Việc ngân hàng nhà nước TW thay đổi cán bộ cấp cao Agribank nhằm chấn chỉnh công tác quản lý điều hành là hoàn toàn hợp lý . Với một loạt sai phạm từ hoạt động của Agribank như anh Boomboomboom nói ở trên cơ quan pháp luật không thể nào bỏ qua . Tuy nhiên với đoạn cuối của anh 3B thì hơi quá , quan điểm của tôi : tôi rất trân trọng những con người có ý chí phấn đấu đi lên từ năng lực của họ, từ bảo vệ mà tự học hành trở thành một tổng giám đốc đâu phải là tội hoặc là một lãnh đạo dốt nát , mà đó là một tấm gương sáng ấy chứ. Tôi chỉ là một nhân viên của Agribank được 20 năm thôi nhưng cũng mạo muội góp một tí quan điểm chủ quan của cá nhân mong anh 3B thông cảm, ngoài những vấn đề thâm cung bí sử tôi không được biết thì Tổng giám đốc Tân cũng chỉ mới nhận nhiệm vụ điều hành thôi nhưng mũi dại thì lái chịu đòn, cán bộ thừa hành cố ý làm sai thì người đứng đầu phải chịu. Tôi ao ước gì việc áp dụng hình thức này được phổ biến rộng rãi với những chi nhánh thì hay biết mấy . Chẳng hiểu các lãnh đạo Ngân hàng nhà nước hoặc bí thư Lê Thanh Hải có biết trang web này mà vào xem không nhỉ?
Thiên hạ xưa nay cứ xem Napoleon Bonaparte là viên chỉ huy pháo binh giỏi nhất, chuyên dùng pháo bắn tập trung để tạo nên đột biến trên chiến trường.Nhưng trong các tướng lĩnh Đại Việt cũng có một vị danh tướng có chung mưu lược của Napoleon Bonaparte, và vì vậy chỉ một đòn tập trung hỏa lực pháo binh đã khiến quân thù tan tác, trước cả khi Napoleon Bonaparte ra đời.Hỏi vị tướng đó là ai và ông đã dùng đòn hiểm ấy trong trận đánh nào?
Rất cảm ơn câu trả lời của bạn. Nhưng có một sự thật không thể che dấu được là anh Tân từ việc tự đi học IT để một bước nhảy phắt từ nhân viên bảo vệ thành phó phòng Kế toán Chi nhánh Cam Ranh. Sau đó theo con đường IT, cùng với mối quan hệ nhân duyên (cái này chắc bạn phải rõ hơn tôi) anh Tân tiến nhanh trên con đường quan lộ. Nhưng anh Tân trước khi làm TGĐ là Phó tổng phụ trách IT, nhưng IT Agrebank chưa khi nào được đánh giá cao, và nhiều người tôi biết rất giỏi đã phải rời IT Agrebank ra đi do không được trọng dụng. Anh Tân một thời gian dài làm Chủ tịch HĐQT BanknetVN, Tổng GĐ BanknetVN là một người thuộc hàng siêu giỏi là anh Đặng Mạnh Phổ. Nhưng mọi đề xuất thay đổi của anh Phổ đều bị anh Tân bác, kết quả là mặc dù với vô vàn lợi thế nhưng BanknetVN bị Smartlink qua mặt, thậm chí cả VNBC thách thức. Người ủng hộ nhiệt thành cho ý tưởng biến BanknetVN thành trung tâm chuyển mạch QG, người nâng đỡ từng bước chân cho anh Tân là bác Giàu mà rồi cũng đành chấp nhận để Smartlink chia sân, vì mặc dù quyền có, tiền có, nhưng lại không có năng lực khai thác.
Bạn hãy tự kết luận cho mình trước những cái hiển nhiên bày ra như thế.
Cũng nên comment thêm với bạn là người ta biết cả đấy. Nhưng không ai có thể trèo lên trên nhóm lợi ích được. Cách đây không lâu VCB điêu đứng vì topic "Ghét VCB" bên "chuyện đời" là một ví dụ điển hình.
Dư luận bất ngờ trước việc chuyển đổi mau lẹ này, song với những người am hiểu luật pháp thì không. Bởi trước đó các cơ quan pháp luật đã liên tiếp phát hiện những sơ hở, cố ý làm trái và tham nhũng ở các chi nhánh trực thuộc đơn vị này, như vụ bắt giữ ba cán bộ Agribank Tân Bình thiếu trách nhiệm, làm trái, gây thất thoát cho Nhà nước 120 tỷ đồng. Cùng với đó là vụ việc ở Công ty cho thuê tài chính II, một công ty con của Agribank tại TP HCM, đã gây thiệt hại cho Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng.
Trước đó nữa còn ít nhất bốn vụ án khác do các cán bộ Agribank các chi nhánh tại TP HCM gây ra, như vụ Trần Thị Hà cùng đồng phạm gây thiệt hại 18 tỷ đồng và 3.000 lượng vàng tại Agribank Chợ Lớn; vụ Nguyễn Thị Thu Hà và đồng phạm gây thiệt hại 18,8 tỷ đồng tại Agribank quận 8; vụ Phạm Thị Thật và đồng phạm gây thiệt hại 2 tỷ đồng tại Agribank Củ Chi, vụ Đới Sỹ Thuỷ gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng tại chi nhánh 3 của Agribank TP HCM....
Hành vi phạm tội dồn dập trên cùng một địa bàn của các cán bộ thuộc một NHTM lớn của nhà nước không thể không đặt ra các câu hỏi lớn về công tác quản lý của Agribank. Phải chăng quy chế nội bộ của đơn vị này lỏng lẻo hay các sơ hở không được phát hiện, chấn chỉnh kịp thời?
Câu trả lời đã khá rõ ràng. Trước tình hình bất ổn tại các đơn vị Agribank tại TP HCM đe doạ sự ổn định chung, đầu năm ngoái Bí thư Thành uỷ TP HCM Lê Thanh Hải đã có ý kiến chỉ đạo VKSND TP HCM tiến hành rà soát và kiến nghị giải pháp phòng ngừa tội phạm tại các đơn vị thuộc Agribank. Ngày 21-5-2011, VKSND TP HCM đã có văn bản (số 141) gửi Tổng giám đốc Agribank kiến nghị chấn chỉnh công tác quản lý thông qua các vụ việc đã phát hiện. Đáng nói là một trong những nguyên nhân được cơ quan pháp luật chỉ rõ là một số quan chức tại các chi nhánh Agribank không chỉ thiếu trách nhiệm mà còn cố ý làm trái các quy định của ngân hàng...
Đáng tiếc, bốn kiến nghị cụ thể của VKSND TP một năm trước đây đã chậm được tiếp thu, để các sai phạm sau đó vẫn lặp đi, lặp lại và hậu quả ngày một nghiêm trọng. Điều đó khiến cho cơ quan quản lý tiền tệ nhà nước không thể không có biện pháp xử lý, mà “thay tướng” Agribank mới chỉ là việc khởi đầu.
Trời ơi, hai tấm gương phấn đấu sáng ngời của ngành Ngân hàng: một là Tổng Giám đốc Lê văn Sở, từ chú bé chăn trâu thành Tổng Giám đốc, đã được quay về...tiếp tục chăn trâu. Nay thêm Tổng Giám đốc Nguyễn Thanh Tân, từ một bảo vệ Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Cam ranh, trở thành Tổng Giám đốc, nay liệu sẽ trở về làm bảo vệ hay...sẽ bị "bảo vệ" nghiêm ngặt hay chăng?
Vậy, CPI được định lượng thông qua sự biến đổi tổng số tiền phải bỏ ra để mua một "rổ hàng hóa",thông thường là các danh mục hàng hóa thiết yếu phục vụ cho cuộc sống. Nó không phản ảnh sức mua (tổng giá trị tuyệt đối số lượng hàng hóa dịch vụ mua sắm), mà nó mô phỏng gần đúng tình trạng lạm phát, vì ngày hôm nay người dân sẽ phải bỏ một lượng tiền lớn hơn để đảm bảo mức sống đúng với mức sống ngày hôm qua. Vì vậy, CPI là thứ tốt nhất để làm chỉ số đo lường lạm phát.
Chính phủ ta thật là sáng suốt, đúng đắn nếu rổ hàng hóa bao gồm những thứ như điện thoại di động, TV, nồi cơm điện, quạt điện v.v... nhưng nếu chọn rổ bao gồm gạo, thịt lợn, rau củ quả...thì than ôi, chúng ta đang bị các thế lực thù địch phản động phá hoại gắt gao.
