images
Thịnh hành
Cộng đồng
Webtretho Awards 2025
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Vụ ăn trộm mỹ phẩm tại Nhật: Đã bắt một số người...
Sự thật có sao đưa ra vậy thôi . Mình đâu có nói thêm gì đâu và lâu nay luôn luôn lịch sự vơí mọi ngươì . :Smiling:

Baó chí quôc´tê´còn đăng nhiêù hơn nữa kia .
07:36 CH 16/01/2009
Vụ ăn trộm mỹ phẩm tại Nhật: Đã bắt một số người...
Tôi có ghi cái link của báo Nhật (Japan) thông báo là đã có 85 ngươì trong đường dây bị băt´.
Nêú không thì làm sao chị khác biêt´là có đên´ 85 ngươì ?
Ngoaì báo nhà nươc´ra ,thì báo quôc´tê´ vẫn không được châp´ nhận ở Việt Nam .
Còn 2 chị Mecunkin và Giahuyhuy vô chửi vô lý và dùng những ngôn ngữ " thằng hôt´rác" này kia thì vẫn để nguyên .
12:01 CH 16/01/2009
Vụ ăn trộm mỹ phẩm tại Nhật: Đã bắt một số người...
Ủa VN sau này vẫn còn coi báo Nhật và quôc´tê´ là không hợp lệ ha Mod ?
08:18 SA 16/01/2009
Vụ ăn trộm mỹ phẩm tại Nhật: Đã bắt một số người...
85 người còn đang bị băt´ trong tù mà cũ rích gì ?

:Smiling: Tình cờ thâý cho nên post ra, để cho ai biêt´mà tránh làm thê´, khẻo rôì cư´ lên báo quôc´tê´ mãi thôi.

05:28 CH 15/01/2009
“Văn hóa ba- xin”
(LĐ) - Người dân đang phẫn nộ về vụ nữ nô lệ ở cơ sở massage Tân Hoàng Phát. Người dân phẫn nộ hơn vì đã có nhiều đơn thư tố cáo về cơ sở này, nhưng công an, chính quyền phường, quận suốt mấy năm nay chẳng động tĩnh gì.

Cơ sở massage này mỗi ngày có 700 lượt người vào chơi bời. Xe cộ vào ra inh ỏi. Bà con trong khu phố biết đây là mại dâm trá hình, nên phản ánh lên khu phố, chính quyền. Việc điều tra theo tố cáo của dân quá dễ, cơ sở massage ngang nhiên vậy, có phải tép heroin đâu mà khó kiếm. Trong cơ sở Tân Hoàng Phát làm chuyện gì thì nhiều người biết, nhưng công an sở tại không biết mới lạ!
Gần 100 nhân viên massage được huấn luyện kích dục cho khách. Nhiều người không chấp nhận việc cưỡng bức và bóc lột của ông chủ nên phản đối hoặc bỏ trốn, thì họ bị đánh đập, bỏ đói, nhốt trong chuồng chó. Những hoạt động bóc lột và hành hạ con người như nô lệ đó bà con trong khu phố biết, nhiều người biết, nhưng công an sở tại không biết mới lạ!
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an TPHCM (PC14) từng có công văn yêu cầu Công an quận Thủ Đức kiểm tra xử lý cơ sở Tân Hoàng Phát hoạt động mại dâm trá hình theo tố cáo của người dân, nhưng không ai thực hiện. Ngay cả khi có nạn nhân trực tiếp đến PC14 tố cáo tội ác của chủ cơ sở Tân Hoàng Phát, PC14 gửi văn bản đề nghị Công an quận Thủ Đức điều tra làm rõ, cũng chẳng ai làm rõ.
Cùng với Công an quận Thủ Đức là Công an phường Linh Chiểu, lãnh đạo UBND phường Linh Chiểu - những người có trách nhiệm ở các đơn vị này không thể không biết về hoạt động phi pháp của Tân Hoàng Phát. Họ không biết mới lạ!
Trên thực tế, tại TPHCM không chỉ có một Tân Hoàng Phát, vấn đề là những nơi đó có bị phát hiện và triệt phá hay không mà thôi. Câu hỏi đặt ra là tại sao họ kinh doanh phi pháp và ì xèo như vậy được? Ơ đây cho thấy rất rõ là có sự bảo kê, đóng hụi chết hoặc chia chác.
Để không còn cảnh nữ nô lệ và các tệ nạn, người dân được sống trong các khu phố văn hoá, phường văn hoá thực sự thì phải xử thật nghiêm các hành vi bảo kê, bao che cho các hoạt động này. Như vụ Tân Hoàng Phát, cứ mạnh tay xử lý các vị lãnh đạo công an phường, lãnh đạo UBND phường Linh Chiểu, công an quận Thủ Đức, thì tự khắc các nơi khác cũng lấy đó mà làm gương.

Lê Thanh Phong



http://www.laodong.com.vn/Home/Xu-nghiem-de-lam-guong/200812/118823.laodong
03:29 CH 15/01/2009
“Văn hóa ba- xin”
02:56' 09/01/2009 (GMT+7) … Con người ta rất khó có niềm tin nếu như nhìn vào những hiện tượng “nói vậy mà không làm vậy”. Khi niềm tin đã mất tới "hai lần", mọi thang bậc giá trị dĩ nhiên rất dễ bị con người chà đạp, coi thường. Như những bàn chân, bàn tay đã vô cảm, nhẫn tâm chà đạp, vặt trụi không thương tiếc Phố Hoa.
“Đói” văn hóa hay tính tư lợi bản chất.




Bưng cả chậu hoa về làm của riêng. Ảnh: VNN
Sẵn sàng đạp lên lên hàng rào, dẫm nát cỏ cây...Ảnh: VNN

Quả thật, những ngày này, đọc trên báo chí, tôi thấy không còn đủ những từ ngữ để nói tới nỗi xấu hổ, sự phẫn nộ chê trách, và cả nỗi nhục nữa- về thái độ và văn hóa ứng xử của người Việt chúng ta, qua lễ hội Phố Hoa Tết Dương lịch 2009 mới đây tại Hà Nội.
Cái “văn hóa vặt trụi” hoa anh đào ngày nào còn nguyên vẹn trong tâm cảm, làm sượng sùng thểdiện của cả đất nước, trước sự kinh ngạc sau động thái giao hảo văn hóa thân tình của nước bạn láng giềng. Nay, cả nước lại được chứng kiến tận mắt lễ hội Phố Hoa, như cách gọi chua chát, mỉa mai, lễ hội Phá Hoa. Vâng, lễ hội phá hoa của một bộ phận những người sống ở Hà Nội, ở một t/p, một Thủ đô luôn được gọi bằng những từ ngữ đẹp, mỹ miều- người Hà Nội thanh lịch (!)
Sự dự cảm, nỗi lo sợ mơ hồ của người viết bài này trước mỗi sự kiện văn hóa sẽ diễn ra, không còn là dự cảm, và mơ hồ nữa. Nó hiển hiện như những cánh tay thô bạo vặt, ngắt, nhổ, thậm chí bưng cả chậu hoa về làm của riêng. Hiển hiện như những bàn chân vô cảm, không hề xấu hổ, sẵn sàng đạp lên hàng rào, dẫm nát cỏ cây, chỉ vì sở thích làm đẹp riêng mình. Hay chính họ đang đạp lên những giá trị văn hóa tối thiểu- sống có sự tự trọng, có văn hóa trong một xã hội đang hô hào hướng tới sự văn minh.
Hiển hiện như chính sự thật đáng lo này- cứ mỗi sự kiện văn hóa được tổ chức, được diễn ra, gắn với nó như hình với bóng, là một sự kiện “phản văn hóa”- tạo nên những cú sốc, những chấn thương tâm lý- khiến xã hội luôn bị “sốc” phản văn hóa liên miên.
Tôi không đồng ý với một nhận xét đầy sự “độ lượng” của một người dân, vì “đói” văn hóa...Đúng là dân ta rất “đói”, do tầm, do tài của ngành chức năng. Nhưng chả lẽ cứ đói văn hóa thì cư xử vô văn hóa? Ngẫm cho kỹ, có thể thấy lễ hội phá hoa vừa qua, cũng chỉ là “cách ứng xử” bình thường như nhiều cách ứng xử, cách sống của người Việt lâu nay giữa cộng đồng, trong mọi hoạt động của đời sống.



Những dòng xe nối đuôi nhau đi sơ tán để tránh bão Gustav đổ bộ vào Mỹ. Ảnh: tin247.com





"Vỉa hè- đường ta", ta cứ đi. Ảnh: baodatviet.vn



Khi cơn bão Gustav đổ bộ vào nước Mỹ, trên báo mạng có một bức ảnh chụp dân Mỹ đi sơ tán, khiến người viết bài này xem mà thấy chạnh lòng cho xứ sở mình. Hàng dãy dài ô tô con cứ xếp hàng nối đuôi nhau chạy trên con đường rộng. Nếu muốn, một chiếc xe nào đó có thể phóng vượt lên. Nhưng không, tất cả vẫn nối đuôi nhau tuần tự ngay trong những thời khắc khẩn cấp. Nhờ ý thức tôn trọng pháp luật và văn hóa ứng xử nơi công cộng, mà con người ta không làm tổn hại đến lợi ích của người khác (đồng loại), đồng thời, vô hình chung, xây dựng và củng cố thêm “nếp gia phong quốc gia”, đẹp dần lên trong mắt các quốc gia khác.
Ngẫm cho kỹ, từ chuyện ứng xử văn hóa như phá hoa, vặt trụi hoa, chen lấn đi lại, bôi bẩn đường phố, xả rác ra đường…đến chuyện lối sống, cách sống có nguồn gốc của nó. Bé thì ăn cắp vặt, ăn trộm mớ rau, con gà, móc túi đồng loại, lớn thì “mua quan, bán tước”, móc túi của dân, ăn cắp của công, tham ô, tham nhũng…trong số đó, có nhiều kẻ “đói” không, hay ngược lại, rất giầu có? Liệu đó có phải bắt nguồn từ một thói quen bản chất của một xứ sở nông nghiệp, của một nền tảng văn hóa khập khiễng trong một quốc gia đang phát triển: Sự tư hữu, tư lợi, cá nhân của con người?

Chạnh lòng, vì nghĩ ngay tới những đường phố Hà Nội, đông cũng như hè, xuân cũng như thu, sáng cũng như chiều, phố nhỏ hay đại lộ, lúc nào cũng tắc nghẽn. Đành rằng, đất nước đang phát triển, giao thông không theo kịp là một nguyên cớ. Nhưng nguyên cớ quan trọng hơn, liệu có phải là cái cách tham gia giao thông đầy tính “tư lợi” của người Việt chúng ta không? Mạnh ai nấy chen, chen xuôi chen ngược, không cần phải trái. Xe máy chen, xe đạp chen, xe thồ chen, đến cả ô tô con, ô tô khách, tắc xi…cũng chen. Đường ta, ta cứ đi, cứ chen, cứ lấn. Chỉ lợi ích đi đường của ta là trên hết. Ngay cả vỉa hè- không phải “đường ta”, nếu cần, ta cũng láu cá, cũng khôn vặt, leo lên để phóng, bất cần luật lệ.
Chạnh lòng, vì nghĩ tới những bức tường của bất cứ ngôi nhà nào của Hà Nội như mắc bệnh ghẻ lở, với chi chít dọc ngang, trái phải…những dòng chữ “Khoan cắt bê tông”, những “Khoan giếng”, những quảng cáo “Gia sư”…như khoan, như cắt vào cái diện mạo, vào mỹ quan đường phố, nhưng các cơ quan chức năng, quản lý vẫn “ngoảnh mặt làm ngơ”.
Chạnh lòng, vì nghĩ tới vấn nạn tham ô, tham nhũng, ăn cắp của công…
Chạnh lòng vì quá nhiều cái phải...chạnh lòng.
Ngẫm cho kỹ, từ chuyện ứng xử văn hóa như phá hoa, vặt trụi hoa, chen lấn đi lại, bôi bẩn đường phố, xả rác, khạc nhổ lung tung ra đường…đến chuyện
l
ối sống, cách sống có nguồn gốc của nó. Bé thì ăn cắp vặt, ăn trộm mớ rau, con gà, móc túi đồng loại, lớn thì “mua quan, bán tước”, móc túi của dân, ăn cắp của công, tham ô, tham nhũng…trong số đó, có nhiều kẻ “đói” không, hay ngược lại, rất giầu có?
Liệu đó có phải bắt nguồn từ một thói quen bản chất của một xứ sở nông nghiệp, của một nền tảng văn hóa khập khiễng trong một quốc gia đang phát triển: Sự tư hữu, tư lợi, cá nhân của con người?

Tâm lý cá nhân đến độ người ta không chịu nhường nhau dù chỉ một câu nói. Tâm lý ấy đi cả vào thành ngữ dân gian: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Đi vào đời sống: Bậc tam cấp hay cái nền nhà của nhà anh không thể cao hơn nhà tôi. Và đi ra xã hội: Anh lấy làm của riêng được, sao tôi không lấy được? Chỉ cần thấy có tý lợi, dù cỏn con, là con người ta sẵn sàng hành động, vì tính tư lợi. Chỉ cần một người dám làm, là lập tức, cả đám đông “A la sô”, không sợ xấu hổ, bất cần luật pháp, coi thường mọi giá trị chuẩn mực của nếp sống và hành vi văn hóa. Có những người hái hoa xong, là vứt bỏ, vì chẳng biết để làm gì(!)
Niềm tin và các thang bậc giá trị
Đương nhiên, sự tư lợi là bản năng của con người ở bất cứ quốc gia nào, của ngay đứa trẻ khi bắt đầu có chút nhận thức và ý thức.
Sẽ có câu hỏi: Tại sao có những nước nông nghiệp láng giềng trong khu vực, nghèo như nước
Sản phẩm của giáo dục, chưa thành chính phẩm đã đành, nhưng bước ra khỏi cổng trường, rất có thể, nó xuống hạng, trở thành thứ phẩm trong quá trình sống và trưởng thành. Bởi “trường đời” có khi không chỉ phá vỡ những cái tốt còn bấy bớt, tiềm ẩn trong con người, mà có khi còn “dạy ngược”, làm đảo lộn mọi giá trị. Không chỉ tìm ở trường học- giáo dục, xin hãy tìm chính nguyên cớ ở trường đời- xã hội.

ta, con người ta cũng vốn có sự tư lợi như bản năng giống loài, lại không xử sự vô văn hóa như vậy, không ăn cắp, ăn nẩy đến như vậy?
Câu trả lời: Vẫn là chính sách “hướng đạo” đúng, luật pháp công bằng và nghiêm minh. Con người ta có niềm tin vào sự tử tế, vào lẽ phải, sẽ dẫn đến sống có đạo lý, biết sợ luật pháp, và cả luật “nhân –quả”.
Đã có rất nhiều ý kiến phê phán, mổ xẻ sự kiện phá hoa, trong đó, không ít ý kiến đổ lỗi cho giáo dục. Điều đó không sai, và giáo dục cũng là “gót chân A- sin” dễ thấy nhất. Thế nhưng, xin đừng quên rằng, giáo dục ở một số nước nghèo trong khu vực, đâu đã phát triển, nhưng sao con người ta lại hướng thiện được, lại không ăn cắp vặt và ăn cắp lớn? Như vậy, đổ lỗi cho giáo dục, đúng mà không đủ.
Xin đừng quên rằng, giáo dục tuy rất quan trọng cũng chỉ là một nguồn lực, một thành tố của xã hội, chịu tác động, ảnh hưởng rất lớn của xã hội. Xin đừng quên rằng, đứa trẻ sống với nhà trường nhiều lắm là 4-5 tiết học, nhưng sống với gia đình, với xã hội cả cuộc đời.
Sản phẩm của giáo dục, chưa thành chính phẩm đã đành, nhưng bước ra khỏi cổng trường, rất có thể, nó xuống hạng, trở thành thứ phẩm trong quá trình sống và trưởng thành. Bởi “trường đời” có khi không chỉ phá vỡ những cái tốt còn bấy bớt, tiềm ẩn trong con người, mà có khi còn “dạy ngược”, làm đảo lộn mọi giá trị. Không chỉ tìm ở trường học- giáo dục, xin hãy tìm chính nguyên cớ ở trường đời- xã hội.



Lễ hội Phố Hoa hay "lễ hội phá hoa". Ảnh: VNN

Xã hội chúng ta có không ít những cuộc vận động, những phong trào "hướng đạo" cho con người. Nhưng dường như sự "hướng đạo" ấy chỉ mang tính chất hô hào, khuyếch trương, nên tiếc thay, những khẩu hiệu đẹp, những ngôn từ đẹp cứ trượt đi như "nước đổ lá khoai", không đủ sức thấm vào nhận thức để từ đó điều chỉnh hành vi con người. Trong khi, văn hóa là hướng đạo kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử, là "mưa dầm thấm lâu", và quan trọng hơn, văn hóa còn là sự làm gương của những người lớn.
Con người ta rất khó có thể sống tốt, nếu như ngày ngày luôn được nghe những thông tin,
hôm nay, ông này tham nhũng; ngày mai, ông kia chơi bời cờ bạc bằng tiền đi vay của quốc tế, ngày kìa, ông nọ..chiếm dụng đất công thành của riêng…mà pháp luật lại không đủ mạnh (hay không đủ minh bạch và công tâm) để răn đe. Con người ta rất khó có niềm tin nếu như nhìn vào những hiện tượng “nói vậy mà không làm vậy”. Khi niềm tin đã mất tới "hai lần", mọi thang bậc giá trị dĩ nhiên rất dễ bị con người chà đạp, coi thường.
Như những bàn chân, bàn tay đã vô cảm, nhẫn tâm chà đạp, vặt trụi không thương tiếc Phố Hoa
Tôi thật sự tâm đắc về nhận xét của một giáo sư người Việt ở Singgapo: “
Nếu thấy người dân xem thường chính quyền thì phải xem lại đức hạnh của quan lại; nếu thấy người dân không tuân thủ luật pháp thì phải xem lại ý thức thượng tôn công lý của hệ thống; nếu thấy người dân hay trí trá thì phải xem lại sự thành tâm và tín nghĩa của người lãnh đạo
; nếu thấy người dân hay mê tín dị đoan thì phải xem lại tính minh bạch và công tâm của cơ chế.”
Nhưng cũng hy vọng, ở thái độ kiên quyết mới đây của chính quyền thành phố: Sẽ có chế tài nghiêm khắc xử lý mọi hành vi vô ý thức và vô văn hóa như đã diễn ra trong lễ hội Phố Hoa vừa qua. Điều đó tuy muộn nhưng còn hơn không!
Và mong hơn, không phải chỉ là một giải pháp tình thế, luôn “chạy” theo các”cú sốc" phản văn hóa, giải quyết các hệ lụy khi mọi sự đã rồi. Quan trọng là " Ý thức thượng tôn công lý của hệ thống". Từ quan chức tới thường dân.
Nhất là khi lễ hội Hoa đăng Tết âm lịch Kỷ Sửu lại sắp nở.
Liệu chính quyền t/p có một lần nữa “Bó tay.com”?
Và ..."Bó tay. com" với tất cả những hành vi, ứng xử, lối sống thiếu văn hóa khác đã thành thói quen, thành tính cách, thành "Văn hóa người Việt"?


