Cơ sở massage này mỗi ngày có 700 lượt người vào chơi bời. Xe cộ vào ra inh ỏi. Bà con trong khu phố biết đây là mại dâm trá hình, nên phản ánh lên khu phố, chính quyền. Việc điều tra theo tố cáo của dân quá dễ, cơ sở massage ngang nhiên vậy, có phải tép heroin đâu mà khó kiếm. Trong cơ sở Tân Hoàng Phát làm chuyện gì thì nhiều người biết, nhưng công an sở tại không biết mới lạ! Gần 100 nhân viên massage được huấn luyện kích dục cho khách. Nhiều người không chấp nhận việc cưỡng bức và bóc lột của ông chủ nên phản đối hoặc bỏ trốn, thì họ bị đánh đập, bỏ đói, nhốt trong chuồng chó. Những hoạt động bóc lột và hành hạ con người như nô lệ đó bà con trong khu phố biết, nhiều người biết, nhưng công an sở tại không biết mới lạ! Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an TPHCM (PC14) từng có công văn yêu cầu Công an quận Thủ Đức kiểm tra xử lý cơ sở Tân Hoàng Phát hoạt động mại dâm trá hình theo tố cáo của người dân, nhưng không ai thực hiện. Ngay cả khi có nạn nhân trực tiếp đến PC14 tố cáo tội ác của chủ cơ sở Tân Hoàng Phát, PC14 gửi văn bản đề nghị Công an quận Thủ Đức điều tra làm rõ, cũng chẳng ai làm rõ. Cùng với Công an quận Thủ Đức là Công an phường Linh Chiểu, lãnh đạo UBND phường Linh Chiểu - những người có trách nhiệm ở các đơn vị này không thể không biết về hoạt động phi pháp của Tân Hoàng Phát. Họ không biết mới lạ! Trên thực tế, tại TPHCM không chỉ có một Tân Hoàng Phát, vấn đề là những nơi đó có bị phát hiện và triệt phá hay không mà thôi. Câu hỏi đặt ra là tại sao họ kinh doanh phi pháp và ì xèo như vậy được? Ơ đây cho thấy rất rõ là có sự bảo kê, đóng hụi chết hoặc chia chác. Để không còn cảnh nữ nô lệ và các tệ nạn, người dân được sống trong các khu phố văn hoá, phường văn hoá thực sự thì phải xử thật nghiêm các hành vi bảo kê, bao che cho các hoạt động này. Như vụ Tân Hoàng Phát, cứ mạnh tay xử lý các vị lãnh đạo công an phường, lãnh đạo UBND phường Linh Chiểu, công an quận Thủ Đức, thì tự khắc các nơi khác cũng lấy đó mà làm gương.
(VTC News) - Ngày 10/1, một ngư dân ở thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa được phát hiện chết ở khu vực chân núi Trường Lệ, chân ngâm trong nước biển. Nhận định ban đầu của cơ quan công an thì nạn nhân có thể chết do thời tiết quá lạnh.
Khoảng 15h9' ngày 10/1/2009, một số người dân thị xã Sầm Sơn (Thanh Hoá) phát hiện một người đàn ông chết ở ven biển bên khu vực chân núi Trường Lệ trong tình trạng còn nguyên quần áo, nửa người nằm vắt lên hòn đá, hai chân ngâm trong nước biển.
Nhận được tin báo, Công an thị xã Sầm Sơn có mặt tại hiện trường và xác định được nạn nhân là Văn Thế Đường (55 tuổi, trú quán tại khu phố Thành Ngọc, phường Trường Sơn). Trên thi thể ông Đường không có dấu vết tổn thương.
Công an Sầm Sơn nhận định, do gió mùa đông bắc giá lạnh nhưng ông Đường vẫn đi ra biển một mình để bắt vẹm (một loại hến biển hay bám ở các tảng đá), có thể ông bị cảm lạnh đột ngột, không được phát hiện, cứu chữa kịp thời nên bị đột quỵ dẫn đến tử vong.
Tháng 12/2007 và tháng 10/2008, UBND tỉnh Đắk Nông, Tập đoàn Công nghiệp than-khoáng sản Việt Nam (TKV) cùng Viện Tư vấn phát triển đã tổ chức hai cuộc hội thảo đánh giá về những dự án bô-xít của Tập đoàn TKV đang triển khai trên Tây Nguyên với sự tham gia của: đại diện tỉnh Đắk Nông, chủ đầu tư-TKV, các nhà quản lý, các nhà khoa học thuộc những vực có liên quan (kinh tế, công nghệ, kỹ thuật, địa chất, môi trường, xã hội v.v.).
Trong hoàn cảnh đang có nguy cơ rất hiện hữu về thiếu điện cho các ngành sản xuất khác, việc sản xuất nhôm kim loại là một định hướng sai lầm của VN Ảnh:
Những rừng thông và đồi chè trước đây đang bị san bằng để xây dựng nhà máy tuyển quặng bô - xít (
VietNamNet)
Qua hai cuộc hội thảo, có thể tóm tắt hai ý kiến nhận xét đánh giá chủ yếu về khai thác bô-xít trên Tây Nguyên được rút ra như sau: (1) Trên quan điểm vĩ mô và về mặt chiến lược, tuyệt đại đa số các nhà khoa học đã thống nhất đánh giá các dự án bô - xít đang được triển khai là: không có hiệu quả về mặt kinh tế-tài chính; rất không hiệu quả về mặt kinh tế-xã hội; với trình độ tiếp cận lạc hậu của chủ đầu tư cũng như của các đối tác Trung Quốc về các giải pháp công nghệ kỹ thuật, các dự án bô-xít đang được tích cực triển khai sẽ phá hủy môi trường tại chỗ (của Tây Nguyên), sẽ gây ra những thảm họa về sinh thái trên diện rộng (cho các tỉnh Nam Trung Bộ của VN và các tỉnh của Campuchia); đang tạo ra thêm các yếu tố bất ổn định về an ninh trật tự xã hội trên Tây Nguyên. (2) Ở tầm vi mô và mang tính chất cục bộ, ý kiến của TKV- chủ đầu tư đã tự đánh giá về các dự án bô - xít đang được triển khai là: kinh tế Tây Nguyên kém phát triển, vì vậy cần tận dụng khai thác nguồn tài nguyên bô - xít có hạn để tranh thủ xuất khẩu cho Trung Quốc nhằm bổ sung nguồn thu ngân sách cho địa phương và cho chủ đầu tư. Ngoài ra, qua hai lần hội thảo, đã là sáng tỏ một số vấn đề: - Mặc dù trong các văn bản của TKV thường dùng khái niệm “alumin”, hay “công nghiệp bô xít-nhôm” (ngay cả nhà nghỉ của TKV cũng mang tên “Alumin”) nhưng trên thực tế, chỉ có các dự án khai thác bô - xít, và chế biến bô - xít thành nguyên liệu thô (có tên gọi bằng tiếng Anh là