images
Thịnh hành
Cộng đồng
Bé yêu - Mẹ có quà cả nhà đều vui
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Hồ sơ một tử tù
Chương Kết

Cây cột ấy đã ở trước mặt hắn rồi. Đã nhiều lần cái lạnh chạy dọc xống lưng hắn. Mỗi bước đi của hắn là mỗi đoạn đời, ào đến, vụt qua. Bước đi cuối cùng hắn ngoảnh lại nhìn và giật mình khi nhận ra hai gương mặt vừa xa lạ vừa thân quen, vô tình mà duyên nợ với cuộc đời hắn. Tại sao hai gương mặt này lại ám ảnh hắn cho đến lúc chết nhỉ. Hắn nhắm mắt lại, cố lý giải bằng cách tập trung tái hiện trong đầu những hình ảnh cuối cùng về họ.
Gương mặt thứ nhất: Vị điều tra viên có nốt ruồi ở đuôi mắt trái.
Hắn được gặp người này lần cuối cùng khi anh ta đến trại tạm giam tống đạt tận tay hắn bản Kết luận điều tra. Người này bảo hắn hãy đọc cho hết bản kết luận đó rồi đề đạt ý kiến riêng của mình. Hắn cầm lấy tập giấy anh ta đưa cho, đọc chậm rãi, đến dòng cuối cùng thì dừng lại, ngẩng lên bảo:
- Bản kết luận này được bắt đầu bằng một buổi nói chuyện phiếm giữa cán bộ và tôi. Bây giờ, trước khi cầm bút ký nhận nó, tôi muốn nó cũng được kết thúc bằng một buổi nói chuyện phiếm, cán bộ có thể chiếu cố cho tôi điều ấy không?
Vị điều tra viên bật lên một tiếng cười rồi bảo:

- Quả là tôi đã không sai khi nghĩ về anh. Anh là một trong số những phạm nhân sẽ được đưa ra pháp trường. Những phạm nhân loại này bao giờ cũng để lại trong tôi những suy nghĩ vẩn vơ nào đó. Có thể đó chỉ là những giây phút hoài cảm về cuộc đời và số phận của mỗi cá nhân. Nhưng với riêng anh, thành thực mà nói, chút suy nghĩ vẩn vơ trong tôi nhiều hơn, trở đi trở lại nhiều hơn, và có vẻ như cố rõ nét mà không sao rõ được.

Hắn bảo:

- Tội tôi quá nhiều, cái án dựa cột đối với tôi là không thể tránh khỏi. Kết luận điều tra đã đề nghị truy tố tôi ra toà với rất nhiều tội danh. Đó là chuyện của cán bộ, chỉ xin hỏi cán bộ đã bao nhiêu lần viết bản này rồi, và sau mỗi bản như thế này, cán bộ có thấy là mình đang làm một việc có ích không?

- Tại sao anh lại hỏi tôi câu đó? - Vị điều tra viên hỏi lại hắn.

- Vì cái ác chẳng bao giờ bị triệt tiêu, nó luôn tồn tại cùng con người
- Hắn bảo.
- Cứ cho là cái ác không bị triệt tiêu nhưng giới hạn nó trong phạm vi và mức độ nhỏ nhất thì cũng là việc nên làm chứ!

- Có bao giờ cán bộ nghĩ rằng mình cũng đã từng sinh ra cái ác không?


- Suy nghĩ của anh mạch lạc và tôi còn thấy ở anh một chút nhạy cảm thái quá nữa kia đấy. -
Vị điều tra viên đáp lời hắn - Anh muốn tôi làm rõ cái gọi là "Chút suy nghĩ vẩn vơ" chứ gì? Loại bỏ cái ác ra khỏi đời sống xã hội là nhiệm vụ của những người như chúng tôi. Tuy nhiên nói thì có vẻ nghe xuôi tai nhưng cái ác cũng là con người, mà chúng tôi thì cũng là con người. Không thể có chuyện con người loại bỏ con người, dù với danh nghĩa gì đi nữa mà lại không đem lại chút suy nghĩ vẩn vơ nào đó. Anh đã uống bia vào một buổi chiều mùa hè nóng nực ở một quán ven đường với một nhóm bạn bao giờ chưa?
Đang nói vị điều tra viên bỗng dừng lại bất ngờ đặt ra một câu hỏi có vẻ chẳng ăn nhập gì với mạch suy nghĩ trước đó.
Hắn nhíu mày một lát rồi đáp:

- Thưa cán bộ, rồi ạ!

Vị điều tra viên tiếp:
- Tôi và đám bạn của tôi thường mời nhau ra quán uống bia với những lý do khác nhau, có thể là vớ vẩn, có thể là nghiêm túc. Ví như tuần trước chẳng hạn, thằng bạn học cùng trường cảnh sát với tôi mời tôi ra quán uống bia để mừng cho vợ nó vừa đẻ con trai. Nó bảo nó vừa ở nhà hộ sinh về, thức suốt đêm, nhưng mừng quá, vui quá, muốn được san xẻ với ai đó, và chọn tôi làm người nâng ly cùng nó. Được vài vại thì điện thoại của nó rung chuông. Người ta bảo cho nó biết đối tượng mà nó theo dõi trong một chuyên án X, Y nào đó đang có mặt. Thế là nó "bai, bai" tôi để lao đến địa điểm đã định như trong phương án vạch trước. Và đối tượng của nó đã nhằm vào nó để bóp cò. Nó đã chết, thằng bạn của tôi ấy mà, đã chết khi chưa hưởng trọn niềm vui làm bố. Kẻ bắn nó đã bị bắt. Thử hỏi lúc đứng trước cái thằng giết người ấy, anh là tôi, anh sẽ nghĩ gì? Thằng giết người ấy tất nhiên rất đáng ghét, không, phải nói là đáng kinh tởm và căm thù mới đúng. Thằng ấy có thể xấu xí, lì lợm, ngổ ngáo, cũng có thể là một thằng bảnh chọe, đa cảm, mau nước mắt. Thằng ấy lưu manh, côn đồ, vô học nhưng cũng có thể là một thằng trí thức, chỉn chu, thậm chí học triết như anh, và học rất giỏi. Tuy nhiên, dù thằng ấy có thế nào thì cái máu căm hờn đang trào sôi lên trong tôi cũng buộc phải kìm lại khi đứng trước kẻ giết người cụ thể đó. Tình cảm phải nhường cho lý trí làm việc. Mà tình cảm thì như cái quả lắc đồng hồ ấy. Nó lắc đi lắc lại theo qui luật. Lý trí nhiều khi như ngón tay, thò vào giữ cho quả lắc đứng yên. Cứ như thế một lần, hai lần, nhiều lần cái quả lắc tình cảm trong tôi trở nên tội nghiệp biết nhường nào...

Vị điều tra viên nói đến đây, quay ra bật lửa châm thuốc hút. Anh ta đi đi lại lại, mắt dõi nhìn ra ngoài cửa sổ như cân nhắc xem cái gọi là "chuyện phiếm" với hắn như thế đã quá đà chưa?. Hắn bảo:

- Tôi hiểu những điều cán bộ nói. Nếu cứ theo cái lôgíc ấy mà suy diễn thì những người như cán bộ cũng chẳng sung sướng gì, cũng có những nỗi khổ tâm. Liệu cái đầu lạnh lên thì con tim có giảm sức nóng đi không?

- Với anh, tôi, đã từng tham gia chuyên án ngay từ những ngày đầu tiên - Vị điều tra viên như không nghe những lời hắn nói, tiếp tục những lời như bộc bạch - Đã có những đồng đội của tôi ngã xuống trước sự chống trả điên cuồng của anh. Khi nâng súng lên bắn anh ở dưới chân núi có ngôi chùa Áng Sơn, tôi đã nghĩ đến chuyện có thể nâng cao tầm ngắm lên chút nữa. Pháp luật sẽ ủng hộ tôi nếu viên đạn đó đi qua bả vai, cứa đứt cuống tim anh. Nhưng lúc ấy cái quả lắc đồng hồ trong tôi lắc liên hồi, lắc loạn nhịp và tôi đã hạ nòng súng xuống. Quay trở lại câu hỏi của anh, rất khó có thể đặt vấn đề cái đầu lạnh với quả tim nóng có tỉ lệ thuận với nhau không? Khi nâng súng nhằm vào anh, tôi cũng nghĩ đến việc một lúc nào đó anh nâng súng nhằm vào tôi. Tôi nhân danh cho cái thiện, còn anh là cái ác. Tôi có quyền bắt anh phải trả giá, cũng là để cho những họng súng trong bàn tay của cái ác không bao giờ còn có cơ hội xoáy về phía tôi. Và tôi hãy bóp cò sao cho đích đáng nhất. Cái đầu lạnh của tôi bảo thế. Nhưng rồi tôi đã không làm thế. Điều ấy lý giải thế nào? Thật khó diễn đạt bằng lời. Tôi đã khép lại nhiều cuộc đời bằng những bản kết luận điều tra như anh đã đọc. Và tôi cũng có một thói quen. Một thói quen không nên có.

- Là gì vậy, cán bộ?
- Là thả một vật kỷ niệm nào đó vào quan tài của những tử tội trước khi được đem đi chôn cất. Điều này vất vả đối với tôi nhưng đổi lại, lương tâm tôi thanh thản, đồng thời cũng là để khoả lấp cho cái giới hạn không thể nào lý giải được về sự hiện sinh của cái ác.
- Thưa cán bộ, với tôi, vật kỷ niệm ấy là gì?
- Anh không nên đặt câu hỏi đó.
- Vậy tôi muốn hỏi cán bộ một câu khác, một câu liên quan đến cá nhân tôi, được không ạ?
- Anh cứ hỏi?
- Cán bộ có thể nói thêm đôi chút về bức ảnh mẹ con cô Nhung được không? Đứa trẻ ấy là... là thế nào ạ?
- Câu chuyện của chúng ta nghe chừng vượt khỏi khuôn khổ của nó rồi đấy. Tôi không thể nói gì hơn về bức ảnh đó vì tôi đã hứa với người trong ảnh là không tiết lộ bất cứ một thông tin nào về mẹ con cô ta cho anh hay. Anh đừng làm khó tôi nữa. Anh hãy cứ tin rằng có hai mẹ con cô ấy đang tồn tại ngoài đời, vui vẻ và hạnh phúc. Có thể trong ký ức của cô ấy không còn có anh, hoặc cũng có thể, cô ấy muốn cuộc sống hiện tại không có bóng dáng của anh phủ xuống phần đời mình. Đã thế, anh cũng nên chấp nhận những gì mà cô ấy muốn.

Cho đến lúc này, khi hắn đang đi vào cõi chết, hắn cũng không biết gì hơn về bức ảnh mà vị điều tra viên kia đưa cho xem. Lần gặp cuối cùng ấy, ấn tượng để lại trong hắn là anh ta NGƯỜI hơn dẫu anh ta phải mang nhiều gương mặt trong đời để làm cái việc là loại bỏ những phần tử như hắn ra khỏi xã hội. Bây giờ gương mặt của anh ta vẫn đang theo dõi hắn cho tới bước chân cuối cùng. Gương mặt ấy rõ nét hơn lên trong hắn cũng là lúc gương mặt khác chen vào, làm bừng thức trong hắn những xúc cảm và dư chấn tâm lý mới trước giờ phút định mệnh của đời mình.
Gương mặt thứ hai đang hiện lên trước mắt hắn lúc này là Tâm "cận", chàng cuồng sĩ xuất hiện giữa bãi vàng Lũng Sơn lộn nhộn, lở loét, hỗn loạn ngày nào. Tâm cận mang một vẻ mặt khổ đau tiền kiếp, chiếc ba lô có quai đeo chéo trước ngực, gió thổi bạt tóc, đôi giày khủng bố dẫm lên cát bụi, cặp kính lấp loá dõi nhìn theo hắn. Đó là hình ảnh Tâm ở phiên toà phúc thẩm. Còn Tâm ở lần gặp hắn trong những ngày chờ Chủ tịch nước xét đơn xin ân xá gầy guộc, nhỏ bé, khuôn mặt nghĩ suy, đôi mày hơi nhíu và ánh mắt quét đi quét lại những tia sắc sảo, thông minh đến nghi ngại. Tâm là một ký giả trẻ đang được ghi nhận. Tâm bảo với hắn rằng: "Em đang viết về anh trong một phóng sự nhiều kỳ theo sự phân công của báo nhà. Nhưng những gì về anh trên mặt báo mới chỉ là cái vỏ bề ngoài, cái phần hành động mà thôi. Em hiểu về anh sâu hơn, cái phần không hành động ấy, những đớn đau vật vã, những im lặng nghĩ suy, những run rẩy dại khờ, những sợ hãi tuyệt vọng, những tàn nhẫn độc ác, em chẳng thể đưa vào mấy bài báo cỏn con ấy được".

Hắn bảo:

- Tâm bận tâm đến những thằng tử tù như mình làm gì, chỉ mất thời gian, lại thấy cuộc sống nó kém đi phần tươi tắn. Tâm đã lấy vợ chưa?