Kim Dung


http://vietnamnet.vn/thuhanoi/2009/01/822899/
01:43 CH 14/01/2009
Nơi ấy chưa bao giờ có Tết
http://www.vtc.vn/xahoi/mot-nguoi-dan-chet-ret-luc-muu-sinh/203995/index.htm
Một người dân chết rét lúc mưu sinh

12/01/2009 8h58 (GMT+7)
(VTC News) - Ngày 10/1, một ngư dân ở thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa được phát hiện chết ở khu vực chân núi Trường Lệ, chân ngâm trong nước biển. Nhận định ban đầu của cơ quan công an thì nạn nhân có thể chết do thời tiết quá lạnh.


Khoảng 15h9' ngày 10/1/2009, một số người dân thị xã Sầm Sơn (Thanh Hoá) phát hiện một người đàn ông chết ở ven biển bên khu vực chân núi Trường Lệ trong tình trạng còn nguyên quần áo, nửa người nằm vắt lên hòn đá, hai chân ngâm trong nước biển.

Nhận được tin báo, Công an thị xã Sầm Sơn có mặt tại hiện trường và xác định được nạn nhân là Văn Thế Đường (55 tuổi, trú quán tại khu phố Thành Ngọc, phường Trường Sơn). Trên thi thể ông Đường không có dấu vết tổn thương.

Công an Sầm Sơn nhận định, do gió mùa đông bắc giá lạnh nhưng ông Đường vẫn đi ra biển một mình để bắt vẹm (một loại hến biển hay bám ở các tảng đá), có thể ông bị cảm lạnh đột ngột, không được phát hiện, cứu chữa kịp thời nên bị đột quỵ dẫn đến tử vong.

Trọng Anh

05:52 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
Các link cho trang báo của các baì trên :
http://vietnamnet.vn/xahoi/2008/12/819052/
http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5145/index.aspx
http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5134/index.aspx

http://tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5792/index.aspx

Kiến nghị của các nhà khoa học Việt Nam
http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5543/index.aspx
02:39 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5543/index.aspx
8/ Triển khai các dự án bô - xít là không phát triển bền vững Tây Nguyên
Để phát triển bền vững, chúng ta cần có đánh giá, phân tích nghiêm túc các thế mạnh, các điểm yếu, các cơ hội, và các thách thức trong phát triển kinh tế của Tây Nguyên (các học giả Harward thường gọi là “phân tích chiến lược”).
Trước hết: Thế mạnh của Tây Nguyên là đất đỏ bazan. Đây là nguồn tài nguyên rất quý, là nơi duy nhất có khả năng trồng cau su, cà phê, tiêu, điều, chè. Trong đó, tại các khu vực có mỏ bô - xít các cây trồng chủ lực là cà phê, điều, tiêu và cau su có năng suất bình quân tương đối cao và trình độ thâm canh và canh tác của người dân cũng rất chuyên nghiệp. Đây không chỉ đơn giản là “thế mạnh”, theo khái niệm của kinh tế thị trường, đất đỏ bazan của Tây Nguyên là “thế mạnh cạnh tranh cốt lõi”.
Thứ hai: Điểm yếu của Tây Nguyên là hạ tầng cơ sở kém phát triển (đặc biệt là đường giao thông, nước ngọt và nguồn cung cấp điện) và trình độ đào tạo của người lao động có hạn.
Thứ ba: Cơ hội phát triển kinh tế của Tây Nguyên là nhu cầu tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê, chè, điều, tiêu, cau su v.v. trong cân bằng ngân sách của Nhà nước đang ngày càng tăng. Trong hoàn cảnh VN đã ra nhập WTO, thị trường cho các sản phẩm cà phê, điều, cao su ngày càng được đảm bảo. Theo đánh giá của các chuyên gia, sản phẩm các cây công nghiệp trên vùng đất đỏ bazan có thể dần thay thế kim ngạch xuất khẩu của dầu thô (với trữ lượng có hạn và với sản lượng đang ngày càng giảm) của VN.
Thứ tư: Thách thức lớn nhất của Tây Nguyên là do vị trí địa lý của Tây Nguyên với chức năng là “mái nhà của Đông Dương” việc phát triển kinh tế trên Tây Nguyên có ảnh hưởng đến vấn đề môi trường và vấn đề sinh thái không chỉ của Tây Nguyên mà còn của các tỉnh bên dưới (nam trung bộ của VN và các tỉnh của Lào và Campuchia.
Qua phân tích như trên, ta thấy, các dự án bô - xít-alumina hoàn toàn không phát huy được thế mạnh (thậm chí còn triệt tiêu các thế mạnh), nhưng lại khơi sâu điểm yếu (làm căng thẳng hơn những mất cân đối về giao thông, nước ngọt và điện năng), không tận dụng được cơ hội (thậm chí còn làm giảm cơ hội xuất khẩu), nhưng lại làm hiện thực hơn các thách thức (môi trường và sinh thái).
Lựa chọn của Tây Nguyên: bô - xít-alumina hay cây công nghiệp?
Trước hết, về mặt định hướng: phát triển cây công nghiệp là định hướng đã được Chính Phủ VN lựa chọn từ trước đến nay, có đầy đủ căn cứ khoa học, và kinh tế xã hội, đã và đang được thực tế của Tây Nguyên chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Còn phát triển bô - xít là một định hướng hoàn toàn mới, nhưng rất nguy hiểm xét về mặt khoa học và kinh tế xã hội, tuy chưa được thực tế của VN chứng minh, nhưng trên thế giới, đã có rất nhiều ví dụ điển hình.
Thứ hai, về nguyên tắc phát triển bền vững (hoặc phát triển sạch): phát triển cây công nghiệp là “phát triển xanh” và sạch. Cây công nghiệp không chỉ có tác dụng lấy lại mầu xanh cho Tây Nguyên, còn có tác dụng giữ độ ẩm, hạn chế các thảm họa thiên tai như lũ quyét, lũ ống, chống khả năng khô cằn, điều hòa nguồn cung cấp nước cho các tỉnh hạ lưu. Ngược lại, phát triển bô - xít là phát triển hủy diệt mầu xanh, xâm hại đến thảm thực vật và thảm sinh vật và làm ô nhiễm không chỉ Tây Nguyên mà cả các tỉnh dưới hạ lưu.
Thứ ba, về hiệu quả kinh tế: Các tính toán cho thấy, hiệu quả kinh tế của các dự án bô - xít thấp hơn nhiều so với cau su và cà phê. Cùng với một số tiền bỏ ra (tạm lấy tổng mức đầu tư theo tính toán ban đầu của dự án bô - xít Nhân Cơ là 2938,8 tỷ đồng), nếu phát triển bô - xít, chủ đầu tư sẽ làm mất đi 4000 ha cây công nghiệp, nếu phát triển cây công nghiệp chủ đầu tư sẽ trồng mới được 34.754 ha cau su, hay 58.777 ha cà phê.
Tổng doanh thu hàng năm của bô - xít chỉ đạt 1.450 tỷ đồng, còn của cau su là 2.242 tỷ đồng, của cà phê là 5.878 tỷ đồng. Khả năng thanh toán nợ của các dự án cau su và cà phê cao hơn của bô - xít khoảng 5 lần; Khả năng đóng góp cho ngân sách địa phương của cau su cao hơn 23 lần, của cà phê cao hơn 72 lần. Tổng lao động sử dụng của bô - xít chỉ có tối đa 5000 người (chủ yếu di dân từ nới khác đến), nhưng của cau su là 173.000 người, của cà phê là 588.000 người (chủ yếu là lao động tại chỗ) v.v. (chi tiết xem bảng sau).

Chỉ tiêu so sánh
đ/vị
bô - xít
Cao su
Cà phê
1. Tổng vốn đầu tư, tỷ.đồng
tỷ VNĐ
2.938,8
2.938,8
2.938,8
2. Diện tích cây xanh bị phá hủy
ha
4.000
0
0
3. Diện tích cây xanh được trồng mới
ha
0
34.754
58.777
4. Tổng Doanh thu hàng năm
tỷ đ.
1.450
2.242
5.878
5. Tổng thuế nộp ngân sách hàng năm
tỷ đ
30
701
2.175
6. Lợi nhuận sau thuế hàng năm
tỷ đ
301
1.061
3.703
7. Khả năng thanh toán nợ của dự án
B/C
1,9
9,0
9,0
8. Thời gian thu hồi vốn
năm

>3
>1
9. Sử dụng lao động người 5000 173.000 588.000

Ghi chú: số liệu so sánh trên đến nay sẽ còn thay đổi theo hướng có lợi hơn cho cao su và cà phê, vì tổng mức đầu tư của dự án bô - xít Nhân Cơ sau một năm đã tăng lên hơn 3200 tỷ VNĐ. Con số thực sau này chắc chắn sẽ còn cao hơn nữa.
9/ Triển khai các dự án bô - xít là không minh bạch
Kết quả của các lần hội thảo cho thấy, còn rất nhiều vấn đề quan trọng (như nêu trên) cần phải được làm rõ trước khi triển khai các dự án bô - xít. Hiện nay, mặc dù chủ đầu tư chưa làm rõ được bất cứ vấn đề gì nhưng vẫn tích cực triển khai. Cách làm như vậy là không minh bạch, không cầu thị và chưa hết trách nhiệm.
Điều đáng quan ngại hơn, là càng triển khai, càng nẩy sinh nhiều các câu hỏi chưa có câu trả lời, hoặc được chủ đầu tư đưa ra các câu trả lời cũng không minh bạch. Ví dụ: (i) Như trên đã nêu, để xử lý bùn đỏ, chủ đầu tư dự tính sẽ vận chuyển nước biển bằng tàu hoả từ Bình Thuận lên Tây Nguyên?. (ii) Trong quá trình đấu thầu dự án Tân Rai, qui mô công suất đã được chủ đầu tư điều chỉnh tăng lên gấp 2 lần chỉ căn cứ theo “ý kiến” của các nhà thầu nước ngoài. (iii) Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, các vấn đề hiệu quả và vấn đề môi trường của dự án Tân Rai đã được giảm xuống đến mức nhà thầu không có công nghệ nguồn, đang phải đóng cửa các dự án của chính mình ở mẫu quốc cũng đã thắng thầu các dự án ở Tây Nguyên?
Việt Nam đang rất cần triển khai các dự án nhiệt điện chạy than. Mặc dù các dự án điện là các dự án thuộc lĩnh vực hạ tầng, rất thiết yếu đối với nền kinh tế, Chính phủ vẫn yêu cầu chủ đầu tư phải làm rõ “đầu vào” và “đầu ra” (hợp đồng mua than và hợp đồng bán điện). Các dự án bô - xít là những dự án bán rẻ tài nguyên của đất nước, không những cả “đầu vào” “đầu ra” đều chưa rõ, mà bản thân công nghệ kỹ thuật (“hộp đen”) của dự án cũng còn tồn tại nhiều vấn đề không minh bạch. Những người đưa ra các quyết định, các lựa chọn rất quan trọng về công nghệ kỹ thuật bô - xít-alumina lại không có kinh nghiệm gì về alumina-bô - xít Tây Nguyên (giám đốc Công ty bô - xít Nhân Cơ không trả lời chính xác được câu hỏi “bể bùn đỏ có tổng mức đầu tư là bao nhiêu?”, chỉ đưa ra con số “khoảng 200 tỷ đồng”, tức khoảng 12 triệu U$, thấp hơn 10-15 lần mức bình quân của thế giới, nhưng trên hội thảo cứ khẳng định bể chứa bùn đỏ khổng lồ rộng hơn 200ha “do nước ngoài thiết kế” là “rất an toàn”).
10/ Triển khai các dự án bô - xít là không tuân thủ luật
Thứ nhất, theo Điều 14, Mục 1, Chương III của Luật Bảo vệ môi trường 2005, thì các chương trình như bô - xít ở Tây Nguyên, phải có Đánh giá môi trường chiến lược (ĐCM) trước khi phê duyệt.
Mặc dù vậy, trên thực tế, các dự án bô - xít đã được triển khai, thậm chí có dự án đã đấu thầu, nhưng vẫn chưa có ĐCM được phê duyệt. Đây là một kẽ hở đang bị chủ đầu tư TKV cùng các nhà thầu Trung Quốc lợi dụng bỏ qua các nguy cơ về phá hủy môi trường và các thảm họa về sinh thái cho toàn bộ khu vực Nam Trung bộ của VN để chấp nhận và đưa những công nghệ lạc hậu vào Tây Nguyên.
Thứ hai, Luật khoáng sản quy định: (tại khoản 1, điều 5) “Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản; ưu tiên các dự án có áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong khai thác, chế biến, làm ra sản phẩm có giá trị và hiệu quả kinh tế - xã hội cao”; (tại khoản 4 điều 5) “Chính phủ hạn chế việc xuất khẩu khoáng sản dưới dạng nguyên liệu thô” và (tại khoản 1 điều 48) đã nêu rõ: nhà nước có chính sách ưu đãi và khuyễn khích đầu tư đối với các dự án chế biến khoáng sản thành nguyên liệu tinh và sản phẩm.
Trong khi đó, chương trình phát triển của TKV chỉ tập trung cho việc xuất khẩu alumina là một dạng nguyên liệu thô, không phải là sản phẩm nhôm. Các dự án alumina của TKV đang tích cực triển khai với công nghệ thải bùn đỏ (dạng lỏng) rất lạc hậu của Trung Quốc. Trong ngành công nghiệp nhôm của Thế giới, Trung Quốc không nằm trong số những nước có công nghệ nguồn. Chính các công nghệ thải bùn đỏ mà TKV đang nhập khẩu từ Trung Quốc vào Tây Nguyên hiện đang bị xã hội tẩy chay ở tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Các nước trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển, đã từ lâu chuyên sang công nghệ thải bùn đỏ thân thiện hơn với môi trường (dạng khô).
Thứ ba, theo “Chương trình nghị sự 21 của VN” về phát triển bền vững đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại QĐ số 153/2004/TTg-QĐ ngày 17/8/2004, trong đó về các lĩnh vực tài nguyên môi trường đã quy định cần ưu tiên bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước, khai thác thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; về định hướng phát triển bền vững đã nêu rõ quan điểm: phát triển ngành khai khoáng cân đối với phát triển chung của các ngành kinh tế khác.
Trong khi đó, các dự án khai thác bô - xít và chế biến nguyên liệu thô alumina đều dự kiến xâm hại trên quy mô lớn đến môi trường nước ngọt, môi trường đất của Tây Nguyên. Theo báo cáo của TS. Tuyết Nhung Buôn Krông (Đại học Tây Nguyên), dự án bô - xít Nhân Cơ đã xâm hại đến sinh kế của cộng các bà con dân tộc thiểu số trên địa bàn (chiếm đất canh tác, lấp cả hồ nước ngọt).
Tóm lại, về nhiều khía cạnh tuân thủ luật, việc triển khai các dự án bô - xít trên Tây Nguyên hiện nay của chủ đầu tư cần phải được dừng lại kịp thời để xem xét đánh giá trước khi chưa quá muộn.
Nhận xét và kiến nghị
Mặc dù các dự án bô - xít đang trong thời kỳ triển khai, nhưng cân nhắc giữa “Mất và được trong việc khai thác bô - xít Tây Nguyên” chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng:
(i) Mọi sai lầm đều có thể sửa chữa được;
(ii) Những chi phí chủ đầu tư đã từng chi ra cho bô - xít không thể so sánh được với những thiệt hại vô cùng nặng nề mà nền kinh tế của đất nước sẽ phải ngánh chịu từ việc khai thác bô - xít;
(iii) Cũng như dự án thép ở Vân Phong, chúng ta hãy tiếp tục nói “không” với các dự án bô - xít trên Tây Nguyên mang tính hủy diệt môi trường và không hiệu quả về mọi mặt.
Ngày 5/11/2008, 17 nhà khoa học, quản lý, nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan đến phát triển bền vững kinh tế-xã hội Tây Nguyên đã có Thư kính gửi tới lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc Hội, Chính Phủ và các tỉnh đề nghị tạm dừng khai thác bô - xít trên Tây Nguyên.
Với các lý do trình bầy trên, chúng tôi kính đề nghị Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam xem xét không cho phép triển khai các dự án bô - xít trên Tây Nguyên.