alimina, hoặc bằng tiếng Pháp là alimine) để xuất khẩu cho Trung Quốc. Hoàn toàn không có dự án nhôm (aluminium) nào đang được triển khai. Việc lạm dụng từ “alumin” không tồn tại trên thực tế của TKV trong điều kiện hạn chế về trình độ văn hóa cũng như ngoại ngữ của đồng bào dân tộc ít người dễ dẫn đến hiểu nhầm là “nhôm”. - Theo báo cáo của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Nông: “Trong vùng quy hoạch khai thác bô - xít diện tích đất nông nghiệp, nhất là diện tích trồng cây hàng năm và cây lâu năm chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Hầu hết nhân dân sống trong vùng quy hoạch mỏ có nguồn thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Việc khai thác quặng bô - xít sẽ làm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và sinh hoạt của toàn bộ các hộ dân trong vùng quy hoạch”. http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5543/index.aspx
Đến nay chưa một nước nào trên thế giới có thể xử lý có hiệu quả thỏa đáng vấn đề bùn đỏ. Ảnh: clpccd.cc.ca.us
Kết luận 1. Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên hiện nay nếu hạch toán đủ, cầm chắc là sẽ lỗ lớn, để lại những hậu quả nghiêm trọng trên nhiều phương diện cho quốc gia, nhất là nước ta đất chật người đông, thiên tai có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu đem nguồn vốn của ta bỏ vào hai dự án này, và nếu có chính sách đầu tư và bộ máy thực hiện tốt, hoàn toàn có khả năng phát triển Tây Nguyên xanh bền vững, tránh được mọi hiểm họa do khai thác bô-xít, tăng thêm giàu có cho đất nước, đem lại hài hòa dân tộc, và an ninh quốc gia được tăng cường. 2. Rất tiếc là hai dự án bô-xít với nhiều hệ lụy nghiêm trọng như vậy lại không được khảo sát với sự cẩn trọng đúng mức, đã thế lại triển khai theo quy trình lộn ngược, bây giờ lâm vào tình trạng “ván đã đóng thuyền”, rất khó cho đất nước. Trong khi đó, nhiều lãnh đạo cấp tỉnh tỏ ra rất phấn khởi – đơn giản là tin rằng mọi chuyện “đã có Trung ương và tập đoàn TKV lo toan và tính toán hết rồi, không có gì phải lo...”, có bô-xít GDP của tỉnh sẽ tăng, có thêm tỷ trọng cơ cấu kinh tế là công nghiệp, có thêm nguồn thu nhập cho ngân sách tỉnh là thuế tài nguyên, ngoài ra có thêm một số nguồn thu nhỏ khác... 3. Dự án alumina Tân Rai có nguy cơ triệt tiêu khả năng Bảo Lộc có thể trở thành một Đà Lạt 2 và tác hại nhiều tiềm năng phong phú khác đang được phát huy của địa phương này. 4. Dự án alumina Nhân Cơ – được lập luận với lý do đất Đắc Nông xấu không thể làm gì khác ngoài bô-xít có lẽ không xác đáng. Thực tế cho thấy đất Đắc Nông chỉ xấu hơn so với các tỉnh Tây Nguyên lân cận, song vẫn là vùng đất giàu, nếu có hệ thống thủy lợi nhỏ giải quyết tốt vấn đề nước. (Một lãnh đạo tỉnh cho rằng nếu Đắc Nông mỗi năm được đầu tư khoảng 30 – 40 triệu USD riêng cho việc xây dựng hệ thống các hồ nhỏ làm thủy lợi cho rừng và vườn, chỉ trong vòng 5 năm sẽ có một Đắc Nông khác). 5. Công nghiệp bô-xít như đang làm theo 2 dự án này có nguy cơ tác động xấu đến toàn ngành du lịch Việt Nam, hủy hoại nhiều tiềm năng to lớn của Tây Nguyên. Trong khi đó hàng trăm nghìn ha rừng kiệt ở Tây Nguyên nằm chờ các chính sách và thể chế đúng đủ sức hấp dẫn sự đầu tư mang lại một Tây Nguyên xanh giàu có cho chính mình và cho cả nước. 6. Hiện nay các nước phát triển trên thế giới tìm mọi đường phát triển “kinh tế các-bon thấp”, kinh tế tri thức, họ đạt được nhiều thành tựu kinh ngạc. Một số nước đang phát triển đang vận dụng có hiệu quả kinh nhiệm này. Là nước đi sau, vì sao Việt Nam cứ phải ngày càng đi sâu mãi vào công nghiệp thượng nguồn, hiện nay là các dự án đồ sộ về quặng sắt và thép, rồi đây thêm quặng sơ chế alumina hầu như chỉ bán được cho một người mua.., tất cả chẳng lẽ chỉ để kéo dài thêm nữa sự tụt hậu của mình? 7. Mọi hệ quả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sẽ xảy ra trong quá trình thực hiện hai dự án này ở vùng nhạy cảm Tây Nguyên sẽ tăng thêm nguy cơ uy hiếp an ninh và sự ổn định chính trị của Tây Nguyên, mà cũng có nghĩa là của cả nước. Qua tìm hiểu sơ bộ trong chuyến đi Tây Nguyên, riêng tôi càng thấm thía: Dù khát vọng phát triển nhanh kinh tế đất nước đến đâu chăng nữa, không thể nóng vội và giản lược như cách làm bô-xít theo hai dự án nói trên. Tôi nghĩ cách làm như thế là nóng vội, chỉ chứa đựng rủi ro và cầm chắc thất bại lâu dài cho cả nước. Cơm không ăn, gạo còn đó, không vội gì phải phá rừng núi ngay bây giờ để lấy đi tài nguyên không tái tạo được với những cái giá phải trả rất đắt, khả năng xử lý các hệ quả lại ngoài tầm với. Một khi nước ta có kết cấu hạ tầng và năng lực quản trị quốc gia tốt hơn, giá trị mọi tài nguyên sẽ càng tăng lên gấp bội; trong khi đó triển vọng phát triển Tây Nguyên xanh và bền vững trong tầm tay, biết bao nhiêu lợi thế nước đi sau cho phép nước ta đi lên một quốc gia phát triển hiện đại không được khai thác. Đương nhiên, con đường phát huy lợi thế nước đi sau và phát triển bền vững để sớm trở thành quốc gia hiện đại đòi hỏi sự nỗ lực nghiêm túc và nghiêm khắc hơn nhiều lần về mọi phương diện đối với con người và bộ máy làm việc trong hệ thống chính trị của nước ta. Đây chính là cái đất nước đang cần, cái đất nước đang thiếu.