Câu hỏi hôm nay: Trong danh sách trạng nguyên Việt Nam ai đứng đầu, ai đứng cuối theo thời gian. Và ai được nhiều giải Trạng nguyên nhất (tất nhiên là do đi thi, chứ không phải được vua ban thưởng)
Lão 3B dành cho các bạn một câu hỏi khó (đặc biệt nếu người trả lời được là Zoe).
"Trong triều Trần những vị nào được phong Thánh (Có Thánh hiệu, có đền thờ riêng). Nêu rõ Thánh hiệu, đền thờ, họ tên thật của các vị đó?"
Tập đoàn quân thứ hai của Lục quân Đế quốc Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Nguyên soái Ōyama Iwao, và bao gồm Sư đoàn Lâm thời thứ hai (Sendai) của Trung tướng Sakuma, và Sư đoàn Lâm thời thứ 6 (Kumamoto) – không có Lữ đoàn 12 vẫn còn ở Lữ Thuận Khẩu, dưới sự chỉ huy của Trung tướng Kuroki Tamemoto đã đổ bộ mà không vấp phải sự chống cự tại Jungcheng (Cựu Dung Thành ngày nay) ở tỉnh Sơn Đông từ ngày 20 – 24 tháng 1 năm 1895. Lục quân Nhật Bản cùng kéo về đồn Uy Hải dọc hai con đường, gặp phải sự kháng cự quyết liệt của Lục quân Bắc Dương Trung Quốc, phòng thủ thị trấn này với 60 khẩu đội pháo tại 12 công sự mặt đất, và có thể kêu gọi hỗ trợ từ những chiến thuyền bỏ neo cách bờ biển 2000 mét. Thiếu Tướng Nhật Bản Odera hy sinh trong nỗ lực chiếm được thành, kéo dài 9 giờ đồng hồ vào ngày 1 tháng 2 năm 1895, và ngôi thành bị bỏ lại đã bị quân đội Nhật chiếm ngày sau đó. Thế là Hải quân Trung Quốc bị vây cả hai mặt thủy bộ.
Khi thất bại của quân Trung Quốc đã rõ ràng, Đô đốc Nhật Bản Ito Sukeyuki đưa ra lời yêu cầu với Đô đốc Hạm đội Bắc Dương Đinh Nhữ Xương, hai người là bạn về mặt cá nhân. Trong bức thư này, ông thể hiện sự hối tiếc rằng những người bạn cũ vì nghĩa vụ mà phải gặp nhau trong cảnh thù địch, khâm phục tinh thần yêu nước sáng ngời của Đinh đô đốc bằng cách chỉ ra chính sách rút lui mà Đinh đã được chỉ thị để phòng thủ chỉ có thể kết thúc trong thảm họa, và rồi ông khuyên người bạn của mình tránh một thất bại chắc chắn và việc mất mạng không cần thiết bằng cách đầu hàng có điều kiện. Ito còn khuyên Đinh trở thành khách danh dự của nước Nhật cho đến hết chiến tranh, và sau đó trở về quê hướng để giúp Trung Quốc thi hành những chinhs sách của mình với nền tảng vững chắc. Khi Đinh đọc bức thư này, ông bị tác động mạnh mẽ và nói với thuộc hạ của mình: “Giết ta đi”, ý rằng ông muốn chết một mình và để những người khác đầu hàng. Đinh đáp lại: “Tôi rất cảm ơn tình bạn của ngài Đô đốc, nhưng tôi không thể từ bỏ trách nhiệm của mình với quốc gia. Điều duy nhất còn lại tôi cần làm là được chết."
Hạm đội Nhật Bản bắt đầu chuỗi tấn công từ ngày 7 tháng 2 năm 1895. Các cuộc tấn công ban đêm của thuyền phóng lôi Nhật Bản đánh chìm tàu Đinh Viễn và 3 tàu lớn khác. Trong số 13 tàu phóng lôi Trung Quốc cố chạy đến Yên Đài, 6 bị tiêu diệt và 7 bị bắt giữ. Tàu Ching-yuen bị đánh chìm ngày 9 tháng 2 năm 1895.
Sáng ngày 12 tháng 2 1895, Đinh đô đốc chính thức đầu hàng với những con tàu còn lại của Hạm đội Bắc Dương trên cảng và những đồn mà quân Trung Quốc còn giữ. Đinh yêu cầu người Trung Quốc, các cố vấn quâ sự, binh lính, và thường dân trên đất liền và trên biển ở quanh Uy Hải Vệ được rời đi mà không gặp sự cản trở, và đề xuất chỉ huy đội tàu chiến Anh-Trung sẽ bảo đạm việc thực thi điều kiện đầu hàng một cách trung thực.
Khi nhận được lá thư, Đô đốc Ito tổ chức một cuộc họp, nhiều sĩ quan của ông (cũng như các sĩ quan Lục quân) khuyên rằng không nên để người Trung Quốc đi, mà phải bắt làm tù binh chiến tranh. Tuy vậy, Đô đốc đánh giá rất cao nhân cách của Đinh Nhữ Xương và cống hiến của ông cho đất nước và đồng cảm sâu sắc với vị thế khó khăn của Đinh đô đốc, vì thế ông nhấn mạnh rằng, yêu cầu của Đinh đô đốc được chấp nhận. Sau trận đánhĐinh Nhữ Xương từ chối lời đề nghị cá nhân của Ito về việc tị nạn chính trị tại Nhật Bản và tự sát.
Cờ Nhật được kéo lên trên các con tàu đã đầu hàng: chiến hạm Zhenyuen, tuần dương hạm Ping-yuen, Tsi-yuen, và Kwang-ping, và 6 pháo hạm. Với việc Uy Hải Vệ thất thủ và hải quân Nhật Bản hoàn toàn tiêu diệt Hạm đội Bắc Dương, và dành quyền kiểm soát tuyệt đối vịnh Bột Hải.
Trận cửa sông Áp lục, đánh quỵ hạm đội mạnh nhất Trung Quốc.
Ngày Ngày 17 tháng 9 năm 1894
Vị trí Gần cửa sông Áp Lục - biển Hoàng Hải
Kết quả Nhật Bản chiến thắng quyết định
Các bên tham chiến
Hạm đội Bắc Dương
Chỉ huy
Đinh Nhữ Xương
Liu Buchan
Sức mạnh
2 thiết giáp hạm hạng nặng
7 tuần dương hạm
1 tầu hộ vệ
2 pháo hạm
2 tầu phóng ngư lôi
Thương vong và thiệt hại
850 người thiệt mạng
500 người bị thương
5 tàu chìm
3 tàu bị hư hỏng
Hạm đội Đế quốc Nhật Bản
Chỉ huy
Sukeyuki Ito
Tsuboi Kozo
Sức mạnh
1 thiết giáp hạm hạng nhẹ
8 tàu tuần dương hạng nặng
1 tầu hộ vệ
1 pháo hạm
1 tuần dương hạm nhẹ
Thương vong và thiệt hại
190 người thiệt mạng
200 người bị thương
4 tàu bị hư hỏng
Trận chiến sông Áp Lục - Trận biển Hoàng Hải diễn ra vào ngày 17 tháng 9 1894 giữa Hạm Đội Bắc Dương ?" Trung Quốc với Hạm đội Đế quốc Nhật Bản, và đây là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất. Con sông Áp Lục tạo thành một biên giới thiên nhiên giữa Trung quốc và Triều Tiên, dù thực có tên là trận chiến sông Áp Lục nhưng trận chiến thực sự lại nổ ra ở phía cửa con sông này và trong biển Hoàng Hải. Hạm đội Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sukeyuki Ito đã cố gắng phá rối cuộc đổ bộ của quân đội Trung Quốc được bảo vệ bởi một hạm đội dưới sự chỉ huy của Đô đốc Đinh Nhữ Xương.
Trận chiến kéo dài khoảng 1 ngày. Trong khi đây không phải là trận chiến đầu tiên có ứng dụng các kỹ thuật Tiền-Dreadnought trên quy mô rộng (Trận Foochow năm 1884 giữa Hạm đội Pháp và Hạm đội Trung Quốc đã diễn ra trước đó), vẫn có những bài học quan trọng cho các nhà phân tích hải quân để xem xét.