TS. Nguyễn Đông Hải - Nhà văn Nguyên Ngọc - TS. Nguyễn Thành Sơn

02:26 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
3/ Triển khai các dự án bô - xít không có hiệu quả
Như trên đã phân tích, hầu như toàn bộ nguyên liệu thô alumina chỉ để xuất khẩu với quy mô lớn sẽ dẫn đến sự phục thuộc vào thị trường thế giới. Khách hàng mua nguyên liệu alumina của VN chỉ duy nhất là Trung Quốc. Nguồn cung cấp alumina trên thế giới rất phong phú (kể cả alumina được chế biến từ các loại quặng không phải bô - xít). Qui mô phát triển bô - xít của VN càng lớn, thì giá bán càng giảm, hiệu quả kinh tế càng thấp và sự phụ thuộc vào Trung Quốc càng cao.
Thực tế, việc xuất khẩu nguyên liệu thô là alumina không có giá trị và không có hiệu quả kinh tế cao. Giá trị của alumina chỉ chiếm 10-12% so với giá trị của nhôm kim loại và chỉ bằng
Kinh nghiệm từ chính TKV cho thấy trên thị trường khoáng sản, các doanh nghiệp VN không có khả năng cạnh tranh cao so với ngay các đối thủ trong khu vực. Ví dụ, việc xuất khẩu than của TKV hiện nay là một điển hình. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) trong một Hội thảo ngay tại Hà Nội về chính sách phát triển kinh tế của VN, giá xuất khẩu than của VN (được qui về cùng giá trị chất lượng theo nhiệt năng) vào cùng một thị trường là Nhật Bản chỉ bằng 2/3 giá than xuất khẩu của Australia.
Tương lai đối với nguyên liệu thô alumina của TKV sẽ cũng không thể cạnh tranh được với Indonesia, và càng không thể cạnh tranh được với Australia, là những nước đã và đang xuất khẩu với qui mô lớn, có nhiều lợi thế về vận tải biển hơn hẳn VN.
Ngoài ra, yếu tố công nghệ lạc hậu và thị trường tiêu thụ bị phụ thuộc nước ngoài cũng sẽ không cho phép TKV thu được hiệu quả kinh tế trong việc xuất khẩu nguyên liệu thô alumina. Trường hợp điển hình hiện nay là dự án đồng Sinh Quyền của TKV. Việc xuất khẩu tinh quặng đồng hiện nay của dự án Sinh Quyền hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Nếu đưa tinh quặng đồng từ Sinh Quyền về nhà máy Tằng Lỏong để luyện thành đồng kim loại có thể bán cho nhiều hộ tiêu dùng (trong nước và/hoặc xuất khẩu), nhưng vì nhập khẩu công nghệ luyện đồng lạc hậu (chỉ luyện ra được kim loại đồng “ba con chín” có độ tinh khiết chỉ đạt 99,95÷99,97%, trong khi tiêu chuẩn của thị trường thế giới cao hơn “bốn con chín” 99,995) giá bán đồng kim loại thấp, tỷ suất lợi nhuận của việc luyện đồng lại thấp hơn nhiều so với xuất khẩu quặng tinh.
Đối với TKV, tương lai của ngành công nghiệp nhôm cũng không thể khá hơn hiện tại của các ngành công nghiệp đồng và than.
4/ Để xuất khẩu alumina phải đầu tư một hệ thống đường sắt không hiệu quả
Theo kế hoạch của TKV, để xuất khẩu alumina cần xây dựng 270km đường sắt từ Bình Thuận lên Tây Nguyên với chi phí ước khoảng 20.800 tỷ đồng (tương đương với 1,3 tỷ đô la) và một cảng biển Bình Thuận với chi phí 9.100 tỷ đồng (khoảng 535 triệu đô la). Cả hai dự án này thuộc lĩnh vực hạ tầng chỉ để phục vụ cho xuất khẩu alumina và vận chuyển than từ cảng lên Tây Nguyên.

Theo báo cáo về “định hướng công nghệ” của TKV tại Hội thảo, tuyến đường sắt còn được dùng để chở nước biển từ Bình Thuận lên Tây Nguyên để xử lý bùn đỏ?. Mặc dù các dự án bô - xít đang triển khai rầm rộ, nhưng hạng mục hạ tầng này đang còn “treo” và chưa rõ. Cả hai hạng mục này cần phải được đầu tư bằng nguồn vốn của chủ đầu tư và hạch toán vào alumina.
Như vậy, chắc chắn các dự án bô - xít và alumina trên Tây Nguyên lại càng không hiệu quả. Còn nếu, để hai hạng mục này được xây dựng bằng tiền đóng thuế của người lao động trong cả nước thì cần phải được Quốc hội xem xét.
Trong khi chờ đợi đường sắt (không biết bao giờ làm), chủ đầu tư dự tính sẽ sử dụng đường ôtô để chở than và các hóa chất độc hại khác từ biển lên Tây Nguyên và chở alumina từ Tây Nguyên ra biển. Rất tiếc, cả ba mặt hàng “than” hóa chất và “alumina” lại không thể sử dụng cùng một loại xe tải để tận dụng hai chiều hàng đi-hàng về. Than có thể chở bằng xe thùng, xe ben, còn alumina và hóa chất phải chở bằng xe bồn chuyên dùng hiện đại.
Như vậy, theo “định hướng công nghệ” của chủ đầu tư, phương tiện vận tải ô tô sẽ được sử dụng để chở hàng triệu tấn hàng một năm trên cung độ hơn 270km (về mặt kỹ thuật, cung độ tối ưu của vận tải ô tô loại 15-25T chỉ khoảng 10-15km). Vì vậy, giá thành alumina sẽ tăng cao hơn nhiều (chỉ tính riêng chi phí vận tải ra biển để xuất khẩu đã tăng thêm khoảng 1 triệu đ/tấn), việc xuất khẩu alumina không thể có lãi.
5/ Triển khai các dự án bô - xít là không an toàn về môi trường sinh thái
Một là: Môi trường đất bị chiếm dụng và môi trường sinh vật bị hủy hoại
Phần lớn, tới 95% bô - xít trên thế giới khai thác lộ thiên. Trong ngành mỏ, đây là phương thức khai thác đòi hỏi chiếm dụng nhiều đất, có tác hại huỷ diệt hệ thực vật và động vật, làm sói mòn trôi lấp đất. Mức độ chiếm dụng đất của các dự án bô - xít trên Tây Nguyên rất lớn. Diện tích rừng và thảm thực vật bị phá huỷ trong khâu khai thác bình quân 30-50ha/tr.tấn bô - xít; diện tích mặt bằng bị chiếm dụng để xây dựng nhà máy tuyển bô - xít bình quân 150 ha/tr.tấn công suất, và để tuyển alumina 450 ha/tr.tấn công suất.
Hai là: chất thải bùn đỏ sẽ phải tồn trữ vĩnh viễn trên cao nguyên dễ có nguy cơ bị trôi lấp, gây thảm họa về môi trường cho các tỉnh phía dưới.
Bùn đỏ gồm các thành phần không thể hoà tan, trơ, không biến chất và tồn tại mãi mãi như Hematit, Natrisilico-aluminate, Canxi-titanat, Mono-hydrate nhôm, Tri-hydrate nhôm v.v. Bùn đỏ là chất thải không thể tránh được của khâu chế biến bô - xít. Trên thế giới, chưa có nước công nghiệp phát triển nào (kể cả Mỹ) có thể xử lý được vấn đề bùn đỏ một cách hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của xã hội (chỉ đáp ứng được khả năng của nhà đầu tư).
Australia là nước có lợi thế về địa hình (bằng phằng, có lớp đá gốc), khí hậu (rất ít mưa) và dân cư (rất thưa) thuận lợi cho việc chế biến bô - xít và chôn cất bùn đỏ tại chỗ. Ở Việt Nam, nếu chế biến bô - xít thành alumina trên Tây Nguyên sẽ bắt buộc phải tạo ra các hồ chứa bùn đỏ thường xuyên đe doạ tình hình an ninh chính trị trên địa bàn (bọn khủng bố có thể lợi dụng biến các hồ bùn thành bom bẩn). Lượng “bom bẩn” tạo ra trên Tây Nguyên sẽ lớn gấp 3 lần lượng alumina thu được từ Tây Nguyên để xuất khẩu cho Trung Quốc. Ngoài ra, còn phải thường xuyên tồn chứa một lượng lớn hoá chất độc hại (để chế biến bô - xít thành alumina) trong các kho hóa chất trên Tây Nguyên.
Chỉ riêng dự án của công ty cổ phần Nhân Cơ, theo báo cáo ĐTM, phần đuôi quặng nước thải và bùn thải có khối lượng tới hơn 11 tr.m3/năm. Dung tích hồ thải bùn đỏ sau 15 năm lên tới hơn 8,7 triệu m3. Với qui mô như vậy, thiệt hại do vỡ đập: không thể kiểm soát được, nguy cơ vỡ đập không thể lường trước được.
Tương tự, dự án Tân Rai có lượng bùn đỏ thải ra môi trường khoảng 0,8 tr.m3/năm, lượng nước bẩn thải ra môi trường 4,6 tr.m3/năm. Khối lượng quặng bô - xít khai thác của dự án này lên tới 2,32 tr.m3/năm, dẫn đến nguy cơ tổng lượng bùn đỏ phải tích trên cao nguyên cả đời dự án Tân Rai 80-90 tr.m3. Nhưng tổng dung tích của hồ chứa của dự án chỉ có: 20,25 tr.m3, số còn lại không biết chứa ở đâu?, ai là người chịu trách nhiệm? chủ đầu tư? dân địa phương?.
Ba là: các dự án bô - xít sẽ làm mất nguồn nước ngọt không có gì thay thế để phát triển các cây công nghiệp trên Tây Nguyên và mất nguồn nước cung cấp cho các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh
Cả hai khâu tuyển bô - xít và tuyển alumina trên Tây Nguyên đều đòi hỏi rất nhiều nước. Dự án Nhân Cơ có tổng mức tiêu dùng nước tới gần 15 triệu m3/năm. Dự án Tân Rai, có dự kiến xây đập chắn nước để đáp ứng nhu cầu của dự án khoảng 18 triệu.m3/năm. Như vậy, nguồn nước cho café, cao su và các nhu cầu khác bị mất đi hơn 33 tr.m3/năm. Lượng nước ngọt này chủ yếu dùng để tuyển quặng bô - xít, vì vậy không thể tuần hoàn, hay lọc để tái sử dụng cho các mục đích khác.
Bốn là: các dự án bô - xít trên Tây Nguyên sẽ làm thay đổi môi trường và sinh thái của cả khu vực
Vấn đề môi trường chủ yếu liên quan đến các chất thải. Các chất thải không thể tránh được trong các dự án bô - xít gồm:
(i) trong khai thác bô - xít, khối lượng chất thải rắn rất lớn, bình quân lượng đất đá phủ phải bốc lên và đổ thải 1m3/tấn bô - xít;
(ii) trong khâu tuyển quặng bô - xít, lượng chất thải bình quân 1tấn/tấn quặng nguyên khai;
(iii) trong khâu tuyển alumina lượng chất thải (gồm bùn đỏ, bùn oxalate, và nước thải) bình quân >2m3/tấn; và cuối cùng,
(iv) trong khâu luyện nhôm, lượng chất thải độc hại bình quân 1kg/tấn.
Ngoài các nguy cơ phá hủy môi trường tại chỗ, các dự án bô - xít alumina còn có những ảnh hưởng tiêu cực không thể tránh được đến hệ sinh thái trên qui mô rộng lớn.
Trong khâu khai thác bô - xít, nguy cơ hiện hữu là thảm thực vật và động vật của Tây nguyên sẽ bị thay đổi. Trong khâu tuyển alumina nguy cơ hiện hữu là tiêu dùng nhiều nước, phải xây đập chắn, sẽ ảnh hưởng đến chế độ thủy văn của các dòng chảy. Các biến đổi dị thường về thời tiết và khí hậu khu vực miền trung có nguy cơ sẽ xẩy ra ngay gắt hơn, hạn hán sẽ kéo dài hơn, lũ quét sẽ xẩy ra thường xuyên hơn (thiệt hại do các biến đổi dị thường về thời tiết hiện nay đã tới 4000-5000 tỷ đ/năm). Các chuyên gia của Comecon (Hội đồng tương trợ kinh tế) ngày xưa đã so sánh: để lấy được 1 tấn bô - xít trên Tây Nguyên, cái giá Việt Nam phải trả là sẽ mất đi 1 tấn lúa ở miền nam trung bộ.

Tương lai đối với nguyên liệu thô alumina của TKV sẽ cũng không thể cạnh tranh được với Indonesia, và càng không thể cạnh tranh được với Australia. Ảnh: Khai thác Bô - xít ở miền Tây Australia. Nguồn: britannica.com