Tâm lắc đầu.
Hắn bảo:
- Mình vẫn còn nhớ chuyện của Tâm. Cô Loan rất yêu Tâm kia mà? Cả chị Thái nữa. Tâm có tìm được chị ấy không?
- Tâm bảo:
- Loan đã nhiều lần yêu cầu em cưới nhưng em đã từ chối. Em rất yêu Loan nhưng hình như lấy Loan thì em sẽ mất đi tình yêu của mình. Em sợ điều đó. Còn chị Thái vẫn biệt vô âm tín. Sau này khi đã ra trường rồi, đã về công tác ở toà soạn, em có dịp đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người từ bên kia trở về, em có ý hỏi nhưng trong dòng người hồi hương ấy không có ai biết chị Thái. Có lẽ chuyến đi ấy của chị Thái đã vĩnh viễn không cập bến, mà cũng có thể chị ấy chưa hề ra khỏi đất nước này. Em đã nghiệm ra được một điều, chị Thái là khát vọng về cái đẹp thời thơ bé của em. Nhưng hình như người ta luôn hướng về khát vọng quá khứ để không bằng lòng với hiện tại. Em triền miên sống trong những mối mâu thuẫn mà không sao giải quyết được. Phải chăng vì em là nốt nhạc trầm rời rớt lại từ sợi tơ lòng của người đàn bà yếu đuối đoản mệnh nên tâm hồn em là một khối kết tinh những giọt buồn trong suốt?

Hắn thành thực:
- Tâm là một trường hợp đặc biệt mà mình được gặp trong đời. Có vẻ như cái gì ở Tâm cũng phức tạp và không bình thường.