Trên giấy tờ, hạm đội Trung Quốc có các tàu hạng nặng và có nhiều súng cớ nòng mười inch và tám-inch (203 mm). Tuy nhiên, các pháo thủ của tàu Trung Quốc đã không được tổ chức thực hành thuật súng trong nhiều tháng trước, và các đội pháo thủ Trung Quốc cũng không chuẩn bị để đối mặt với sự căng thẳng khi nổ súng. Sự tham nhũng dường như cũng đã đóng một vai trò cực kỳ quan trọng; nhiều quả đạn dường như chỉ được nhồi đầy bằng mùn cưa hoặc nước, một số sĩ quan Trung Quốc đã bỏ chạy khỏi khu vực chiến sự, một chiếc tàu dường như đã sử dụng súng của nó để lưu trữ dấm chua, và ít nhất trong một trường hợp, một cặp súng 10-inch (254 mm) dường như đã bị bán ra thị trường chợ đen để lấy tiền mặt.
Vào thời gian này, người Nhật đã khá tự tin vào khả năng của chính họ. Tuy nhiên người Trung Quốc vẫn có một số cố vấn và giảng viên người nước ngoài. Đặc biệt là thiếu tá người Đức Von Hanneken đã được bổ nhiệm làm cố vấn hải quân cho Đô đốc Đinh Nhữ Xương. W. F. Tyler, một thiếu úy trong lực lượng dự bị của Hải quân Hoàng gia kiêm sĩ quan hải quan Anh được bổ nhiệm làm trợ lý của Von Hanneken. Philo McGiffen trước đây là một trong nhân viên mật mã trong lực lượng Hải quân Hoa Kỳ và kiêm luôn là một giảng viên tại học viện hải quân Wei-Hải-Wei Trung Quốc được bổ nhiệm đển chiếc Chen Yuen như là một cố vấn kiêm đồng chỉ huy.
Trước khi trận chiến với Hạm Đội Nhật Bản nổ ra, các tàu thuyền và vũ khí của hạm đội Trung Quốc đã được kiểm tra, và các tàu đã được sơn lại. Philo McGiffin lưu ý rằng vào thời điểm đó, các tàu của Trung Quốc đã được sơn thành mầu xám ?" để tạo khả năng tàng hình, mặc dù các bức ảnh hiện đại cho thấy một thân tầu mầu tối và phần trên cao có mầu sáng, do đó có lẽ chỉ có phần màu trắng ở phía trên con tầu và các mới được sơn lại màu xám, còn phần vỏ tầu vẫn giữ màu đen. McGiffen cũng lưu ý rằng phần lớn trong số thuốc súng dự trữ đã ?o được lưu cữu đến mười ba năm và đã bị hỏng" Các lớp vải mỏng che phủ các khẩu đội pháo trên một số con tàu đã bị bỏ ra, và chúng đã vỡ ra từng mảng khi trúng đạn. Chiếc Tsi Yuen trở về cảng sau khi giao chiến với Hạm Đội Nhật Bản đã cho thấy một loạt vấn đề.
Đô đốc Sukeyuki Ito chỉ huy Hạm đội Nhật Bản ở trên chiếc tàu tuần dương Matsushima, chiếc này được hai chiếc tàu thông báo hạm làm hộ tống; đó là hai chiếc tầu Sei-kyo do thuyền trưởng người Anh John Wilson chỉ huy và chiếc pháo hạm Akagi. Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nhật Bản, Đô đốc Kabayama Sukenori cũng cùng làm một chuyến thanh tra trên chiếc Saikyō. Phần còn lại của hạm đội chính bao gồm các tuần dương hạm Chiyoda, Itsukushima, Hashidate, Fusō và Hiei. Một hải đội tầu xung kích có tốc độ cao, bao gồm các tuần dương hạm Yoshino, Takachiho, Akitsushima và Naniwa dẫn đầu các tàu của Nhật Bản.
Đội tầu Nhật Bản tiến về phía đội tầu Trung Quốc với hải đội xung kích ở hàng đầu theo đội hình dòng phía sau (line astern formation) với các tầu thông báo hạm tiến lên ở mạn trái của hải đội thứ hai, đây là hải đội chính có những tầu xương sống của hạm đội. Người Trung Quốc chia tầu thành hai hải đội trong đội hình sát cánh nhau với phần lớn các tàu chiến tập trung vào trong hải đội một, "hải đội xung kích đầu tiên" bao gồm các chiếc Tsi Yuen, Kuang Chia, Chih Yuen, King Yuen, Dingyuan, Chen Yuen, Lai Yuen, Ching Yuen, Chao Yung và Yang Wei. Hải đội thứ hai, "Hải đội chính", bao gồm các chiếc Kuang Ping và Ping Yuen cùng với một vài pháo hạm hoặc tàu phóng ngư lôi.
Việc tạo đội hình dòng phía sau (line astern formation) ngăn cản việc các thiết giáp hạm Trung Quốc đóng ở phía trung tâm bắn vào tầu Nhật Bản vì có những tầu nhỏ chắn giữa họ và đối thủ của họ trong lúc này. Đồng thời, những tầu nhỏ hơn, trang bị yếu hơn các tàu bọc thép đã bắt đầu trúng những pháo lớn có tầm bắn xa từ tàu chiến của Nhật Bản. Ngoài ra, khi các hải đội Nhật tách ra, với Phi đội xung kích dẫn đầu quay về phía nam của hạm đội Bắc Dương trong khi đó hải đội chính di chuyển chậm hơn và giữ hướng tiến thẳng vào đánh vỗ mặt Hạm đội xung kích của Trung Quốc, các thiết giáp hạm của Trung Quốc trong hải đội chính bị buộc phải phân tán hỏa lực ở giữa hai nhóm.
Một số giải thích khác nhau đã được đưa ra để giải thích tại sao hạm đội Bắc Dương đã không thay đổi hình của mình để phản ứng với các chiến thuật Nhật Bản hiệu quả hơn. Theo các ghi chép của Trung úy Hải quân Hoàng gia William Ferdinand Tyler, một cố vấn của chiếc Dingyuan (Định viễn), đây có vẻ là ghi chép tốt nhất có trình độ và căn cứ nhất. Nó nói rằng "Đô đốc Đinh Nhữ Xương ra lệnh cho tàu của mình đổi hướng theo cách mà đã có thể làm lộ chiếc kỳ hạm của ông, nhưng làm cho phần còn lại của đội tầu ở trong một vị trí tốt để nổ súng vào hạm đội Nhật Bản " Tyler nói vậy, tuy nhiên,. rằng thuyền trưởng của chiếc Dingyuan cố tình không chấp nhận mệnh lệnh này hoặc không thông báo nó đển phần còn lại của đội tàu.
Chiếc Dingyuan nổ súng vào tầu Nhật Bản khi khoảng cách giữa các con tầu là khoảng 6.000 yard (5.500 m). Điều này hoá ra là một loạt bắn tai hại một cách không đáng có đối với chiếc kỳ hạm của Trung Quốc. Khi Hải quân Đức mang chiếc Dingyuan đi để bắn thử súng vào năm 1883 (chiếc Dingyuan được đóng ở Đức) Họ ghi nhận rằng súng chính của con tầu không nên được bắn từ một hướng thẳng phía trước (ahead bearing). Bắn từ một phía hướng thẳng phía trước dẫn đến sự hư hỏng đài chỉ huy (có thể là do sức giật khủng khiếp của khẩu súng), và Đô đốc Đinh Nhữ Xương đã trở thành một nạn nhân từ phát bắn đầu tiên của tầu mình cùng với một số sỹ quan khác trên đài chỉ huy
Hạm đội Trung Quốc đã nổ súng vào các tầu Nhật Bản khi họ đi qua từ mạn trái sang mạn phải vượt qua mũi của các tàu Trung Quốc. Họ không tạo ra được thiệt hại đáng kể nào vào tầu Nhật Bản từ các khẩu súng 12 inch (305 mm) và 8,2 inch (208 mm) của họ. Tại khoảng cách 3000 yard (2700 m) (tầu Trung Quốc lúc này khả năng đã hết đạn), người Nhật tập trung hỏa lực của họ vào cánh phải của dòng tầu Trung Quốc, với những loạt bắn dữ dội vào đầu tiên là chiếc Chao Yung và sau đó là chiếc Yang Wei.
