hệ thần kinh và quá trình tiêu hoá diễn ra được tốt. Trong khi đó, ăn nhiều hạt điều, đậu phộng, mè…sẽ cung cấp cho cơ thể một lượng đạm không thua gì thịt, cá.
Thịt: Khi mang thai, nhu cầu cần bổ sung chất đạm của cơ thể tăng lên 50%. Vì thế các bà mẹ nên ăn nhiều thịt, cá nhưng vẫn phải hạn chế mỡ động vật. Nên ăn nhiều thịt bò vì trong thịt bò có chứa một lượng lớn chất sắt, protein, B6, B12, colin… cần thiết cho sự phát triển của thai nhi nhất là bộ não của bé.
Cá: Cá cung cấp nhiều protein lại ít béo nên tốt cho cơ thể và tim mạch. Tuy nhiên, phụ nữ mang thai nên hạn chế ăn các loại cá có hàm lượng thuỷ ngân cao (cá mú, các thu…) và cá sống sâu dưới đáy đại dương (cà ngừ, cá kiếm…). Nên ăn nhiều cá hồi, cá xac-di và tuyệt đối không nên ăn gỏi cá.
Trứng: Cung cấp những axit amino axit cần thiết cho cả mẹ và bé. Nhiều bà mẹ khi mang thai lại cố ăn nhiều trứng ngỗng dù khó ăn vì nghĩ nó đặc biệt tốt cho thai nhi. Thực chất, theo các nghiên cứu không nhất thiết phải là trứng ngỗng vì xét về chất dinh dưỡng và độ ngon, trứng gà hơn hẳn trứng ngỗng. Ngoài ra, ăn lòng đỏ trứng gà trong giai đoạn mang thai còn có thể làm tăng trí thông minh và trí nhớ cho bé trong tương lai. Những cũng không nên lạm dụng, chỉ ăn không quá 5 quả một tuần.
Sữa và sữa chua: Ngoài canxi, phốt pho, vitamin A, B sữa còn đóng vai trò quan trọng cho quá trình hình thành xương và răng cho trẻ do trong sữa có hàm lượng vitamin D cao. Vì thế, các bà mẹ đừng quên uống từ 1 đến 2 cốc sữa mỗi ngày. Các chuyên gia dinh dưỡng cũng cho rằng, khi mang thai không nhất thiết phải uống dành riêng cho cac bà mẹ, có thể uống sữa tươi hay các loại sữa đã quen dùng và hợp khẩu vị. Ăn nhiều sữa chua cũng cung cấp một lượng lớn canxi, kẽm và đặc biệt tốt cho việc tiêu hoá thức ăn.
Nước: Rất cần cho quá trình điều tiết nhiệt độ cơ thể (cả mẹ và bé), trao đổi chất, duy trì hệ miễn dịch, thải chất độc… Vì thế, cần cung cấp cho cơ thể ít nhất là 2 lít nước mỗi ngày, tốt nhất là nước lọc hoặc nước trà và các loại nước hoa quả ép chứa nhiều vitamin C.
Tránh ăn thực phẩm nào?
Các nhà nghiên cứu giai đoạn thai phụ đều cho rằng, trong các loài động vật có vỏ như: trai, sò, vẹm, cua, hến, tôm…có mức độ nhiễm hoá chất rất cao dù trong môi trường tự nhiên hay nuôi nhân tạo. Do đó, phụ nữ mang thai nên tránh ăn những loại thực phẩm này.
Không chỉ vậy, để bảo vệ thai nhi thai phụ cũng nên tránh các loại thức ăn như: gan động vật, patê, trứng sống hoặc chế biến chưa chín kỹ, thịt động vật còn tái (nhúng dấm…) vì dễ bị nhiễm khuẩn dẫn đến bệnh sán lá, phomat xanh, khoai lên mầm…
Đặc biệt, khi mang thai người phụ nữ không nên ăn nhãn, long nhãn sẽ tăng nhiệt cho thai nhi, dễ dẫn đến khí huyết không điều hoà và dễ bị nôn. Tuyệt đối không dùng các chất kích thích như: rượu, bia, cà phê, nước ngọt có ga…làm hưng phấn trung khu thần kinh, ảnh hưởng đến sức khỏe của bé.
28/06/2008, 11:30 PM
Mình đã post bài này ở trong topic " Triệu chứng giữa và cuối..." mình đưa lại sang đây để mẹ nó xem. Trong này có rất nhiều loại thực phẩm chứa hàm lượng canxi cao đấy. Còn các loại thuốc uống bổ sung bạn nên hỏi trực tiếp bác sĩ khám chứ đừng tự động uống vì có khi người này được chỉ định uống nhưng với người khác lại gây dị ứng mà :Smiling:
1. Đậu
Các loại đậu nói chung như đậu lăng, đậu tương, đậu đen đều có chứa một lượng lớn chất xơ, protein, sắt, folate, canxi và kẽm rất tốt cho sức khỏe của mẹ và sự phát triển của bé.
2. Thịt bò
Trong thịt bò có chứa một lượng lớn chất sắt, protein, B6, B12, kẽm, colin, cần thiết cho sự phát triển của thai nhi, đặc biệt là quá trình phát triển của não bộ.
Tuy nhiên, khi ăn thịt bò các bà bầu nên chọn loại thịt bò nạc, và nên ăn điều độ để tránh tình trạng dư thừa cholesterol trong máu.