Tâm cười:
- Thế nào mới được coi là bình thường ở đời hả anh? Cái thiện và cái ác, cuộc đấu trường sinh, là bình thường phải không? Cái chết của anh cũng là bình thường phải không? Ôi nhân loại sẽ ra sao nếu không có thơ ca nhỉ? Có lẽ cũng chẳng sao, mọi sự vẫn diễn ra bình thường. Nhưng cái bình thường ấy mới kinh khủng làm sao? Cái bình thường của một nhân loại không có hồn thơ, không có nghệ thuật, không có cái đẹp, có còn gọi là một cuộc đời nữa không? Mà thôi, em chẳng nên đưa anh vào những khái niệm chưa hoàn chỉnh, lại lắm trúc trắc, hoài nghi ấy làm gì. Em chỉ nên đọc thơ cho anh nghe là đủ.
Phải, chỉ cần Tâm đọc thơ cho hắn nghe là đủ. Nắng phai để mộng tàn lây, Tình đi cho gió sương đầy quán không, Chợ tan ngàn nẻo cô phòng, Sầu dâng bàng bạc cánh đồng tịch liêu, Hồn đơn lắng bước chân chiều.... Ôi, những câu thơ như một lời hát ru cho cuộc đời tử tội. Những câu thơ hay những câu kinh số phận được dành riêng cho hắn?
Hành trình của tử tội chẳng dài lắm đâu
Cây cột có hình thánh giá trước mặt
Hãy bước lên và nhìn lại
Nơi cái ác bị kết liễu
Là cái thiện hồi sinh
Những giọt máu rớt xuống chân cột
Đất sẽ lại nảy mầm...
Và bây giờ thì hắn quay lưng lại với chiếc cột. Đã có bao nhiêu người dựa lưng vào chiếc cột này? Đã có bao nhiêu người chụm chân đứng trên mỏm đất này? Có ai trở về với cuộc sống sau khi đã một lần đứng ở nơi đây vào lúc bóng đêm đang nấn ná trước sự xua đuổi của ánh ngày? Không! Không có ai trở về cả. À có. Có chứ! Có một người đã từng lơ lửng dưới cây cột, đã từng chảy máu và vãi đái xuống lớp đất lạo xạo, gớm ghiếc này. Người ấy bây giờ thành Phật rồi. Người ấy không chờ giải thoát bằng súng đạn. Người ấy tìm thấy sự giải thoát dưới mái chùa bên chân núi kia.
Trước mặt hắn đội hành quyết đã đứng thành một hàng ngang. Hắn bỗng thấy mình tỉnh táo đến lạ thường. Hắn thấy rõ người đội trưởng hô khẩu lệnh. Bầu trời có vẻ như thoáng đãng ra. Và đạo hồng quang xuất hiện như một dải sông uốn lượn trên tầng không. Một con đò. Đúng rồi, hắn nhìn thấy một con đò! Trên con đò ấy có một tiên ông đang ngồi gảy đàn nguyệt....Mênh mang quá một ánh nhìn hư ảo, khi Phật Bà ban phước khắp muôn nơi. Phép nhiệm màu đựng trong bình nhỏ thế, đủ làm sao cho tất cả muôn người... Ông Thảnh ơi, ông về đón cháu đi đấy à? Dòng sông Măng sáng láng thế kia, con đò thanh lịch, trang nhã, tôn quí thế kia có chỗ cho một kẻ tội đồ như cháu không? Ở phía cuối dòng sông, nơi đạo hào quang mất hút trước chân trời là địa ngục đang chờ cháu phải không hả ông? Hay bản thân con đò là địa ngục rồi, là chỗ trú ngụ vĩnh viễn cho linh hồn tội lỗi của cháu? Ô kìa, những vì sao! Những vì sao bỗng vọt ra từ những chùm pháo hoa từ đâu bắn tới, toả ra miên man, dày đặc, giăng khắp dòng sông ảo ảnh. Những vì sao đủ sắc màu cứ vọt ra, vọt ra liên tục, lấp lánh trên dòng sông Măng, trên con đò đang bồng bềnh trôi, phủ xuống dáng ngồi tiên ông, xuống cây đàn nguyệt, xuống cả thứ âm thanh réo rắt, nỉ non lúc trầm lúc bổng. Những vì sao đang rơi xuống, rơi xuống bất tận và như không đủ sức chứa nổi triệu triệu những vì tinh tú, dòng sông Măng đáng tương, đạo hào quang tội nghiệp bỗng vỡ ra kèm theo một tiếng nổ long trời, phá rách khoảng đêm mê muội giăng mắc trên những mỏm núi đá. Ngàn vạn những sắc xanh, đỏ, hồng, tím ùa vào mắt hắn sau cái rùng mình rung cả cây cột. Cây cột phát ra một lực rung truyền vào đất. Đất truyền lực rung ấy đến một vài thực thể khiến họ bật ngồi dậy giữa giấc ngủ mê của một đêm mùa hè oi bức. Người bật dậy đầu tiên và ôm mặt nức lên những tiếng hờn tủi chính là mẹ hắn. Khi ánh ban mại rọi đến trường bắn Áng Sơn thì mọi cảnh tượng trong đêm đã biến mất, như thế đêm đen vốn bí ẩn và huyền nhiệm, sinh ra tất cả để rồi lại lấy về tất cả. Khu trường bắn lại trở về với khung cảnh hoang sơ, buồn nản của nó. Dẫu sao đêm cũng đã để lại một sự biến dạng nhỏ. Một khoảnh đất dài độ hai mét mới được đào lên và đắp xuống. Đất vẫn còn vụn tơi. Trên đất ấy có hương và hoa...
...
Sau này người dân ở làng Áng Sơn còn bàn tán mãi về cái đêm thi hành án tử hình ấy. Dù sao thì tử tội cũng là người làng, cũng có bạn bè, họ mạc, người quen, có chút dư âm kỷ niệm với người này người kia nên cái sự bàn tán âu cũng là chuyện thường tình.
Ông Đỗ Văn - Chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, cũng người làng Áng Sơn, một thành viên của Hội đồng thi hành án tử hình, sau này về hưu, khi kể lại đêm hành quyết đó, đã khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng, sau lúc nấm mồ được đắp lên ông đã nấn ná ở lại và gặp hai người rất lạ. Một người lặng lẽ rút trong túi áo ngực ra tấm ảnh nhỏ bằng bàn tay, vùi xuống dưới chân hương, nghiêng mình tiễn biệt tử tù như một cái nghĩa với đồng loại. Rồi anh ta lẩm bẩm một câu rất khó hiểu: " Cầu chúc cho anh được siêu thoát, cô ấy đang đợi anh ở dưới đấy. Đây chỉ là một tấm ảnh được làm bằng kỹ thuật vi tính. Tôi đã thắp nên trong anh tình yêu cuộc sống để rồi anh lại phải vĩnh viễn xa nó. Chắc anh cũng không trách tôi về điều này". Còn người thứ hai đeo đôi kính cận. Anh ta đến trước mộ và đọc một bài thơ rất dài. Ông còn nhớ được hai câu: Áo thêu khăn gấm ngày đi, Lều không quán bỏ hồn si chợ tàn.
Những người dân trong làng thì lại kháo nhau rằng đêm hôm đó chuông chùa Áng Sơn đổ dồn 108 tiếng vào quãng 5 giờ sáng. Sư Pháp Thiện trụ trì chùa tụng kinh suốt đêm. Sau 35 ngày sư Pháp Thiện lại làm lễ cầu siêu cho tử tội để rước vong về chùa. Buổi lễ hôm ấy sư trụ trì đọc kinh Adiđà, kinh ấy có đoạn như thế này:
Nguyện sinh Tây Phương tịnh độ trung, cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vãng sinh.
Nhất thành thượng đạt vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao siêu, kỳ gia quyến hàm triện lợi lộc.
Bây giờ nếu có du khách nào đến chùa Áng Sơn sẽ không khỏi ngạc nhiên khi được biết trong đất chùa có xây một ngôi mộ cho kẻ tử tù. Trên nóc mộ có treo một dải phướn nhỏ. Vào những đêm trăng sáng, cô giáo Dịu ở dưới làng thường lên chùa ngồi chơi với sư Pháp Thiện. Hai người ngồi ngoài sân uống trà và xem hoa nở. Thỉnh thoảng họ lại ngước mắt lên nhìn dải phướn nhỏ tung bay trong gió.../
Hết.
05:05 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Hắn nghe Bằng nói chợt nhớ ra là ngày xưa Bằng nổi tiếng ở khoa về khả năng hùng biện. Hắn chẳng bao giờ quên được bài hùng biện đói nghèo và nghèo đói của Bằng trong buổi Xê-mi-na bàn về xã hội đẳng cấp của Ấn Độ cổ đại. Bây giờ Bằng đang nói say sưa về con người và số phận, tội lỗi và sám hối, nhưng không phải với dáng vẻ của một nghệ sĩ tài hoa đang diễn trên sân khấu, mà bằng tất cả những chiêm nghiệm của đời mình. Hắn bỗng thấy thương Bằng. Đây là điều khá buồn cười bởi trời sinh ra Bằng dường như là để nhắc nhở những người khác nhớ về khiếm khuyết của mình. Bằng xuất hiện ở đâu là buông những lời móc máy, xỏ xiên ở đấy. Bằng đại diện cho những gì đủ đầy, tròn trịa, hoàn chỉnh giữa một đám bạn hầu hết đều chưa bước qua khỏi lằn ranh tự ti đói nghèo. Những lúc như vậy, và sau này dù có xa Bằng thì hắn vẫn cho rằng Bằng là một anh chàng đáng ghét, hay nói đúng hơn, đáng ghen tị bởi cuộc sống luôn ưu ái đối với Bằng. Thế mà lúc này hắn lại thấy Bằng đáng thương dù bản thân hắn đang bị coi là thú tính, hiếu sát, côn đồ, đáng bị loại trừ khỏi xã hội. Rất có thể bước ra khỏi cái phòng giam này Bằng sẽ mang khuôn mặt khác, dáng dấp khác, tác phong khác, lối hùng biện khác, người ta sẽ lại chỉ còn thấy Bằng là một luật sư giàu có, hào hoa, đủ đầy, thành đạt. Đúng rồi, trước những đôi mắt bon chen, ganh đua, trong chốn hỗn độn háo danh, thèm lợi ai cũng thích trương ra những cái hơn người của mình. Chỉ đến khi trước một người không còn dám mơ tưởng gì tới cõi đời này nữa thì người ta mới chịu hạ vây, thu cánh, xếp hết những góc cạnh, nanh vuốt lại để an ủi, xẻ chia và thổ lộ những mất mát, đau buồn của chính mình. Hoá ra cuộc đời muôn mặt không dễ gì lý giải và bi kịch chẳng dành cho riêng ai, để cho riêng ai, giáng lên đầu riêng ai mà có ở bất cứ đâu, trong mỗi con người, nằm bên cạnh hai chữ Hạnh Phúc. Nó là cặp bài trùng, là mặt đối lập, là phần âm nếu hạnh phúc là dương, là mùa đông nếu hạnh phúc là mùa xuân, là bóng đêm nếu hạnh phúc là ánh ngày, là tiếng khóc nếu hạnh phúc là tiếng cười, chẳng ai không có, chẳng ai không đeo mang.
Cho đến ngày ra toà Bằng còn đến thăm hắn ba lần nữa. Đúng như Bằng nói, hôm xử hắn, Bằng không có mặt. Vị thẩm phán giữ chân chủ toạ phiên toà hỏi hắn có ý kiến gì về việc luật sư vắng mặt không? Hắn bảo hắn không có ý kiến gì, đề nghị toà cứ xét xử. Hắn không ngạc nhiên khi nghe toà tuyên tử hình. Chỉ có điều, năm đêm liền sau đó hắn toàn mơ thấy những điều hãi hùng. Đêm đầu tiên hắn mơ thấy một người đàn bà độ bốn mươi tuổi. Chị ta rao bán bánh cuốn trên một chiếc xe đạp tuềnh toàng, cũ kỹ. Hắn gặp chị ta ở một con phố nhỏ. Chị ta cứ lượn đi lượn lại trước mặt hắn, nhìn hắn cười, đon đả mời chào. Hắn đói. Hắn ăn bánh của chị ta rất ngon lành. Lúc đầu hắn ăn bằng đĩa. Sau đó hắn bốc ăn. Rồi chị ta vừa dỡ bánh vừa đút vào miệng hắn. Đến khi hắn no quá, không ăn được nữa, chị ta vẫn dỡ bánh đút vào miệng hắn. Hắn không sao bỏ đi được. Một tay người đàn bà túm lấy tóc hắn, tay kia chị ta cứ tống vào miệng hắn từng búi bánh một. Hắn chợt nhận ra những lớp bánh chị ta nhét vào mồm mình không phải làm bằng bột có rắc hành và quệt mỡ mà toàn là giấy bản. Ôi chao, hắn đã xơi đầy một bụng giấy bản, giấy tắc ở họng, chặt cứng ở mồm, và còn đang tiếp tục được đưa vào. Hắn ngạt thở quá. Kinh tởm vì những thứ mình đã nuốt vào bụng, chẳng tiêu được, cứ như cái họng súng được lùa giẻ, hắn quì xuống van xin người đàn bà bán bánh cuốn tha cho hắn. Nhưng chị ta kẹp đầu hắn vào hai bắp chân rắn như thép của mình, tiếp tục tống cái thứ bánh trăng trắng, nhờ nhờ kia vào mồm, luôn miệng bảo: "Mày giết chồng bà, để bà bơ vơ, cơ cực thế này, bà cho mày biết thế nào là chết tức chết tưởi". Thế rồi từ cổ chị ta rơi xuống một sợi dây có đeo hình thánh giá. Chị ta đành buông hắn ra để nhặt lên sợi thánh giá của mình. Lúc này hắn mới nhìn kỹ khuôn mặt người đàn bà và hắn hoảng hồn khi nhận ra đó là vợ Hân. Phải rồi. Sáng nay chị ta ngồi ở dãy ghế dành cho người bị hại. "Chỉ còn vài tháng nữa là chồng tôi được về với tôi. Anh ấy có thể thức thâu đêm xay bột giúp tôi tráng bánh. Anh ấy có làm hại gì chúng nó đâu mà chúng nó nỡ giết anh ấy. Ối giời ơi, anh Hân là anh Hân ơi!". Tiếng khóc và tiếng hờn thê thảm của người đàn bà bán bánh cuốn châm điện vào cột sống hắn. Hắn bật ngồi dậy, choàng tỉnh, thấy ngoài kia tiếng giày của người gác tù vẫn cồm cộp đi lại. Đêm đang tàn. Hắn sờ lên trán thấy mồ hôi túa ra ướt đẫm.
Đêm sau hắn không dám ngủ nữa. Hắn sợ hình ảnh người đàn bà bán bánh cuốn lại hiện về nát hắn. Nhưng gần về sáng thì hắn cũng thiếp đi. Hắn gặp một thiếu phụ đeo tang, ngồi khâu ở trước cửa một gian nhà tập thể cấp bốn tồi tàn. Hắn đi ngang qua và dừng lại xin nước uống. Hắn hỏi chị ta khâu gì? Chị ta bảo khâu chiếc áo lót cho chồng. Rồi chị ta bảo hắn mặc thử xem chiếc áo chị ta khâu có đẹp không? Chiếc áo lót ấy may theo kiểu cổ rộng có tay, bị một vài vết thủng, đã được mạng lại rất khéo. Hắn mặc thử lên người, khi luồn vào thấy rộng nhưng khi mặc xong lại thấy chật. Chật quá. Chẳng hiểu sao chiếc áo cứ thít vào người hắn, nhất là vùng ngực, vùng cổ, làm hắn thấy khó thở. Hắn gào lên, nằm vật ra, giãy giụa nhưng càng giãy càng bị chiếc áo thít chặt cứng vào người. Hắn há mồm, lưỡi thè ra, thở khò khè, mắt trợn lên, thất thần. Thiếu phụ đeo tang vẫn cứ ngồi như hoá đá, mắt nhìn về cuối hồi nhà nơi có con đường dẫn lên đỉnh núi mờ xa. Rồi bỗng nhiên có tiếng trẻ con khóc. Thiếu phụ bước vào trong nhà và lát sau thì bế ra một đứa trẻ độ bảy, tám tháng tuổi. Đứa trẻ đó nhìn thấy hắn nằm trước cửa nhà, lưỡi thè ra, toàn thân cứng đờ thì nín khóc. Mẹ đứa trẻ bảo rằng: "Áo của bố con mẹ khâu xong rồi nhưng bố con còn đi bắt cướp chưa về. Nếu bố con không về thì lớn lên con sẽ mặc chiếc áo ấy của bố nhé?". Đứa trẻ bỗng cười khanh khách. Rồi nó cất tiếng hỏi mẹ: "Cái thằng người nào nằm kia hả mẹ?". Mẹ nó bảo: "Đâu? có thằng người nào đâu? Mẹ chẳng nhìn thấy gì cả". Đứa trẻ vẫn cứ một mực bảo: "Có. Có thằng người nằm kia kìa, trông lạ lắm, thân nó cứng đơ, lưỡi nó thè ra, mắt nó mở trừng trừng, mẹ dựng nó dậy cho con chơi với nó". Mẹ đứa trẻ bảo: "Con tôi nhớ bố quá, lại mắc bệnh rồi, thôi để mẹ đi thắp hương nhé". Người thiếu phụ bước vào nhà, tiến tới bàn thờ nơi đặt một tấm ảnh có hình một người đàn ông đội mũ, đeo sao, mặc sắc áo vàng, châm hương. Hắn giật mình khi nhận ra người đàn ông trong tấm ảnh ấy. Người này đã lao vào hang bắt hắn và hắn đã vung khẩu súng K54 lên nhằm thẳng vào anh ta bóp cò. Đúng rồi. Bây giờ thì hắn nhận ra người thiếu phụ đeo tang ngồi khâu áo kia rồi. Chị ta cũng ngồi trên hàng ghế dành cho người bị hại. Trời ơi, hàng ghế ấy còn nhiều người lắm. Hắn lăn lộn gào thét để thoát khỏi tình trạng căng cứng toàn thân. Đến khi người gác tù đập vào vai hắn, hắn mới tỉnh. "Ôi, nước, nước!". Hắn thấy háo kinh khủng. Tu hết ca nước lạnh hắn mới hoàn hồn trở lại. Trời đã sáng từ lâu. Hắn đưa hai tay lên đấm bình bịch vào đầu. Tại sao đầu hắn lại chứa những hình ảnh buồn thảm, kinh khiếp thế? Tại sao những cơn mộng mị cứ kéo về hành hạ hắn thế? Không rét mà hắn thấy người mình run lên.
Đêm thứ ba hắn vừa chợp mắt thì lại gặp một đứa trẻ lên tám. Đứa trẻ ấy đang chơi trò gì đó ở trên một cánh đồng lúa vừa gặt, có gốc đa to. Thằng bé cứ chạy lên chỗ gốc đa rồi lại chạy xuống dưới cánh đồng. Hắn đến và đứa trẻ bảo: "Chú có thích chơi trò giang hồ tàn khốc không?". Hắn nghe thấy lạ quá, liền hỏi: "Trò giang hồ tàn khốc là trò gì?". Đứa trẻ bảo: "Chú để cháu đắp đất ruộng lên người, nặn thành một hình nhân thì sẽ biết". Hắn đồng ý để thằng bé lấy đất nặn lên người. Nặn xong nó lôi hắn tới chỗ gốc đa. Ở đấy đã có bốn, năm hình nhân bằng đất được dựng ngay ngắn. Đứa bé chỉ vào đống đồ đã để sẵn ở dưới chân, bảo: "Đây là máng gỗ, đây là cuốc, đây là dao dựa, đây là dây thừng, cháu phải chuẩn bị tất cả để lên bãi vàng trả thù cho bố cháu". Hắn hỏi: "Bố cháu làm sao mà phải trả thù?". Đứa bé bảo: "Bố cháu bị các nhóm giang hồ ở trên ấy sát hại. Đây là thằng Đàn, đây là thằng Hùng quăn, đây là thằng Thành dê, còn đây là thằng Tùng chột. Bố cháu bị bọn này lừa lên trên đấy đào vàng nhưng thân đi thì có thân về thì không, bây giờ chẳng biết gửi nắm xương tàn ở chỗ nào. Cháu sẽ lên đó hỏi tội bọn chúng nó. Cháu sẽ hỏi tội như thế này này...".Đứa bé đang nói bỗng rút cuốc bổ vào đầu một thằng hình nhân nặn bằng đất ruộng. "Cháu sẽ hỏi tội như thế này, như thế này...", đứa trẻ luôn miệng "hỏi tội" và tay thì dùng dao và cuốc cứ thế phang tới tấp vào các hình nhân. Lạ thay các hình nhân nặn bằng đất đó lại có máu. Máu phun ra ướt đẫm vạt cỏ dưới gốc đa già. Đến hình nhân cuối cùng, thằng bé bỏ dao, bỏ cuốc, nhảy lên trên không, đưa tay vặn đầu thằng người đất từ đằng trước ra đằng sau. Từ thằng người này bỗng vang lên tiếng kêu "a...a" đau đớn, quằn quại, dàn trải khắp cánh đồng, thúc vào tai hắn từng đợt từng đợt như sóng triều cuộn táp. Đứa trẻ bảo: "Bố cháu ra đi không về, mẹ cháu bỏ đi lấy chồng khác, giờ chỉ còn cháu bơ vơ giữa cánh đồng này. Nhà cháu ở dưới gốc đa. Thức ăn của cháu là lúa, ngô, khoai, sắn và chuột! Chú hãy sống ở đây với cháu, bao giờ cháu lớn cháu sẽ dẫn chú lên bãi vàng để tìm xác bố cháu và dạy cho lũ giết người kia một bài học". Hắn bỗng thấy trong người lạnh toát. Hắn bảo: "Thôi, cho chú đi về, chú không thể ở đây với cháu được". Đứa trẻ bảo: "Chú về cũng được, nhưng trước khi chú về chú phải trả bố cháu về cho cháu". Hắn quì xuống van xin đứa bé: "Cháu tha cho chú, cái chết thì không thể lấy lại được". Đứa bé lại bảo: "Thế thì chú phải tìm mẹ về cho cháu". Hắn lại khẩn nài: "Chú biết tìm mẹ cháu ở đâu bây giờ? Thôi, cháu cứ ở dưới gốc đa này, giữa cánh đồng này rồi một ngày kia mẹ cháu sẽ về đón cháu đi. Chú chẳng giúp được gì cho cháu đâu". Đứa trẻ bỗng hét lên một tiếng rồi vung máng gỗ đập thẳng vào đầu hắn. Chiếc máng gỗ như một tấm bê tông vẫn dùng cho xây dựng các khu nhà lắp ghép từ từ rơi xuống đầu hắn. Hắn khiếp đảm, cố chạy để tránh nhưng không sao chạy được. Toàn thân hắn đã được đắp đất ruộng và bây giờ thứ đất đó chôn cứng hắn nơi gốc đa như những hình nhân bên cạnh. Đúng lúc chiếc máng chạm vào đầu hắn thì hắn tỉnh. Hai bên má hắn nước mắt đầm đìa. Hắn nhớ là hắn đã khóc khi đứa trẻ kêu gào đòi bố. Con suối lở loét nơi bãi vàng Lũng Sơn vùi lấp bao nhiêu xác chết, có xác chết nào là bố của đứa trẻ không? Có xác chết nào do chính tay hắn cầm máng gỗ bổ vào đầu không? Có xác chết nào bị mổ bụng vì nghi nuốt vàng vào ruột không? Có xác chết nào bị mất một cánh tay vì hỗn chiến không? Hắn đập đầu bình bịch xuống nền nhà, cố xua đuổi những hình ảnh chết chóc, chém giết rất thảm khốc, tang thương cứ len lén len lén tìm về trú ẩn trong tiềm thức. Đến nỗi cán bộ trại giam tưởng hắn tự tử phải mở khoá vào phòng giữ chặt hắn lại. Hai đêm sau hắn còn tiếp tục mơ thấy những khuôn mặt ngồi ghế bị hại. Số những người này nếu cứ tiếp tục xuất hiện để hành hạ hắn bằng những cơn mộng mị quái đản thì có cho hắn gấp đôi thời gian kháng án cũng vẫn không hết. Rất may, sau ngày xử phúc thẩm, những cơn mơ như thế không đến với hắn nữa. Có thể thời gian này hắn nhận được nhiều thư từ thăm hỏi của người thân nên tâm trạng đỡ căng thẳng hơn, thần kinh trở nên ổn định và tâm hồn thư thái trở lại. Mẹ hắn là người viết thư cho hắn nhiều nhất dù bà không biết chữ. Bà đã tìm đến ở nhờ nhà một người nào đó cách nơi giam hắn không xa và nhờ người ta viết thư để gửi vào cho hắn. Khác với mọi lần trước đây, bà không hề khóc, cũng không lu loa chửi mắng hắn hay kêu trời, kêu đất, than thân trách phận gì cả. Qua thư hắn hình dung ra bà chỉ lặng lẽ ngồi ngắm nhìn ảnh hắn. Rồi bà kể cho hắn nghe những câu chuyện thủa ấu thơ, khi hắn còn trong vòng tay vỗ về của bà. Lúc đầu hắn không chịu nổi những lá thư như thế, hắn nghĩ mẹ hắn đang cố tạo ra một không khí vui vẻ gượng gạo. Hắn không muốn sự gượng gạo đó. Nhưng rồi hắn nhận ra là mẹ hắn đang làm cái việc của một người mẹ đi nuôi con mắc bệnh hiểm nghèo ở bệnh viện. Biết rằng con sẽ chết, người mẹ chỉ biết ngồi bên giường bệnh kể chuyện cổ tích cho con nghe mà thôi. Bây giờ thì hắn cũng có khác gì đứa trẻ đó. Và mẹ hắn đang ngồi ngoài song cửa sắt ru cho cục máu u buồn của mình trước khi đem đi hoá. Hắn đọc xong rồi gối đầu lên hai bắp đùi mình tưởng tượng ra giọng kể của bà. Dần dần hắn trở nên thèm khát những cánh thư ấy, câu chuyện ấy, cách kể ấy từ người mẹ già đáng thương kia. Những câu chuyện của bà có ý nghĩa như một sự cứu rỗi. Linh hồn hắn rồi đây sẽ có bến bờ neo đậu, những câu chuyện của bà chính là nẻo về sau cái sự siêu thoát tàn khốc nay mai. Lần nào hắn cũng khóc. Khóc ngon lành. Mẹ hắn không khóc được như hắn. Bà chỉ khóc dấm dúi khi sau lưng không còn ánh mắt nào dõi theo nữa. Những lúc ấy bà khóc như cây rung gió giật, khóc đến kiệt sức, lả mình trong sự cô đơn. Trời bắt bà phải thế, thôi thì nín lặng mà đau, nín lặng mà xót, nếu có thể thì nín lặng mà chết, chẳng để người đời biết đến làm gì, chỉ thêm buồn thêm tủi.
Người thứ hai gửi thư cho hắn là Dịu. Chỉ một lá duy nhất. Hắn đã được gặp lại Dịu trong phiên toà sơ thẩm. Dịu hầu như không thay đổi. Vẫn chiếc áo cổ lá sen, trước ngực có xẻ hình quả bầu. Dịu có đôi mắt buồn vô cùng, gợi những cánh cò xa xăm trên đồng lúa xạc xào gió thổi. Dịu cứ nhìn hắn bằng đôi mắt dập dìu hương lửa, bát ngát trăng sao, lung linh sóng nước. Đôi mắt Dịu gợi nhắc trong hắn toàn những điều trong trẻo, tinh khiết, xa ngái. Trong những giây phút gặp nhau ngắn ngủi hắn hỏi: "Sao Dịu không lấy chồng đi?". Dịu chỉ cười nhẹ. Nụ cười phảng phất buồn, hơi chua xót và nhẫn nhục. Hắn tin là Dịu không còn yêu hắn. Nếu hắn có thoát được cái án tử hình thì Dịu cũng chẳng bao giờ còn là của hắn nữa, chỉ có điều Dịu quá tôn thờ tình yêu, quá hết mình cho một lần lỡ dở, quá cạn kiệt lòng mình cho một lần bùng cháy, nên chẳng thể làm lại được nữa. Dịu không trách hắn đâu. Hắn nhìn vào đôi mắt kia của Dịu là hắn biết. Nhưng đôi mắt ấy dội mưa axít vào lòng hắn. Hắn đã phụ tất cả những gì tốt đẹp nhất mà một đời thiếu nữ có thể dâng hiến: Thời gian, nhan sắc, trinh tiết, tình yêu. Bây giờ Dịu trả cho hắn đôi mắt. Hắn không dám nhìn vào đôi mắt ấy. Vị tha thế mà sao đớn đau. Nhân ái thế mà sao cay đắng. Đẹp đẽ thế mà sao u buồn. Trung thực thế mà sao tủi hổ. Nhiệt huyết thế mà sao nguội lạnh. Đừng nhìn hắn bằng đôi mắt như thế nữa. Hắn van Dịu đấy. Dịu hãy lấy chồng đi. Điều ấy sẽ làm cho hắn thanh thản vì dù sao thì hắn cũng chả là gì trong ngăn tủ cuộc đời của Dịu. Kiếp này hắn nợ Dịu quá nhiều. Nhưng Dịu đừng để cái bóng của hắn trong túi riêng của mình làm gì. Tội tình lắm Dịu ơi!
Người thứ ba gửi thư đến cho hắn là anh Dương. Thư anh Dương không khác những điều anh nói với hắn trong buổi gặp ở phiên toà sơ thẩm. Anh bảo: "Anh không muốn cho chị và các cháu gặp em trong hoàn cảnh này. Những bài báo viết về em anh cũng giấu biệt đi, không cho các cháu biết, sợ ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của chúng nó. Anh gặp em lần này, chỉ muốn nói với em một điều rằng, cũng còn may cho dòng họ Phạm nhà mình là anh đã sinh được một cháu trai nối dõi. Mệnh em ngắn ngủi, đến đây là dừng, thôi thì cứ yên tâm, không phải lo nghĩ gì."