Cả hai tàu này bắt đầu bốc cháy và một số người đã quy nguyên nhân là do có quá nhiều các lớp dầu sơn bóng và được sơn trong nhiều năm. Trong mọi lý do thì đây chỉ các tầu gỗ đã lỗi thời chỉ được bảo vệ vùng thân tàu với chỉ một lớp giáp kim loại. Chúng không thể chịu nổi đạn pháo hiện đại của Nhật Bản. Người Nhật Bản có toan tính về việc phân chia một cách nhịp nhàng hải đội xung kích ra để bao vây cánh phải của tuyến tầuung Quốc theo một kiểu quây vòng tròn nhưng sự xuất hiện kịp thời của các chiếc Kuang Ping và Ping Yuen cùng với hai chiếc pháo thuyền Fu Lung (đóng tại Schichau) và tầu phóng ngư lôi Choi Ti, một chiếc tầu được đóng bởi Yarrow đã làm tầu Nhật Bản phải đổi hướng sự cơ động.
Các tàu tuần dương tốc độ cao của người Nhật vượt qua mạn trái và sau đó theo lệnh của Ito được điều đến để hỗ trợ cho chiếc Hiei, Saikyō và Akagi nên không thể theo kịp với dòng tầu chính và sau đó đã tham gia vào tấn công các tầu cánh trái của tuyến Trung Quốc. Ngay từ đầu trận đánh cột tín hiệu của chiếc Dingyuan đã bị phá hủy, việc này đã gây nhiều nhầm lẫn hơn nữa trong các tàu của Trung Quốc. Hạm đội Trung Quốc phần nào đã dự đoán được tình hình xảy ra và lập thành ba cặp đôi để các tầu cùng hỗ trợ lẫn nhau và tiếp tục cuộc chiến.
Hạm đội Nhật Bản, về phần nó đã tàn phá Hạm đội Trung Quốc mặc dù họ còn trúng nhiều đạn hơn đội tầu Trung Quốc, nhưng với đạn pháo tốt hơn. Nhật Bản làm bốc cháy nhiều vỏ tàu của Trung Quốc và đã làm chìm hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho tám con tầu của hạm đội Bắc dương hoặc toi ngay trong thời gian trận chiến hoặc nghím trong thời gian sau đó.
Hậu quả của trận sông Áp Lục
Người Nhật Bản đã đánh chìm 5 tàu chiến Trung Quốc đánh hỏng nặng 3 chiếc khác, giết khoảng 850 thủy thủ Trung Quốc và làm bị thương 500 người. Chiếc Ting Yuen có nhiều thương vong nhất trong số những con tầu vẫn còn nổi được của Trung Quốc với 14 người chết và 25 người bị thương.
Tầu Trung Quốc đã đánh bị thương ngiêm trọng bốn tàu chiến Nhật Bản ?" chiếc kỳ hạm Matsushima là con tầu phải chịu những tổn thất tồi tệ nhất với hơn 100 người chết và bị thương sau khi bị trúng một phát đạn pháo hạng nặng của Hạm Đội Trung Quốc; chiếc Hiei cũng bị hư hỏng nặng và phải từ giã trận chiến, chiếc Akagi bị cháy lớn và có những mất mát lớn về nhân sự; chiếc Saikyō, bị thúc dục bởi Đô đốc Kabayama Sukenori đã tiến lên phía trước là trúng liên bốn phát đạn pháo 12 inch (305 mm) kết quả là nó không còn có thể kiếm soát được nữa và phải ra khỏi cuộc chiến, tổng số là khoảng 180 thủy thủ Nhật Bản bị giết chết và hơn 200 người bị thương.
Hạm đội Trung Quốc phải chạy đến và nghỉ ngơi tại thành phố Port Arthur và sau đó nó quay trở lại Uy Hải Vệ, nơi nó cuối cùng bị tiêu diệt bởi một đợt tấn công kết hợp từ cả đất liền và trên biển. Người Nhật Bản có thể đã rút lui vì e ngại các tầu ngư lôi của Trung Quốc tấn công vào ban đêm và cũng vì lý do thiếu đạn dược.
Trong khi Nhật Bản chắc chắn đã gây nhiều thiệt hại hơn rất nhiều cho hạm đội Trung Quốc, thì nhiều người nước ngoài tại thời điểm đó lại tin rằng chiến thắng đã thuộc về người Trung Quốc. Phía Trung Quốc đã tiến hành đổ bộ binh lính một cách thành công, và người Nhật, ít nhất là một bộ phận của hộ, đã phải rút lui vì đã cạn đạn dược. Nhiều người tin vào những hành động nhanh chóng của các cố vấn người nước ngoài trong hạm đội của Trung Quốc (đáng chú ý nhất McGiffin) để có thể đưa ngay những tàu bị hư hại nặng nề nhất của Trung Quốc quay trở lại chiến đấu cho đến hết chiến dịch - nhưng điều này đã không xảy ra. Những nghiên cứu sau đó cho thấy rằng các tàu Trung Quốc chiến đấu theo cặp là kế hoạch họ đã đặt ra thời gian trước đó để đối phó với việc liên lạc bị mất do khói và những nhầm lẫn trong trận đánh. Đồng thời, cũng phải công bằng mà lưu ý rằng Hạm Đội Trung Quốc phải chịu thất bại vì chất lượng đạn dược quá kém, ví dụ đặc biệt là nhiều phát đạn bắn từ chiếc Ping Yuen đã trúng vào chiếc kỳ hạm của Nhật Bản chiếc Matsushima nhưng không nổ bởi vì chúng đã được đổ đầy bằng xi măng chức không phải là thuốc nổ cực mạnh, đây chính là của tệ nạn tham nhũng biển thủ công quỹ hải quân. Người ta đã thay thế thuốc đạn bằng xi măng từ lúc ở nhà máy quân giới Tientsin. ( cũng theo một nguồn tin trong tạp chí Thế Giới Ngày Nay nói rằng Hải Quân Bắc Dương không có đủ kinh phí để mua thuốc súng, đạn dược và nâng cấp các khẩu pháo có tầm bắn xa hơn vì Từ Hy Thái Hậu dùng ngân quỹ của hải quân để chi vào tu bổ cung Di Hòa Viên làm nơi ăn chơi đàn đúm ?" sau này cung DHV bị liên quân bát quốc đốt khi tấn công Bắc kinh cháy cả tháng trời mới tắt)
Chính phủ Trung Quốc đã hoàn toàn đổ lỗi thất bại của trận đánh này lên vai của Lý Hồng Chương và Đô đốc Đinh Nhữ Xương. Tuy nhiên, vào ngày 27 Tháng 10 năm 1894, Đô đốc Freemantle, Đô đốc hạm đội Anh đã gặp gỡ Đô đốc Đinh tại Wei-Hải-Wei và thấy Đinh "vẫn mang đầy những vết bỏng vì bị thương trong trận sông Áp Lục" và viên Đô đốc người Anh này đã mô tả ông ta là một người đàn ông "dũng cảm và yêu nước".
Mặc dù có những cách đánh giá khác nhau về trận đánh này như chung cuộc Trận chiến sông Áp Lục trong trí nhớ của người Trung Quốc là một nỗi thua trận nhục nhã ?" đây âu cũng lại là một trong những nguyên nhân làm cho Thanh Đình suy yếu, và kích thích lòng tự tôn dân tộc của người Trung Quốc, khiến họ vùng lên làm cuộc cách mạng năm Tân Hợi để dành chính quyền về tay người Hán. Hạm đội Bắc Dương đã ngừng tồn tại như là một đơn vị chiến đấu có hiệu quả, và cuối cùng Nhật Bản đã hoàn toàn tiêu diệt hạm đội này trong trận tập kích Wei-Hải-Wei và hoàn toàn đánh bại Trung Quốc trong Chiến Tranh Trung-Nhật lần thứ nhất và vươn lên làm bá chủ Đông Á.
Chúng hãy nhớ:
Đời vua Lê Thánh Tông có viên sử quan tên Lê Nghĩa. Ông già, người gầy guộc, nhỏ thó. Mái đầu bạc trắng, lưa thưa vài sợi tóc, râu cằm cứng bết lại thành một đám vểnh nhọn lên như cái mũi mác. Chẳng hiểu ông có gia đình vợ con gì không, hay nhà xa kinh thành, suốt ngày chỉ quanh quẩn trong Hàn lâm viện, làm công việc biên chép.
Chiều đến, khi hoàng hôn xuống, tím ngắt kinh thành, ông ngồi lặng tờ như cái bóng, nhâm nhi chén rượu suông. Những lúc như thế, có cảm tưởng ông già mảnh khảnh, như sắp tan hoà vào không gian bảng lảng, u tịch của chiều hôm... Vào một buổi chiều thu, ông già chép sử một mình cặm cụi trước một trang sách ố vàng đầy bụi bặm.