6/ Triển khai các dự án bô - xít là không phù hợp với năng lực của TKV
Trong tất cả các khâu của việc phát triển ngành “bô - xít-nhôm”, TKV chỉ có thế mạnh duy nhất ở khâu đơn giản nhất là bốc xúc đất bazan để khai thác quặng bô - xít. Các khâu chủ yếu quan trọng còn lại đều phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài.
Với chức năng là một tập đoàn kinh tế của Nhà nước, có trách nhiệm phát triển ổn định ngành than để cung cấp đủ than cho nền kinh tế, TKV hiện còn đang đứng trước những thách thức không thể vượt qua, đó là cung cấp đủ than cho các nhà máy nhiệt điện.
Kể từ khi được thành lập đến nay, trong suốt hơn 13 năm qua, trong ngành than hầu như TKV chưa có đầu tư tái sản xuất mở rộng, chưa xây dựng được thêm một mỏ than mới nào, toàn bộ sản lượng than hiện có đều được khai thác theo kiểu “thâm canh” đến tối đa tại các mỏ than được xây dựng từ thời bao cấp theo Tổng sơ đồ do Liên Xô (cũ) lập trước đây.
Việt Nam có bể than đồng bằng Sông Hồng với tiềm năng (trữ lượng) gấp 20 lần bể than Quảng Ninh. Mặc dù điều kiện khai thác có khó khăn hơn so với bể than Quảng Ninh, nhưng than đồng bằng sông Hồng lại có chất lượng cao hơn, rất phù hợp cho các nhà máy nhiệt điện, xi măng, phân bón, hoá chất, luyện kim v.v. Những nguồn lực có hạn của TKV nên chăng phải được ưu tiên để phát triển bể than đồng bằng sông Hồng để làm ra sản phẩm mà nền kinh tế VN đang rất cần, nhưng không thể nhập khẩu được trong tương lai gần.
Ngoài việc không thể tăng được sản lượng than do không có đầu tư đúng mức như trên, hiện nay, tại bể than Quảng Ninh, TKV còn phải đối mặt với hai vấn đề cũng chưa có khả năng giải quyết. Đó là: (i) vấn đề môi trường vùng than Quảng Ninh đang bị xuống cấp nghiêm trọng và (ii) vấn đề vi phạm kỹ thuật cơ bản (cũng rất nghiêm trọng) của các mỏ than đã và đang làm tăng số vụ tai nạn lao động chết người cao gấp 3 lần mức bình quân của thế giới.
Yêu cầu về vốn đầu tư của riêng ngành than hiện nay cũng rất lớn, bình quân khoảng 1 tỷ đô la/năm.
Ngoài ra, định hướng “kinh doanh đa ngành” của TKV đến nay đã bộc lộ nhiều bất cập (phần lớn các dự án “đa ngành” không hiệu quả, đều phải được “bao cấp” từ hòn than, đặc biệt là các dự án điện Na Dương, công ty Tài Chính, khách sạn, du lịch, lắp ráp ôtô v.v.). Gần đây, TKV còn được Chính Phủ giao bổ sung nhiệm vụ xây dựng thêm các nhà máy nhiệt điện chạy than. Tất cả những nhiệm vụ hệ trọng trên đang đè nặng lên đôi vai gầy và quá mỏng manh của người thợ mỏ. Có thể nói, giao cho TKV những dự án ngoài than cũng chẳng khác nào giao “ốc mang cọc cho rêu”.
7/ Triển khai các dự án bô - xít là không đảm bảo sinh kế cộng đồng của các đồng bào dân tộc thiểu số trên Tây Nguyên
Đồng bào các dân tộc thiểu số trên Tây Nguyên chủ yếu sống bằng nghề nông. Đất rừng Tây Nguyên ngắn với cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với bà con dân tộc ít người, đất rừng không chỉ là không gian sinh tồn, mà còn gắn liền với đời sống văn hóa. Suy giảm về tài nguyên rừng kéo theo suy giảm về văn hóa. Không một buôn làng nào không gắn với rừng như gắn với thần linh riêng của mình.
Số liệu điều tra cụ thể của các nhà khoa học thuộc trường Đại học Tây Nguyên đã khẳng định: Khác với ý kiến lâu nay (của chủ đầu tư) cho rằng đất có hàm lượng bô - xít cao không thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, ở xã Nhân Cơ (trên địa bàn triển khai dự án bô - xít Nhân Cơ) diện tích đất nông nghiệp chiếm tới 83,03%, đất lâm nghiệp 0,08% và chỉ có 2,1% đất chưa sử dụng. Tổng diện tích đất tự nhiên của xã Nhân Cơ có 4.573 ha, trong đó có 3039,5 ha trồng cây công nghiệp là cà phê (2264 ha), cây điều (515 ha), cây tiêu (136 ha), và cau su (124,5 ha).
Trong khi đó, diện tích chiếm đất của dự án Nhân Cơ trên 4000ha, tương đương với 87% diện tích đất tự nhiên của xã. Cũng theo báo cáo của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Tây Nguyên, đối với đồng bào M’nông, chưa có dự án bô - xít Nhân Cơ đồng bào đã thiếu đất sản xuất rồi.
Chiếm dụng phần lớn đất nông nghiệp nhưng các dự án bô - xít không mang lại chỗ làm việc cho đồng bào dân tốc thiểu số. Ví dụ, dự án Tân Rai có diện tích chiếm đất tới 4200ha, nhưng chỉ tạo ra chỗ làm việc cho tổng số 1668 lao động. Như vậy, bình quân dự án bô - xít cần 2,5ha đất để tạo ra 1 việc làm cho người phải có đào tạo. Trong khi đó, 1 ha đất dùng để phát triển cây công nghiệp sẽ tạo ra 5 chỗ làm việc cho bà con dân tộc ít người không cần phải đào tạo.
Cũng theo số liệu điều tra, khảo sát của Trường Đại học Tây Nguyên, trong 12 buôn làng của huyện Đắk Rlap, số người học hết lớp 9 để có đủ điều kiện tuyển dụng vào dự án cũng “chỉ đếm trên đầu ngón tay”. Dự án bô - xít Nhân Cơ mới chỉ tuyển chọn được 2 (hai) con em đồng bào dân tộc tại chỗ đi đào tạo công nhân. Hiện dự án bô - xít Nhân Cơ đang gửi người đi đào tạo tại Trung Quốc, nhưng chủ yếu là con em của cán bộ trong công ty- từ các tỉnh khác đến.
Theo số liệu của Công ty Alumin Nhân Cơ, để triển khai dự án, số lượng lao động sẽ tập chung vào Tây Nguyên khoảng 3000 người, bao gồm kỹ sư, công nhân kỹ thuật (chủ yếu là người Trung Quốc) và một số ít còn lại là lao động từ ngoài Bắc vào. Đối với dự án Tân Rai (đang triển khai ở Lâm Đồng), tình trạng cũng tương tự, và nguy cơ còn hiện hữu hơn vì nhà thầu Trung Quốc đã thắng thầu.
Khoảng cách giầu-nghèo giữa người có việc làm (từ nơi khác đến, có thu nhập) và người không có việc làm (người dân tộc, không được đào tạo, không còn đất canh tác) sẽ gia tăng. Việc người dân tộc trên Tây Nguyên sẽ bị đẩy ra ngoài cuộc sống xã hội ngay trên quê hương của mình, thay vào đó là làn sóng di cư mới của những lực lượng lao động có đủ trình độ từ Trung Quốc và các tỉnh ngoài Tây Nguyên đã trở thành hiện thực.
(Ví dụ điển hình là dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả của TKV ở Quảng Ninh hiện nay, sau khi trúng thầu, nhà thầu Trung Quốc đã đưa công nhân và lao động phổ thông từ Trung Quốc sang thực hiện 100% công việc).
Ngoài ra, dự án bô - xít Nhân Cơ còn chiếm dụng, san lấp cả hồ nước ngọt (hồ Cá Trê của người M’nông bon Bù Zấp) là nguồn cung cấp nước sinh hoạt và địa điểm hoạt động văn hóa của đồng bào dân tộc ít người trên địa bàn.
02:22 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
- Theo báo cáo của TKV tại Hội thảo phân tích về thế mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT) mang tính chiến lược của các dự án bô - xít là: “Sử dụng nhiều đất đai; tiêu thụ năng lượng điện lớn; tác động lớn về môi trường và xã hội; cơ sở hạ tầng không đảm bảo; Rủi ro chính trị xã hội cao; Thay đổi mối quan hệ tài nguyên với phát triển kinh tế và phong tục địa phương; Chi phí bảo vệ môi trường cao; v.v.”
Thực tế là qua hai lần hội thảo, chúng ta đã có thể rút ra từ các nhận xét đánh giá trên là: Chủ đầu tư - TKV là một tập đoàn của Nhà nước, có am hiểu về công nghệ kỹ thuật, có ý thức chính trị xã hội, luôn đặt quyền lợi quốc gia lên trên lợi nhuận của doanh nghiệp nên chấm dứt vô điều kiện càng sớm càng tốt việc triển khai các dự án bô - xít trên Tây Nguyên.
Để làm sáng tỏ hơn về những đánh giá và kết luận trên, chúng tôi xin được bổ sung và làm rõ 10 lý do không nên triển khai các dự án bô - xít như sau:
1/ Triển khai các dự án bô - xít là không cần thiết
Ba câu hỏi về chức năng cơ bản của nền kinh tế vĩ mô: sản xuất ra hàng hóa gì? sản xuất ra như thế nào? và để phục vụ cho các đối tượng nào trong xã hội? Nhiệm vụ chủ yếu mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần giải quyết là giảm đến mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất ra những sản phẩm không cần thiết và tăng cường đến mức tối đa việc sản xuất ra những sản phẩm cần thiết.
Trước hết, nhu cầu về nhôm kim loại của VN không lớn, theo số liệu của Bộ Công Thương, hiện nay và trong tương lai hàng năm VN chỉ nhập khẩu khoảng 100-150 nghìn tấn (tương đương với 2 chuyến tàu). Trên thị trường thế giới, nhôm kim loại luôn là mặt hàng thường xuyên có sẵn, chưa bao giờ xẩy ra khan hiếm. Về mặt kỹ thuật, nhôm chỉ được coi là “kim loại cơ bản”, không thuộc nhóm “kim loại quý hiếm” vì có thể được thay thế bằng các sản phẩm khác như sắt, gỗ, nhựa, giấy. Ngành công nghiệp nhôm chỉ tồn tại ở một số ít nước trên thế giới, chủ yếu là ở những nước có dư thừa điện năng giá rẻ.
Vì vậy, trong hoàn cảnh đang có nguy cơ rất hiện hữu về thiếu điện cho các ngành sản xuất khác, việc sản xuất nhôm kim loại là một định hướng sai lầm của VN. Alumina là nguyên liệu thô để luyện thành nhôm kim loại, và bô - xít là quặng đầu vào để tuyển thành alumina. Việc khai thác bô - xít, tuyển thành nguyên liệu thô alumina chỉ phục vụ cho mục đích xuất khẩu lại càng là một định hướng sai lầm.
Thứ hai, phát triển một ngành sản xuất tiêu tốn nhiều nước ngay trên một địa bàn còn đang khát nước là một lựa chọn không thông minh. Theo báo cáo của chủ đầu tư, chương trình bô - xít trên Tây Nguyên chủ yếu tập trung vào khai thác quặng bô - xít để chế biến thành nguyên liệu thô là alumina để xuất khẩu trong điều kiện phải sử dụng nguồn nước ngọt, vốn còn đang rất khan hiếm, đang ngày càng cạn kiệt, nhưng rất cần cho việc phát triển các cây công nghiệp khác có giá trị xuất khẩu rất cao (như cà phê, chè, cao su). Công nghiệp khai thác, tuyển-luyện bô - xít thành alumina có 3 ảnh hưởng rất tiêu cực đến nguồn nước: vừa tiêu hao rất nhiều nước (cần khoảng 60 mét khối nước cho 1 tấn), vừa làm ô nhiễm nguồn nước và vừa làm cạn kiệt nguồn nước tự nhiên.
Tất cả các dự án bô - xít đều nằm trong khu vực thượng nguồn lưu vực của sông Đồng Nai và Sêrêpốc. Việc khai thác bô - xít sẽ dẫn đến hậu quả không tránh khỏi là làm cạn kiệt nguồn nước của các con sông này. Trong đó, sông Đồng Nai đang đóng vai trò rất quan trọng trong việc ổn định kinh tế xã hội của các khu dân cư lớn đồng thời cũng là các khu công nghiệp lớn như TP. Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Bình Dương.
Nước ngọt là nguồn lực phát triển các cây công nghiệp quan trọng, còn đang thiếu đối với Tây Nguyên. Sử dụng nguồn tài nguyên nước ngọt có hạn đó để phát triển cao su, cà phê hay chè, chúng ta có thể dần dần lấy lại màu xanh cho Tây Nguyên.
Tài nguyên nước ở Tây Nguyên là vô cùng quý giá và đặc biệt, tài nguyên nước trong mùa khô là sự sống còn của nền kinh tế Tây Nguyên. Trong mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 2) tổng lượng mưa ở Đắk Nông bình quân chỉ đạt 35mm, trong khi mực nước ngầm ngày càng hạ thấp đang là một thách thức rất lớn đối với phát triển kinh tế nói chung và đối với cây công nghiệp nói riêng (đặc biệt là cây cà phê).

Hồ chứa nước tiêu sẽ bị biến thành hồ chứa bùn đỏ. Ảnh: VietNamNet

2/ Triển khai các dự án bô - xít không làm tăng ngân sách địa phương
Vì mục tiêu của TKV hiện nay là khai thác và chế biến bô - xít thành nguyên liệu thô để xuất khẩu, nên các dự án bô - xít không dẫn đến việc lan toả phát triển các dự án đầu tư có hiệu quả khác. Việc tăng thu ngân sách địa phương trên Tây Nguyên sẽ rất khiêm tốn. Các khoản nộp cho địa phương là thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, hay kể cả cái gọi là “thương quyền” của dự án khai thác bô - xít là không đáng kể, và không đủ bù số tiền ngân sách các tỉnh sẽ phải chi ra để khắc phục suy thoái môi trường do khai thác bô - xít.
Gần đây, ông Đặng Đức Yến- Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông khẳng định (trên mục Kinh tế-Xã hội một số báo gần đây) rằng “nếu dự án alumin này vào, tính từ các khoản thuế, phí bảo vệ môi trường… sẽ đóng góp cho tỉnh khoảng 1.600 tỷ đồng và đến năm 2011 thì có thể đạt hơn 2.000 tỷ đồng”. Chúng tôi cho rằng, nhận định như vậy là thiếu trách nhiệm và quá lạc quan vì con số nêu trên là không đúng sự thật. Cả ngành công nghiệp than của VN sau 120 năm phát triển, xuất khẩu trên 20 triệu tấn than/năm, hiện nay cũng chỉ có lợi nhuận trước thuế khoảng 3000 tỷ đ/năm, mức nộp cho ngân sách nhà nước còn ít hơn nhiều so với con số dự tính nộp cho Đắk Nông nêu trên của các dự án bô - xít!
Bản thân dự án Nhân Cơ (theo tính toán ban đầu của chủ đầu tư), với số vốn đầu tư 2938,8 tỷ đồng, mức thuế nộp ngân sách chỉ khoảng 30,2 tỷ đồng. Số liệu này đến nay cũng không đáng tin cậy, vì 3 lý do:
(i) đến nay con số này sẽ còn giảm vì tổng mức đầu tư chỉ sau 1 năm đã tăng lên trên 3200 tỷ (tổng mức đầu tư thực tế sau này chắc chắn sẽ tăng cao hơn nữa);
(ii) giá thành sản phẩm của dự án chưa được xác định (bản thân Giám đốc Công ty Nhân Cơ cũng đã không thể trả lời được câu hỏi giá thành sản xuất và giá xuất khẩu nguyên liệu thô alumina là bao nhiêu?);
(iii) hiện nay giá bán nguyên liệu thô alumina trên thế giới đang giảm mạnh. Ngay cả Trung Quốc cũng đã phải đóng cửa các dự án alumina ở tỉnh Sơn Đông vì không có hiệu quả.
http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5543/index.aspx
02:20 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
10 lý do đề nghị tạm dừng dự án bô xít Tây Nguyên 13/01/2009 09:59 (GMT + 7)
(TuanVietNam)
-
Cũng như dự án thép ở Vân Phong, chúng ta xin hãy tiếp tục nói “không” với các dự án bô-xít trên Tây Nguyên mang tính hủy diệt môi trường và không hiệu quả về mọi mặt. - Kiến nghị của các nhà khoa học Việt Nam.
>> Triển vọng bô-xít Tây Nguyên - tìm hiểu tại chỗ
Để đảm bảo tính thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam giới thiệu thư của một nhóm các nhà khoa học gửi lãnh đạo Đảng, Nhà nước kiến nghị tạm dừng triển khai các dự án bô xít Tây Nguyên như một tư liệu tham khảo.

Tháng 12/2007 và tháng 10/2008, UBND tỉnh Đắk Nông, Tập đoàn Công nghiệp than-khoáng sản Việt Nam (TKV) cùng Viện Tư vấn phát triển đã tổ chức hai cuộc hội thảo đánh giá về những dự án bô-xít của Tập đoàn TKV đang triển khai trên Tây Nguyên với sự tham gia của: đại diện tỉnh Đắk Nông, chủ đầu tư-TKV, các nhà quản lý, các nhà khoa học thuộc những vực có liên quan (kinh tế, công nghệ, kỹ thuật, địa chất, môi trường, xã hội v.v.).
Trong hoàn cảnh đang có nguy cơ rất hiện hữu về thiếu điện cho các ngành sản xuất khác, việc sản xuất nhôm kim loại là một định hướng sai lầm của VN
Ảnh:
Những rừng thông và đồi chè trước đây đang bị san bằng để xây dựng nhà máy tuyển quặng bô - xít (
VietNamNet)

Qua hai cuộc hội thảo, có thể tóm tắt hai ý kiến nhận xét đánh giá chủ yếu về khai thác bô-xít trên Tây Nguyên được rút ra như sau:
(1) Trên quan điểm vĩ mô và về mặt chiến lược, tuyệt đại đa số các nhà khoa học đã thống nhất đánh giá các dự án bô - xít đang được triển khai là: không có hiệu quả về mặt kinh tế-tài chính; rất không hiệu quả về mặt kinh tế-xã hội; với trình độ tiếp cận lạc hậu của chủ đầu tư cũng như của các đối tác Trung Quốc về các giải pháp công nghệ kỹ thuật, các dự án bô-xít đang được tích cực triển khai sẽ phá hủy môi trường tại chỗ (của Tây Nguyên), sẽ gây ra những thảm họa về sinh thái trên diện rộng (cho các tỉnh Nam Trung Bộ của VN và các tỉnh của Campuchia); đang tạo ra thêm các yếu tố bất ổn định về an ninh trật tự xã hội trên Tây Nguyên.
(2) Ở tầm vi mô và mang tính chất cục bộ, ý kiến của TKV- chủ đầu tư đã tự đánh giá về các dự án bô - xít đang được triển khai là: kinh tế Tây Nguyên kém phát triển, vì vậy cần tận dụng khai thác nguồn tài nguyên bô - xít có hạn để tranh thủ xuất khẩu cho Trung Quốc nhằm bổ sung nguồn thu ngân sách cho địa phương và cho chủ đầu tư.
Ngoài ra, qua hai lần hội thảo, đã là sáng tỏ một số vấn đề:
- Mặc dù trong các văn bản của TKV thường dùng khái niệm “alumin”, hay “công nghiệp bô xít-nhôm” (ngay cả nhà nghỉ của TKV cũng mang tên “Alumin”) nhưng trên thực tế, chỉ có các dự án khai thác bô - xít, và chế biến bô - xít thành nguyên liệu thô (có tên gọi bằng tiếng Anh là alimina, hoặc bằng tiếng Pháp là alimine) để xuất khẩu cho Trung Quốc. Hoàn toàn không có dự án nhôm (aluminium) nào đang được triển khai. Việc lạm dụng từ “alumin” không tồn tại trên thực tế của TKV trong điều kiện hạn chế về trình độ văn hóa cũng như ngoại ngữ của đồng bào dân tộc ít người dễ dẫn đến hiểu nhầm là “nhôm”.
- Theo báo cáo của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Nông: “Trong vùng quy hoạch khai thác bô - xít diện tích đất nông nghiệp, nhất là diện tích trồng cây hàng năm và cây lâu năm chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Hầu hết nhân dân sống trong vùng quy hoạch mỏ có nguồn thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Việc khai thác quặng bô - xít sẽ làm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và sinh hoạt của toàn bộ các hộ dân trong vùng quy hoạch”.
http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5543/index.aspx
02:12 CH 13/01/2009
Phát hiện gia cầm nhập lậu có vi rút cúm
Cúm gia cầm tái phát tại Trung Quốc
http://www.vietnamnet.vn/thegioi/2009/01/822625/
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2009/01/090108_china_bird_flu.shtml
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Bird-flu-fears-in%20Beijing-How-about-Vietnam-01082009140609.html?textonly=1
01:55 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
Vấn đề việc làm và các hệ quả
Tính toán cả hai dự án với khoảng 7000 ha rừng và đất sẽ tạo ra khoảng 3000 việc làm mới bên trong nhà máy và các khu mỏ, đương nhiên chủ yếu là lao động cơ bắp. Các lãnh đạo địa phương cho rằng giỏi lắm sẽ chỉ có vài phần trăm trong tổng số 3000 này là con em các dân tộc ít người, lẽ đơn giản là họ không thích hợp và không muốn loại lao động này. Như vậy vấn đề việc làm cho Tây Nguyên, nhất là cho người lao động của các dân tộc ít người hầu như không giải quyết được, trong khi đó đất và rừng dành cho đồng bào các dân tộc ngày càng thu hẹp vì khai thác bô-xít, đời sống của họ sẽ ngày càng thêm khó khăn.
Thử làm các bài toán kinh tế về mọi phương diện có liên quan đến việc 7000 ha rừng và đất sẽ phải biến mất để nhường chỗ cho khai các mỏ bô-xít và chỉ giúp cho 3000 người có việc làm! Cũng một diện tích như thế lớp đất bồi bề mặt phải hàng triệu năm tự nhiên mới tạo ra được sẽ bị bốc đi để khai thác bô-xít, bao giờ hoàn lại được?!
TIN LIÊN QUAN
Lãnh đạo Đắk Nông: "Không làm thì bô - xít vẫn là đất thôi"! Mất và được trong việc khai thác bô - xít Tây Nguyên Cuộc chơi của các "đại gia" bô - xít trên thế giới Đại dự án bô - xít Tây Nguyên: người trong cuộc đề xuất gì? Nguy cơ hiện hữu trong các dự án bô - xít trên Tây Nguyên Đại kế hoạch bô - xít ở Tây Nguyên bị phản đối quyết liệt
Báo chí nói riêng dự án Tân Rai dự kiến tạo ra 16.000 việc làm, có thể là như vậy. Song càng nhiều việc làm ở mỏ đồng nghĩa với càng nhiều lao động thủ công trong khai thác, hệ quả xâm phạm môi trường tự nhiên càng lớn.
Không phải ngẫu nhiên vào những năm 1980 Liên Xô và khối SEV hồi ấy đã khuyên Việt Nam không nên khai thác bô-xít ở vùng này.
Về vấn đề đất và rừng vốn nhạy cảm đối với đồng bào các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, phụ họa thêm vào đó là tác động của những yếu kém và bất cập của các chính sách và của bộ máy hành chính. Qua việc khai thác bô-xít, những vấn đề nhạy cảm này sẽ trở nên nghiêm trọng hơn, tích tụ thêm những căng thẳng mới dễ gây mất ổn định – thậm chí có thể rất nguy hiểm, rất thuận lợi cho sự can thiệp từ mọi phía bên ngoài.
Khỏi phải nói những hệ quả về văn hóa, xã hội đối với đồng bào các dân tộc ít người Tây Nguyên sẽ là trầm trọng.
Hai dự án sẽ tạo thêm việc làm cho khoảng 10 nghìn người bên ngoài hàng rào khu mỏ và nhà máy; song đấy là những công việc dịch vụ dân sinh, chủ yếu sẽ rơi vào tay người kinh; người các dân tộc ít người hầu như không được lợi gì, mà chỉ có thể bị tác hại thêm do những tệ nạn xã hội sẽ phát sinh.
Có tin nói sẽ có khoảng 1400 - 1500 người Trung Quốc vào xây dựng cho mỗi dự án, số đông là lao động chân tay. Việc quản lý một số lượng đông như vậy tại vùng cao này thật không đơn giản.
Đến nay chưa một nước nào trên thế giới có thể xử lý có hiệu quả thỏa đáng vấn đề bùn đỏ. Ảnh: clpccd.cc.ca.us