Hắn hỏi:
- Công việc của anh thế nào?
Anh Dương bảo:
- Tốt. Nhìn chung là những việc em làm không ảnh hưởng đến con đường công danh của anh. Anh vừa được đề bạt phó giám đốc. Anh đón mẹ ra ở với anh, để mẹ ở một mình một phòng trên tầng ba. Mẹ già rồi, bây giờ lại sùng đạo, suốt ngày tụng kinh gõ mõ. Nhiều lần mẹ bỏ anh về lại quê cũ, anh lại phải cho xe đón mẹ ra. Anh bảo mẹ bán cái nhà cũ ở quê đi nhưng mẹ bảo phải giữ lại, biết đâu em có đường sống còn có mái nhà mà ở. Sự thể đã thế này thì chắc là mẹ chả giữ nữa. Tháng sau về quê anh sẽ bán. Cả đất, cả nhà, chắc cũng chẳng được bao nhiêu!

Hắn bảo:

- Em chả đáng làm thằng em của anh. Anh chẳng nhớ đến em cũng được, nhưng anh đừng nghĩ về mẹ đơn giản như thế. Về già người ta cần nhiều thứ hơn là ăn ngon, mặc đẹp. Nếu mẹ chưa muốn thì anh cũng đừng ép mẹ phải bỏ hẳn quê quán. Dù sao thì ngôi nhà đó cũng đã từng gắn bó với cuộc đời mẹ. Hơn nữa, ở quê còn có mộ bố.

Anh Dương bảo:
- Ối dào, mộ bố anh xây lại từ mấy năm nay rồi, to, đẹp, chả kém gì ai. Còn mẹ, về già không theo con cái thì theo ai? Không thể cứ chiều các cụ theo cách ấy được. Việc của mẹ bây giờ là nghỉ ngơi và an dưỡng tuổi già. Mấy lần mẹ đi tìm em mà không nói với anh là anh bực lắm đấy. Nhưng thôi, chuyện của em mẹ buồn một thời gian rồi sẽ dịu lại. Anh cũng thương em nhưng mà cứ nghĩ đến em là giận. Bây giờ thì thương hay giận thì cũng thế thôi. Coi như gốc nhà ta có một nhánh bị sâu ăn. Việc em làm, em chịu. Chả trách ai được!

Tự nhiên hắn thấy buồn. Buồn quá thể. Buồn đến đông cứng cả người lại. Anh Dương đã khác xưa rất nhiều, đầu hơi hói, bụng phệ ra, dáng lạch bạch, quần áo bảnh choẹ nhưng suy nghĩ vẫn là anh Dương của cái thời thích ăn cơm với ruốc của người yêu và mơ có được một chiếc mũ nồi đen. Nói chuyện với anh Dương hắn luôn có cảm giác ơn ớn như ăn phải thịt mỡ. Ừ thôi thì cái nhánh ấy sẽ nảy mầm xanh tốt, sẽ lá cành xum xuê cho dòng họ Phạm của hắn tiếp tục bám rễ với đời. Còn hắn, một nhánh cây bị sâu ăn mọt rỗng, sẽ đổ ngang thân, sẽ bị lia cụt, sẽ vĩnh viễn không xanh lá tốt cành, không đâm hương kết trái. Cây cột đang chờ hắn. Một cá nhân bị cộng đồng loại bỏ. Chả đáng để ai phải bận tâm. Ngay cả với anh Dương cũng đang phải đơn giản hoá cái chết của hắn đi cho nhẹ lòng mà sống. Hắn bỗng mong đến cái ngày ấy. Cái ngày được bước chân đến cây cột định mệnh.

(Còn tiếp)

05:00 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chương 9

Vậy là trong đời, ba lần cả thẩy hắn đứng trước vành móng ngựa.
Lần đầu tiên hắn đứng cùng với bọn thằng Xế, thằng Học sau khi gây ra vụ ẩu đả với hội Yên Mĩ vào cái ngày đầu tiên hắn đặt chân tới bãi vàng.
Hai lần sau là phiên sơ thẩm và phúc thẩm mà bản án dành cho hắn sau khi tổng hợp hình phạt là không thay đổi: Tử hình!
Chứng lý quá đầy đủ, rành mạch, cụ thể đến từng đường tơ kẽ tóc. Trong các bản cung của hồ sơ, người ta thấy hắn thành khẩn đến mức khó tin. Một tên cướp lì lợm, khét tiếng tàn bạo, lại có cái đầu khá nhiều chữ như hắn không lẽ lại dễ dàng suy sụp đến mức khai thông thốc ra như thế sao? Không. Hắn đã từng im lặng. Im lặng đến độ người ta lo sợ hễ sểnh ra là hắn sẽ cắn lưỡi tự tử. Trước mặt các điều tra viên hắn câm nín như hoá đá. Hỏi gì cũng gật, nói gì cũng nhận, sau mệt mỏi quá, hắn bảo: "Các anh cứ làm bản cung đi, rồi tôi ký rẹt một cái là xong. Tôi muốn các anh kết thúc số kiếp tôi càng sớm càng tốt".

Đó là lời khẩn cầu thật lòng của hắn. Tuy nhiên việc phán xử một con người không thể chỉ căn cứ vào những lời thú nhận có vẻ như cho xong chuyện. Hắn phạm tội thế nào, ngày, giờ, địa điểm, cách thức, diễn biến, hậu quả, động cơ, mục đích, tình trạng tâm sinh lý, đồng phạm hay riêng lẻ, ai biết, ai không, khắc phục hậu quả, tiêu thụ của gian như thế nào, hồ sơ phải thể hiện được tất cả những vấn đề ấy. Vậy mà hắn không chịu nói. Luật lại qui định nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Hắn đã trở nên một khối trầm uất u buồn, không muốn nhắc tới bất kỳ một điều gì liên quan đến quá khứ. Thậm chí, cùng với thời gian có thể hắn sẽ trở nên tâm thần bởi tuyệt vọng và hoảng sợ. Mà thời gian dành cho việc chứng minh tội phạm không phải vô hạn định. Cuối cùng người ta đành phải đưa đến chỗ hắn một vị điều tra viên mới.
Người này đã từng rất có ấn tượng đối với hắn.
Hắn nhận ra ngay vị điều tra viên này bởi đây chính là người đàn ông đã từng bám sát hắn suốt quãng đường trốn chạy sau cùng của cuộc đời. Nốt mụn ruồi ở đuôi mắt trái anh ta luôn ám ảnh hắn trong những đêm dài trốn chui trốn lủi, bần cùng và kiệt quệ. Bây giờ anh ta lại đến với hắn. Anh ta đặt chiếc cặp lên bàn, cố tình gạt nó sang một bên, ngả người một cách thoải mái ra thành ghế, rồi bảo:

- Hôm nay tôi với anh làm ấm chè rồi nói chuyện phiếm. Công việc tạm gác sang một bên, chả nên bắt nhau mệt mỏi mãi như thế làm gì. Anh có đồng ý không?

Hắn im lặng.
Vị điều tra viên lại nói:
- Có thể anh không có chuyện gì để nói cả, nhưng tôi lại có nhiều chuyện để nói với anh đấy.

Một cảnh sát trẻ bê bộ ấm chén đã pha trà sẵn bước vào phòng. Vị điều tra viên đỡ lấy, đặt xuống bàn rồi rót ra chén đưa mời hắn. Hắn lắc đầu. Vị điều tra viên nọ liền đặt chén nước xuống trước mặt hắn, quay ra nhấm nháp chén trà của mình rồi bật thuốc hút. Bất ngờ anh ta hỏi:

- Anh có muốn biết cái bãi vàng Lũng Sơn của anh bây giờ nó như thế nào không?

Mi mắt hắn khẽ động đậy. Mùi trà thơm quá, kích thích vòm họng quá, lại cả mùi thuốc lá nữa, thần kinh hắn có vẻ như đang căng ra vì thứ khói này.
- Anh uống nước đi - Vị điều tra viên tiếp tục- Và cứ hút thuốc tự nhiên. Còn đây là tập ảnh vừa mới chụp. Anh còn nhận ra chỗ ở của anh ngày xưa nữa không?

Tập ảnh vị điều tra viên lấy ra từ trong cặp khá dầy, được đẩy tới chỗ hắn. Hắn chưa cầm tập ảnh ngay mà lại đưa chén trà lên miệng nhấp từng ngụm, khoan khoái, sau đó rút ra một điếu thuốc và châm lửa. Kéo một hơi dài xong hắn mới ngẩng đầu lên, buông một câu ngắn ngủi:
- Cảm ơn cán bộ!

Tập ảnh được tráo đều trước mắt hắn. Công ty khai thác vàng bạc đá quí Việt - Nhật, khu nhà sàng, phòng nghiên cứu thăm dò địa chất, khuôn viên có thảm cỏ và cây xanh, những dãy nhà vừa mới quét ve, con suối trong vắt, mấy quả đồi lô nhô có cắm cờ... Bãi vàng Lũng Sơn đã hoàn toàn được qui hoạch lại, không còn dấu vết của sự khai thác tự phát nữa. Tất cả đã đổi thay, ngay cả những nơi heo hút nhất. Dãy núi đá mà hắn từng ẩn náu lẫn vào nền trời xanh, yên bình và xa lạ. Những khoảnh khắc mà vị điều tra viên kia mang lại đã cào nhẹ vào vùng cảm xúc khô héo trong hắn. Tự nhiên hắn muốn biết thêm những điều khác, ví như cái đám dân đào vàng trong hội Áng Sơn của hắn bây giờ ra sao, hoặc giả, hắn sẽ phải nhận hình phạt như thế nào sau những ngày tạm giam này? Vị điều tra viên lại móc trong cặp ra hai tấm ảnh nữa. Anh ta đưa cho hắn một tấm rồi bảo:

- Anh có nhận ra những ai trong tấm ảnh này không?