Dường như tất cả nhãn lực, cùng trí não, tâm hồn ông đều tập trung vào nội một chữ "Trần" hình thành bởi hai chữ Đông và A ghép lại. Cái mẫu tự có cấu trúc kỳ lạ, có thể viết thành một cuốn sách ngõ hầu bổ sung và mở mang thêm kiến văn cho các bậc thức giả vốn đã uyên thâm, lịch duyệt.
Ông làm việc say mê đến nỗi không biết có một người từ trong cung đi ra và đang thẳng bước tới Viện. Khách cũng đã dặng hắng ba lần, kính cẩn chào tới ba lần, nhưng đều không được đáp lại, còn lúc này đã đứng sát ngay trước mặt mà ông già vẫn chưa hay biết. - Kính chào sử quan!
Nghe tiếng chào, ông già giật mình, ngẩng lên. - Tôi là nội quan hầu cận Hoàng thượng. Hoàng thượng sai tôi đến Hàn lâm viện để mượn "Thực lục".
- Thực lục! Lê Nghĩa khẽ kêu lên, ngạc nhiên, không dấu được vẻ sợ sệt, hốt hoảng: - Thực lục là sách sử gia ghi chép các công việc của vua làm hàng ngày, không ai được xem.
Nội quan nói: - Nhưng đây là lệnh vua. Vua sai tôi...
- Vua càng không được tuỳ tiện. Tôi là sử quan trong Viện hàn lâm, không thể không giữ nghiêm quy chế đã ban hành, ông về lựa lời tâu vua như thế. - Lê Nghĩa cắt ngang lời nội quan, giọng dứt khoát. Xem thái độ và lời nói cương quyết của vị sử quan già nua, viên nội quan đành phải lui ra khỏi Viện.
Việc đến đó tưởng là xong. Không ngờ hôm sau đích thân vua Lê Thánh Tông vào Viện tìm gặp Lê Nghĩa: - Hôm qua ta sai nội quan đến hỏi mượn sách, sao nhà ngươi từ chối là nghĩa thế nào? Có phải vì không có tín bài chăng?
- Tâu Hoàng thượng, phải thế mà cũng chẳng phải thế. Việc hệ trọng, quan được vua sai đi làm mà không có tín bài, ai dám tin. Vả lại dẫu Hoàng thượng có trao tín bài cho nội quan thì thần cũng không dám làm việc khinh suất. Lệ đã định...
Không để Lê Nghĩa tâu trình tiếp, vua Thánh Tông đã gạt đi: - Ta biết rồi. Nhà ngươi biết giữ gìn phép nước. Ta khá khen. Nhưng ta chỉ muốn xem qua, không có ý định can thiệp vào những công việc của sử thần thì có hề gì.
- Hoàng thượng là bậc minh quân, từ ngày lên ngôi làm nên bao công nghiệp rỡ ràng được bốn phương hướng về. Ngoài, giữ yên bờ cõi. Trong, dân tình no đủ, văn học chưa thời nào phồn thịnh như bây giờ, khiến cho kẻ sĩ hết thảy đều hớn hở, nức lòng. Thần tin yêu Hoàng thượng nhưng càng tin yêu chúa mình bao nhiêu, các bề tôi càng phải giữ mình, không được một mảy may sai sót.
Vua Thánh Tông căng trán, nhíu mày. Đoạn nhà vua hỏi: - Này Lê Nghĩa! Ta hỏi thực nhé! Sử cũ chép: Trước kia Phòng Huyền Linh làm sử quan. Đường Thái Tông muốn xem Thực lục, Huyền Linh không cho xem. Nay ngươi với Huyền Linh thì ai hơn?
Lê Nghĩa kiêu hãnh đáp: - Sự kiện ở cửa Huyền Vũ, Đường Thái Tông giết Kiến Thành và Nguyên Cát, Phòng Huyền Linh chỉ dám chép qua loa mập mờ, chung chung là "sự kiện ngày mồng 4 tháng 6" thôi. Thế mà khi Đường Thái Tông xem, bắt phải viết lại cho rõ ràng. Như vậy thì thần cho rằng Huyền Linh cũng vẫn chưa phải là hiền thần!
- Ta hiểu rồi. Như vậy là nhà ngươi tự coi mình còn hơn Huyền Linh, còn ta thì không được như Đường Thái Tông. Ta không thể bắt bẻ được những điều ông nói. Nhưng sao ông vẫn không hiểu được thiện ý của ta. Ta chỉ cốt xem lại những ghi chép hàng ngày của các sử gia để còn biết trước đây có lỗi gì để còn sửa được.
Lê Nghĩa thấy vua đã nhận ra lẽ phải, nhưng vì vẫn chưa vượt qua được thói thường tò mò, nên cố nài thêm đó thôi. Viên sử quan già dịu giọng tâu lên:
- Muôn tâu chúa thượng! Thánh chúa mà muốn sửa bỏ lỗi lầm, đó là phúc lớn vô hạn của xã tắc. Ngoài ra nếu bệ hạ suốt ngày chỉ lo điều hay thôi thì cần gì phải để mắt đến quốc sử. Còn nếu như bệ hạ quyết xem thì cho phép thần được ghi một câu: "Ngày... tháng... năm... này, đức vua vào Hàn Lâm viện đòi Lê Nghĩa cho xem Thực lục. Sử quan họ Lê quyết một lòng bảo vệ phép nước nhưng không được. Đành phải tuân theo".
Lê Thánh Tông lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Vua nhìn viên sử quan già nua mảnh khảnh bé như cái tăm, bộ râu cằm cứng đờ vểnh cong lên ra tuồng cao ngạo, mà vừa kính vừa ghét.
Vì đã lâu quá không ai chịu trả lời nên lão Boom đành phải đưa ra giải đáp vậy:
Trần Khát Chân: vị tướng chỉ huy trận tập kích bằng pháo lần đầu tiên trong lịch sử quân sự nước ta. Đó là trận đánh trên cửa sông Hải Triều vào năm 1390 chống lại cuộc tấn công vào Đại Việt của vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga.
Nói về quan hệ Việt - Chiêm trong giai đoạn nhà Trần cầm quyền thì hai nước vẫn thường hay có chiến sự với nhau nhưng nhìn chung vẫn tốt đẹp, nhất là đời vua Nhân Tông (1279 – 1293). Việt Nam sử lược chép: “Nước Chiêm Thành đối với An Nam từ ngày nhà Trần lên là vua, hai nước không có điều gì lôi thôi.” Đặc biệt vào đời vua Anh Tông (1293 – 1314), nhà Trần đã gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm Thành là Chế Mân (năm 1306), Chế Mân cũng dùng hai châu Ô và Lí để làm hồi môn, xem ra quan hệ hai nước đến thời này rất tốt đẹp. Sau khi vua Chế Mân chết, nhà Trần tìm cách đưa công chúa trở về (vì theo lệ Chiêm Thành, vua chết thì các hậu phải hỏa táng theo). Chính sự việc này đã làm rạn nứt mối quan hệ hai nước. Về sau, các vua Chiêm thường dùng vũ lực để đòi lại các châu đã mất. Năm 1360, Chế Bồng Nga lên ngôi liền lập tức tổ chức quân đội, gây chiến với nhà Trần. Mà bấy giờ Đại Việt đang vào đời vua Dụ Tông.
Trải qua 12 năm (1371 – 1383) chiến tranh, Chế Bồng Nga đã bốn lần chiếm đóng Thăng Long, thế mạnh vô cùng. Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại tiếp tục đánh Đại Việt, lần này là đánh vào Thanh Hóa. Vua Thuận Tông nhà Trần sai Lê Quý Ly đem binh chống giặc tại làng Cổ Vô (nay thuộc huyện Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Hai bên chống với nhau được 20 ngày.
Lê Quý Ly mắc phải mưu của Chế, đại bại, làm cho hơn 70 quân tướng tử trận còn Lê Quý Ly thì trốn về Thăng Long. Thừa thắng, Chế Bồng Nga tiếp tục đưa quân tiến đánh Thăng Long.
Bấy giờ trong nước vốn đang có biến (cuộc khởi nghĩa nông dân của Phạm Sư Ôn ở quốc oai) mà nay lại có thêm nạn ngoại xâm này, thực là vận nước như “treo đầu sợi chỉ”.
Giữa lúc nguy cấp ấy, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông liền cử quan Đô tướng Trần Khát Chân đem quân chống giăc.