Nguyễn Trung
Kinh nghiệm từ nước Australia
Ông Nguyễn Đức Hiệp, chuyên gia môi trường tại Australia. Australia hiện đứng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất nhôm, nhưng cũng là nơi cư dân có nhận thức cao về bảo vệ môi trường nhận định: Nhà máy luyện nhôm phải tốn rất nhiều điện để điện phân. Trong quá trình sản xuất nhôm thải ra một chất gọi là "bùn đỏ" rất độc hại và không phân huỷ theo thời gian. Trong quá trình luyện nhôm phải có một hồ chứa để chứa bùn đỏ. Hợp chất này nếu không bảo quản tốt có thể tràn lan ra ngoài làm ô nhiễm nguồn nước, sông ngòi. - Những nhà máy luyện nhôm ở Australia, chẳng hạn như do các công ty Trung Quốc dự tính hoạt động, có thể tạo ra các phản ứng từ xã hội không? Hiện nay Australia là nước sản xuất nhôm lớn nhất thế giới. Thường các nhà máy luyện nhôm ở khá xa khu dân cư, ít tác hại tới môi trường. Luyện nhôm chỉ thích hợp với các nước lớn, có đất rộng để xây nhà máy xa khu dân cư, xa các đô thị và có chỗ bảo quản các chất thải do nhà máy luyện nhôm tạo ra. Vừa rồi công ty Tranco của Trung Quốc được khai thác bôxit khá gần rừng quốc gia của Australia đã bị một số tổ chức lên án. - Đối với trường hợp sản xuất nhôm của Việt Nam ở Tây Nguyên, theo anh thì như thế nào? Theo tôi đặt nhà máy luyện nhôm của Việt Nam ở Đăk Nông không khả thi lắm. Thứ nhất là phải phá rừng để xây nhà máy. Thứ hai là không tìm được chỗ thích hợp để chứa bùn đỏ. - Người ta nói hiện nay Trung Quốc xuất khẩu ô nhiễm, anh có thành ý kiến đó không? Đúng như vậy. Do luyện nhôm tốn điện, do luật bảo vệ môi trường gắt gao nên các công ty Trung Quốc đang tìm cách chuyển các nhà máy luyện nhôm sang các nước nhỏ như Việt Nam, nơi nhân công rẻ và luật môi trường cũng có nhưng thực thi rất là yếu. Đó là lí do tại sao công ty luyện nhôm Tranco của Trung Quốc ngoài đầu tư vào Australia còn nhòm ngó Việt Nam. Luyện nhôm ở Trung Quốc đã làm hại môi trường rất lớn, nên họ chuyển ra nước ngoài. Vì thế Việt Nam không nên nhìn vào mối lợi kinh tế trước mắt mà bị hại rất lớn về sau.
Do trước đây không chú ý nên hiện nay Trung Quốc đang cực khổ vì môi trường bị phá huỷ trầm trọng. Vì vậy họ đang có ý đồ xuất khẩu ô nhiễm sang nước khác.
07/01/2009 "Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên hiện nay nếu hạch toán đủ, cầm chắc là sẽ lỗ lớn, để lại những hậu quả nghiêm trọng trên nhiều phương diện cho quốc gia, nhất là nước ta đất chật người đông, thiên tai có xu hướng ngày càng gia tăng. Dù khát vọng phát triển nhanh kinh tế đất nước đến đâu chăng nữa, không thể nóng vội và giản lược như cách làm bô-xít theo hai dự án nói trên." - Chuyên gia Nguyễn Trung nhận định về tình hình khai thác bô-xít ở Tây Nguyên sau chuyến đi thực tế. Trong những ngày từ 17 đến 23 tháng 12 năm 2008, tôi cùng với một nhóm anh em quan tâm đến vấn đề bô-xít đã cùng nhau đi 4 tỉnh Kontum, Gia Lai, Đắc Nông và Lâm Đồng để tìm hiểu tại chỗ vấn đề khai thác bô-xít. Chúng tôi đã đến hai nơi dự kiến sẽ là nhà máy chế biến alumina tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (tại Đắc Nông). Cả hai dự án nay do Trung Quốc xây dựng. Trong chuyến đi này chúng tôi đã gặp được lãnh đạo tỉnh, huyện, sở tài nguyên môi trường. Dưới đây là những suy nghĩ của tôi sau chuyến đi này: Vấn đề nước Dự án Tân Rai nằm vùng các suối đầu nguồn cung cấp nước cho các sông La Ngà, Đồng Nai, là các nguồn nước chính của thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi và hồ Trị An. Dự án Nhân Cơ nằm vùng đầu nguồn suối Đăk R’Tih – nguồn nước chính của các nhà máy thủy điện nằm trên sông Sêprốc. Cả hai dự án alumina này, mỗi dự án cần khoảng 15 - 20 triệu m3 nước / năm, đều chưa có giải pháp thỏa đáng, lấy nước cho việc này thì lại mất hay thiếu nước cho yêu cầu tại chỗ cho dân sinh, trồng trọt và cho thủy điện. Riêng cho dự án Nhân Cơ, vấn đề thiếu nước còn trầm trọng hơn, đến nỗi có ý kiến đề xuất phải tính đến việc xây dựng hệ thống lấy nước từ sông Đồng Nai dài hàng chục cây số bơm lên độ cao phải đạt là hơn 300m – nghĩa là hoàn toàn phi kinh tế và vì thế không khả thi.
Chè và cafe mọc rất tốt nơi sẽ bị bốc đi để khai thác bauxite.