Hắn cố nén tiếng thở dài. Mẹ hắn đây ư? Bà đã già quá rồi, trông dáng bà đứng bên con trai và con dâu vẹo vọ đến tội. Anh Dương thì khác xa so với hình ảnh mà hắn còn lưu giữ được. Anh Dương bây giờ đã là một người đàn ông trung niên thành đạt, nét phú quí hiện rõ trên bộ quần áo, đôi giầy, chiếc đồng hồ đeo tay, cả nụ cười cởi mở, khoáng đạt kia nữa. Người chị dâu mà hắn chưa một lần gặp mặt có vẻ xuề xoà, khuôn mặt chị toát lên nét gì đó hồn hậu, đại lượng. Thằng bé đứng trong lòng mẹ hắn khoảng mười bốn, mười năm tuổi, gầy gò, láu lỉnh, có cái trán dô. Chắc đây là đứa con đầu của anh Dương. Hắn được biết mẹ hắn đã ra Quảng Ninh ở với anh Dương nhưng bà vẫn đi đi về về để "trông mảnh đất quê cho thằng Đàn". Bà cũng đã từng lần mò lên cả bãi vàng Lũng Sơn để tìm hắn nhưng dạo ấy hắn còn đang cùng Lân sáu ngón lang bạt ở mấy tỉnh biên giới Việt- Lào. Bây giờ thì bà đã biết hắn đang nằm trong bốn bức tường này. Hắn vẫn nhận được quà của bà gửi vào, chỉ có điều đang trong giai đoạn điều tra nên người ta không cho bà vào gặp.
- Còn bức ảnh này, tôi cứ đắn đo mãi không biết có nên cho anh xem không? - Vị điều tra viên khẽ đập đập tấm ảnh còn lại vào lòng bàn tay - Tôi đã hứa với cô ấy là không tiết lộ gì cho anh. Nhưng tôi nghĩ ít ra anh cũng phải biết là cô ấy còn sống. Chắc anh cũng đồng ý với tôi thế chứ?

- Cán bộ đừng đùa giỡn với tôi nữa - Hắn bật nhỏm người dậy - Cán bộ hãy cho tôi biết cô ấy là ai? Có phải là Nhung không?

Vị điều tra viên có vẻ như đã thoả mãi mục đích của mình, anh ta chìa tấm ảnh ra trước mặt hắn:
- Đây, anh xem đi.
Hắn run run cầm lấy tấm ảnh. Đúng là Nhung thật. Nhung đang bế một đứa bé bụ bẫm mặc bộ quần áo len mầu vàng. Nhung đẹp đến mức hắn ngỡ ngàng. Không còn nhận ra chút giang hồ phóng đãng nào trên khuôn mặt thiếu phụ đẹp như trăng rằm này nữa. Mặn mà. Quyến rũ. Mãn nguyện. Ngập tràn hạnh phúc. Đó là tất cả những gì toát ra từ Nhung. Còn đứa trẻ? Nó mới bầu bĩnh, đáng yêu làm sao. Đôi mắt đen lay láy, ngơ ngác, chẳng thể nhận ra được là trai hay gái. Con hắn đây sao? Có thật là con hắn không nhỉ? Bây giờ hai mẹ con Nhung đang ở đâu?
- Bây giờ chúng ta bắt đầu làm việc nhé? - Vị điều tra viên sau khi lặng lẽ quan sát mọi thái độ của hắn nãy giờ, lên tiếng - Anh hãy kể lại tất cả những gì anh biết, anh làm trong đêm mười sáu tháng tư ở phòng giam số hai mươi tư, trại giam Thanh Phong?
- Thưa cán bộ...?
- Chúng ta chuyện phiếm với nhau như thế đủ rồi. Mọi thông tin cần thiết khác đối với cá nhân anh chúng tôi sẽ xem xét để đáp ứng cho anh vào một dịp khác. Bây giờ thì anh phải trả lời những việc mình làm. Nào, bắt đầu từ cái đêm mười sáu tháng tư ấy...
Đêm 16 tháng 4 ư? Trí óc hắn bắt đầu hệ thống lại những hình ảnh cắt xé, nát vụn. Đó là đêm cuối cùng hắn nằm cạnh trưởng phòng Hân. Nếu như Hân không bất chợt tỉnh dậy khi nghe tiếng gẫy của chấn song sắt cửa sổ thì hắn đã không ngồi đè lên người anh ta, không xiết chặt mười ngón tay vào cổ anh ta làm gì. Vâng, chính hắn. Mục đích ư? Để Hân khỏi ngăn cản việc trốn trại. Có biết vòng xiết ấy có thể dẫn đến chết người không ư?. Có, có chứ. Nhưng khát vọng tự do mạnh hơn tất cả. Thế là bất biết cái gì sẽ xảy ra dưới hai bàn tay mình. Rồi sao nữa ư? Chui qua song sắt và chạy...
Cứ thế hắn lần lượt khai tất cả. Khai chi tiết. Không bỏ sót một vụ việc nào. Một tháng sau đó hồ sơ được hoàn tất. Trước khi phiên toà sơ thẩm mở độ mười lăm ngày, có một người đàn ông đến gặp hắn. Người này trạc tuổi hắn nhưng gầy gò hơn. Trong khi ngồi chờ cán bộ trại giam vào phòng dẫn giải hắn, anh ta móc trong túi quần ra một mảnh cá mực nướng, xé nhỏ, đưa vào miệng nhai nuốt ngon lành. Không ít cán bộ quản giáo tưởng anh ta nhai kẹo cao su. Còn hắn, hắn vừa nhìn thấy người này thì giật mình, không biết nên xử trí thế nào. Đối với hắn anh ta chẳng còn đáng giận nữa. Nhưng cũng không thể nói sự có mặt của anh ta ở đây là đáng kính trọng. Phải, người đàn ông ấy chính là Bằng. Theo như trên tấm danh thiếp mà anh ta đưa cho cán bộ quản giáo thì anh ta là Trần Bằng - luật sư, người được mời cãi cho hắn trong phiên toà sắp tới. Chờ cho hắn yên vị trên chiếc ghế đối diện và người quản giáo đi ra khỏi phòng, Bằng mới lên tiếng:
- Trước hết, tôi phải nói ngay thế này cho Đàn hiểu, với mức án của Đàn, dù Đàn không thuê luật sư để biện hộ cho mình thì luật pháp cũng qui định toà án phải chỉ định một luật sư đến cãi cho Đàn. Tôi đã quyết định chọn vụ này. Không phải vì tình bạn, tình đồng môn, sự nổi tiếng hay vì cái gì cả. Chỉ vì tôi thấy mình có lỗi phần nào đối với cái kết cục không mấy may mắn của Đàn.
Hắn nhìn thẳng vào Bằng, lắng nghe từng lời Bằng nói. Cảm giác trước tiên hắn nhận thấy là con người Bằng có vẻ thành thật. Hãy cứ thử xem anh ta làm được điều gì cho hắn? Hắn bảo:
- Chúng ta không nên để chuyện cũ đè nặng lên suy nghĩ của mình làm gì. Tôi hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về những gì mà mình đã làm, không oán trách ai cả. Ông đối với tôi như thế này, tôi rất mừng. Nhưng tại sao ông lại làm cái nghề này? Tôi tưởng ông bây giờ phải làm chủ tịch huyện rồi chứ?

- Nhảm nhí, nhảm nhí tất Đàn ạ, cái tuổi trẻ ngông cuồng và mơ mộng viển vông của tôi ấy mà. Thực ra ngày ấy tất cả chúng ta còn quá trẻ để hiểu biết về sự đời. Ngay sau khi Đàn bị tuyên án lần đầu, tôi bắt đầu lục vấn lại chính mình.

- Quả thực ông khác xưa nhiều quá - Hắn không còn cảm thấy phải dè chừng với Bằng nữa - Cái tính khinh người của ông bỏ đi rồi à? Với tôi, ông là hiện thân của sự giễu cợt. Sự giễu cợt có thể làm cho con người ta sống khỏe lên nhưng cũng có thể làm cho con người ta không sống nổi nữa. Bây giờ thì ông lại đang có dáng vẻ của một nhà thơ, cảm thông và chia xẻ, đó là ấn tượng mới của tôi về ông.
- Đàn đừng nói thế. Nhận thức là một quá trình kia mà. Dặc dài cái quá trình nhận thức ấy luôn rớt rơi những ngậm ngùi và sám hối. Sau khi tốt nghiệp, tôi được điều về công tác ở văn phòng tỉnh uỷ. Mấy năm sau tỉnh có ý đưa tôi sang công tác bên ngành tư pháp. Tôi học tiếp trường Pháp lý. Đến khi ra trường thì cơ chế mới mở tung, tôi thành lập công ty luật và có chân trong Đoàn luật sư. Không giấu gì Đàn tôi bây giờ khá giàu có, nhưng lại rất nghèo một thứ, ấy là con cái. Bảy năm trước đây tôi phải giải phóng cho vợ tôi đi lấy chồng vì kết luận của bác sĩ chỉ rõ tôi là người vô sinh.

Lúc này hắn mới nhìn kỹ con người Bằng. Bộ com lê may rất đẹp nhưng vẫn không che lấp đi được vẻ thảm hại thoát ra từ thân hình gầy gò. Trên mặt Bằng không còn một vết mụn trứng cá nào, nhưng sùng sụng, mệt mỏi và thoáng nét tuyệt vọng. Bằng đã từng là một con đực ấn tượng trong ký túc xá ngày nào, giờ trở nên tự ti giới tính đến mức tội nghiệp. Bằng ngông nghênh và đáng ghét, thực tế và sòng phẳng, ham muốn và quyết liệt giờ trở nên u uẩn, bi quan, suy sụp và sám hối. Ít ra là Bằng đã tỏ ra cho hắn biết thế.
- Tôi đọc không sót một bài báo nào về Đàn - Bằng nói tiếp - Tôi cũng đã nghĩ, rất có thể một ngày nào đó Đàn sẽ gõ cửa nhà tôi và dí súng vào mang tai tôi cũng nên. Báo chí tô vẽ Đàn thành một tên cướp huyền thoại. Còn tôi, tôi chỉ thấy là Đàn đang rơi vào bi kịch mà không thể thoát ra được. Có người còn đang thu thập tư liệu để viết sách về Đàn đấy. Cậu ta cũng đã đến gặp và hỏi chuyện tôi. Cái cậu nhỏ nhắn, thư sinh, đeo cặp kính cận ấy. Cậu ta bảo đã từng ở trong hang đá với Đàn, từng uống rượu và đọc thơ cho Đàn nghe. Tôi chả tin. Và tôi bảo với cậu ấy rằng: "Cái ác nó lạ lắm, chả biết hạt giống được lấy ở đâu, nó có thể rơi xuống bất kỳ một con người nào và nảy mầm trong giây phút. Một người vô học có thể cầm dao chém mẹ, một giáo sư cũng có thể đóng đinh vào đầu vợ, một nhạc sĩ cũng có thể cầm tuốc nơ vít ngoáy vào tim người khác, làm sao cứ phải bận tâm lý giải về trường hợp của Đàn làm gì". Thế là cậu ấy bỏ đi. Nhưng tôi biết cậu ấy chưa từ bỏ ý định viết về Đàn. Hay là bi kịch của mỗi con người đều là chất men gây cảm hứng sáng tác cho những tâm hồn nghệ sĩ?
Hắn bảo:
- Cậu ấy đã từng ở với tôi thật đấy. Và cậu ấy đúng là một nghệ sĩ.
Bằng bỗng hạ giọng:
- Ừ thôi, đấy là chuyện của Đàn. Bây giờ Đàn thành thật trả lời tất cả những điều tôi hỏi. Chỉ có cách ấy may ra mới có thể tìm được một vài tình tiết giảm nhẹ nào đấy cho Đàn. Ví như trường hợp thằng Hân, ở với nó từng ấy ngày Đàn có thấy nó mắc bệnh gì liên quan đến tim mạch không?
Hắn không hiểu:
- Bệnh tim mạch á? Để làm gì?
Bằng bảo:
- Để tôi có thể chứng minh rằng thằng Hân chết không phải vì ngạt do bóp cổ.
Hắn lắc đầu:
- Thôi, ông đừng làm thế, chả giúp được gì cho tôi đâu. Tội tôi nhiều lắm, đâu chỉ mỗi việc bóp cổ thằng Hân. Mà tôi cũng thấy mình phải trả giá cho những việc mình làm là hợp với luật đời. Giãy giụa, kêu gào làm gì nữa, cũng chỉ như con chó trước khi bị chọc tiết thôi.
Bằng bảo:
- Vậy Đàn cự tuyệt lòng tốt của tôi à?
Hắn bảo:
- Tôi rất cảm ơn ông nhưng ông đừng phí phạm lòng tốt vào việc cứu tôi làm gì. Tôi thấy nó hoang tưởng lắm.
Bằng có vẻ không hài lòng. Có lẽ anh ta không ngờ Đàn lại không mặn mà với đề nghị của mình, một đề nghị có ý nghĩa như một cây gậy thò ra cho người chết đuối. Bằng móc trong túi quần ra một miếng khô mực to bằng nửa bàn tay, bật lửa hơ nướng. Bằng đã quen với việc này nên động tác rất gọn. Khi miếng mực đã chín đều, quăn lại, teo tóp, Bằng cất bật lửa vào trong túi rồi xé mực đưa vào miệng. Hắn quan sát mọi động thái của Bằng và không hiểu được con người thực của Bằng hiện giờ là như thế nào? Ngay ngày xưa khi còn ở chung phòng với nhau hắn còn không hiểu được Bằng, thì bây giờ, với bao nhiêu những đổi thay của số phận, làm sao hắn có thể nắm bắt nổi Bằng. Vẻ thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt Bằng. Chẳng lẽ nét mặt kia là thật? Chẳng lẽ cái dáng vẻ sám hối kia là thật? Chẳng lẽ bao nhiêu năm qua trong khi hắn mỗi ngày một bị đẩy về cực xấu thì Bằng chuyển động về phía cực đối lập? Chẳng lẽ Bằng xách cặp đến đây thực sự không phải vì tiền, vì danh hay vì một lợi ích thiết thân nào đấy? Ôi chao, nếu vậy thì cuộc sống khó hiểu thật! Con người lại càng khó hiểu hơn!
- Đàn đã đọc kỹ cáo trạng chưa? - Nhai xong miếng mực Bằng bỗng quay ra hỏi hắn.
- Đọc rồi - Hắn đáp.
- Thấy họ viết thế nào? Có chỗ nào không đúng như Đàn đã làm không?
- Những điều họ viết còn ít hơn những việc tôi làm.
- Mấy hôm nữa ra toà Đàn cũng định trả lời như thế này sao?
- Như thế này là thế nào?
- Là nhận tất tần tật. Chẳng lẽ Đàn đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn thiết sống nữa?
- Biết làm sao được khi mà tôi không thể chối nổi những việc mình làm. Tất cả đã rõ ràng. Ông đừng xới tung lên cho mọi sự thêm rối rắm. Lúc này, thực sự tôi không cần điều ấy, tôi chỉ cần ông với ý nghĩa như một người đến thăm thân cho tôi đỡ buồn trong những tháng ngày này. Ông hiểu ý tôi không?