3. Dâu tây
Dâu tây không chỉ hấp dẫn bạn bởi hương thơm và vị ngọt mà nó còn đặc biệt rất tốt đối với thai phụ, bởi đó là loại trái cây có chứa lượng lớn cácbonhydrat, vitamin C, kẽm, folate, chất xơ. Hơn thế nữa, chất phytonutrient có trong dâu tây còn có khả năng bảo vệ tế bào.
4. Bông cải xanh
Bông cải xanh hay còn gọi là súp lơ, được xem như một loại thực phẩm "chức năng" bởi lẽ khi ăn bông cải xanh sẽ rất có lợi cho sức khỏe con người nói chung và thai phụ nói riêng.
Nó giúp cung cấp folate, chất xơ, canxi, lutin, kẽm, vitamin A. Cũng xin nói thêm rằng, bông cải xanh cũng có khả năng giúp bạn sáng mắt nhờ vào lượng vitamin A có trong bản thân nó.
5. Pho mát
Sở dĩ pho mát được khuyên nên sử dụng với phụ nữ đang trong giai đoạn mang thai là bởi pho mát có chứa rất nhiều canxi, phot pho và magiê cần thiết cho sự phát triển xương của bé.
Nhưng cần nhấn mạnh rằng, bạn nên thu nạp pho mat một cách có chừng mực, vì nó cũng có thể sẽ trở thành "thủ phạm" làm tăng lượng cholesterol xấu trong máu bạn.
6. Trứng
Người ta đã tìm thấy trong trứng có chứa một lượng lớn protein vì thế nó cung cấp những axit amino axit cần thiết cho cả mẹ và bé.
7. Sữa
Ngoài canxi, photpho, vitamin A, B sữa còn có khả năng làm chắc xương do có chứa hàm lượng vitamin D rất cao. Vì thế các bà mẹ đang mang thai đừng quên bổ sung 1 - 2 cốc sữa mỗi ngày.
8. Nước cam
Ngoài các loại thực phẩm hàng đầu nói trên, thai phụ cũng nên uống thêm các loại nước trái cây để bổ sung thêm vitamin. Các chuyên gia khuyên bạn nên uống nước cam, vì nước cam ngoài việc có chứa rất nhiều vitamin C, nó còn chứa thêm photpho và folate.
9. Cá hồi, cá thu, cá mòi
Từ lâu nay, phụ nữ trong giai đoạn mang thai thường được khuyên nên ăn nhiều cá để trí não của bé có thể phát triển hoàn hảo nhất.
Tuy nhiên khi ăn cá bạn cũng cần đặc biệt chú ý, bởi có một số loại cá có chứa hàm lượng thủy ngân cao, gây nên những tác động tiêu cực đối với sự phát triển của thai nhi.
Khi ăn cá thai phụ nên chọn ăn cá hồi vì trong cá hồi có chứa nhiều vitamin B, omega 3 axit - loại chất béo mà cơ thể không có khả năng tự tổng hợp. Ngoài ra, cá hồi còn có tác dụng giúp trẻ có thị lực tốt về sau. Nhưng 3 loại cá này lại có lượng thủy ngân khá cao do vậy thai phụ chỉ nên ăn bổ sung 1 tuần 1 lần
10. Khoai lang
Nhiều bà bầu thường than phiền do bị mắc chứng táo bón "hoành hành" khi mang thai, nguyên nhân phần lớn là do sự phát triển của thai nhi gây nên sự chèn ép, khiến bạn bị mắc chứng táo bón.
Để cải thiện tình hình bạn đừng quên bổ sung khoai lang vào thực đơn ăn uống. Bên cạnh chức năng đó khoai lang còn có chứa viatmin C, folate, photpho, cần thiết cho cả mẹ và bé.
11. Ngũ cốc
Ngũ cốc là loại thực phẩm không thể vắng mặt trong chế độ ăn uống của thai phụ, lý do là bởi ngũ cốc có chứa axit folic, vitamin B, sắt và kẽm.
Ngũ cốc có nhiều trong cơm, bánh mỳ, bột mỳ, mỳ ý.
12. Sữa chua
Sữa chua không chỉ tốt cho tiêu hóa mà là một loại thần dược đối với các chị em phụ nữ. Mà nó cũng rất cần thiết cho bà bầu do có chứa nhiều canxi, viatmin B và kẽm. Ngoài ra cũng xin tiết lộ thêm với bạn là lượng canxi có trong sữa chua lớn hơn so với lượng canxi có trong sữa.
13. Tôm, cua
Tôm, cua ( cua biển, cua đồng) có hàm lượng canxi khá cao rất tốt cho quá trình hình thành và phát triển xương của thai nhi. Ngoài ra, canxi cũng giúp thai phụ tránh được một số bệnh phát sinh trong thời gian cuối của thai kỳ ( chuột rút, bẻ vọp...)
14, Rau xanh
Cung cấp chất xơ, một số loại rau xanh còn có hàm lượng canxi khá cao ( bầu...) rất có ích cho người mẹ. Ngoài ra, nếu người mẹ thường xuyên bổ sung đầy đủ lượng rau xanh trong bữa ăn hàng ngày cũng sẽ làm giảm nguy cơ bị các bệnh về dị ứng và viêm phổi ( hen) cho thai nhi sau này.
vBulletin® v3.7.4, Copyright ©2000-2009, Jelsoft Enterprises Ltd.