Trần Khát Chân (1370 – 1399), là người làng Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh (nay là Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Theo sử cũ thì Khát Chân vốn là hậu duệ của vua Lê Đại Hành, dòng dõi của Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng. Vốn nguyên gốc là Khát Chân mang họ Lê, nhưng cha của Trần Bình Trọng là Lê Phụ Trần có công trong cuộc chiến kháng Mông (1258) được vua ban quốc tính họ Trần. Sử liệu về Trần Khát Chân còn hạn chế, không nói rõ về tiểu sử của ông mà chủ yếu chép về ông trong cuộc chiến này.
Khi được cử đi đánh quân Chiêm, sử chép: “Khát Chân vâng mệnh, khảng khái rỏ nước mắt lạy tạ ra đi. Thượng hoàng cũng khóc, lấy nước mắt tiễn đưa.”, xem thế thì vua tôi nhà Trần bấy giờ lấy quân Chiêm Thành làm khiếp sợ lắm. Thượng hoàng Nghệ Tông đặt niềm tin vào viên tướng 19 tuổi này âu cũng có lí do riêng, có thể Thượng hoàng cũng biết cái tài dùng binh của Khát Chân nên tin dùng không câu nệ chức tước, tuổi tác (vì chức Đô tướng chỉ là chức quan võ hạng thấp và thời Trần).
Khát Chân lĩnh quân ra sông Hoàng chống giặc (nay là khúc sông chảy qua xã Hòa Hậu, Lí Nhân, Hà Nam). Ông xem tại khúc sông này khó lòng mà đánh được giặc nên phải lui quân về cửa sông Hải Triều (nay là ngã ba Luộc, Thanh Hóa).
Ngày 23 tháng 1 năm 1390, Chế Bồng Nga cậy thắng không phòng bị, tự mình lĩnh hơm trăm chiếc thuyền nhẹ đi xem hình thế quân của Khát Chân. Tức thì, các khẩu pháo của quân ta do Khát Chân chỉ huy đã nhất tề bắn vào đoàn thuyền giặc, thuyền của quân Chiêm bị đạn xuyên thủng rất nhiều. Chế Bồng Nga cũng bị trúng đạn, chết ngay. Quân ta lập tức đổ ra đánh, quân Chiêm thua to phải rút về nước mà không dám gây sự nữa. Vốn dĩ Khát Chân đã cố ý đặt phục binh ở nơi ngã ba sông hiểm yếu này, nhưng lại bắn trung ngay thuyền của Chế Bồng Nga thì do một tên tướng bị tội của quân Chiêm sợ bị giết nên đã đầu quân sang Khát Chân, chỉ rõ thuyền nào có Chế Bồng Nga cho Khát Chân. Nhờ vậy mà kế phục binh của Khát Chân thêm phần thành công.
Đại thắng, Khát Chân đem thủ cấp của Chế Bồng Nga về Bình Than, nơi triều đình đang lánh nạn. Khi ấy đang canh ba, Thượng Hoàng đang ngủ, nghe tin thì mừng lắm, liền cho gọi các quan đến xem thủ cấp và nói: “Ta với Bồng Nga cầm cự với nhau đã lâu, ngày nay mới được thấy mặt khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Võ. Thiên hạ yên rồi!”. Xem ra câu nói của Thượng hoàng cũng có ý khen Khát Chân chẳng thua gì Hàn Tín.
Sau chiến thắng này, Khát Chân được phong là Long Tiệp bổng thần Nội vệ Thượng tướng quân (một tước võ quan cao nhất của nội vệ quân) và được ban Thái ấp ở Kẻ Mơ, trở thành một trong những đại thần trụ cột của nhà Trần, khi ấy ông chỉ 20 tuổi.
Về sau, Hồ Quý Ly chuyên quyền, có mưu thoán đạt ngôi vua thì Thái bảo Trần Nguyên Hãng cùng Thượng tướng quân Trần Khát Chân lập mưu để trừ Quý Ly, việc bại lộ, Trần Nguyên Hãng, Trần Khát Chân cùng 370 người có liên quan bị giết cả, đấy là vào năm 1399.
Trần Khát Chân là vị tướng tài vào những năm cuối đời nhà Trần, giữa lúc nước nhà suy yếu thì ra tay cứu vãn, đánh tan Chế Bồng Nga hiếu chiến, giữ yên bờ cõi. Thấy có người mưu toan phản nghịch thì ra tay bài trừ. Thực là người trung nghĩa, hùng tài; thật đáng lưu danh vào sử sách nước ta.
Theo
- Khâm định Việt sử Thông giám cương mục
- Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim
- Nhà Trần và Con người thời Trần – Viện sử học - Hội khoa học Lịch sử VN
- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trước đây lão Boom đã có bài viết nêu bật tội ác của Stalin qua vụ án Khatưn mà sau này Putin phải xin lỗi người Poland. Hôm nay lão đưa cho các bạn một sự thật khác, các bạn hãy tự rút ra kết luận cho mình.
Một ngày đen tối trong lịch sử Nga: Trận lưu huyết KronshtadtЧерная дата в истории России: кронштадтское побоищеTác giả: Nicolai Katrich
Nguồn: newsland và svpressa.ru
Kichbu post on thứ hai, 21.03.2011
90 năm trước Troshky và Tukhachevsky đã nhấn chìm cuộc khởi nghĩa của các thủy thủ Baltic bênh vực những người công nhân thành phố Piter trong biển máu.
18 tháng ba 1921 mãi mãi đi vào lịch sử Nga như một ngày đen tối. Chỉ sau ba năm rưỡi của cuộc cách mạng vô sản mà nó đã tuyên bố Tự do, Lao động, Bác ái là những giá trị chủ yếu của nhà nước mới, những người blosshevich đã trấn áp một trong những cuộc nổi dậy đầu tiên của những người lao động đấu tranh vì các quyền lợi xã hội của mình một cách tàn ác chưa từng có dưới chế độ Sa hoàng.
Kronshtadt, thành phố đã dám yêu cầu bầu lại các hội đồng Xô Viết – “xét thấy rằng các hội đồng Xô Viết hiện hành không thể hiện ý chí của những người công nhân và nông dân” – đã bị tưới máu. Do hậu quả của cuộc chinh phạt do Troshky và Tukhachevsky đứng đầu, đã có hơn nghìn thủy thủ bị sát hại, và 2103 người bị bắn không xét xử và điều tra bởi các tòa án đặc biệt. Vậy những người dân thành phố Kronshtadt đã phạm lỗi gì trước “Chính quyền Xô Viết thân yêu” của mình?
Lòng căm thù đối với bệnh quan liêu gỉ sét.
Toàn bộ hồ sơ lưu trữ liên quan “vụ án về cuộc bạo động Kronshtadt” đã được bóc trần cách đây không lâu. Và mặc dù đa phần các tài liệu đó do phía những người chiến thắng tập hợp, nhà nghiên cứu không có định kiến trước dễ dàng hiểu rằng, các trạng thái tinh thần chống đối ở Kronshtadt đã bộ phát trầm trọng thêm vì bệnh quý tộc trắng trợn và tính tục tằn của bộ máy quan liêu hen gỉ của đảng.
Vào năm 1921 tình hình kinh tế trong nước vô cùng tồi tệ. Những khó khăn có thể hiểu được – nền kinh tế quốc dân bị sụp đổ bởi nội chiến và sự can thệp của nước ngoài. Nhưng điều rằng cách những người bolshevich bắt đầu khắc phục những khó khăn đó như thế nào đã thổi bùng sự căm phẫn của đa số những người công nhân và nông dân, những người đã cống hiến nhiều vì ước mơ về quốc gia xã hội. Thay vì xây dựng những “quan hệ đồng hành” chính quyền bắt đầu tổ chức những cái gọi là tập đoàn Lao động và sau đó đã trở thành mô hình mới của chủ nghĩa quân phiệt và nô dịch.
Việc chuyển những người công nhân và nông dân vào vị thế của những người bị động viên được bổ sung bằng việc sử dụng Hồng quân trong kinh tế và bắt họ tham gia khôi phục các tuyến đường giao thông, khai thác nhiên liệu, các công việc bốc xếp vận chuyển và ở các nhà máy xí nghiệp khác. Chính sách chủ nghĩa cộng sản thời chiến đã đạt đến tột điểm trong lĩnh vực nông nghiệp khi chế độ trưng thu lương thực thừa đã tước đi niềm say mê tối thiểu của những người nông dân đối với việc trồng trọt mùa màng mà nó dù sao cũng bị tước đi hoàn toàn. Làng xóm điêu đứng, các thành phố tan hoang.