Bằng gật đầu, bảo:
- Thôi được rồi, tôi có thể sẽ không tham dự phiên toà, chỉ gửi lời bào chữa thôi. Tôi không đủ sức chịu đựng cảnh người ta tuyên tử hình Đàn. Lời tuyên án ấy xét đến cùng là tuyên cho cả thói sống ích kỷ, hợm hĩnh, ngông cuồng và ngu muội của tôi nữa. Nếu tất cả không bắt đầu từ đêm sinh nhật nghiệt ngã ngày nào thì có thể Đàn đã không như thế này. Tôi sẽ thường xuyên vào thăm Đàn và chuyện phiếm cho Đàn đỡ buồn. Đàn cần gì tôi sẽ mua giúp Đàn?
Hắn bảo:
- Tôi còn biết cần gì nữa bây giờ ngoài những câu chuyện phiếm của ông?
Bằng cúi xuống, nói nhỏ vào tai hắn:
- Tôi có thể giúp Đàn liên hệ với gia đình, Đàn có muốn nhắn tin cho ai không?

Hắn bảo:
- Thôi, nói chuyện khác đi, ông còn nhớ thầy Quý không?

Bằng gật đầu:
- Thầy Quý bây giờ khá lắm. Thầy bảo vệ xong tiến sĩ rồi, sắp tới có thể thầy sẽ lên làm thứ trưởng. Tôi mới gặp thầy tháng trước.

Hắn hỏi:
- Thầy còn nhớ tôi không?
Bằng bảo:
- Nhớ. Thầy bảo trong số các học trò của thầy, thầy thương Đàn nhất. Thầy còn nói: "Đáng tiếc nhưng đáng tiếc hơn là tất cả chúng ta đều có lỗi mà không biết". Tôi nghiệm ra một điều, cuộc đời mỗi con người là triền miên những lầm lỗi và hối hận, loài người sẽ chẳng thể thức tỉnh vì không ai sống được hai cuộc đời để mà nhận ra những lỗi lầm của mình.
Hắn bảo:
- Tôi có cảm giác ông vào đây mang theo cả một tâm trạng sám hối trong mình. Chẳng lẽ chỉ vì ông gặp một chút thua thiệt nào đó, như không có con chẳng hạn, mà ông sa vào những suy nghĩ u uẩn như vậy?

Bằng bảo:

- Thực ra tôi cũng chỉ là một kẻ ích kỷ thôi. Con người ta ai cũng vậy, chẳng ai muốn chết là chấm hết, là mất tất cả. Ai cũng muốn còn lại một cái gì đó, đấy là con cái. Tôi được hưởng lạc thú quá sớm để rồi cũng lại phải bó tay nhìn lạc thú đi qua trước mắt mình mà không sao lấy lại được. Tôi không còn khả năng ân ái nữa. Sự sống chắc cũng chẳng còn kéo được dài. Tôi sám hối bởi vì tôi còn lắm ham muốn. Con người ta là thế đấy. Sau sám hối sẽ lại là tội lỗi. Cái vòng luẩn quẩn ấy chẳng sao thoát ra được. Ngay động cơ đưa tôi vào đây với Đàn thực chất cũng chỉ là đi tìm một sự giải thoát mà thôi. Giải thoát để làm gì? Để hy vọng một điều gì đó tốt đẹp sẽ trở lại với mình chăng, ví như sẽ khỏi bệnh tật chẳng hạn, sẽ có con chẳng hạn. Nhưng có con rồi thì sẽ lại lao vào kiếm tiền để nuôi con bằng người, hoặc hơn người, và trong công cuộc kiếm tiền ấy ai dám chắc sẽ không phạm phải những lỗi lầm? Ôi, sao cái giống người cứ tưởng vĩ đại lắm mà nhỏ bé, tội nghiệp, đáng thương đến thế!
(Còn tiếp)
04:56 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Đêm hôm ấy Hiến mang một chiếc giường gấp xuống buồng hắn, nửa nằm nửa ngồi, chuyện trò với hắn đến khuya. Hiến cho hắn uống thứ nước gì đó đen đen, nâu nâu, lại đắp lên vết thương ở bắp chân hắn một nắm lá giã nát, khiến người hắn cứ sốt li bì. Hiến bảo: "Đầu đạn không còn nằm lại nhưng nó phá nát phần bắp thịt, có thể dẫn tới teo cơ. Thuốc này tẩy trùng rất tốt, sau đó sẽ đắp thuốc nối lành vết thương. Vết này miệng khá rộng và lòng rất sâu. Kháng sinh mạnh nên đêm nay và ngày mai Đàn sẽ sốt nhẹ. Khi sốt người ta thường hay ác mộng. Tôi ngồi đây nói chuyện với Đàn vào những lúc cắt cơn sốt để Đàn đỡ sợ. Khi cô độc quá người ta có thể cắn lưỡi tự tử. Vào những lúc như thế này kẻ mạnh bạo nhất lại thường là người mềm yếu nhất".

Hắn nằm nghe Đàn nói mà nước mắt cứ rỉ ra ở hai bên khoé mắt. Hiến bằng tuổi hắn mà sao Hiến đã có dáng vẻ của một tiên ông, một đạo sĩ cái gì cũng biết, cái gì cũng thông, cũng tỏ khiến hắn vừa e ngại lại vừa tủi hổ cho cái sự tối tăm, đểu cáng trong mình. Đúng là hắn ác mộng triền miên. Cứ hễ cơn sốt ập đến là y như rằng đài sen xuất hiện, quay tít, hắn bị buộc túm tứ chi, lủng lẳng phía dưới, ngột ngạt, rung vỡ, khó chịu lắm. Những lúc như thế hắn ở tình trạng bị bóng đè, toàn thân cứng đờ, tim ngừng đập, chới với, hun hút rơi vào một vòng xoáy vô hình nào đấy. Đèn vẫn sáng, nến vẫn cháy, trên tường bức ảnh sư tử đá nằm phủ phục, trên lưng đặt đài sen cho phật ngự mờ mờ, ảo ảo, bên cạnh Hiến vẫn ngồi như một pho tượng, thế mà hắn không sao cựa quậy được, không sao kéo được mình về với thực tại phảng phất u buồn này để tránh khỏi cái vòng xoáy khủng khiếp của cơn mộng mị. Phải rất lâu, hắn mới cử động được các ngón tay, rồi ngón chân, và cuối cùng là cựa quậy được thân mình để choàng tỉnh dậy. Hắn chỉ vào bức tranh treo ở trên tường, bảo Hiến:

- Cái đài sen kia nó cứ quay tít trong đầu tôi. Hiến bỏ nó ra treo ở chỗ khác được không? Tôi thấy kinh lắm.

Hiến bảo:
- Nếu không phải là đài sen này thì cũng sẽ là một cái gì đó quay tít trong đầu. Những hình ảnh khác sẽ còn khủng khiếp hơn nhiều, ác mộng kia mà! Đàn cố gắng chịu đựng qua đêm nay, ngày mai thần thái sẽ ổn, mọi sự rồi sẽ lại trở về bình thường.
Hắn bảo:
- Hình như tôi ngửi thấy cả mùi hoa sen?
Hiến lắc đầu:
- Mùa sen qua lâu rồi. Đó là mùi trầm đốt ngoài ban thờ tổ đấy.
Hắn bỗng hỏi:
- Tại sao phật lại ngự trên đài sen hả Hiến?
Hiến không trả lời mà hỏi lại:
- Theo Đàn thì tại sao?

Hắn bảo:
- Có lẽ tại vì sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn chăng?
Hiến mỉm cười ý nhị, rồi nhẹ nhàng bảo:

- Sen có nhiều đức tính hợp với triết lý nhà phật. Sen ẩn sâu dưới bùn đất xa lìa trần cấu, gọi là u vi. Sen khiêm tốn, không khoe tài đua sắc với các loài hoa khác trên đồng nội gọi là ẩn vi. Lá sen ngửa rộng lên trời với những thớ mạch như nét vạch tự nhiên hút khí trời gọi là tế vi. Sen không sớm nở tối tàn mà sớm xoè thì tối cụp gọi là tuỳ nghi diệu. Sen mỗi năm một thân mới, một hoa mới gọi là hàn thử bất thiện diệu. Sen, hoa quây quần hạt, hạt xúm xít trong hoa, gọi là tổng biệt tề chương diệu. Sen vừa là hoa vừa là quả, gọi là nhân quả đồng thời diệu. Bởi có những ẩn vi cao quí đó mà sen được gần gũi Phật, nói được ý Phật, được chọn để Phật ngự. Đàn mơ thấy đài sen là ý tốt. Có lẽ tâm tính Đàn từ nay trở đi sẽ hướng thiện.

Mấy ngày hôm sau thì vết thương ở bắp chân hắn lành miệng. Buổi tối, Hiến bảo hắn:
- Đêm nay Đàn có muốn xem quỳnh nở không?
Hắn hỏi:
- Ở đâu?
Hiến bảo:
- Ở ngay khuôn viên của nhà chùa thôi.
Âm lịch hôm ấy là mười tám. Trăng vẫn còn sáng lắm. Hiến không muốn hắn chường mặt ra chỗ đông người vào ngày rằm nên mới chủ ý cho hắn ra sân xem hoa nở vào hôm đó. Khoảng chín giờ tối, chú tiểu cùng một cậu thanh niên độ mười chín, hai mươi vào buồng dìu hắn ra. Hiến đã ngồi đợi sẵn ở sân chùa. Lư hương bằng đồng đặt giữa sân toả mùi trầm ngào ngạt. Khóm quỳnh cao tới ba mét lúc lỉu những nụ là nụ. Trăng vẫn còn ẩn sau dãy núi xa nhưng Hiến đã cho tắt hết điện, cả ngôi chùa chỉ còn được thắp sáng bằng những ngọn nến to nhỏ đặt khắp các ban thờ, dọc hành lang, nơi hòn non bộ và trên bàn uống nước chỗ Hiến đang ngồi. Có ba chiếc ghế được đặt quanh bàn. Một chiếc Hiến ngồi, một chiếc dành cho hắn, còn một chiếc thuộc về cậu thanh niên vừa dìu hắn ra. Cậu thanh niên này có nét hao hao giống Hiến, khi cười cả khuôn mặt cậu ta bừng sáng bởi chiếc răng khểnh ở mép phải trông rất đáng yêu. Sau khi cậu ta rót nước ra chén mời hắn xong, Hiến mới quay sang hỏi hắn:
- Đàn có biết thằng bé này không?

Hắn lắc đầu. Hiến lại bảo:

- Không phải tự nhiên mà tôi lại mời Đàn ra đây vào một đêm trăng sáng như thế này để ngắm hoa quỳnh nở. Khung cảnh đêm nay có vẻ thần tiên quá, sách vở quá, nó chẳng hợp với Đàn, và thực ra, nó cũng chẳng hợp với tôi. Nhưng tôi biết với tôi những đêm như thế này thì còn nhiều, còn với Đàn, có thể sẽ là đêm cuối. Bởi vì Đàn khoẻ rồi, Đàn lại đi, cá nước chim trời, biết khi nào lại có một đêm uống trà, thưởng nguyệt, chờ hoa quỳnh nở. Một lý do nữa là vì đêm nay có liên quan tới cái tên khai sinh của thằng bé này. Cũng vào một đêm trăng cách đây mười chín năm, Đàn đã từng đặt tên cho nó đấy.