Kết luận
1. Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên hiện nay nếu hạch toán đủ, cầm chắc là sẽ lỗ lớn, để lại những hậu quả nghiêm trọng trên nhiều phương diện cho quốc gia, nhất là nước ta đất chật người đông, thiên tai có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu đem nguồn vốn của ta bỏ vào hai dự án này, và nếu có chính sách đầu tư và bộ máy thực hiện tốt, hoàn toàn có khả năng phát triển Tây Nguyên xanh bền vững, tránh được mọi hiểm họa do khai thác bô-xít, tăng thêm giàu có cho đất nước, đem lại hài hòa dân tộc, và an ninh quốc gia được tăng cường.
2. Rất tiếc là hai dự án bô-xít với nhiều hệ lụy nghiêm trọng như vậy lại không được khảo sát với sự cẩn trọng đúng mức, đã thế lại triển khai theo quy trình lộn ngược, bây giờ lâm vào tình trạng “ván đã đóng thuyền”, rất khó cho đất nước. Trong khi đó, nhiều lãnh đạo cấp tỉnh tỏ ra rất phấn khởi – đơn giản là tin rằng mọi chuyện “đã có Trung ương và tập đoàn TKV lo toan và tính toán hết rồi, không có gì phải lo...”, có bô-xít GDP của tỉnh sẽ tăng, có thêm tỷ trọng cơ cấu kinh tế là công nghiệp, có thêm nguồn thu nhập cho ngân sách tỉnh là thuế tài nguyên, ngoài ra có thêm một số nguồn thu nhỏ khác...
3. Dự án alumina Tân Rai có nguy cơ triệt tiêu khả năng Bảo Lộc có thể trở thành một Đà Lạt 2 và tác hại nhiều tiềm năng phong phú khác đang được phát huy của địa phương này.
4. Dự án alumina Nhân Cơ – được lập luận với lý do đất Đắc Nông xấu không thể làm gì khác ngoài bô-xít có lẽ không xác đáng. Thực tế cho thấy đất Đắc Nông chỉ xấu hơn so với các tỉnh Tây Nguyên lân cận, song vẫn là vùng đất giàu, nếu có hệ thống thủy lợi nhỏ giải quyết tốt vấn đề nước. (Một lãnh đạo tỉnh cho rằng nếu Đắc Nông mỗi năm được đầu tư khoảng 30 – 40 triệu USD riêng cho việc xây dựng hệ thống các hồ nhỏ làm thủy lợi cho rừng và vườn, chỉ trong vòng 5 năm sẽ có một Đắc Nông khác).
5. Công nghiệp bô-xít như đang làm theo 2 dự án này có nguy cơ tác động xấu đến toàn ngành du lịch Việt Nam, hủy hoại nhiều tiềm năng to lớn của Tây Nguyên. Trong khi đó hàng trăm nghìn ha rừng kiệt ở Tây Nguyên nằm chờ các chính sách và thể chế đúng đủ sức hấp dẫn sự đầu tư mang lại một Tây Nguyên xanh giàu có cho chính mình và cho cả nước.
6. Hiện nay các nước phát triển trên thế giới tìm mọi đường phát triển “kinh tế các-bon thấp”, kinh tế tri thức, họ đạt được nhiều thành tựu kinh ngạc. Một số nước đang phát triển đang vận dụng có hiệu quả kinh nhiệm này. Là nước đi sau, vì sao Việt Nam cứ phải ngày càng đi sâu mãi vào công nghiệp thượng nguồn, hiện nay là các dự án đồ sộ về quặng sắt và thép, rồi đây thêm quặng sơ chế alumina hầu như chỉ bán được cho một người mua.., tất cả chẳng lẽ chỉ để kéo dài thêm nữa sự tụt hậu của mình?
7. Mọi hệ quả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sẽ xảy ra trong quá trình thực hiện hai dự án này ở vùng nhạy cảm Tây Nguyên sẽ tăng thêm nguy cơ uy hiếp an ninh và sự ổn định chính trị của Tây Nguyên, mà cũng có nghĩa là của cả nước.
Qua tìm hiểu sơ bộ trong chuyến đi Tây Nguyên, riêng tôi càng thấm thía: Dù khát vọng phát triển nhanh kinh tế đất nước đến đâu chăng nữa, không thể nóng vội và giản lược như cách làm bô-xít theo hai dự án nói trên. Tôi nghĩ cách làm như thế là nóng vội, chỉ chứa đựng rủi ro và cầm chắc thất bại lâu dài cho cả nước. Cơm không ăn, gạo còn đó, không vội gì phải phá rừng núi ngay bây giờ để lấy đi tài nguyên không tái tạo được với những cái giá phải trả rất đắt, khả năng xử lý các hệ quả lại ngoài tầm với.
Một khi nước ta có kết cấu hạ tầng và năng lực quản trị quốc gia tốt hơn, giá trị mọi tài nguyên sẽ càng tăng lên gấp bội; trong khi đó triển vọng phát triển Tây Nguyên xanh và bền vững trong tầm tay, biết bao nhiêu lợi thế nước đi sau cho phép nước ta đi lên một quốc gia phát triển hiện đại không được khai thác. Đương nhiên, con đường phát huy lợi thế nước đi sau và phát triển bền vững để sớm trở thành quốc gia hiện đại đòi hỏi sự nỗ lực nghiêm túc và nghiêm khắc hơn nhiều lần về mọi phương diện đối với con người và bộ máy làm việc trong hệ thống chính trị của nước ta. Đây chính là cái đất nước đang cần, cái đất nước đang thiếu.



Nguyễn Trung

Kinh nghiệm từ nước Australia

Ông Nguyễn Đức Hiệp, chuyên gia môi trường tại Australia. Australia hiện đứng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất nhôm, nhưng cũng là nơi cư dân có nhận thức cao về bảo vệ môi trường nhận định: Nhà máy luyện nhôm phải tốn rất nhiều điện để điện phân. Trong quá trình sản xuất nhôm thải ra một chất gọi là "bùn đỏ" rất độc hại và không phân huỷ theo thời gian. Trong quá trình luyện nhôm phải có một hồ chứa để chứa bùn đỏ. Hợp chất này nếu không bảo quản tốt có thể tràn lan ra ngoài làm ô nhiễm nguồn nước, sông ngòi.
- Những nhà máy luyện nhôm ở Australia, chẳng hạn như do các công ty Trung Quốc dự tính hoạt động, có thể tạo ra các phản ứng từ xã hội không?
Hiện nay Australia là nước sản xuất nhôm lớn nhất thế giới. Thường các nhà máy luyện nhôm ở khá xa khu dân cư, ít tác hại tới môi trường. Luyện nhôm chỉ thích hợp với các nước lớn, có đất rộng để xây nhà máy xa khu dân cư, xa các đô thị và có chỗ bảo quản các chất thải do nhà máy luyện nhôm tạo ra. Vừa rồi công ty Tranco của Trung Quốc được khai thác bôxit khá gần rừng quốc gia của Australia đã bị một số tổ chức lên án.
- Đối với trường hợp sản xuất nhôm của Việt Nam ở Tây Nguyên, theo anh thì như thế nào?
Theo tôi đặt nhà máy luyện nhôm của Việt Nam ở Đăk Nông không khả thi lắm. Thứ nhất là phải phá rừng để xây nhà máy. Thứ hai là không tìm được chỗ thích hợp để chứa bùn đỏ.
- Người ta nói hiện nay Trung Quốc xuất khẩu ô nhiễm, anh có thành ý kiến đó không?
Đúng như vậy. Do luyện nhôm tốn điện, do luật bảo vệ môi trường gắt gao nên các công ty Trung Quốc đang tìm cách chuyển các nhà máy luyện nhôm sang các nước nhỏ như Việt Nam, nơi nhân công rẻ và luật môi trường cũng có nhưng thực thi rất là yếu. Đó là lí do tại sao công ty luyện nhôm Tranco của Trung Quốc ngoài đầu tư vào Australia còn nhòm ngó Việt Nam. Luyện nhôm ở Trung Quốc đã làm hại môi trường rất lớn, nên họ chuyển ra nước ngoài. Vì thế Việt Nam không nên nhìn vào mối lợi kinh tế trước mắt mà bị hại rất lớn về sau.

Do trước đây không chú ý nên hiện nay Trung Quốc đang cực khổ vì môi trường bị phá huỷ trầm trọng. Vì vậy họ đang có ý đồ xuất khẩu ô nhiễm sang nước khác.


(Theo RFI - Pháp)
Báo Vietnamnet
http://tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5792/index.aspx
01:53 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
http://tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5792/index.aspx

07/01/2009
"Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên hiện nay nếu hạch toán đủ, cầm chắc là sẽ lỗ lớn, để lại những hậu quả nghiêm trọng trên nhiều phương diện cho quốc gia, nhất là nước ta đất chật người đông, thiên tai có xu hướng ngày càng gia tăng. Dù khát vọng phát triển nhanh kinh tế đất nước đến đâu chăng nữa, không thể nóng vội và giản lược như cách làm bô-xít theo hai dự án nói trên." - Chuyên gia Nguyễn Trung nhận định về tình hình khai thác bô-xít ở Tây Nguyên sau chuyến đi thực tế.
Trong những ngày từ 17 đến 23 tháng 12 năm 2008, tôi cùng với một nhóm anh em quan tâm đến vấn đề bô-xít đã cùng nhau đi 4 tỉnh Kontum, Gia Lai, Đắc Nông và Lâm Đồng để tìm hiểu tại chỗ vấn đề khai thác bô-xít. Chúng tôi đã đến hai nơi dự kiến sẽ là nhà máy chế biến alumina tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (tại Đắc Nông). Cả hai dự án nay do Trung Quốc xây dựng. Trong chuyến đi này chúng tôi đã gặp được lãnh đạo tỉnh, huyện, sở tài nguyên môi trường.
Dưới đây là những suy nghĩ của tôi sau chuyến đi này:
Vấn đề nước
Dự án Tân Rai nằm vùng các suối đầu nguồn cung cấp nước cho các sông La Ngà, Đồng Nai, là các nguồn nước chính của thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi và hồ Trị An. Dự án Nhân Cơ nằm vùng đầu nguồn suối Đăk R’Tih – nguồn nước chính của các nhà máy thủy điện nằm trên sông Sêprốc. Cả hai dự án alumina này, mỗi dự án cần khoảng 15 - 20 triệu m3 nước / năm, đều chưa có giải pháp thỏa đáng, lấy nước cho việc này thì lại mất hay thiếu nước cho yêu cầu tại chỗ cho dân sinh, trồng trọt và cho thủy điện.
Riêng cho dự án Nhân Cơ, vấn đề thiếu nước còn trầm trọng hơn, đến nỗi có ý kiến đề xuất phải tính đến việc xây dựng hệ thống lấy nước từ sông Đồng Nai dài hàng chục cây số bơm lên độ cao phải đạt là hơn 300m – nghĩa là hoàn toàn phi kinh tế và vì thế không khả thi.
Chè và cafe mọc rất tốt nơi sẽ bị bốc đi để khai thác bauxite.
Ảnh: Nguyễn Trung

Vấn đề nước bùn
Nước bùn đỏ, được thải ra trong quá trình sơ chế alumina, còn đọng lại một lượng soude caustic đáng kể, có tác dụng ăn mòn và hủy diệt môi sinh. Với địa thế vùng thượng nguồn, dự án Tân Rai có nguy cơ gây ô nhiễm cho thủy điện Đàm Thuận – Đa Mi và hồ Trị An (nguồn nước chính của thủy điện Trị An và tỉnh Đồng Nai). Nước bùn đỏ của dự án Nhân Cơ có nguy cơ gây ô nhiễm các suối hồ trong vùng và nguồn nước cung cấp cho các thủy điện trên suối Đăk R’Tih.
Với công suất mỗi dự án là 300 – 600 nghìn tấn alumina/năm, ô nhiễm do hàng chục triệu m3 nước bùn đỏ/năm rất nguy hiểm và xử lý rất tốn kém; sự kiện Vedan không thấm tháp gì so với nguy cơ này.
Về hồ chứa bùn đỏ
Trong quá trình sơ chế alumina, bùn đỏ được tách ra từ quặng còn đọng lại một lượng soude caustic có tác dụng ăn mòn và hủy diệt môi sinh nơi chứa nó, có thể làm hỏng các mạch nước ngầm tại lòng hồ và môi sinh của các vùng chung quanh; phương pháp xử lý là phải chôn trong các hồ lớn rồi phủ lên một tầng đất đủ dầy, xong trồng cây lên trên để chống phong hóa. Nhưng đặc điểm tự nhiên của vùng có các hồ chứa bùn đỏ của 2 dự án này là có địa thế cao, gió lớn về mùa khô và mưa nhiều về mùa mưa (thường là gấp đôi lượng mưa trung bình của cả nước). Việc giữ cho hàng triệu tấn bùn đỏ năm này qua năm khác trong các hồ chứa không bị gió bốc bay đi lung tung hoặc không trôi xuống các vùng chung quanh sẽ rất tốn kém và nhiều rủi ro nghiêm trọng.
Chú ý, trong phòng thí nghiệm, tiến bộ công nghệ và khoa học kỹ thuật ngày nay hoàn toàn có khả năng xử lý vấn đề bùn đỏ và nước thải, được ứng dụng thành công phần nào trong thực tế ở quy mô nhỏ; tuy nhiên có hai vấn đề tồn tại lớn nan giải: (a) giá thành, (b)sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nơi có vấn đề phải xử lý. Vì vậy, đến nay chưa một nước nào trên thế giới có thể xử lý có hiệu quả thỏa đáng vấn đề bùn đỏ. Riêng nước Mỹ có tới 26.000 km sông suối bị ô nhiễm do khai thác mỏ chưa có cách gì giải quyết ở mức độ có thể chấp nhận được (Sheran – WME – Australia).
Một số công nghệ hóa học hiện đại nhất hiện nay trên thế giới – ví dụ công nghệ Bauxsol - cũng chưa cho lời giải thỏa mãn, chi phí rất cao, đồng thời phát sinh vấn đề mới. Tại Úc đã có nơi nhà chức trách phải đình chỉ việc thực hiện công nghệ Bauxsol để nghiên cứu thêm (mỏ bô-xít ở địa phương Skytop Mountain – xem: RedOrit Jan. 20-2006 - PATTON TOWNSHIP)...
Vì những lẽ này, và vì nhôm không phải là mặt hàng quý hiếm, nên không quốc gia nào trên thế giới coi bô-xít là khoáng sản chiến lược, không quốc gia nào dám chọn sản xuất nhôm làm chủ bài cho phát triển kinh tế. Cũng vì những lý do ô nhiễm, chỉ có 6% nhôm trên thế giới được sản xuất tại các vùng rừng nhiệt đới nhiều mưa, song thường là những nơi xa và thưa dân cư.
Đáng chú ý, vừa qua phía Trung Quốc và tập đoàn TKV đã tổ chức một đoàn của Lâm Đồng đến tham quan mỏ khai thác bô-xít Bình Quả/Quảng Tây – thủ đô công nghiệp nhôm của Trung Quốc, nơi quặng có hàm lượng 0,65 (của Tây Nguyên là >0,5). Một phó chủ tịch huyện tham gia đoàn về kể rằng những gì thấy được là tuyệt vời, song chính Bình Quả cũng thừa nhận chưa giải quyết được thỏa đáng vấn đề bùn đỏ.
Sắp tới sẽ có một đoàn như thế nữa cấp các Bộ và Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam đi thăm vùng mỏ khai thác bô-xít ở Bình Quả; thiết nghĩ nên đối chứng mỏ này với gần 100 mỏ bô-xít Trung Quốc đã đóng cửa gần đây (trong đó có một số mỏ ở vùng Hắc Long Giang, và các mỏ ở Hà Nam, ở Tịnh Tây / Quảng Tây) và những điều vừa nói trên về công nghệ Bauxsol.
Ngoài ra Tây Nguyên là vùng cao và có gió mạnh, cung đoạn vận tải quặng từ mỏ về nơi tuyển rửa trung bình là 5 - 10 km, về mùa khô bụi đỏ sẽ tác hại một diện tích lớn rừng và cây trồng ở gần, đồng thời hủy hoại cảnh quan. Xin nhớ đến các vùng “Quảng Ninh đen” năm này qua năm khác toàn một mầu đen vì khai thác than để có thể hình dung tác hại của bụi và bùn đỏ.
Đất khai thác bô-xít (để lầm phèn chua) sau khi hoàn thổ ở Bảo Lộc: Không loại cây nào mọc được ngoài keo tai tượng. Đây chỉ là nơi có quặng bô-xít được đào đi, rồi lấy đất lấp lại, không phải là nơi chứa bùn đỏ. Ảnh: Nguyễn Trung