Ảnh: Nguyễn Trung
Vấn đề nước bùn Nước bùn đỏ, được thải ra trong quá trình sơ chế alumina, còn đọng lại một lượng soude caustic đáng kể, có tác dụng ăn mòn và hủy diệt môi sinh. Với địa thế vùng thượng nguồn, dự án Tân Rai có nguy cơ gây ô nhiễm cho thủy điện Đàm Thuận – Đa Mi và hồ Trị An (nguồn nước chính của thủy điện Trị An và tỉnh Đồng Nai). Nước bùn đỏ của dự án Nhân Cơ có nguy cơ gây ô nhiễm các suối hồ trong vùng và nguồn nước cung cấp cho các thủy điện trên suối Đăk R’Tih. Với công suất mỗi dự án là 300 – 600 nghìn tấn alumina/năm, ô nhiễm do hàng chục triệu m3 nước bùn đỏ/năm rất nguy hiểm và xử lý rất tốn kém; sự kiện Vedan không thấm tháp gì so với nguy cơ này. Về hồ chứa bùn đỏ Trong quá trình sơ chế alumina, bùn đỏ được tách ra từ quặng còn đọng lại một lượng soude caustic có tác dụng ăn mòn và hủy diệt môi sinh nơi chứa nó, có thể làm hỏng các mạch nước ngầm tại lòng hồ và môi sinh của các vùng chung quanh; phương pháp xử lý là phải chôn trong các hồ lớn rồi phủ lên một tầng đất đủ dầy, xong trồng cây lên trên để chống phong hóa. Nhưng đặc điểm tự nhiên của vùng có các hồ chứa bùn đỏ của 2 dự án này là có địa thế cao, gió lớn về mùa khô và mưa nhiều về mùa mưa (thường là gấp đôi lượng mưa trung bình của cả nước). Việc giữ cho hàng triệu tấn bùn đỏ năm này qua năm khác trong các hồ chứa không bị gió bốc bay đi lung tung hoặc không trôi xuống các vùng chung quanh sẽ rất tốn kém và nhiều rủi ro nghiêm trọng. Chú ý, trong phòng thí nghiệm, tiến bộ công nghệ và khoa học kỹ thuật ngày nay hoàn toàn có khả năng xử lý vấn đề bùn đỏ và nước thải, được ứng dụng thành công phần nào trong thực tế ở quy mô nhỏ; tuy nhiên có hai vấn đề tồn tại lớn nan giải: (a) giá thành, (b)sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nơi có vấn đề phải xử lý. Vì vậy, đến nay chưa một nước nào trên thế giới có thể xử lý có hiệu quả thỏa đáng vấn đề bùn đỏ. Riêng nước Mỹ có tới 26.000 km sông suối bị ô nhiễm do khai thác mỏ chưa có cách gì giải quyết ở mức độ có thể chấp nhận được (Sheran – WME – Australia). Một số công nghệ hóa học hiện đại nhất hiện nay trên thế giới – ví dụ công nghệ Bauxsol - cũng chưa cho lời giải thỏa mãn, chi phí rất cao, đồng thời phát sinh vấn đề mới. Tại Úc đã có nơi nhà chức trách phải đình chỉ việc thực hiện công nghệ Bauxsol để nghiên cứu thêm (mỏ bô-xít ở địa phương Skytop Mountain – xem: RedOrit Jan. 20-2006 - PATTON TOWNSHIP)... Vì những lẽ này, và vì nhôm không phải là mặt hàng quý hiếm, nên không quốc gia nào trên thế giới coi bô-xít là khoáng sản chiến lược, không quốc gia nào dám chọn sản xuất nhôm làm chủ bài cho phát triển kinh tế. Cũng vì những lý do ô nhiễm, chỉ có 6% nhôm trên thế giới được sản xuất tại các vùng rừng nhiệt đới nhiều mưa, song thường là những nơi xa và thưa dân cư. Đáng chú ý, vừa qua phía Trung Quốc và tập đoàn TKV đã tổ chức một đoàn của Lâm Đồng đến tham quan mỏ khai thác bô-xít Bình Quả/Quảng Tây – thủ đô công nghiệp nhôm của Trung Quốc, nơi quặng có hàm lượng 0,65 (của Tây Nguyên là >0,5). Một phó chủ tịch huyện tham gia đoàn về kể rằng những gì thấy được là tuyệt vời, song chính Bình Quả cũng thừa nhận chưa giải quyết được thỏa đáng vấn đề bùn đỏ. Sắp tới sẽ có một đoàn như thế nữa cấp các Bộ và Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam đi thăm vùng mỏ khai thác bô-xít ở Bình Quả; thiết nghĩ nên đối chứng mỏ này với gần 100 mỏ bô-xít Trung Quốc đã đóng cửa gần đây (trong đó có một số mỏ ở vùng Hắc Long Giang, và các mỏ ở Hà Nam, ở Tịnh Tây / Quảng Tây) và những điều vừa nói trên về công nghệ Bauxsol. Ngoài ra Tây Nguyên là vùng cao và có gió mạnh, cung đoạn vận tải quặng từ mỏ về nơi tuyển rửa trung bình là 5 - 10 km, về mùa khô bụi đỏ sẽ tác hại một diện tích lớn rừng và cây trồng ở gần, đồng thời hủy hoại cảnh quan. Xin nhớ đến các vùng “Quảng Ninh đen” năm này qua năm khác toàn một mầu đen vì khai thác than để có thể hình dung tác hại của bụi và bùn đỏ.
Đất khai thác bô-xít (để lầm phèn chua) sau khi hoàn thổ ở Bảo Lộc: Không loại cây nào mọc được ngoài keo tai tượng. Đây chỉ là nơi có quặng bô-xít được đào đi, rồi lấy đất lấp lại, không phải là nơi chứa bùn đỏ. Ảnh: Nguyễn Trung