Ví dụ, dân số thành phố Petrograd giảm từ 2 triệu 400 nghìn người cuối năm 1917 xuống còn 500 nghìn vào năm 1921. Số lượng công nhân ở các nhà máy công nghiệp trong giai đoạn đó giảm từ 300 nghìn xuốn còn 80 nghìn người. Hiện tượng như như đào ngũ lao động cũng có quy mô khủng khiếp. Đại hội IX của đảng cộng sản Nga (bolshevich) tháng tư 1920 đã buộc phải kêu gọi thành lập các đơn vị lao động bị phạt từ những người đào ngũ bị bắt trở lại hoặc tống họ vào các trại tập trung. Nhưng tình hình như vậy chỉ khoét sâu sắc thêm các mối mâu thuẫn xã hội. Ở những người công nhân và nông dân ngày càng có cớ để bất bình: họ đã chiến đấu vì cái gì?! Nếu vào năm 1917 một công nhân được nhận từ chế độ Sa hoàng “đáng nguyền rủa” 18 ruble mỗi tháng, thì vào năm 1921 - chỉ 21 kopech (1 ruble = 100 copech – Kichbu). Trong khi đó giá bánh mì tăng gấp hàng chục nghìn lần – đến những 2625 ruble cho 400gr bánh mì vào năm 1921. Sự thật là những người lao động được nhận khẩu phần: 400gr bánh mì đối với công nhân và 50gr đối với trí thức. Nhưng vào năm 1921 số lượng những người may mắn như thế đã đột ngột giảm sút: chỉ ở Piter đã đóng cửa 93 nhà máy, 30 nghìn công nhân trong số 80 nghìn người vào thời điểm đó đã bị thất nghiệp, và tức là họ bị chết đói cùng với gia đình của mình.
Và bên cạnh đó “bộ máy quan liêu đỏ” mới lại sống no đủ, vui sướng và nghĩ ra các loại khẩu phần đặc biệt và các kho hàng đặc biệt như bấy giờ những quan lại hiện đại gọi điều này như vậy, đủ các loại phần thưởng vì sự quản lý có hiệu quả. Và cách hành xử của vị chỉ huy hạm đội Baltic Fedor Raskol Nicov (họ thật là Ilin) và cô vợ trẻ của ông ta Larisa Reisner sau này trở thành chủ tịch hội đồng giáo dục văn hóa hạm đội Baltic. “Chúng tôi xây dựng nhà nước mới. Mọi người cần chúng tôi, - bà tuyên bô công khai. – Hoạt động của chúng tôi là lao động sáng tạo, và bởi vì rằng thật giả dối từ chối những gì cung cấp cho những người nắm quyền.
Nhà thơ Vsevolod Rodzestvensky hồi nhớ lại rằng, khi ông đến gặp Larisa Reisner tại căn phòng của cựu bộ trưởng biển Grigorovich trước đây mà cô ta thuê, thì ông đã kinh ngạc bởi sự thừa mứaa các vật dụng và đồ đạc: các bức thảm, bức tranh, các loại vải ngoại quốc, các bức tượng đồng, các đồ sứ maiolic, những cuốn sách bằng tiếng Anh, những lọ nước hoa của Pháp. Và bản thân bà chủ vận áo choàng thêu bằng những sợi chỉ bằng vàng lớn. Hai vợ chồng không từ chối bất cứ thứ gì – ô tô từ gara hoành đế, tủ quần áo từ nhà hát Marina, các một đội ngũ những người phụ vụ đông đúc.
Sự vượt quá mọi phép tắc của chính quyền đã đặc biệt gây xôn xao những người lao động và binh sỹ. Cuối tháng hai 1921 các nhà máy và xí nghiệp lớn của thành phố Petrograd bắt đầu bãi công. Những người công nhân đòi hỏi không chỉ bánh mì và nhà ở, mà còn các cuộc bầu cử tự do vào các hội đồng Xô Viết. Các cuộc biểu tình, theo lệnh của Zinovev lãnh tụ thành phố Piter lúc bấy giờ, đã bị xua đuổi, nhưng những lời đồn đại về các sự kiện đó đã bay về Kronshtatd. Những người thủy thủ đã cử các đại biểu của mình đến petrograd và những đại biểu này đã sửng sốt với những gì nhìn thấy – các nhà máy và công xưởng bị binh lính bao vây, những người cốt cán bị bắt.
Ngày 28 tháng hai 1921 tại Kronshtadt các thủy thủ đã đứng lên bảo vệ những người công nhân Petrograd tại cuộc họp của các chiến hạm. Các đơn vị đòi tự do lao động và buôn bán, tự do ngôn luận và báo chí, tự do bầu cử vào các hội đồng Xô Viết. Thay vì chế độ chuyên chế của những người cộng sản – là chính quyền nhân dân, thay vì các chính ủy được đề cử - là các hội đồng chiến hạm. Sự khủng bố của ủy ban đặc biệt (Cheka) – phải được chấm dứt. Hãy để những người cộng sản nhớ lại rằng ai đã làm cách mạng, ai đã mang lại cho họ chính quyền. Bây giờ đã đến lúc phải trả lại chính quyền cho nhân dân.
Những loạn quân “thầm lặng”
Để bảo đảm trật tự tại Kronshtadt và tổ chức phòng thủ pháo đài đã thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời đứng đầu là thủy thủ Petrichenko, phó ủy ban là Yakovenko, Arkhipov (máy trưởng), Tukin ( thợ máy của nhà máy cơ khí điện) và Orshin (phụ trách trường lao động).
Trong lời hiệu triệu của Ủy ban cách mạng lâm thời Kronshtadt có đoạn: “Hỡi các đồng chí và các công dân! Đất nước của chúng ta đang trải qua thời khắc nặng nề. Nạn đói, lạnh giá, kinh tế đổ nát đang giam hãm chúng ta trong gọng kìm sắt đã ba năm nay. Đảng cộng sản lãnh đạo đất nước đã xa rời quần chúng và không có khả năng đưa đất nước thoát khỏi tình hình đổ nát chung hiện nay. Đảng đã coi thường các làn sóng biểu tình xảy ra gần đây ở Petrograd và Moscow và chúng đã chỉ ra một cách tương đối rõ rằng, đảng đã đánh mất niềm tin của quần chúng những người lao động. Xem thường các đòi hỏi do những người công nhân nêu ra. Đảng xem đó là những âm mưu của các thế lực phản cách mạng. Đảng đang sai lầm sâu sắc. Những làn sóng này, những yêu sách này – đó là tiếng nói của toàn thể nhân dân, của tất cả những người lao động”.
Tuy nhiên Ủy ban cách mạng lâm thời đã không đi xa hơn thế và tin rằng sự ủng hộ của ‘toàn thể nhân dân” tự nó sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Các sỹ quan ở Kronshtadt đã liên kết với những người khởi nghĩa và khuyên họ tấn công ngay lập tức các thành phố Oranienbaum và Petrograd, chiếm đồn “Krasnaya Gorka” và quận Sestroreka. Nhưng không một ủy viên ủy ban cách mạng lâm thời nào, không một người nổi dậy bình thường nào có ý định rời bỏ Kronshtadt, nơi mà họ cảm thấy an toàn sau các chiến hạm và đồn bốt bằng beton. Thái độ thụ động của họ cuối cùng dẫn đến chỗ nhanh chóng bị dập tắt.
“Quà tặng” cho đại hội X
Thoạt đầu tình hình của thành phố Petrograd gần như vô vọng. Trong thành phố nổ ra các cơn sóng biểu tình. Một đơn vị ít người đã bị mất tinh thần. Chẳng có gì để tấn công Kronshtadt. Chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng Lev Trosky và “người chiến thắng của Kolchak” Mikhail Tukhachevsky đã tức tốc đến Petrograd. Để tấn công Kronshtadt họ lập tức khôi phục tập đoàn quân số 7 đã từng đập tan Yudenhich. Quân số của nó lên đến 45 nghìn người. Bộ máy tuyên truyền im ắng bắt đầu hoạt động trở lại mạnh nhất.
Ngày 3 tháng ba Petrograd và các tỉnh được ban bố trong tình trạng giới nghiêm. Cuộc khởi nghĩa bị xem là sự cấu kết của các tướng lĩnh Sa hoàng còn sót lại. Tướng Kozlovsky – chỉ huy pháo binh Kronshtadt được cử làm chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Hàng trăm những người thân của những người dân thành phố Kronshtadt trở thành con tin của Ủy ban đặc biệt (Cheka). 27 người chỉ trong gia đình của tướng Kozlovsky, bao gồm cả vợ, năm con cái, những người bà con xa và những người thân đã bị bắt. Hầu hết đã bị đày ải ở các trại tập trung.