TIN LIÊN QUAN Bô-xít và hệ lụy môi trường ở Trung Quốc Khai thác bô-xít Tây Nguyên và bài toán về sự đánh đổi Khai thác Bô-xít: Lợi ích kinh tế, hậu quả môi trường Cái giá văn hoá-xã hội-chính trị của các đại dự án bô-xít Đại kế hoạch bô-xít: Lợi ích trước mắt, nguy cơ lâu dài
Vấn đề năng lượng và vận tải
Chế biến alumina cần một lượng than theo tỷ lệ 1 tấn than / 1 tấn alumina. Như vậy, mỗi dự án cần khoảng 300-400 nghìn tấn than / năm trong giai đoạn đầu, gấp đôi trong giai đoạn sau. Lấy từ đâu tới và đi đường nào? Đồng thời cũng phải vận tải một khối lượng như thế alumina từ nhà máy xuống cảng biển.
Vận tải cho than và alumina của dự án Tân Rai dự kiến sẽ sử dụng giao thông đường bộ hiện có và sẽ xây cảng Kê Gà (Bình Thuận). Đường bộ hiện có rất khó cáng đáng thêm yêu cầu vận tải của dự án Tân Rai; cảng Kê Gà nếu được xây riêng cho alumina sẽ có thể tác động xấu đến môi trường du lịch của miền Trung.
Vấn đề vận tải của dự án Nhân Cơ còn nan giải hơn, chưa có phương án dứt khoát (tất cả mới chỉ là dự kiến), nếu sử dụng đường bộ thì phải đi về hướng Bà Rịa – Vũng Tàu, rất xa và sẽ lâm vào tình trạng tương tự như của Tân Rai, nếu làm đường sắt chuyên dụng Đắc Nông – Bình Thuận thì chuyên gia bên Bộ Giao thông vận tải ước tính cần khoảng 3 tỷ USD (tập đoàn Than & Khoáng sản “TKV” dự trù là 1,3 tỷ USD). Ngoài ra còn phải cộng thêm kinh phí xây dựng cảng Kê Gà do TKV dự toán khoảng 530 triệu USD, sẽ lấy tiền ở đâu?
Hơn thế nữa, xây một hệ thống đường vận tải và cảng như vậy chỉ để chuyên dụng cho sản xuất alumina là sự lãng phí cực kỳ to lớn, không một quốc gia nào dám làm, nhất là nước ta còn nghèo, đất chật, người đông. Hệ thống này, nếu muốn xây dựng, bắt buộc phải được kết hợp với phục vụ các mục đích dân sinh và kinh tế khác, rất tốn kém, quy hoạch và thiết kế đến bao giờ xong – trong khi nhà máy đã khởi công xây dựng?
Về thủy điện để luyện nhôm hoàn toàn không khả thi, vì chỉ để sản xuất 100 nghìn tấn nhôm / năm – tương thích với lượng nhôm nhập khẩu tiêu thụ trong nước một năm - cần một nhà máy thủy điện có công suất là 300 MW, nghĩa là tương đương với nhà máy thủy điện Trị An (gần 400 MW). Như vậy giá thành của nhôm sẽ vọt lên như thế nào? Lấy đâu ra 5 hay 10 nhà máy thủy điện Trị An ở vùng cao nguyên này để sản xuất mỗi năm tối thiểu là 0,5 đến 1 triệu tấn nhôm để có thể tham gia thị trường với tính cách là quốc gia xuất khẩu nhôm? Trong khi đó thị trường nhôm thế giới rất phong phú cho nhu cầu của nước ta, dồi dào, đủ mọi chủng loại.
Vấn đề hoàn thổ
Dự tính diện tích phải hoàn thổ nơi khai mỏ của cả hai dự án lên tới 3000 ha ở giai đoạn I và sẽ lên tới 6000 - 7000 ha ở giai đoạn hai. Có thể thấy trước: Sẽ rất tốn kém nếu muốn có lại đất đai có thể trồng trọt được, song dù làm được cũng sẽ là những vũng loang lổ khắp rừng núi, mặt bằng chỗ cao chỗ thấp và nói chung là sẽ bị hạ thấp, cảnh quan hoang tàn. Những nơi hoàn thổ cũng cần phải vài chục năm mới có thể trồng trọt được bình thường nếu làm tốt việc cải tạo đất sau khi hoàn thổ, song hầu như chỉ thích hợp cho loại cây họ bạch đàn.
Những điều vừa trình bầy, tôi rút ra từ thu thập thông tin trên thế giới và qua việc đến thăm mỏ khai thác bô-xít Bảo Lộc để sản xuất ra phèn chua trong chuyến đi này. Tại mỏ này cho thấy, sau 30 năm khai thác mới hoàn thổ được khoảng 2 ha trong tổng số 36 ha diện tích đã khai thác, rất tốn kém, chỉ thấy một loại cây keo tai tượng cao hơn một mét, hỏi được biết trồng các loại cây khác không sống được. Bài học về hoàn thổ trong việc khai thác than ở Quảng Ninh cho đến hôm nay vẫn là một ác mộng.
01:50 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
Phản biện về quy hoạch các dự án bô - xít - alumina tại Tây Nguyên, trong bài trước, TS. Nguyễn Thành Sơn nêu ra các rủi ro của ngành bauxite. Tuần Việt Nam xin giới thiệu tiếp phần phân tích cụ thể về các nguy cơ chính của việc triển khai dự án. >> Bài 1: Đại kế hoạch bô - xít ở Tây Nguyên bị phản đối quyết liệt

Cà phê đã trở thành một phần không thể thiếu của thảm thực vật Tây Nguyên
(ảnh: thinkquest)


Thứ nhất, đó là nguy cơ chiếm dụng diện tích đất lớn, nhưng mang lại hiệu quả thấp, tạo ít việc làm trên một địa bàn kinh tế kém phát triển và nhạy cảm về xã hội.
Thứ hai, dự án phải lưu giữ một khối lượng lớn bùn đỏ (bom bẩn) trên cao nguyên, gây ra nguy không chỉ về môi trường mà còn về an ninh.
Thứ ba, dự án làm tổn thất hết sức nghiêm trọng nguồn nước hiện đang còn thiếu để phát triển các cây công nghiệp quý hiếm và rất có hiệu quả (cà phê, cao su, chè, điều…)
Thứ tư, điều chắc chắn là môi trường và sinh thái sẽ bị thay đổi, trong khi hậu quả của sự thay đổi này chưa thể lường được.
Nguy cơ chiếm dụng đất là không thể tránh khỏi
Phần lớn, tới 95% bô - xít trên thế giới khai thác lộ thiên. Trong ngành mỏ, đây là phương thức khai thác đòi hỏi chiếm dụng nhiều đất, có tác hại huỷ diệt hệ thực vật và động vật (flora & fauna), làm xói mòn trôi lấp đất (soil erosion). Mức độ chiếm dụng đất của các dự án bô - xít trên Tây Nguyên rất lớn. Diện tích rừng & thảm thực vật bị phá huỷ trong khâu khai thác bình quân 30 - 50ha/triệu tấn bô - xít, diện tích mặt bằng bị chiếm dụng để tuyển bô - xít bình quân 150 ha/triệu tấn, và diện tích mặt bằng bị chiếm dụng để tuyển alumina 450 ha/triệu tấn.
Việc chiếm dụng đất lớn, nhưng lại mâu thuẫn với việc tạo ra chỗ làm việc cho cư dân. Ví dụ, dự án Tân Rai có diện tích chiếm đất tới 4.200ha, nhưng chỉ tạo ra chỗ làm việc cho tổng số 1.668 lao động. Như vậy, bình quân dự án bô - xít cần 2,5ha để tạo ra một việc làm.
Phần lớn các dự án trên thế giới (VN không là ngoại lệ) đều lẩn tránh việc xác định danh mục các ngành nghề của nhà máy alumina có thể phù hợp để sử dụng lao động tại chỗ. Các cơ sở sản xuất alumina về bản chất là các nhà máy hóa chất, đòi hỏi công nhân phải được đào tạo ở trình độ cao, với số lượng không cần nhiều, khả năng tạo ra chỗ làm việc là không đáng kể. Khâu khai thác bô - xít thì cần có mức độ cơ giới hóa cao, càng không thể tạo ra việc làm cho dân cư tại chỗ.
Các chủ đầu tư thường vận hành các dự án bô - xít hay alumina bằng lực lượng công nhân được thuê từ nơi khác đến, vì rẻ hơn nhiều so với đào tạo cư dân tại chỗ. Điều duy nhất, như các chuyên gia thường đánh giá, các dự án bô - xít và alumina có thể tạo ra cho cư dân tại chỗ là chất thải và bùn đỏ.
Bùn đỏ: là nguy cơ hiện hữu lớn nhất

Một hồ chứa bùn đỏ ở Ấn Độ từ khai thác bô - xít (ảnh: redmud.org)


Bùn đỏ (red mud) gồm các thành phần không thể hoà tan, trơ, không biến chất và tồn tại mãi mãi như Hematit (Fe2O3), Natri silico aluminate, Canxi titanat, Monohydrate nhôm (Al2O3.H2O), Trihydrate nhôm (Al2O3.3H2O)…
Bùn đỏ là chất thải không thể tránh được của khâu chế biến bô - xít. Trên thế giới, chưa có nước công nghiệp phát triển nào (kể cả Mỹ) có thể xử lý được vấn đề bùn đỏ một cách hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của xã hội (chỉ đáp ứng được khả năng của nhà đầu tư). Australia là nước có lợi thế về địa hình (bằng phằng, có lớp đá gốc), khí hậu (rất ít mưa) và dân cư (rất thưa) thuận lợi cho việc chế biến bô - xít tại chỗ và chôn cất bùn đỏ.
Ở Việt Nam, nếu chế biến bô - xít thành alumina trên Tây Nguyên sẽ bắt buộc phải tạo ra các hồ chứa bùn đỏ thường xuyên đe dọa tình hình an ninh trên địa bàn (các hồ “red mud” có thể bị biến thành bom bẩn “mud bomb”). Lượng bom bẩn tạo ra trên Tây Nguyên sẽ lớn gấp 3 lần lượng alumina thu được từ Tây Nguyên để xuất khẩu. Ngoài ra, còn phải thường xuyên tồn chứa một lượng lớn hoá chất độc hại (để chế biến bô - xít) trong các kho trên Tây Nguyên.
Chỉ riêng dự án của công ty cổ phần Nhân Cơ, theo báo cáo đánh giá tác động môi trường, phần đuôi quặng nước thải và bùn thải có khối lượng tới hơn 11 triệu m3/năm. Dung tích hồ thải bùn đỏ 15 năm: 8.754.780m3. Tổng lượng bùn thải vào hồ: 1733 tấn/ngày. Lượng nước thải phải bơm đi từ hồ: 5.959.212m3/năm. Với qui mô như vậy, thiệt hại do vỡ đập không thể kiểm soát được, nguy cơ vỡ đập không thể lường trước được.
Tương tự, dự án Tân Rai có lượng bùn đỏ thải ra môi trường: 826.944m3/năm, lượng bùn oxalat thải ra môi trường 28.800m3/năm, lượng nước thải ra môi trường (sau tuần hoàn) 4,625 triệu m3/năm. Khối lượng quặng bô - xít khai thác của dự án này lên tới 2,32 triệu m3/năm, dẫn đến nguy cơ tổng lượng bùn đỏ phải tích trên cao nguyên cả đời dự án Tân Rai 80-90 triệu m3. Nhưng tổng dung tích của hồ chứa của dự án chỉ có 20,25 triệu m3, số còn lại không biết chứa ở đâu?
Ai sẽ là người chịu trách nhiệm về số bùn này: chủ đầu tư hay người dân địa phương?
Nguy cơ làm mất nguồn nước không có gì thay thế
Cả hai khâu tuyển bô - xít và tuyển alumina trên Tây Nguyên đều đòi hỏi rất nhiều nước. Dự án Nhân Cơ có tổng mức tiêu dùng nước 14,832 triệu m3/năm, trong đó để tuyển quặng cần 12 triệu m3/năm, để sản xuất alumina cần 2,4 triệu m3/năm, trong khi cấp cho sinh hoạt chỉ là 0,432 triệu m3/năm.
Dự án Tân Rai có dự kiến xây đập chắn nước để đáp ứng nhu cầu của dự án khoảng 18 triệu m3/năm. Nước thải ra sau tuần hoàn là 4,625 triệu m3/năm. Như vậy, nguồn nước cho cà phê, cao su và các nhu cầu khác bị mất đi 13,375 triệu m3/năm.
Nguy cơ thay đổi môi trường và sinh thái là đương nhiên
Vấn đề môi trường chủ yếu liên quan đến các chất thải. Các chất thải không thể tránh được trong các dự án bô - xít gồm: (i) trong khai thác bô - xít, khối lượng chất thải rắn rất lớn, bình quân lượng đất đá phủ phải bốc lên và đổ thải 1m3/tấn bô - xít; (ii) trong khâu tuyển quặng bô - xít, lượng chất thải bình quân 1tấn/tấn quặng nguyên khai; (iii) trong khâu tuyển alumina lượng chất thải (gồm bùn đỏ, bùn oxalate, và nước thải) bình quân trên 2m3/tấn; và cuối cùng, (iv) trong khâu luyện nhôm, lượng chất thải độc hại (gồm chất thải cathode, phát thải fluoride) bình quân 1kg/tấn.
Chúng ta hoàn toàn có thể xác định được cái giá phải trả (định lượng) về ô nhiễm môi trường của các dự án bô - xít trên Tây Nguyên trong tất cả các khâu.
Về vấn đề sinh thái, ngoài các nguy cơ phá hủy môi trường tại chỗ, các dự án bô - xít alumina còn có những ảnh hưởng tiêu cực không thể tránh được đến hệ sinh thái trên qui mô rộng lớn.
Trong khâu khai thác bô - xít, nguy cơ hiện hữu là thảm thực vật và động vật của Tây nguyên (Flora & Fauna) sẽ bị thay đổi. Trong khâu tuyển alumina nguy cơ hiện hữu là tiêu dùng nhiều nước, phải xây đập chắn, sẽ ảnh hưởng đến chế độ thủy văn của các dòng chảy. Các biến đổi dị thường về thời tiết và khí hậu khu vực miền trung có nguy cơ sẽ xẩy ra gay gắt hơn (thiệt hại do các biến đổi dị thường về thời tiết hiện nay đã tới 4000 - 5000 tỷ đồng/năm).


TS. Nguyễn Thành Sơn

01:40 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít


Một trong những phản biện lại chính từ bên trong đơn vị thực hiện, chuyên gia Nguyễn Thành Sơn của Tập đoàn Than và Khoáng sản (TKV).
Trong những năm 80 của thế kỷ trước, Chính phủ VN đã từng đề xuất đưa dự án khai thác bô - xít ở Tây Nguyên vào chương trình hợp tác đa biên của khối hợp tác COMECON (Europe). Các nước thành viên của COMECON, đặc biệt là Liên Xô, khi đó rất cần bô - xít cho nhu cầu công nghiệp quốc phòng. Tuy nhiên, Hội đồng COMECON đã quyết định không triển khai dự án, thay vào đó, đã tích cực giúp VN triển khai các dự án cao su, cà phê và chè.
Các chuyên gia khi đó đã nhận định: nếu triển khai các dự án bô - xít, về môi trường sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn nước của vùng Tây Nguyên, không đủ nước để phát triển được cây công nghiệp cao su, chè và cà phê.
Về sinh thái, sẽ ảnh hưởng xấu đến khí hậu của toàn vùng miền Nam Trung Bộ ..., hạn hán sẽ kéo dài, lũ lụt sẽ thường xuyên xẩy ra hơn.
Về kỹ thuật, không thể lưu giữ một khối lượng khổng lồ bùn đỏ (red mud) ở trên cao nguyên, chỉ có thể tuyển bô - xít ở vùng đồng bằng ven biển để chôn cất bùn đỏ gần bờ biển.
Về kinh tế, các dự án bô - xít không có hiệu quả và không thể giúp VN phát triển bằng các dự án cao su, cà phê, và chè.
Tính đúng đắn và hiệu quả của những quyết định của COMECON đến nay càng thể hiện rõ.
Một quy hoạch phát triển bô - xít “chẳng giống ai” hiện nay
Sau hơn 20 năm “án binh bất động”, năm 2007 Việt Nam đã thông qua một quy hoạch phát triển ngành bô - xít-nhôm rất hoành tráng. Đây là quy hoạch một ngành kinh tế hoàn toàn mới, lần đầu tiên được phê duyệt của VN.
Lẽ ra, chúng ta nên thuê trực tiếp một tổ chức tư vấn nước ngoài có tên tuổi thực hiện (tương tự như qui hoạch ngành khí của tập đoàn Dầu khí VN đang lập, hay quy hoạch đầu tiên của các ngành than, điện… ). Quy hoạch bô - xít-nhôm do tư vấn của VN chưa có kinh nghiệm soạn thảo. Việc soạn thảo chưa dựa vào và không có các thông tin tham khảo cần thiết nên “chẳng giống ai”. Vì vậy, bản quy hoạch này, mặc dù đã được Chính phủ thông qua (QĐ 167/2007/QĐ-TTg ngày 01/11/2007), nhưng còn có quá nhiều vấn đề cần được trao đổi, làm rõ để xác định tính khả thi trên thực tế.
Nhìn chung, quy hoạch bô - xít-nhôm của VN có quá nhiều tham vọng không có cơ sở, quá nhiều dự án không cần thiết, quá nhiều rủi ro không quản lý được, và quá nhiều bất cập chưa được tính đến.