TIN LIÊN QUAN Bô-xít và hệ lụy môi trường ở Trung QuốcKhai thác bô-xít Tây Nguyên và bài toán về sự đánh đổiKhai thác Bô-xít: Lợi ích kinh tế, hậu quả môi trườngCái giá văn hoá-xã hội-chính trị của các đại dự án bô-xítĐại kế hoạch bô-xít: Lợi ích trước mắt, nguy cơ lâu dài Vấn đề năng lượng và vận tải Chế biến alumina cần một lượng than theo tỷ lệ 1 tấn than / 1 tấn alumina. Như vậy, mỗi dự án cần khoảng 300-400 nghìn tấn than / năm trong giai đoạn đầu, gấp đôi trong giai đoạn sau. Lấy từ đâu tới và đi đường nào? Đồng thời cũng phải vận tải một khối lượng như thế alumina từ nhà máy xuống cảng biển. Vận tải cho than và alumina của dự án Tân Rai dự kiến sẽ sử dụng giao thông đường bộ hiện có và sẽ xây cảng Kê Gà (Bình Thuận). Đường bộ hiện có rất khó cáng đáng thêm yêu cầu vận tải của dự án Tân Rai; cảng Kê Gà nếu được xây riêng cho alumina sẽ có thể tác động xấu đến môi trường du lịch của miền Trung. Vấn đề vận tải của dự án Nhân Cơ còn nan giải hơn, chưa có phương án dứt khoát (tất cả mới chỉ là dự kiến), nếu sử dụng đường bộ thì phải đi về hướng Bà Rịa – Vũng Tàu, rất xa và sẽ lâm vào tình trạng tương tự như của Tân Rai, nếu làm đường sắt chuyên dụng Đắc Nông – Bình Thuận thì chuyên gia bên Bộ Giao thông vận tải ước tính cần khoảng 3 tỷ USD (tập đoàn Than & Khoáng sản “TKV” dự trù là 1,3 tỷ USD). Ngoài ra còn phải cộng thêm kinh phí xây dựng cảng Kê Gà do TKV dự toán khoảng 530 triệu USD, sẽ lấy tiền ở đâu? Hơn thế nữa, xây một hệ thống đường vận tải và cảng như vậy chỉ để chuyên dụng cho sản xuất alumina là sự lãng phí cực kỳ to lớn, không một quốc gia nào dám làm, nhất là nước ta còn nghèo, đất chật, người đông. Hệ thống này, nếu muốn xây dựng, bắt buộc phải được kết hợp với phục vụ các mục đích dân sinh và kinh tế khác, rất tốn kém, quy hoạch và thiết kế đến bao giờ xong – trong khi nhà máy đã khởi công xây dựng? Về thủy điện để luyện nhôm hoàn toàn không khả thi, vì chỉ để sản xuất 100 nghìn tấn nhôm / năm – tương thích với lượng nhôm nhập khẩu tiêu thụ trong nước một năm - cần một nhà máy thủy điện có công suất là 300 MW, nghĩa là tương đương với nhà máy thủy điện Trị An (gần 400 MW). Như vậy giá thành của nhôm sẽ vọt lên như thế nào? Lấy đâu ra 5 hay 10 nhà máy thủy điện Trị An ở vùng cao nguyên này để sản xuất mỗi năm tối thiểu là 0,5 đến 1 triệu tấn nhôm để có thể tham gia thị trường với tính cách là quốc gia xuất khẩu nhôm? Trong khi đó thị trường nhôm thế giới rất phong phú cho nhu cầu của nước ta, dồi dào, đủ mọi chủng loại. Vấn đề hoàn thổ Dự tính diện tích phải hoàn thổ nơi khai mỏ của cả hai dự án lên tới 3000 ha ở giai đoạn I và sẽ lên tới 6000 - 7000 ha ở giai đoạn hai. Có thể thấy trước: Sẽ rất tốn kém nếu muốn có lại đất đai có thể trồng trọt được, song dù làm được cũng sẽ là những vũng loang lổ khắp rừng núi, mặt bằng chỗ cao chỗ thấp và nói chung là sẽ bị hạ thấp, cảnh quan hoang tàn. Những nơi hoàn thổ cũng cần phải vài chục năm mới có thể trồng trọt được bình thường nếu làm tốt việc cải tạo đất sau khi hoàn thổ, song hầu như chỉ thích hợp cho loại cây họ bạch đàn. Những điều vừa trình bầy, tôi rút ra từ thu thập thông tin trên thế giới và qua việc đến thăm mỏ khai thác bô-xít Bảo Lộc để sản xuất ra phèn chua trong chuyến đi này. Tại mỏ này cho thấy, sau 30 năm khai thác mới hoàn thổ được khoảng 2 ha trong tổng số 36 ha diện tích đã khai thác, rất tốn kém, chỉ thấy một loại cây keo tai tượng cao hơn một mét, hỏi được biết trồng các loại cây khác không sống được. Bài học về hoàn thổ trong việc khai thác than ở Quảng Ninh cho đến hôm nay vẫn là một ác mộng.
Cà phê đã trở thành một phần không thể thiếu của thảm thực vật Tây Nguyên (ảnh: thinkquest)
Thứ nhất, đó là nguy cơ chiếm dụng diện tích đất lớn, nhưng mang lại hiệu quả thấp, tạo ít việc làm trên một địa bàn kinh tế kém phát triển và nhạy cảm về xã hội. Thứ hai, dự án phải lưu giữ một khối lượng lớn bùn đỏ (bom bẩn) trên cao nguyên, gây ra nguy không chỉ về môi trường mà còn về an ninh. Thứ ba, dự án làm tổn thất hết sức nghiêm trọng nguồn nước hiện đang còn thiếu để phát triển các cây công nghiệp quý hiếm và rất có hiệu quả (cà phê, cao su, chè, điều…) Thứ tư, điều chắc chắn là môi trường và sinh thái sẽ bị thay đổi, trong khi hậu quả của sự thay đổi này chưa thể lường được. Nguy cơ chiếm dụng đất là không thể tránh khỏi Phần lớn, tới 95% bô - xít trên thế giới khai thác lộ thiên. Trong ngành mỏ, đây là phương thức khai thác đòi hỏi chiếm dụng nhiều đất, có tác hại huỷ diệt hệ thực vật và động vật (flora & fauna), làm xói mòn trôi lấp đất (soil erosion). Mức độ chiếm dụng đất của các dự án bô - xít trên Tây Nguyên rất lớn. Diện tích rừng & thảm thực vật bị phá huỷ trong khâu khai thác bình quân 30 - 50ha/triệu tấn bô - xít, diện tích mặt bằng bị chiếm dụng để tuyển bô - xít bình quân 150 ha/triệu tấn, và diện tích mặt bằng bị chiếm dụng để tuyển alumina 450 ha/triệu tấn. Việc chiếm dụng đất lớn, nhưng lại mâu thuẫn với việc tạo ra chỗ làm việc cho cư dân. Ví dụ, dự án Tân Rai có diện tích chiếm đất tới 4.200ha, nhưng chỉ tạo ra chỗ làm việc cho tổng số 1.668 lao động. Như vậy, bình quân dự án bô - xít cần 2,5ha để tạo ra một việc làm. Phần lớn các dự án trên thế giới (VN không là ngoại lệ) đều lẩn tránh việc xác định danh mục các ngành nghề của nhà máy alumina có thể phù hợp để sử dụng lao động tại chỗ. Các cơ sở sản xuất alumina về bản chất là các nhà máy hóa chất, đòi hỏi công nhân phải được đào tạo ở trình độ cao, với số lượng không cần nhiều, khả năng tạo ra chỗ làm việc là không đáng kể. Khâu khai thác bô - xít thì cần có mức độ cơ giới hóa cao, càng không thể tạo ra việc làm cho dân cư tại chỗ. Các chủ đầu tư thường vận hành các dự án bô - xít hay alumina bằng lực lượng công nhân được thuê từ nơi khác đến, vì rẻ hơn nhiều so với đào tạo cư dân tại chỗ. Điều duy nhất, như các chuyên gia thường đánh giá, các dự án bô - xít và alumina có thể tạo ra cho cư dân tại chỗ là chất thải và bùn đỏ. Bùn đỏ: là nguy cơ hiện hữu lớn nhất