Hắn "à" lên ngạc nhiên rồi quay sang nhìn cậu thanh niên bên cạnh. Viên Minh! Chẳng lẽ đây là đứa bé con chị Tình, là đứa cháu gọi Hiến bằng cậu ruột? Không, hắn không còn nhận ra được một nét nào của đứa bé lên năm bê xảo khoai từ trên chùa đi xuống dưới chân núi hôm nào? Mà cũng đã quá xa rồi. Vật đổi sao dời. Cậu bé đẹp đẽ và tươi tắn quá. Cái tên Viên Minh mà hắn mò mẫm đặt bừa khi xưa giờ đã trở thành tên chính thức của chàng thanh niên này. Mới hay vòng đời của những đứa trẻ làng Áng Sơn như hắn và Hiến đã quay được quá nửa rồi.
- Viên Minh về chào tôi để tuần sau cháu nó sang Nhật dự triển lãm đồ gốm. Viên Minh bây giờ là sinh viên năm thứ hai trường Mĩ Thuật ở Hà Nội. Năm ngoái cháu được giải nhất Mĩ Thuật về gốm. Năm nay cháu được người ta mời đi trưng bày các tác phẩm gốm sứ. Đàn thấy đấy, cái gien nặn tò he của gia đình tôi hoá ra cũng có lúc thăng hoa. Cháu nó ở với tôi từ bé. Ăn cơm chùa mà học thành tài đấy Đàn ạ.
Hắn vỗ vỗ vai Viên Minh, trong lòng thấy vui mừng thật sự. Cả một thời khốn khó ngày nào mới như hôm qua thôi, còn nguyên vẹn trong trí óc hắn. Xét cho cùng cả hắn và Hiến đều chả sung sướng gì, đều hưởng đủ những đói kém, hèn mạt của kẻ nghèo khó. Bây giờ nhìn vào Viên Minh, Hiến thấy được khát vọng của mình nảy nở, hiện sinh giữa đời. Hiến mừng là đúng thôi. Còn hắn, hắn mừng vì thấy bạn hắn dù sao cũng được cuộc đời an ủi. Hiến đáng được hưởng nhiều hơn thế. Hắn mừng cho Hiến, vui cho Hiến và quả thực đến giờ phút này hắn mới thực sự hiểu Hiến, ơn Hiến, phục Hiến. Viên Minh có vẻ ngượng ngùng trước thái độ của hắn. Hiến bảo:

- Cháu đưa tập ảnh chụp các tác phẩm của cháu cho cậu Đàn xem.

Viên Minh đứng lên bước qua sân đi vào phía trong chùa, lát sau cậu ta mang ra một chiếc cặp nhỏ hình chữ nhật. Hắn đón nhận tập ảnh từ tay Viên Minh, lật xem lướt qua từng chiếc một. Đến chiếc cuối cùng thì Hiến bảo: "Đây là cái được giải đấy, Đàn thấy đẹp không?". Hắn dừng lại ngắm nghía bức ảnh chụp một khối gốm sành sần sùi, thô ráp, màu gạch non có hình ba chú trâu tựa vào nhau, dáng vươn khoẻ như một dãy núi, nâng lên ba đứa trẻ mục đồng. Viên Minh chỉ tay vào bức ảnh giảng giải thêm: "Kế bên dáng ngả của ba trẻ mục đồng là ba cánh diều đợi gió, hay có thể hiểu là ba mảnh trăng, ba con thuyền, ba chiếc lá đang đậu nhẹ vào nhịp đồng dao. Còn những khoảng tròn, những hình âm dương này mô phỏng xoáy đuôi, xoáy mắt, xoáy đùi của những con trâu. Thông điệp của bức gốm sành này là đời sống nông thôn, nông nghiệp còn mãi trong tiến trình lịch sử của dân tộc, nó sẽ là nền móng, là điểm tựa vững trãi cho mọi ước mơ, khát vọng".

Vừa nghe Viên Minh nói, hắn vừa ngước lên nhìn những nụ quỳnh đang đồng loạt mở cánh. Hương trầm thơm ngát, lan toả. Trăng đã ló rạng, vằng vặc một không gian rộng lớn. Chén trà trên tay hắn ngào hương sen thanh nhã. Hắn bỗng quay sang hỏi Hiến:
- Hiến ơi, suốt bao nhiêu năm tu hành Hiến đã hiểu được gì về đạo?
Hiến ngồi trầm ngâm như một pho tượng khi nghe hắn hỏi câu ấy. Một lúc lâu sau Hiến mới bảo:
- Sở học khôn cùng, đời tu cũng lắm nẻo. May ra tôi mới đạt được hai phép Nhân thừa và Thiên thừa thôi.
Hắn lại hỏi:
- Hai phép ấy nghĩa là gì?
Hiến đáp:
- Tu Nhân thừa là qui y tam bảo: Phật - Pháp - Tăng và tuân theo năm điều cấm: sát sinh, đạo tặc, tà dâm, vọng ngữ, tửu.
Hắn bảo:
- Tôi tạm hiểu. Thế còn Thiên thừa?
Hiến đáp:

- Tu Thiên thừa tích cực hơn Nhân thừa, ngoài những điều cấm đoán trên, còn làm việc thiện, mười điều cả thảy, gọi là thập thiện nghiệp.

Hắn hỏi:
- Là những điều gì?

Hiến đáp:
- Gồm có sửa thân ba phép: Phóng sinh, bố thí, tiết chế thị dục. Sửa miệng bốn phép: Chân thật, không thêu dệt, không nói độc ác, không xúi giục người khác thù ghét nhau. Sửa ý ba phép: Không tham, sân, si. Đây là hai phép tu sơ đẳng và thấp nhất của đạo, tôi e là mình chỉ đạt được đến phép thứ hai này thôi.
Hắn hỏi tiếp:
- Vậy còn những phép nào nữa?
Hiến đáp:

- Còn ba phép nữa. Tu Thinh văn, tu Duyên giác và tu Bồ tát thừa. Những phép tu này cao siêu và huyền nhiệm lắm. Ở Thinh văn thì nhờ Phật mà xuất ly khổ, còn Duyên giác thì tự giác mà được giải thoát. Còn Bồ tát thừa là phép tu của các đấng chí tôn, không chỉ tự giác ngộ mà còn nguyện đem chỗ giác ngộ của mình mà dạy chúng sinh cùng giác ngộ theo.

Hắn bảo:
- Đã bắt đầu thấy loạn óc và khó hiểu rồi đấy. Hiến có thể nói cho tôi một cách đơn giản nhất về cái phép tu cuối cùng, phép Bồ tát thừa ấy được không?

Hiến đáp:

- Tôi cũng đang cố gắng hiểu nó mà chưa hiểu nổi. Nói chung tu Bồ tát thừa là tu theo sáu phép ba la mật hay còn gọi là tu lục độ, tức là sáu phép độ ta qua bờ bên kia của chính giác. Sáu phép ấy là Bố thí ba la mật, Trì giới ba la mật, Nhẫn nhục ba là mật, Tinh tấn ba la mật, Thiền định ba la mật và Trí huệ bát nhã ba la mật.

Hắn ôm đầu choáng váng nhưng vẫn cố gượng hỏi:
- Phép thứ nhất ấy được hiểu như thế nào?
Hiến bảo:
- Bố thí ba la mật gồm Tài thí, Pháp thí và Vô uý thí. Tài thí là bố thí của cải, Pháp thí là bố thí phập pháp, Vô uý thí là bố thí lòng dũng cảm, bố thí cái "Không sợ". Ở phép tu này...

Hiến nói đến đây thì hắn ngất xỉu, đầu gục xuống bàn, gạt đổ cả tách trà chú tiểu vừa châm, còn đang bốc khói. Hiến vội đưa hắn vào trong nghỉ. Đêm bắt đầu nối canh. Hiến còn lại một mình, ngẩng đầu nhìn trời rồi đưa tay lên bấm từng đốt. "Không kịp rồi!", Hiến lẩm bẩm. Những ngọn nến cháy hết lần lượt tắt phụt. Ngôi chùa chìm vào yên ắng. Hiến bước về trai phòng, ngồi xếp bằng vừa đọc kinh vừa lần tràng hạt. Trăng trôi trên nóc chùa, đến khi mệt nhoài mờ nhạt nơi góc trời thì những bông quỳnh thay nhau héo rũ.
Buổi sáng hôm sau, vị sư trẻ trụ trì chùa Áng Sơn vừa kéo cửa phòng bước ra ngoài thì vấp ngay phải hắn đang phủ phục trước thềm. Sư Pháp Thiện kinh hãi, giật lùi trở lại, miệng lắp bắp:

- Kìa Đàn! Đừng quì thế, vết thương ở chân chưa lành đâu...

Hắn ngẩng đầu lên, khẩn cầu:
- Xin đại đức hãy nhận tôi vào chùa, không còn cánh cửa nào mở ra cho tôi nữa rồi, tôi xin làm đệ tử cho đại đức, xin suốt đời làm tiểu ở đây. Xin đừng từ chối.
Sư Pháp Thiện không ngờ hắn lại thay đổi nhanh đến thế, sau những phút bối rối, nhà sư trẻ bảo:
- Phạm luật trời thì trời phạt, phạm luật đời thì đời trị, phạm luật người thì người đòi. Đàn chưa trả hết nợ cho đời, chưa thể vào chùa được. Người của đời đến đòi Đàn kia kìa. Đàn hãy vui vẻ ra với họ đi. Nhân ấy thì quả này, không tránh được đâu.
Hắn từ từ quay đầu lại. Cổng chùa đã mở rộng từ bao giờ. Ngay bậc tam cấp bước xuống sân chùa năm, sáu người mặc cảnh phục đang đứng sẵn đợi hắn. Hắn lại nhận ra khuôn mặt quen quen có nốt ruồi to bằng đầu đũa ở đuôi mắt trái. Người này bước lên thềm, tiến đến chỗ hắn và tra chiếc còng số tám vào hai cổ tay hắn. Hắn được xốc dậy đưa ra sân. Chiếc Xít đờ ca đỗ ngoài cổng chùa chỉ chờ hắn ngồi lên nữa là lao xuống chân núi. Hắn quay lại nhìn ngôi chùa lần cuối, thấy vị sư trẻ đang đứng trước điện nhìn theo hắn. Không thể nào biết được sư Pháp Thiện đang nghĩ gì. Vị sư trẻ này đã thức trắng đêm để sáng nay đưa tiễn một tội đồ về nơi anh ta phải chịu những phán xét. Chú tiểu tiến đến bên cạnh, bẩm: "Thưa thầy, xe đã đi xa rồi, mời thầy rửa mặt rồi vào dùng trà ạ".
Sư Pháp Thiện khẽ gật đầu nhưng lại đi ra chỗ khóm quỳnh. Nhà sư đưa tay cầm lên từng bông quỳnh mềm oặt, héo rũ, lẩm bẩm một câu gì đó rồi mới thủng thẳng bước lên trai phòng.
Bình minh bắt đầu ló rạng trên đỉnh tháp chuông.
(Còn tiếp)
04:50 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chương 8

Hắn đã ăn hết bốn túm oản đại, vị chi là hai mươi chiếc, cả một hàng trên của nải chuối chín, vị chi là mười quả, uống hết hai lon bia và hút hết nửa bao thuốc lá, mới ngẩng mặt lên nhìn cho kỹ gã thầy chùa có khuôn mặt đẹp như Đường Tăng trong phim Tây Du Ký đang ngồi đối diện với hắn. "Hiến!" Hắn bỗng vỗ bốp vào trán rồi hét lên làm vị sư trẻ giật cả mình.
- Đúng là Hiến rồi, Hiến ơi. Mày có biết tao khổ thế nào không hả Hiến. Cuộc đời chó má lắm. Run rủi thế nào tao lại gặp mày trong tình cảnh này. Nhìn mày thanh thản thế kia tao thấy đời tao khốn nạn quá. Tao.. - Đàn đừng nói nữa - Vị sư trẻ phẩy ống tay áo cắt ngang lời hắn - Đây là nhà chùa, còn có kẻ ra người vào, hiệu của tôi là Pháp Thiện, bậc tu là đại đức. Đàn cứ bình tĩnh nghỉ ngơi. Mọi chuyện đâu sẽ có đó. Chuyện trò từ từ, đừng hét toáng lên như thế, không tiện.
Chà, chà. Thằng Hiến bây giờ là thế này ư? Hắn cứ ngồi nhìn trân trân vị sư trẻ. Khuôn mặt Hiến thanh tú quá. Đôi mắt phảng phất u buồn nhưng ánh lên những tia minh triết. Đầu cạo trọc nhưng chân tóc vẫn đâm ra lúp xúp. Môi Hiến vẫn đỏ và hàm răng thì trắng đến độ con gái cũng phải phát thèm. Dáng người vẫn mảnh mai và nhìn bộ quần áo nâu đang mặc trên người thì rõ ra đây là một vị sư khoáng đạt, trưởng giả. Hắn lại đưa mắt nhìn khắp gian phòng mà hắn và Hiến đang ngồi. Chẳng thiếu thứ gì cả, sạch sẽ, đầy đủ, thậm chí hắn không thể ngờ được cuộc sống tu hành lại sướng như thế này. Giường mét hai được đóng bằng gỗ lim nâu bóng, hoa văn uốn lượn kiểu cách, trên trải đệm dày, chăn gối sạch bong, nhìn đã thấy ấm áp. Giá sách có kính bọc ngoài, bên trong bày các gáy sách vừa dày, vừa bóng, xanh, đỏ, tím, vàng đủ màu, gợi cho người ta nghĩ đến một vốn học vấn không xoàng của chủ nhân căn phòng. Trần, tường đều ốp gỗ hoặc nhựa, nền lát đá hoa hình chữ nhật kiểu to, sang trọng, cửa ra vào đẩy trên vòng bi như nhà của người Nhật, có đôn sứ, chậu hoa, cây cảnh, có tủ lạnh, có máy nghe nhạc, có loa gắn trên góc tường, có giá để giày dép, có bàn viết đặt đèn chụp, có ảnh Đức Phật và những bức thư pháp treo trên tường. Tóm lại là hắn thấy đi tu mà như thế này thì hắn cũng... đi tu được.Trước kia ở trường hắn được người ta dạy rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Hắn cũng chỉ biết thế chứ chưa hiểu cụ thể một cái tôn giáo nó ra thế nào. Bây giờ thì hắn rơi tõm vào ngôi chùa này, bỗng thấy cái vốn hiểu biết của mình nó nông cạn quá, chẳng đủ tự tin để đối thoại với vị sư trẻ kia, thằng Hiến của hắn ngày nào. Hắn bỗng nghe thấy tiếng chuông. Ôi chao là cái tiếng chuông chùa. Sao mà nó ảo não, thê lương đến thế?
- Bao nhiêu tiếng mà sao cứ thấy kêu mãi thế hả mày? - Hắn đột ngột quay sang vị sư trẻ hỏi. Rồi như chợt nhận ra cái cách nói năng rất không hợp với cửa chùa của mình, hắn liền đổi giọng - Thôi, Hiến ơi, ông thương tôi, ông thông cảm cho tôi, đừng bắt tôi phải gọi ông bằng cái pháp hiệu lạ hoắc đó. Hãy cho tôi gọi ông như ngày nào chúng ta chơi với nhau. Tôi bây giờ chẳng ra cái gì nữa rồi. Ông cho tôi ở được ngày nào thì tôi biết ngày đó. Rồi tôi lại đi..