Mục tiêu của quy hoạch: quá nhiều tham vọng không có cơ sở
Đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay, nhôm không phải là nguyên liệu chiến lược. Nhu cầu về nhôm của VN không lớn. Cũng như của thế giới, 30% nhu cầu nhôm được đáp ứng do tái chế nhôm phế liệu. 30% nhu cầu nhôm có thể được thay thế bằng sử dụng các nguyên liệu rẻ tiền khác (sắt, thép, gỗ, nhựa, giấy…) Vì vậy, thị trường nhôm trên thế giới cũng như ở VN chưa khi nào có khủng hoảng hoặc khan hiếm.
Việt Nam là nước còn nghèo (về vốn và khoáng sản) và đói (về năng lượng), nhưng đã có quy hoạch phát triển một ngành bô - xít-nhôm đầy tham vọng. Tham vọng lớn là tốt, nhưng cần phải có cơ sở.
Nguồn lực phát triển các dự án alumina-nhôm của Tập đoàn Than – Khoáng sản (TKV) hiện nay chỉ là quyết tâm chính trị và ý chí trên giấy. Nhân lực và tri thức công nghệ gần như bằng 0. Các cán bộ quản lý chỉ đạo từ cấp Tập đoàn đến các cán bộ kỹ thuật trực tiếp làm việc với các “đại gia” nước ngoài và đưa ra các quyết định về alumina chỉ có chuyên môn về khai thác than lộ thiên ở Quảng Ninh. Khai thác bô - xít chỉ là khâu đơn giản nhất trong tất cả các khâu làm alumina, còn dễ hơn so với khai thác than ở Quảng Ninh.
Nguồn lực bằng 0, nhưng tổng số dự án lên tới 15 (trong khi cả thế giới chỉ có khoảng 55), tổng công suất thiết kế các dự án của VN lên tới 18 triệu tấn/năm (cả thế giới chỉ có 74 triệu tấn/năm), qui mô bình quân của các dự án của VN cũng ngang ngửa với thế giới (1,3 triệu tấn/năm, sản lượng của VN là 15 triệu tấn/năm, trong khi cả thế giới có 70 triệu tấn/năm.
Quy hoạch có quá nhiều dự án không cần thiết
Phần lớn các dự án chỉ tập chung vào khâu khai thác bô - xít để chế biến thành alumina. Alumina chưa phải là nhôm kim loại (aluminium). Xuất khẩu alumina là xuất khẩu quặng bô - xít đã được tinh chế, chỉ phục vụ cho các nhà máy luyện nhôm đang khan hiếm alumina của nước ngoài.
Ở Lâm Đồng, dự kiến khai thác tới 3,96 triệu tấn bô - xít, chế biến khoảng 1,2 triệu tấn alumina. Dự án khai thác bô - xít Nhân Cơ có công suất tới 1,8 triệu tấn/năm, dự kiến chế biến thành 0,6 triệu tấn alumina. Khu vực Măng Đen-Kon Hà có dự án khai thác bô - xít lên tới 9 triệu tấn/năm, dự án chế biến alumina lên tới 1,5 triệu tấn/năm.
Có thể nói, nếu triển khai theo qui hoạch này, toàn bộ vùng Tây Nguyên của VN sẽ biến thành “sân sau”, là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy luyện nhôm của các đại gia ở nước ngoài. Kể cả tới cuối thế kỷ này, mặc dù Tây Nguyên sẽ phải trả giá về sinh thái, môi trường, nhưng, ngành công nghiệp nhôm của VN vẫn là con số 0. Khâu điện phân nhôm có công suất được quy hoạch rất khiêm tốn, chỉ 0,2-0,4 triệu tấn/năm, nhưng còn rất xa vời, ngay trên giấy (trong quy hoạch) cũng rất khó tìm ra.
Vấn đề đường sắt và cảng biển, chỉ là “đâm lao, phải theo lao”, thực sự không cần thiết. Những sai lầm chiến lược đã dẫn đến nhiều sai lầm chiến thuật. Sai lầm chiến lược của chúng ta là chỉ tận dụng khai thác nguồn bô - xít trên Tây Nguyên để xuất khẩu quặng dưới dạng alumina. Việc xuất khẩu quặng alumina dẫn đến phải xây dựng đường sắt và cảng biển với qui mô lớn, có năng lực thông qua (cả đường sắt và cảng biển) tới 30 triệu tấn/năm.
Với cung độ ngắn (khoảng 200-300km), nhưng chênh lệch độ cao lớn (hàng trăm mét) giữa Tây Nguyên với Bình Thuận, trước đây, các chuyên gia của COMECON chỉ dám nghĩ tới đường sắt trong phương án không để lại bùn đỏ trên Tây Nguyên, đưa bô - xít xuống gần biển để tuyển thành alumina và lưu giữ bùn đỏ một cách an toàn bên cạnh bờ biển. Nhưng phương án này cũng quá tốn kém và rất không hiệu quả.
Nếu xét về mặt quốc phòng, tuyến đường sắt “chẳng giống ai” Tây Nguyên - Bình Thuận này cũng chẳng có ý nghĩa gì, và cũng không có lợi thế cơ động hay an toàn như đường bộ. Còn nếu để vận chuyển alumina ra biển xuất khẩu, hiện nay có phương thức “băng tải ống” rẻ tiền hơn, và thân thiện với môi trường hơn nhiều.
Quy hoạch có quá nhiều rủi ro không quản lý được
Bình thường, nếu dự án có một rủi ro nào đó không quản lý được, chúng ta đã phải xem xét lại. Việc phát triển bô - xít trên Tây Nguyên có quá nhiều rủi ro không quản lý được.
Trước hết là rủi ro về thị trường. Nguyên liệu alumina của chúng ta chủ yếu để xuất khẩu ra thị trường thế giới. Thị trường trong nước nhu cầu về nhôm không lớn, cũng không đủ điện để luyện alumina thành nhôm. Thị trường nước ngoài, mặc dù nhu cầu nguyên liệu alumina để luyện nhôm rất lớn, nhưng vì chi phí vận tải cao, Việt Nam chỉ có thể bán rẻ nguyên liệu alumina cho các nhà máy luyện nhôm trong khu vực.
Thứ hai là rủi ro về tài chính. Nhu cầu vốn để phát triển rất nóng ngành bô - xít như của VN sẽ rất lớn. Phương thức huy động vốn chủ yếu là đi vay nước ngoài. Trong khi đó, chỉ tiêu hoàn vốn nội tại (IRR) của dự án Nhân Cơ chỉ có 14,98% (được tính từ trước thời kỳ khủng hoảng tài chính và trước khi giá năng lượng tăng). Khâu luyện nhôm có giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế nhất thì không nằm ở Tây Nguyên. Toàn bộ lãi suất vay và chi phí môi trường đắt đỏ đều nhằm vào quặng alumina xuất khẩu.
Thứ ba là rủi ro về tài nguyên. Chỉ duy nhất có mỏ “1 tháng 5”, và mỏ Gia Nghĩa có trữ lượng được phê duyệt. Hầu như toàn bộ tài nguyên bô - xít còn lại chưa được đánh giá đúng mức cần thiết, số liệu không thống nhất, điều tra địa chất chưa đạt yêu cầu.
Thứ tư, rủi ro về kỹ thuật. Công nghệ tuyển bô - xít thành alumina của VN dựa trên qui trình Bayer, bản chất của qui trình này là chuyển hoá ô xít nhôm ngậm nước trong quặng bô - xít bằng dung dịch kiềm nồng độ cao và ở nhiệt độ cao để thành aluminat natri. Thành phần khoáng vật của quặng nhôm trong trong quặng bô - xít có nhiều dạng khác nhau và có phản ứng rất khác nhau với dung dịch NaOH. Ngoài thành phần khoáng vật, các chất khác lẫn trong quặng bô - xít cũng có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kiềm hoá. Quặng bô - xít của VN, trong các báo cáo địa chất chưa được nghiên cứu kỹ về mặt khoáng vật, chưa có thử nghiệm công nghiệp các phản ứng cơ bản.
Thứ năm, rủi ro về công nghệ. Qui trình Bayer phổ biến khắp thế giới. Nhưng thiết bị kỹ thuật để thực hiện qui trình này (cũng giống như nhà máy điện nguyên tử) đối với VN cũng là con số 0. Chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Nhà máy alumina là nhà máy hóa chất, sử dụng NaOH nồng độ cao, ở nhiệt độ lớn.
Thứ sáu, rủi ro về môi trường sinh thái. Đối với các dự án đang triển khai, chúng ta mới chỉ có đánh giá tác động về môi trường cục bộ của dự án, chưa có nghiên cứu về vấn đề sinh thái toàn vùng. Ngoài ra, cơ quan thực hiện và thẩm tra các báo cáo đánh giá tác động môi trường của VN cũng có nhiều rủi ro do trình độ chuyên môn rất hạn chế, không có kinh nghiệm.
Quy hoạch có quá nhiều bất cập không được tính đến
Bất cập thứ nhất- sự không cân đối giữa các khâu đầu nguồn và cuối nguồn: các dự án tuyển luyện để bán quặng có công suất lên tới hơn 18 triệu tấn/năm. Nhưng các dự án chế tạo (điện phân) nhôm kim loại có công suất chỉ 0,2-0,4 triệu tấn/năm.
Bất cập thứ hai: Các dự án đều triển khai ở vùng rất nhậy cảm về môi trường và xã hội nhưng không có thử nghiệm trước.
Bất cập thứ ba: Các dự án tuyển luyện bô - xít cần rất nhiều nước, được triển khai ở vùng hiếm nước (Tây Nguyên còn đang thiếu nước cho các cây công nghiệp cau su, chè, cà phê, điều…)
Bất cập thứ tư: Mất cân đối về cung cấp điện trên địa bàn có hệ thống nguồn và lưới điện hiện còn đang kém phát triển. Các dự án luyện cán nhôm cần rất nhiều điện. Việt Nam còn đang thiếu điện, và sẽ không có nguồn thuỷ điện rẻ tiền để đảm bảo cho các dự án nhôm.
Bất cập thứ năm: Các dự án hạ tầng (đường sắt, cảng biển, điện) triển khai sau các dự án khai thác bô - xít và sản xuất alumina.
(Theo Nguyễn Thành Sơn, TuanVietnam, Vietnamnet)
01:37 CH 13/01/2009
Tây Nguyên oằn mình vì bô-xít
Bô-xít và hệ lụy môi trường ở Trung Quốc 15/12/2008 13:44 (GMT + 7) Chính quyền các tỉnh Trung Quốc đã bắt đầu hướng đến việc điều chỉnh khai thác bôxit khi môi trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ việc khai thác nguồn khoáng sản này. Ngày 10-12, trang web chính quyền tỉnh Hà Nam đưa tin tỉnh vừa ban hành quy định “Chấn chỉnh tình hình khai thác than và bôxit” và “Quy hoạch và sử dụng nguồn bôxit”. Theo đó, các doanh nghiệp khai thác bôxit chính quy phải trả lại hiện trạng đất đai như ban đầu sau bốn năm khai thác, nếu không đáp ứng tiêu chuẩn này sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Một loạt biện pháp tương tự cũng được đưa ra tại những tỉnh tập trung mỏ than, bôxit lớn ở Trung Quốc. Hệ lụy môi trường
Là một nước sản xuất và tiêu thụ nhôm lớn nhất thế giới, cùng với tham vọng trở thành một trong những quốc gia sản xuất xe hơi và máy bay lớn trên thế giới, Trung Quốc đang trở thành một con hổ đói bôxit để phục vụ ngành công nghiệp nhôm nội địa.

Năm 2004, tại Ấn Độ đã diễn ra phong trào chống các công ty khai thác bôxit sau khi Chính phủ Ấn Độ, nước có trữ lượng bôxit lớn thứ sáu thế giới, cấp giấy phép cho 13 công ty đa quốc gia vào khai thác quặng bôxit tại bang Orissa.
Các dự án khai khoáng đã ảnh hưởng tới 60.000 cư dân sinh sống trong vùng. Một diện tích đất nông nghiệp gần 1.000ha đã hoàn toàn bị hủy hoại.

Theo Hiệp hội Bảo tồn sinh học nhiệt đới, những cảnh báo đã được đưa ra vào các năm 2006 và 2008 khi các công ty khai thác bôxit lăm le tấn công những vùng thiên nhiên được bảo tồn tại Surinam và Jamaica, lần lượt xếp thứ 5 và 10 trong số những nước có nguồn quặng bôxit dồi dào nhất.

HẢI MINH

Vấn đề đặt ra ở đây chính là hệ sinh thái xung quanh những nơi khai thác quặng mỏ, đặc biệt là bôxit, ở nước này đã bị hủy hoại nghiêm trọng. Theo Chinanews, nhiệt độ quanh khu vực quặng mỏ ở Thái Nguyên (Sơn Tây), Tịnh Tây (Quảng Tây) đã tăng cao một cách bất thường kể từ khi những mỏ khai thác bôxit được dựng lên ở đây.
Nguồn nước xung quanh các khu vực này trở nên ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của hàng triệu người dân. Từ năm 2004-2008, chính quyền tỉnh Hà Nam đã đóng cửa hơn 100 mỏ khai thác bôxit có quy mô nhỏ trong toàn tỉnh, trong đó lớn nhất là quyết định ngưng dự án khai thác bôxit để sản xuất nhôm trị giá 1,5 tỉ nhân dân tệ ở huyện Nhữ An chỉ sau một năm đưa vào hoạt động do gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh khu vực khá nặng nề.
Nhật Báo Quảng Tây cho biết vụ ô nhiễm do khai thác bôxit gần đây nhất là ở mỏ bôxit Tịnh Tây. Chỉ mới khai thác hơn một năm nhưng mỏ này đã làm nguồn nước xung quanh khu vực nhiễm màu đỏ quạch khiến người dân trong khu vực không thể sử dụng được nguồn nước để sinh hoạt, kéo theo là những chứng bệnh lạ.
Đóng cửa hơn 100 mỏ bôxit

Nguồn nước đỏ quạch do khai thác mỏ bôxit thải ra ở Hà Nam, Trung Quốc
(Ảnh: sina.cn)

TIN LIÊN QUAN
Lãnh đạo Đắk Nông: "Không làm thì bô - xít vẫn là đất thôi"! Mất và được trong việc khai thác bô - xít Tây Nguyên Cái giá văn hoá-xã hội-chính trị của các đại dự án bô-xít Cuộc chơi của các "đại gia" bô - xít trên thế giới Đại kế hoạch bô-xít: Lợi ích trước mắt, nguy cơ lâu dài Đại dự án bô - xít Tây Nguyên: người trong cuộc đề xuất gì? Nguy cơ hiện hữu trong các dự án bô - xít trên Tây Nguyên Đại kế hoạch bô - xít ở Tây Nguyên bị phản đối quyết liệt
Khai thác bô-xít Tây Nguyên và bài toán về sự đánh đổi
Khai thác Bô-xít: Lợi ích kinh tế, hậu quả môi trường
Năm 2004, tại Ấn Độ đã diễn ra phong trào chống các công ty khai thác bôxit sau khi Chính phủ Ấn Độ, nước có trữ lượng bôxit lớn thứ sáu thế giới, cấp giấy phép cho 13 công ty đa quốc gia vào khai thác quặng bôxit tại bang Orissa. Các dự án khai khoáng đã ảnh hưởng tới 60.000 cư dân sinh sống trong vùng. Một diện tích đất nông nghiệp gần 1.000ha đã hoàn toàn bị hủy hoại.
Theo Hiệp hội Bảo tồn sinh học nhiệt đới, những cảnh báo đã được đưa ra vào các năm 2006 và 2008 khi các công ty khai thác bôxit lăm le tấn công những vùng thiên nhiên được bảo tồn tại Surinam và Jamaica, lần lượt xếp thứ 5 và 10 trong số những nước có nguồn quặng bôxit dồi dào nhất.
Để hạn chế thực trạng khai thác bôxit bừa bãi gây ảnh hưởng đến môi trường và duy trì nguồn bôxit của quốc gia, từ năm 2006 Chính phủ Trung Quốc đã thực thi quy định về “pháp lệnh nguồn tài nguyên khoáng sản”.
Theo đó, các địa phương trên toàn quốc phải chấn chỉnh ngành khai thác mỏ, đặc biệt chú trọng đến việc khai thác bôxit. China Daily cho biết từ năm 2005 đến nay, Cục Bảo vệ môi trường quốc gia Trung Quốc đã xử lý hàng chục ngàn vụ gây ô nhiễm môi trường, trong đó đóng cửa hơn 100 mỏ khai thác bôxit trên khắp đất nước.
Theo mạng bảo vệ môi trường Trung Quốc, cuối năm 2006 tỉnh Sơn Tây đã đưa ra quy định “quản lý nguồn tài nguyên khoáng sản trong vùng, trong đó chú trọng đến tiêu chuẩn khai thác bôxit trong vùng”. Nếu các doanh nghiệp khai thác bôxit không đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường, phục hồi đất đai và không đạt chuẩn sẽ bị cấm khai thác, nếu quy mô khai thác dưới 1.000 tấn sẽ bị đóng cửa hoặc không cấp phép khai thác mới.
Ngoài ra các tỉnh như Sơn Đông, Quý Châu, Hà Nam còn quy định các doanh nghiệp đạt chuẩn khai thác bôxit phải có báo cáo đánh giá ảnh hưởng của môi trường địa chất xung quanh khu vực định khai thác, nếu đáp ứng được yêu cầu của cơ quan môi trường mới được cấp phép hoạt động.
Chuyển hướng ra nước ngoài
Theo trang web khai thác khoáng sản Trung Quốc, trữ lượng bôxit đã được thăm dò của Trung Quốc đạt khoảng 200 triệu tấn, chỉ chiếm 2% tổng trữ lượng bôxit của thế giới. Lượng bôxit này phân bố trên 20 khu vực và tỉnh thành, phần lớn các mỏ bôxit lớn tập trung ở các tỉnh Sơn Tây, Sơn Đông, Quý Châu và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.
Báo The Chinanews dẫn nguồn tin từ Tập đoàn Sản xuất nhôm Trung Quốc (Chinalco) cho biết nhằm đáp ứng nguồn cung ổn định cho các công ty sản xuất nhôm nội địa, hằng năm Trung Quốc phải nhập một lượng bôxit khá lớn, chiếm 1/3 tổng trữ lượng bôxit trong nước.
Chính vì nhu cầu tiêu thụ quá lớn, nên ngay từ năm 2006 Chính phủ Trung Quốc đã “bật đèn xanh” cho các doanh nghiệp sản xuất nhôm đổ bộ khai thác bôxit ở nước ngoài theo kế hoạch “quốc tế hóa chiến lược kinh doanh” cho các doanh nghiệp.