Một hồ chứa bùn đỏ ở Ấn Độ từ khai thác bô - xít (ảnh: redmud.org)
Bùn đỏ (red mud) gồm các thành phần không thể hoà tan, trơ, không biến chất và tồn tại mãi mãi như Hematit (Fe2O3), Natri silico aluminate, Canxi titanat, Monohydrate nhôm (Al2O3.H2O), Trihydrate nhôm (Al2O3.3H2O)… Bùn đỏ là chất thải không thể tránh được của khâu chế biến bô - xít. Trên thế giới, chưa có nước công nghiệp phát triển nào (kể cả Mỹ) có thể xử lý được vấn đề bùn đỏ một cách hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của xã hội (chỉ đáp ứng được khả năng của nhà đầu tư). Australia là nước có lợi thế về địa hình (bằng phằng, có lớp đá gốc), khí hậu (rất ít mưa) và dân cư (rất thưa) thuận lợi cho việc chế biến bô - xít tại chỗ và chôn cất bùn đỏ. Ở Việt Nam, nếu chế biến bô - xít thành alumina trên Tây Nguyên sẽ bắt buộc phải tạo ra các hồ chứa bùn đỏ thường xuyên đe dọa tình hình an ninh trên địa bàn (các hồ “red mud” có thể bị biến thành bom bẩn “mud bomb”). Lượng bom bẩn tạo ra trên Tây Nguyên sẽ lớn gấp 3 lần lượng alumina thu được từ Tây Nguyên để xuất khẩu. Ngoài ra, còn phải thường xuyên tồn chứa một lượng lớn hoá chất độc hại (để chế biến bô - xít) trong các kho trên Tây Nguyên. Chỉ riêng dự án của công ty cổ phần Nhân Cơ, theo báo cáo đánh giá tác động môi trường, phần đuôi quặng nước thải và bùn thải có khối lượng tới hơn 11 triệu m3/năm. Dung tích hồ thải bùn đỏ 15 năm: 8.754.780m3. Tổng lượng bùn thải vào hồ: 1733 tấn/ngày. Lượng nước thải phải bơm đi từ hồ: 5.959.212m3/năm. Với qui mô như vậy, thiệt hại do vỡ đập không thể kiểm soát được, nguy cơ vỡ đập không thể lường trước được. Tương tự, dự án Tân Rai có lượng bùn đỏ thải ra môi trường: 826.944m3/năm, lượng bùn oxalat thải ra môi trường 28.800m3/năm, lượng nước thải ra môi trường (sau tuần hoàn) 4,625 triệu m3/năm. Khối lượng quặng bô - xít khai thác của dự án này lên tới 2,32 triệu m3/năm, dẫn đến nguy cơ tổng lượng bùn đỏ phải tích trên cao nguyên cả đời dự án Tân Rai 80-90 triệu m3. Nhưng tổng dung tích của hồ chứa của dự án chỉ có 20,25 triệu m3, số còn lại không biết chứa ở đâu? Ai sẽ là người chịu trách nhiệm về số bùn này: chủ đầu tư hay người dân địa phương? Nguy cơ làm mất nguồn nước không có gì thay thế Cả hai khâu tuyển bô - xít và tuyển alumina trên Tây Nguyên đều đòi hỏi rất nhiều nước. Dự án Nhân Cơ có tổng mức tiêu dùng nước 14,832 triệu m3/năm, trong đó để tuyển quặng cần 12 triệu m3/năm, để sản xuất alumina cần 2,4 triệu m3/năm, trong khi cấp cho sinh hoạt chỉ là 0,432 triệu m3/năm. Dự án Tân Rai có dự kiến xây đập chắn nước để đáp ứng nhu cầu của dự án khoảng 18 triệu m3/năm. Nước thải ra sau tuần hoàn là 4,625 triệu m3/năm. Như vậy, nguồn nước cho cà phê, cao su và các nhu cầu khác bị mất đi 13,375 triệu m3/năm. Nguy cơ thay đổi môi trường và sinh thái là đương nhiên Vấn đề môi trường chủ yếu liên quan đến các chất thải. Các chất thải không thể tránh được trong các dự án bô - xít gồm: (i) trong khai thác bô - xít, khối lượng chất thải rắn rất lớn, bình quân lượng đất đá phủ phải bốc lên và đổ thải 1m3/tấn bô - xít; (ii) trong khâu tuyển quặng bô - xít, lượng chất thải bình quân 1tấn/tấn quặng nguyên khai; (iii) trong khâu tuyển alumina lượng chất thải (gồm bùn đỏ, bùn oxalate, và nước thải) bình quân trên 2m3/tấn; và cuối cùng, (iv) trong khâu luyện nhôm, lượng chất thải độc hại (gồm chất thải cathode, phát thải fluoride) bình quân 1kg/tấn. Chúng ta hoàn toàn có thể xác định được cái giá phải trả (định lượng) về ô nhiễm môi trường của các dự án bô - xít trên Tây Nguyên trong tất cả các khâu. Về vấn đề sinh thái, ngoài các nguy cơ phá hủy môi trường tại chỗ, các dự án bô - xít alumina còn có những ảnh hưởng tiêu cực không thể tránh được đến hệ sinh thái trên qui mô rộng lớn. Trong khâu khai thác bô - xít, nguy cơ hiện hữu là thảm thực vật và động vật của Tây nguyên (Flora & Fauna) sẽ bị thay đổi. Trong khâu tuyển alumina nguy cơ hiện hữu là tiêu dùng nhiều nước, phải xây đập chắn, sẽ ảnh hưởng đến chế độ thủy văn của các dòng chảy. Các biến đổi dị thường về thời tiết và khí hậu khu vực miền trung có nguy cơ sẽ xẩy ra gay gắt hơn (thiệt hại do các biến đổi dị thường về thời tiết hiện nay đã tới 4000 - 5000 tỷ đồng/năm).