Những người công nhân Petrograd ngay lập tức được tăng khẩu phần, và các làn sóng biểu tình lắng xuống.
Ngày 5 tháng ba Mikhail Tuchevsky được được trao nhiệm vụ “trong thời gian ngắn nhất phải đập tan cuộc khởi nghĩa tại Kronshtadt trước ngày khai mạc đại hội X của đảng cộng sản toàn Nga (bolshevich). Tập đoàn quân số 7 được tăng cường các đoàn xe thiết giáp và các đơn vị không quân. Không tin cậy vào các trung đoàn địa phương, Trosky đã điều từ Gomel sư đoàn 27 dạn dày chiến đấu và ấn định ngày tấn công – 7 tháng ba.
Chính xác vào ngày này pháo binh bắt đầu nả pháo vào thành phố Kronshtadt, và ngày 8 tháng ba các đơn vị Hồng quân bắt đầu tấn công. Các đơn vị đánh chặn đã truy đuổi các lực lượng Hồng quân tấn công, nhưng họ đã không thể - gặp phải hỏa lực của pháo binh Kronshtadt, binh lính phải quay trở lại. Một tiểu đoàn lập tức đứng về phía những người khởi nghĩa. Nhưng ở quận cảng Zavodsky (Nhà máy), họ đã chọc thủng một đơn vị không lớn của Hồng quân. Họ đã đến được cổng pháo đài Petrovsk, nhưng ngay lập tức bị bao vây và bị bắt làm tù binh. Cuộc tấn công Kronshtadt đầu tiên bị thất bại.
Cuộc khởi nghĩa bùng phát không chỉ ở Kronshtadt – những người nông dân và các nhóm nổi dậy Kazak đã phá hoại Povoldze, Sibir, Ucraina, Bắc Kavkaz. Những người khởi nghĩa công kích những đơn vị sản xuất. Những người công nhân bãi công thậm chí ở cả Moscow.
Cuộc tấn công đẫm máu
Ngày 8 tháng ba Lenin đọc báo cáo kín tại đại hội về sự thất bại ở Kronshtatd và gọi cuộc nổi dậy là mối đe dọa vượt trội các hoạt động ngay cả của Yudenhich, và của Korrnhilov cộng lại. Lãnh tụ đề nghị phái một đoàn đại biểu trực tiếp đến đến Kronshtatd. Trong số 1135 người đi tham dự đại hội đã cử 279 cán bộ đảng đứng đầu là K.Voroshilov và I. Konnev vào các đơn vị chiến đấu đến đảo Kotlin. Cũng như một loạt ủy ban các tỉnh ở Trung Nga đã cử các đại biểu và những người tình nguyện đến Kronshtadt.
Nhưng về ý nhĩa chính trị cuộc nổi dậy của những người dân thành phố Kronshtadt đã mang lại những thay đổi quan trọng. Tại đại hội X, Lenin tuyên bố Chính sách Kinh tế Mới – tự do thương mại và sản xuất nhỏ tư nhân được cho phép, chính sách trưng mua lương thực thừa được thay đổi bằng chính sách thuế lương thực, nhưng những người bolshevich không có ý định chia sẽ chính quyền với bất kỳ ai.
Các đoàn xe chiến đấu từ khắp nơi trong cả nước lũ tượt kéo về Kronshtadt. Nhưng hai trung đoàn của sư đoàn bộ binh Omsk đã dấy loạn: “Chúng tôi không muốn chiến đấu chống lại những người anh em thủy thủ của chúng ta!”. Những chiến sỹ Hồng quân đã bỏ vị trí và theo sa lộ chạy về phía Petergof.
Các học viên Hồng quân của 16 trường quân sự đã được tung ra đàn áp cuộc bạo động. Họ đã bao vây và bắt những người trốn chạy hạ vũ khí. Để lập lại trật tự các đơn vị đặc biệt trong quân độ đã được tăng cường bởi các chiến sỹ cheka. Các đơn vị đặc biệt của tập đoàn quân phương Nam đã hoạt động không ngưng nghỉ - giải giáp các đơn vị không được tin cẩn, hàng trăm chiến sỹ Hồng quân bị bắt. Ngày 14 tháng ba 1921 40 chiến sỹ Hồng quân đã bị bắn trước hành ngũ để đe dọa, ngày 15 tháng ba – thêm 33 người bị bắn. Những người còn lại được tổ chức lại và bắt hô “ Kronshtadt, hãy đầu hàng!”
Ngày 16 tháng ba đại hội đảng cộng sản toàn Nga (bolshevich) kết thúc, đơn vị pháo binh của Tukhachevsky bắt đầu chuẩn bị hỏa lực. Khi trời bắt đầu tối, cuộc nả pháo chấm dứt, và vào lúc 2 giờ đêm bộ binh trong sự im lặng tuyệt đối đã hành quân theo mặt vịnh đóng băng. Tiếp theo thê đội đầu tiên với khoảng cách nhất định là thê đội thứ hai, sau đó thứ ba, đơn vị hậu cần.
Bộ đội phòng vệ của Kronshtadt đã phòng thủ một cách tuyệt vọng – đường phố chăng đầy dây thép gai và dựng lên các chiến lũy. Đích bắn trúng được tiến hành từ các tầng nhà và khi các đơn vị Hồng quân tiến đến gần, hỏa lực từ các súng tiểu liên trong các tầng hầm rộ lên. Những người nổi dậy thỉnh thoảng chuyển sang thế phản công. Đến năm giờ chiều 17 tháng ba những người tấn công bị đánh bật khỏi thành phố. Và lúc bấy giờ thê đội dự phòng cuối cùng được tung vào trận đánh qua mặt hồ băng tuyết – đơn vị kỵ binh đã tiêu diệt các đơn vị lính thủy đang say ảo tưởng của chiến thắng như băm bắp cải. Ngày 18 tháng ba pháo đài của những người khởi nghĩa bị sụp đổ.
Các chiến sỹ Hồng quân đã tiến vào Kronshtadt như vào thành phố của kẻ thù. Đêm đó không cần xét xử 400 người đã bị bắn, sáng sớm hôm sau các tòa án đặc biệt bắt đầu hoạt động. Cựu thủy thủ Baltic Dybenko trở thành chỉ huy của pháo đài. Trong thời gian “cầm quyền” của ông đã có 2103 người bị bắn, và sáu nghìn rưỡi người – bị đày vào các trại tập trung. Nhờ thành tích đó ông được nhận huy chương chiến đấu đầu tiên – Huân chương Cờ Đỏ. Một vài năm sau chính ông đã bị bắn bởi chính quyền đó do liên quan đến Trosky và Tukhachevsky.
Minh oan
Vào năm 1994 tất cả những người tham gia cuộc khởi nghĩa Kronshtadt đã được minh oan, và trên quảng trường Yakornaya của pháo đài-thành phố đã dựng tượng đài lưu danh họ.
Hãy tìm hiểu xuất thân của Lý Công Uẩn hay Đinh Bộ Lĩnh xem nào?
Hôm nay nâng tầm câu hỏi lên độ khó một tý nhé. Ông Vua nào có hai con rể là hai võ tướng nhưng một là giặc, một là người trung thành. Kết cục trên chiến trường vị con rể giặc đã trực tiếp ra tay sát hại người con rể trung hiếu kia, đưa đến thảm cảnh nước mất nhà tan.
Hiện nay lão boom quan tâm nhiều tới mảng cổng thanh toán, chuyển mạch thanh toán và CMS, các hệ thống hỗ trợ backend ví dụ CRM, CM, Trade Finance, Anti Money Laundry. Loan Original.... Vì các dự án về Core Banking coi như bão hòa rồi.
Nếu bạn thích nghe lão bô lô ba la thì nick của lão trên skype la nguyenthanhnhatbao. Nhưng nói trước là lão rất bận nên nếu ko thấy trả lời thì đừng có giận.
Tiếp tục nhé: Vị vua có xuất thân gọi là nghèo hèn nhất lịch sử Việt nam à ai?
02- tech có tới hơn 1000 nhân vie bỏ đi trong vòng 18 tháng, làm căng,lương thấp,lắm scandal
03-chú này lão ko biết!