http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5588/index.aspx

01:35 CH 13/01/2009
Vắt sức lao động trẻ em
Vắt sức lao động trẻ em - Kỳ 2:
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=294837&ChannelID=89


“Doanh số” của mồ hôi và nước mắt

TT - Lốc cốc. Lốc cốc. Lốc cốc... 1 giờ sáng. Người dân trong các con hẻm ở phường 5, quận Tân Bình, TP.HCM đã tắt đèn nhà, chìm trong giấc ngủ, nhưng cậu bé bán mì gõ vẫn cố gắng đi tìm khách. Tiếng mõ tre lúc lớn, lúc nhỏ, uể oải như bước chân trẻ thơ đã loạng choạng, mệt mỏi. Mùa xuân sắp đến, em phải cố gắng làm để còn hi vọng có chút tiền về quê xa.
Mồ hôi trong đêm lạnh
Đêm gần cuối năm trời TP.HCM se se lạnh, nhưng lưng áo cậu bé bán mì gõ vẫn ướt đẫm mồ hôi vì phải ròng rã đi bộ quá nhiều. Tôi dừng xe ngay vỉa hè ngã ba đường Cách Mạng Tháng Tám - Phạm Văn Hai, gọi tô mì để cậu bé có dịp nghỉ chân. Cậu bé van nài: “Anh thương em thì gọi giúp thêm mấy tô nữa. Chứ tối giờ mới bán được chút, chủ chưa cho nghỉ xả hơi!”. Tôi định tặng ít tiền nhưng cậu bé không chịu nhận: “Chủ bắt một đêm phải bán ít nhất được 50 tô. Anh có cho tiền thì em vẫn bị trừ lương vì bán chưa đủ mức yêu cầu”. Tôi đành gọi luôn bốn tô và nói cậu bé phải ăn phụ.
Cậu bé hớn hở chạy đi, lát sau đã quay lại. Bốn tô mì, giá vỏn vẹn chỉ 24.000 đồng. Cậu tự trọng, dứt khoát thối lại 6.000 đồng cho tôi. Lúc này, tôi mới có dịp nhìn kỹ gương mặt già hơn vóc dáng bé xíu của cậu. Dè dặt mãi cậu mới chịu kể nhà ở tận quê biển Phú Yên. Ba đi biển chết, nhà cậu có bốn anh em nhưng người anh đầu lại “mát mát” không làm được gì. Mẹ cậu đan lưới cá, rồi bán thêm vé số nuôi cả gia đình.
Cậu học hết lớp 5 thì xin mẹ cho nghỉ học, theo bạn vô TP.HCM đi làm. Mẹ khóc, dứt khoát không cho. Một đêm cậu trốn nhà, rồi viết thư về cho mẹ báo “đã xin được việc, ông chủ rất tốt bụng thương như con”. Nhưng thật ra cậu theo bạn bè đi phụ bán mì gõ lang thang khắp TP.HCM. Vì vậy, cậu chỉ giới thiệu mỗi tên Hải và khẩn khoản xin tôi đừng ghi rõ địa chỉ quê nhà. Cậu không sợ xấu hổ nhưng lo mẹ buồn!
Lúc đầu Hải cầm mõ tre đi mời khách mua mì gõ quanh khu vực bến xe miền Đông. Chủ cậu bé là đôi vợ chồng quê Quảng Ngãi cũng làm thuê cho bà chủ N. ở quận 10. Bà N. có cả chục xe mì gõ, cho người thuê lại. Hải được “khoán” mỗi ngày phải cầm mõ, mời ít nhất 60 tô thì mỗi tháng sẽ có lương 300.000 đồng, nhưng cuối năm mới nhận một lần.
Ngày làm việc của cậu bắt đầu từ buổi trưa phụ nấu nướng, chuẩn bị chén đũa. Xế chiều, cậu ra đường và phải cầm mõ tre rong ruổi đến 1-2 giờ sáng, tùy ngày bán nhanh hay chậm. Gần sáng về nhà trọ trong hẻm đường Bùi Đình Túy (quận Bình Thạnh), nhưng Hải chưa được ngủ ngay vì phải rửa dọn. Lăn ra chiếu, cậu ngủ li bì đến trưa vẫn thiếu giấc. Tính ra mỗi ngày chủ chỉ nuôi cơm Hải hai bữa trưa và tối, nhưng vẫn tiết kiệm không cho cậu ăn thêm nửa khuya. Những đêm đi gõ nhiều, cậu đói quá phải húp cả chút nước mì khách bỏ thừa.
Ròng rã sáu tháng, Hải kiệt sức! Cậu xin lương sớm để ra đi. Kỳ kèo mãi bà chủ chỉ trả 900.000 đồng lương ba tháng mà còn lên giọng: “Đúng ra tao trừ hết tiền học nghề của mày. Cho ba tháng là phước lắm rồi nghen con”. Qua chủ mới, Hải được giảm “doanh số” mỗi ngày xuống còn 50 tô, khuya được ăn mì ế. Tuy nhiên, cậu vẫn phải mòn mỏi sải chân, gõ mõ đến 1-2 giờ sáng. Có đêm cậu bị sốt hầm hập vẫn phải cố tìm khách, nếu không sẽ bị trừ lương vì chủ bán ế.
Gần ba năm lê la ở TP.HCM, Hải nhẵn mặt nhiều trẻ đồng cảnh. Bạn cầm mõ mì gõ phần lớn từ Quảng Ngãi, Quảng Nam, Phú Yên, Bình Định vào như thằng Tí “Bình Sơn”, Ngọc “Đức Phổ”, Khánh “Trà My”, Phi “Tuy Hòa”... Đứa nào cũng còi cọc, xanh mét giống nhau vì phải thức khuya, đi bộ nhiều. Lương trung bình 300.000 đồng/tháng, cao lắm cũng chỉ 400.000 đồng. Bọn trẻ ngán nhất là đêm khuya hay bị bọn nghiện, lưu manh ăn quỵt. Cách nay một tháng, Phi “Tuy Hòa”, 16 tuổi, bị một đám người nhậu nhẹt ở bờ kênh Nhiêu Lộc ăn quỵt gần chục tô mì.
Nước mắt trẻ thơ
Trẻ làm phụ may đến khuya ở một cơ sở may tại quận Bình Tân - Ảnh: Quốc Việt
Những ngày đi thực hiện bài viết này, tôi gặp rất nhiều trẻ quê đang bị chủ lao động vắt sức trong nhiều công việc khác nhau ở TP.HCM. Đông nhất là trẻ bán vé số.
Đó là những đứa trẻ thường rất nhỏ tuổi, mỗi ngày chúng được giao “doanh số” ít nhất 200 tờ. Nếu bán hết, chúng được về ngủ chung với nhau ở nhà trọ do chủ thuê sẵn, nhận lương 400.000-500.000 đồng/tháng và được ăn cơm chủ nấu. Tính ra lương của chúng chưa bằng 1/3 tiền hoa hồng của người có tiền mua đứt bằng ấy vé số đại lý để bán lại. Nhưng những đứa trẻ quê vẫn phải chấp nhận bán rẻ sức lao động vì chúng không có vốn, cần một chỗ ăn ở ổn định và có người lớn “đỡ đầu” khi xảy ra tranh chấp địa bàn.
Trẻ bán vé số thuê cũng làm việc 16-18 giờ mỗi ngày. Chúng phải cầm vé số lang thang ra đường từ lúc mặt trời chưa mọc để bán cho những người uống cà phê, tập thể dục sớm. Đến gần 5 giờ chiều, chúng lại nhận vé số mới tiếp tục đi bán đến gần nửa đêm. Cậu bé Nguyễn Thế Hòa, 13 tuổi, quê huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), kể hồi mới vào TP.HCM đi bán vé số, hai đầu gối bị sưng gần cả tháng do phải đi bộ nhiều quá. Nhiều đêm về nhà trọ ở phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, cậu rã rời, buồn ngủ díp mắt, nhưng cứ chảy nước mắt với đầu gối sưng đau. Không có thuốc men, bạn cậu bày cách rót nước nóng vô ca nhôm rồi áp vào đầu gối cho giảm đau.
Thân phận bán vé số thuê của những đứa trẻ quê phải đối mặt nhiều rủi ro như ngày mưa ế ẩm, tai nạn giao thông, đánh nhau giành giật địa bàn, nhưng nỗi ám ảnh lớn nhất của chúng là bị giật vé số. Mười trẻ bán vé số ở TP.HCM mà tôi hỏi thăm thì ít nhất có bảy đứa kể đã bị giật một vài lần.
Tháng trước, bé Hòa bị một người giật một lúc hơn 100 tờ vé số ở phố nhậu Lữ Gia. Chủ trừ thẳng cậu một tháng lương. Nhưng bé Thái, bạn cùng quê với cậu, còn khổ hơn. Vừa lấy xấp vé số ra đường, cậu bị hai đứa tóc vàng đi xe máy dừng lại gạ mua, rồi giật phắt. Cậu cố giằng lại thì bị hai thanh niên vừa đấm vào mặt vừa la “đồ ăn cắp”. Đến khi người đi đường thấy bất nhẫn xúm đến thì hai đứa phóng xe đi mất, để lại thằng bé đầm đìa nước mắt lẫn với máu mũi, máu miệng. Về nhà trọ, cậu còn bị chủ trừ hết ba tháng lương vì mất 300 tờ vé số!
Mỗi đứa bé phải lao động sớm đều có hoàn cảnh, nỗi niềm khổ sở. Tôi cứ ám ảnh mãi đôi mắt mệt mỏi, già nua trước tuổi của cậu bé Nguyễn Văn Tú, 14 tuổi, quê ở thôn Phương Diên, xã Phú Diên, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế.
Nhà Tú có bốn anh em. Cha đi biển không nuôi nổi các con. Chị Tú mới 15 tuổi đã phải vào may trước rồi dẫn em theo. Tú được giới thiệu “học nghề” không lương đằng đẵng ba năm trong một cơ sở sơn mài ở quận 12. Cậu phải làm những việc độc hại từ 7g-21g30, nhưng mỗi tuần chủ chỉ cho 10.000 đồng để “tự giải trí”.
Cậu bé lặng lẽ cho tôi xem đôi chân và bàn tay làm lâu ngày bị vecni thấm sậm vào da. Đôi mắt trẻ ngấn nước, u uẩn nỗi buồn trước tuổi.
QUỐC VIỆT
Báo Tuổi Trẻ
06:06 CH 12/01/2009
Nơi ấy chưa bao giờ có Tết
Kỳ 3: Phận nghèo không tết
Trong khi nhiều người đang cố gắng chạy đua để kiếm tết, thì vẫn có những người dửng dưng. Bởi với họ, dù cố gắng mấy cũng chỉ đủ ăn ba bữa. Và tết lại trở thành gánh nặng vì đấy là lúc nhìn rõ nhất, thấm thía nhất nỗi tủi cực của những phận nghèo không tết…
Ngủ ngoài vỉa hè, những người này không mong gì có tết


Theo chân một ông già gầy gò đang mải miết đạp xe chở theo vài chiếc bao lỉnh kỉnh, tôi đi vào một con hẻm ở Q.6. Cách con đường Lý Chiêu Hoàng không xa, nhưng chỉ đi hết đoạn đường lát bê tông, đặt chân vào con đường đất gồ ghề đã thấy hiện ra một xóm nghèo với những mái nhà tranh lúp xúp, một chiếc “cầu tõm” được quây lại bằng những tấm bao bố, nằm chênh vênh bên một cái ao đen ngòm. Đó là “chân dung” xóm nghèo Phú Định.
Đành thất lễ với tổ tiên
Vừa dừng xe trước một căn nhà mái tranh, vách được che chắn bởi bao tải và nylon, tôi đã thấy hai đứa bé ùa ra reo vui khi thấy ông về. Dựng chiếc xe vào vách, ông lão bế đứa cháu nhỏ lên và bước vào nhà, đến bàn thờ, thắp một nén nhang. Nhìn khuôn mặt người phụ nữ trong ảnh đang lờ mờ sau làn khói nhang vấn vít, đôi mắt ông lão đục mờ ngân ngấn nước. Liếc nhìn ngày tháng ghi trong khung hình, tôi biết người phụ nữ này mới qua đời chưa tròn hai tháng. Chỉ tấm hình của vợ, ông Bùi Quang Liêm ngậm ngùi: “Tết này vắng mặt bà ấy. Nhưng có lẽ thế lại may vì năm nào bà ấy cũng than vắn thở dài khi trong nhà chẳng có gì để cúng ông bà…”.
20 năm trước, cả gia đình rời An Giang lên thành phố kiếm sống. Vợ bị tật ở chân, các con còn nhỏ nên mình ông phải lăn lộn với đủ thứ nghề hạ bạc để lo cho gia đình. Cả gia đình sống trong một căn phòng hơn 20m2. Gọi phòng cho oai, chứ thực chất chỉ là một gian nhà tranh đã quá cũ kỹ và xơ xác.
Hai mươi năm qua, chưa năm nào gia đình ông thực sự có tết. Cố gắng mấy cũng chỉ mua được miếng thịt cúng ông bà đêm giao thừa, còn sau đó có gì ăn nấy chứ không sắm sửa gì. Ông còn nhớ, có năm gần đến giao thừa mà trong nhà chẳng còn một hạt gạo, tiền cũng chẳng còn để mua đồ cúng ông bà. Và chiều cuối năm, ông vẫn lang thang ngoài đường, cất tiếng rao buồn não ruột. Có người phụ nữ tốt bụng đã gọi ông vào nhà, cho một đống đồ cũ thải ra. Và sau khi hỏi han, bà đã cho ông một hộp bánh và một cái bánh chưng đem về. Ông cảm động đến rơi nước mắt. Nhờ thế, đêm giao thừa năm ấy ông đã có đồ cúng ông bà, tổ tiên…
Ông khoe với tôi, vừa xin được mấy bộ đồ cũ cho hai đứa cháu ngoại mặc tết. Dù cố gắng vậy, nhưng số tiền cả ông và con rể kiếm được chẳng đáng là bao. Tiền nhà tháng này còn nợ chưa biết trông ngóng vào đâu nên hỏi chuyện ăn tết ông chỉ lắc đầu cười buồn.
Vỉa hè chờ tết
Vừa trông cháu, ông Bùi Quang Liêm vừa phải ngồi gỡ từng cuộn dây đồng để kiếm bạc lẻ

Con đường Nguyễn Thị Diệu (Q.3) vốn được biết đến như một khu phố ăn uống với rất nhiều nhà hàng quán cà phê sang trọng. Nhưng có lẽ ít ai biết ở đó còn tồn tại bảy hộ dân không nhà cửa, phải sống trên vỉa hè. Đêm đêm, khi những hàng quán này chuẩn bị đóng cửa thì cũng là lúc những người dân sống trên đoạn đường này đi ngủ. Ngả lưng xuống cái ghế bố hoặc tấm bạt, những cư dân ở đây nhanh chóng chìm vào giấc ngủ vì một ngày làm việc quá mệt mỏi.
Đây là những hộ dân có hộ khẩu ở quận 3 nhưng lại không có nhà để ở. Sở dĩ như vậy vì họ là những người đã từng đi kinh tế mới lên Tây Nguyên nhưng do cuộc sống quá khó khăn, họ lại quay về thành phố. Họ cho biết đã từng được cấp nhà nhưng sau đó bị lấy lại, tiền bồi hoàn chẳng là bao nhiêu. Không có nhà, một số hộ dân đành chấp nhận sống luôn trên vỉa hè. Những cư dân ở đây kiếm sống bằng đủ công việc từ chạy xe ôm, bán thuốc lá dạo, bán nước giải khát và bán khoai mì…
Tết với những cư dân vỉa hè chẳng có ý nghĩa gì. Thậm chí, từ “tết” với họ lại buồn hơn vì người có tiền thường đi chơi xa, hàng hóa của họ thường ế ẩm. Chị Trần Thị Tiên kể: “Tết người ta về quê, đi chơi hết, thành phố còn ít người lắm. Với lại, tết mấy ai ăn khoai mì nên làm ra mà chẳng ai mua. Nhiều khi phải ăn khoai mì trừ bữa. Buồn nhất là đêm ba mươi với mùng một, cả con đường vắng hoe chỉ có mấy gia đình sống ở vỉa hè ngồi nhìn nhau.
Ông Nguyễn Văn Bảy, 70 tuổi, cư dân vỉa hè mang bệnh lao phổi kể: “Có năm, ba ngày tết mà tôi lên cơn sốt, nằm rên hừ hừ trên vỉa hè. Ngày thường đi xin thuốc ở mấy cơ sở từ thiện được chứ ngày tết ai người ta đi làm mà xin thuốc? Đành cắn răng chịu đựng vậy”.
Chị Bùi Thu Trang ngậm ngùi tâm sự: “Tết là lúc người ta nhớ đến ông bà, tổ tiên bằng cách mua đồ cúng mời ông bà tổ tiên về ăn tết với con cháu. Ở đây, bàn thờ chẳng có, đồ cúng cũng không, nên nhớ thương ông bà cũng chỉ để trong lòng…”.
Bài và ảnh Trung Hoàng

http://www.sgtt.com.vn/Detail24.aspx?ColumnId=24&newsid=45427&fld=HTMG/2008/1229/45427
http://www.webtretho.com/forum/showthread.php?t=175453



05:46 CH 12/01/2009
g
Góp ý
Bắt chuyện
992Điểm·31Bài viết
Báo cáo