TIN LIÊN QUAN Lãnh đạo Đắk Nông: "Không làm thì bô - xít vẫn là đất thôi"!Mất và được trong việc khai thác bô - xít Tây NguyênCái giá văn hoá-xã hội-chính trị của các đại dự án bô-xítCuộc chơi của các "đại gia" bô - xít trên thế giới Đại kế hoạch bô-xít: Lợi ích trước mắt, nguy cơ lâu dàiĐại dự án bô - xít Tây Nguyên: người trong cuộc đề xuất gì?Nguy cơ hiện hữu trong các dự án bô - xít trên Tây Nguyên Đại kế hoạch bô - xít ở Tây Nguyên bị phản đối quyết liệt Khai thác bô-xít Tây Nguyên và bài toán về sự đánh đổi Khai thác Bô-xít: Lợi ích kinh tế, hậu quả môi trường Năm 2004, tại Ấn Độ đã diễn ra phong trào chống các công ty khai thác bôxit sau khi Chính phủ Ấn Độ, nước có trữ lượng bôxit lớn thứ sáu thế giới, cấp giấy phép cho 13 công ty đa quốc gia vào khai thác quặng bôxit tại bang Orissa. Các dự án khai khoáng đã ảnh hưởng tới 60.000 cư dân sinh sống trong vùng. Một diện tích đất nông nghiệp gần 1.000ha đã hoàn toàn bị hủy hoại. Theo Hiệp hội Bảo tồn sinh học nhiệt đới, những cảnh báo đã được đưa ra vào các năm 2006 và 2008 khi các công ty khai thác bôxit lăm le tấn công những vùng thiên nhiên được bảo tồn tại Surinam và Jamaica, lần lượt xếp thứ 5 và 10 trong số những nước có nguồn quặng bôxit dồi dào nhất. Để hạn chế thực trạng khai thác bôxit bừa bãi gây ảnh hưởng đến môi trường và duy trì nguồn bôxit của quốc gia, từ năm 2006 Chính phủ Trung Quốc đã thực thi quy định về “pháp lệnh nguồn tài nguyên khoáng sản”. Theo đó, các địa phương trên toàn quốc phải chấn chỉnh ngành khai thác mỏ, đặc biệt chú trọng đến việc khai thác bôxit. China Daily cho biết từ năm 2005 đến nay, Cục Bảo vệ môi trường quốc gia Trung Quốc đã xử lý hàng chục ngàn vụ gây ô nhiễm môi trường, trong đó đóng cửa hơn 100 mỏ khai thác bôxit trên khắp đất nước. Theo mạng bảo vệ môi trường Trung Quốc, cuối năm 2006 tỉnh Sơn Tây đã đưa ra quy định “quản lý nguồn tài nguyên khoáng sản trong vùng, trong đó chú trọng đến tiêu chuẩn khai thác bôxit trong vùng”. Nếu các doanh nghiệp khai thác bôxit không đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường, phục hồi đất đai và không đạt chuẩn sẽ bị cấm khai thác, nếu quy mô khai thác dưới 1.000 tấn sẽ bị đóng cửa hoặc không cấp phép khai thác mới. Ngoài ra các tỉnh như Sơn Đông, Quý Châu, Hà Nam còn quy định các doanh nghiệp đạt chuẩn khai thác bôxit phải có báo cáo đánh giá ảnh hưởng của môi trường địa chất xung quanh khu vực định khai thác, nếu đáp ứng được yêu cầu của cơ quan môi trường mới được cấp phép hoạt động. Chuyển hướng ra nước ngoài Theo trang web khai thác khoáng sản Trung Quốc, trữ lượng bôxit đã được thăm dò của Trung Quốc đạt khoảng 200 triệu tấn, chỉ chiếm 2% tổng trữ lượng bôxit của thế giới. Lượng bôxit này phân bố trên 20 khu vực và tỉnh thành, phần lớn các mỏ bôxit lớn tập trung ở các tỉnh Sơn Tây, Sơn Đông, Quý Châu và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Báo The Chinanews dẫn nguồn tin từ Tập đoàn Sản xuất nhôm Trung Quốc (Chinalco) cho biết nhằm đáp ứng nguồn cung ổn định cho các công ty sản xuất nhôm nội địa, hằng năm Trung Quốc phải nhập một lượng bôxit khá lớn, chiếm 1/3 tổng trữ lượng bôxit trong nước. Chính vì nhu cầu tiêu thụ quá lớn, nên ngay từ năm 2006 Chính phủ Trung Quốc đã “bật đèn xanh” cho các doanh nghiệp sản xuất nhôm đổ bộ khai thác bôxit ở nước ngoài theo kế hoạch “quốc tế hóa chiến lược kinh doanh” cho các doanh nghiệp.
TT - Lốc cốc. Lốc cốc. Lốc cốc... 1 giờ sáng. Người dân trong các con hẻm ở phường 5, quận Tân Bình, TP.HCM đã tắt đèn nhà, chìm trong giấc ngủ, nhưng cậu bé bán mì gõ vẫn cố gắng đi tìm khách. Tiếng mõ tre lúc lớn, lúc nhỏ, uể oải như bước chân trẻ thơ đã loạng choạng, mệt mỏi. Mùa xuân sắp đến, em phải cố gắng làm để còn hi vọng có chút tiền về quê xa. Mồ hôi trong đêm lạnh Đêm gần cuối năm trời TP.HCM se se lạnh, nhưng lưng áo cậu bé bán mì gõ vẫn ướt đẫm mồ hôi vì phải ròng rã đi bộ quá nhiều. Tôi dừng xe ngay vỉa hè ngã ba đường Cách Mạng Tháng Tám - Phạm Văn Hai, gọi tô mì để cậu bé có dịp nghỉ chân. Cậu bé van nài: “Anh thương em thì gọi giúp thêm mấy tô nữa. Chứ tối giờ mới bán được chút, chủ chưa cho nghỉ xả hơi!”. Tôi định tặng ít tiền nhưng cậu bé không chịu nhận: “Chủ bắt một đêm phải bán ít nhất được 50 tô. Anh có cho tiền thì em vẫn bị trừ lương vì bán chưa đủ mức yêu cầu”. Tôi đành gọi luôn bốn tô và nói cậu bé phải ăn phụ. Cậu bé hớn hở chạy đi, lát sau đã quay lại. Bốn tô mì, giá vỏn vẹn chỉ 24.000 đồng. Cậu tự trọng, dứt khoát thối lại 6.000 đồng cho tôi. Lúc này, tôi mới có dịp nhìn kỹ gương mặt già hơn vóc dáng bé xíu của cậu. Dè dặt mãi cậu mới chịu kể nhà ở tận quê biển Phú Yên. Ba đi biển chết, nhà cậu có bốn anh em nhưng người anh đầu lại “mát mát” không làm được gì. Mẹ cậu đan lưới cá, rồi bán thêm vé số nuôi cả gia đình. Cậu học hết lớp 5 thì xin mẹ cho nghỉ học, theo bạn vô TP.HCM đi làm. Mẹ khóc, dứt khoát không cho. Một đêm cậu trốn nhà, rồi viết thư về cho mẹ báo “đã xin được việc, ông chủ rất tốt bụng thương như con”. Nhưng thật ra cậu theo bạn bè đi phụ bán mì gõ lang thang khắp TP.HCM. Vì vậy, cậu chỉ giới thiệu mỗi tên Hải và khẩn khoản xin tôi đừng ghi rõ địa chỉ quê nhà. Cậu không sợ xấu hổ nhưng lo mẹ buồn! Lúc đầu Hải cầm mõ tre đi mời khách mua mì gõ quanh khu vực bến xe miền Đông. Chủ cậu bé là đôi vợ chồng quê Quảng Ngãi cũng làm thuê cho bà chủ N. ở quận 10. Bà N. có cả chục xe mì gõ, cho người thuê lại. Hải được “khoán” mỗi ngày phải cầm mõ, mời ít nhất 60 tô thì mỗi tháng sẽ có lương 300.000 đồng, nhưng cuối năm mới nhận một lần. Ngày làm việc của cậu bắt đầu từ buổi trưa phụ nấu nướng, chuẩn bị chén đũa. Xế chiều, cậu ra đường và phải cầm mõ tre rong ruổi đến 1-2 giờ sáng, tùy ngày bán nhanh hay chậm. Gần sáng về nhà trọ trong hẻm đường Bùi Đình Túy (quận Bình Thạnh), nhưng Hải chưa được ngủ ngay vì phải rửa dọn. Lăn ra chiếu, cậu ngủ li bì đến trưa vẫn thiếu giấc. Tính ra mỗi ngày chủ chỉ nuôi cơm Hải hai bữa trưa và tối, nhưng vẫn tiết kiệm không cho cậu ăn thêm nửa khuya. Những đêm đi gõ nhiều, cậu đói quá phải húp cả chút nước mì khách bỏ thừa. Ròng rã sáu tháng, Hải kiệt sức! Cậu xin lương sớm để ra đi. Kỳ kèo mãi bà chủ chỉ trả 900.000 đồng lương ba tháng mà còn lên giọng: “Đúng ra tao trừ hết tiền học nghề của mày. Cho ba tháng là phước lắm rồi nghen con”. Qua chủ mới, Hải được giảm “doanh số” mỗi ngày xuống còn 50 tô, khuya được ăn mì ế. Tuy nhiên, cậu vẫn phải mòn mỏi sải chân, gõ mõ đến 1-2 giờ sáng. Có đêm cậu bị sốt hầm hập vẫn phải cố tìm khách, nếu không sẽ bị trừ lương vì chủ bán ế. Gần ba năm lê la ở TP.HCM, Hải nhẵn mặt nhiều trẻ đồng cảnh. Bạn cầm mõ mì gõ phần lớn từ Quảng Ngãi, Quảng Nam, Phú Yên, Bình Định vào như thằng Tí “Bình Sơn”, Ngọc “Đức Phổ”, Khánh “Trà My”, Phi “Tuy Hòa”... Đứa nào cũng còi cọc, xanh mét giống nhau vì phải thức khuya, đi bộ nhiều. Lương trung bình 300.000 đồng/tháng, cao lắm cũng chỉ 400.000 đồng. Bọn trẻ ngán nhất là đêm khuya hay bị bọn nghiện, lưu manh ăn quỵt. Cách nay một tháng, Phi “Tuy Hòa”, 16 tuổi, bị một đám người nhậu nhẹt ở bờ kênh Nhiêu Lộc ăn quỵt gần chục tô mì. Nước mắt trẻ thơ Trẻ làm phụ may đến khuya ở một cơ sở may tại quận Bình Tân - Ảnh: Quốc Việt Những ngày đi thực hiện bài viết này, tôi gặp rất nhiều trẻ quê đang bị chủ lao động vắt sức trong nhiều công việc khác nhau ở TP.HCM. Đông nhất là trẻ bán vé số. Đó là những đứa trẻ thường rất nhỏ tuổi, mỗi ngày chúng được giao “doanh số” ít nhất 200 tờ. Nếu bán hết, chúng được về ngủ chung với nhau ở nhà trọ do chủ thuê sẵn, nhận lương 400.000-500.000 đồng/tháng và được ăn cơm chủ nấu. Tính ra lương của chúng chưa bằng 1/3 tiền hoa hồng của người có tiền mua đứt bằng ấy vé số đại lý để bán lại. Nhưng những đứa trẻ quê vẫn phải chấp nhận bán rẻ sức lao động vì chúng không có vốn, cần một chỗ ăn ở ổn định và có người lớn “đỡ đầu” khi xảy ra tranh chấp địa bàn. Trẻ bán vé số thuê cũng làm việc 16-18 giờ mỗi ngày. Chúng phải cầm vé số lang thang ra đường từ lúc mặt trời chưa mọc để bán cho những người uống cà phê, tập thể dục sớm. Đến gần 5 giờ chiều, chúng lại nhận vé số mới tiếp tục đi bán đến gần nửa đêm. Cậu bé Nguyễn Thế Hòa, 13 tuổi, quê huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), kể hồi mới vào TP.HCM đi bán vé số, hai đầu gối bị sưng gần cả tháng do phải đi bộ nhiều quá. Nhiều đêm về nhà trọ ở phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, cậu rã rời, buồn ngủ díp mắt, nhưng cứ chảy nước mắt với đầu gối sưng đau. Không có thuốc men, bạn cậu bày cách rót nước nóng vô ca nhôm rồi áp vào đầu gối cho giảm đau. Thân phận bán vé số thuê của những đứa trẻ quê phải đối mặt nhiều rủi ro như ngày mưa ế ẩm, tai nạn giao thông, đánh nhau giành giật địa bàn, nhưng nỗi ám ảnh lớn nhất của chúng là bị giật vé số. Mười trẻ bán vé số ở TP.HCM mà tôi hỏi thăm thì ít nhất có bảy đứa kể đã bị giật một vài lần. Tháng trước, bé Hòa bị một người giật một lúc hơn 100 tờ vé số ở phố nhậu Lữ Gia. Chủ trừ thẳng cậu một tháng lương. Nhưng bé Thái, bạn cùng quê với cậu, còn khổ hơn. Vừa lấy xấp vé số ra đường, cậu bị hai đứa tóc vàng đi xe máy dừng lại gạ mua, rồi giật phắt. Cậu cố giằng lại thì bị hai thanh niên vừa đấm vào mặt vừa la “đồ ăn cắp”. Đến khi người đi đường thấy bất nhẫn xúm đến thì hai đứa phóng xe đi mất, để lại thằng bé đầm đìa nước mắt lẫn với máu mũi, máu miệng. Về nhà trọ, cậu còn bị chủ trừ hết ba tháng lương vì mất 300 tờ vé số! Mỗi đứa bé phải lao động sớm đều có hoàn cảnh, nỗi niềm khổ sở. Tôi cứ ám ảnh mãi đôi mắt mệt mỏi, già nua trước tuổi của cậu bé Nguyễn Văn Tú, 14 tuổi, quê ở thôn Phương Diên, xã Phú Diên, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế. Nhà Tú có bốn anh em. Cha đi biển không nuôi nổi các con. Chị Tú mới 15 tuổi đã phải vào may trước rồi dẫn em theo. Tú được giới thiệu “học nghề” không lương đằng đẵng ba năm trong một cơ sở sơn mài ở quận 12. Cậu phải làm những việc độc hại từ 7g-21g30, nhưng mỗi tuần chủ chỉ cho 10.000 đồng để “tự giải trí”. Cậu bé lặng lẽ cho tôi xem đôi chân và bàn tay làm lâu ngày bị vecni thấm sậm vào da. Đôi mắt trẻ ngấn nước, u uẩn nỗi buồn trước tuổi. QUỐC VIỆT Báo Tuổi Trẻ
Baó chí quôc´tê´còn đăng nhiêù hơn nữa kia .