- Đàn đang hỏi về tiếng chuông phải không?
- Vị sư trẻ có vẻ như không quan tâm đến những lời lẽ có phần như khẩn nài của hắn, cất lên một thứ giọng hiền hậu - Tất cả một trăm linh tám tiếng cả thẩy, nó sẽ xua đi một trăm linh tám điều phiền não ở mỗi con người. Đạo phật cho rằng ở mỗi con người luôn tồn tại ba kiếp: quá khứ, hiện tại và tương lai, lại do ba cái ái dục gắn với lục căn cộng với lục trần mà thành một trăm linh tám điều phiền não. Con số một trăm linh tám cũng là con số ấn định cho các vòng tràng hạt. Mỗi lần niệm phật là một hạt lần qua, cứ thế đảo đi đảo lại như kiếp luân hồi của con người, không bao giờ dứt. Đàn học nhiều mà không hiểu điều sơ đẳng đó ư?
Lần đầu tiên hắn nhận thấy sự thú vị từ những triết lý phật giáo mà Hiến đang giảng giải. Ừ nhỉ, tại sao hắn lại không từ từ tìm hiểu cái cuộc sống đặc biệt này? Nó phải như thế nào đấy mới có thể giữ chân được cậu bạn thời thơ bé của hắn suốt mấy chục năm qua chứ. Hắn thu mình lại và cố ăn nói sao cho nhã nhặn hơn:
- Tôi hiểu rồi. Nhưng quả thật tiếng chuông đối với tôi lúc này kinh khủng quá. Hiến ở đây một mình à? Chùa có đông người không?
- Thầy tôi viên tịch được hai năm rồi. Bây giờ tôi làm trụ trì chùa này. Ngoài ngày rằm, mồng một ra ở đây chỉ còn một chú tiểu nữa thôi.
- Liệu công an có mò lên đây không hả Hiến? Hiến cho tôi tá túc ít ngày Hiến nhá? Tôi bây giờ cùng đường rồi Hiến ạ.
- Cái gì đến rồi sẽ đến. Tất cả cái gì đang chờ Đàn ngày hôm nay đều do Đàn gây ra cả thôi.Gieo gì thì gặt nấy. Tôi không giúp Đàn nhưng tôi cũng không hại Đàn. Cửa chùa bao giờ cũng rộng mở cho Đàn đến và Đàn đi.

Hắn chợt nhận ra một điều rằng, Hiến bây giờ đã ngấm quá sâu triết lý nhân sinh của đạo phật rồi. Hắn không muốn nói chuyện với vị sư trẻ lúc nào cũng đạo mạo, tĩnh tại kia. Hắn muốn được nói chuyện thẳng thắn, chân tình với thằng Hiến bán tò he ngày nào cơ. Nhưng cái thằng Hiến ấy có còn tồn tại không trong dáng người mảnh khảnh, nước da trắng xanh có hiệu là Pháp Thiện kia?
Phải hai ngày sau hắn mới dần dần hiểu được con người Hiến. Hắn mặc quần áo nhà chùa, đầu đội mũ len bịt kín tai. Những lúc Hiến bận hắn cùng chú tiểu lau dọn tượng phật, bệ thờ, gánh nước, nấu cơm, trồng rau, quét sân, nhổ cỏ... Hắn quan sát mọi ngóc ngách, hình khối, biểu tượng và luôn mồm hỏi chú tiểu về ý nghĩa của từng vật được bày trong nhà chùa. Bây giờ thì hắn đã thuộc tên được các vị phật theo thứ tự bày trên bệ thờ. Nào là tượng tam thế, tượng Adiđà, tượng Thích Ca, tượng Di Lặc, tượng Tuyết Sơn, tượng Thích Ca nhập niết bàn, tượng Thích Ca sơ sinh. Rồi Thiên Lôi, Thổ Địa, các vị La Hán, Bát Bộ Kim Cương, Thánh Tăng, Hộ Pháp, Đức Ông. Ngoài ra còn nhiều tượng khác nữa, mỗi tượng gắn liền với một sự tích nào đó. Hắn sẽ tìm hiểu dần dần vì thực sự, hắn thấy thích thú. Hắn chỉ vào một pho tượng tạc một người phụ nữ trẻ đẹp, bế đứa trẻ, có con chim vẹt đậu trên vai, hỏi:
- Đây là tượng ai?
Chú tiểu bảo:
- Tượng Quan Âm tòng tử, thờ Đức Thị Kính.

Hắn ngạc nhiên:
- Sao lại có con vẹt đậu trên vai là nghĩa gì?

Chú tiểu lắc đầu:
- Cái này bác phải hỏi thầy tôi:
Hôm sau hắn hỏi Hiến. Hiến bảo:
- Con vẹt ấy tượng trưng cho chàng Thiện Sỹ, chỉ biết học như vẹt mà chẳng hiểu gì về sự đời cả, Phật cho biến thành con vẹt để bay đi cắp oản chuối về nuôi đứa trẻ.

Tới mười pho tượng ông già râu dài, mặt nghiêm nghị ngồi trên bục thành hai hàng trong thượng điện làm nhiệm vụ cai quản và chuyển kiếp cho người chết qua mười cửa ngục dưới âm phủ, hắn đứng xem rất lâu. Liệu có âm ti, địa ngục như thế kia thật không nhỉ? Cảnh quỉ sứ cưa xẻ thân người, bắt người ngồi trên bàn chông, nấu người trong vạc dầu, bắt người leo qua cầu bôi mỡ, hàng đàn chó ngao, thuồng luồng chờ sẵn... thực sự gây ấn tượng đối với hắn. Chẳng lẽ chết đi rồi mà hắn vẫn còn phải trải qua những cực hình thảm khốc như thế kia nữa sao? Hiến có vẻ thấu hiểu tâm trạng của hắn. Lúc đầu Hiến cũng ngạc nhiên về thái độ hắn. Hiến tưởng hắn trốn chui trốn lủi vài ngày cho qua cơn bĩ cực rồi sẽ rời chùa mà đi. Không ngờ hắn tỏ ra bằng lòng với cuộc sống thanh bần ở chùa. Hắn muốn được làm mọi việc thay chú tiểu, và lắng nghe mọi lời thuyết giảng của Hiến. Hắn chỉ vào hai ông Hộ Pháp ngồi trên lưng sư tử ở ngay cửa điện thờ chính, hỏi Hiến:
- Đây có phải là ông Ác và ông Thiện không?
Hiến bảo:
- Phải.
Hắn lại hỏi:

- Sao không thấy cầm đại đao mà lại cầm ngọc và búp măng?

Hiến bảo:
- Thầy tôi muốn mô phỏng hai ông này đúng như trong tích cũ. Hai vị này vốn là hai anh em khác mẹ cùng cha, con vua Đề Bà Đạt Đa. Vua sai hai anh em đi tìm ngọc quí, ai tìm được ngọc sẽ được nhường ngôi. Người em tìm được ngọc quý nhưng trong lúc ngủ say đã bị người anh lấy búp măng chọc mù mắt để đoạt ngọc. Người em được Phật cứu giúp, lành lại mắt, cả hai anh em liền bái phục xin tu theo Phật. Phật giác ngộ hai vị, đặt tên người em là Thiện hữu người anh là Ác hữu, có nhiệm vụ bảo vệ phật pháp nên gọi là Hộ Pháp. Thầy tôi cho đặt ôngThiện cầm viên ngọc, còn ông Ác cầm búp măng. Cũng có nhiều chùa đặt tượng như thế này.

Hắn gật gù thú vị rồi lại chỉ lên dải lụa có hình con quạ treo trên chiếc cột dựng ngoài sân chùa, hỏi:
- Cờ kia là cờ gì?
Hiến bảo:

- Đó là dải phướn, hay còn gọi là pháp tràng, không phải cờ.

Hắn lại hỏi:
- Sao lại có hình con quạ? Trông cứ như là cờ của bọn cướp biển ấy.

Hiến bảo:
- Con quạ ấy nhắc đến một tích chuyện của nhà Phật. Ngày xưa có một bà vãi vẫn thường mượn danh khuyên giáo cúng phật nhưng lại toàn lấy làm của riêng cho mình. Một hôm bà này gặp một tên tướng cướp. Tên cướp này muốn cải tà qui chính nên hỏi bà già cần phải dâng gì cúng phật. Bà già nói với tên cướp rằng đó là việc tuỳ tâm, cúng gì cũng được, phật đều chấp thứ. Tên cướp liền mổ bụng mình ra lấy cả bộ ruột dâng lên cúng Phật. Bà già kia nhận bộ ruột đó nhưng về ngang qua đường thì vứt đi. Con quạ cắp bộ ruột vào đậu ở nóc chùa kêu mách. Phật thấu nỗi, cho anh kẻ cướp thành Phật, ruột biến thành pháp tràng, nêu gương cho đời về tấm lòng cúng Phật. Thường thì vào ngày lễ các chùa mới treo dải phướn kia. Cách đây một tuần chùa tôi vừa có lễ lớn nên cây cột vẫn còn dựng ở đó.
Hắn nghe xong giật mình nhìn sang Hiến. Sao cái thằng cha này thuyết giảng cái gì nghe cũng kinh thế nhỉ? Hay là hắn cố tình đánh động vào cái thằng tù sổng trong hắn? Vô ích thôi. Hắn không đủ bản lĩnh để mổ bụng mình ra đâu. Hắn đã muốn chết nhiều lần mà chả chết được. Bây giờ thì chẳng còn ai giúp hắn siêu thoát được nữa rồi.Chỉ có mười tầng địa ngục kia đang chờ hắn mà thôi. Nhưng dẫu sao hắn cũng phải thừa nhận rằng mấy ngày ở bên Hiến hắn thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhõm quá chừng. Cuộc sống nhà chùa quả thật sung túc hơn hắn tưởng. Hắn cũng bắt đầu lý giải ra được vì đâu mà chùa có nhiều tiền của đến thế. Số người giàu có bây giờ nhiều lắm. Sinh hoạt tôn giáo lại thoải mái hơn ngày xưa rất nhiều. Thế là người đến chùa tìm vui cũng có, để giải thoát về mặt tâm linh cũng có, để cúng cả người sống lẫn người chết vào chùa cũng có, để làm công việc bố thí cũng có, để được ghi công đức cũng có. Bao nhiêu kiểu người đến chùa là có bấy nhiêu nguồn thu. Thảo nào chùa được xây dựng khang trang, đẹp đẽ thế. Thảo nào nội thất chùa đàng hoàng, đầy đủ thế. Thảo nào giới tăng ni có nhiều xe máy thế. Cái đầu óc thực dụng bởi đã sống quá lâu ở bãi vàng của hắn cứ óc ách những ý nghĩ đốn mạt như vậy. Hòm công đức để ở đâu nhỉ? Cả chiếc xe máy Dream của Hiến nữa. Tao sẽ mượn tất cả của nả của mày để rời khỏi nơi đây, rời khỏi cái đất nước khốn khổ này để tìm đến một thế giới khác. Khi nào có điều kiện tao sẽ gửi trả cho mày, trả xông xênh, trả lãi năm lãi mười. Mày đừng trách tao Hiến nhé. Bây giờ tao trắng tay, tao lại cùng đường. Tao chỉ có mỗi bộ ruột lép kẹp này thôi, chẳng thể dâng cho mày làm tin được. Nhưng tao hứa là tao chỉ mượn mày mà thôi. Rồi tao sẽ trả. Sẽ trả.
Đúng mười hai giờ đêm thì hắn mò dậy. Hiến bố trí cho hắn ngủ ở sau nhà thờ Tổ. Hắn nhẹ nhàng mở cửa ra, bước từng bước thật êm tới trai phòng của Hiến. Trong tay hắn có một chiếc áo khoác ngoài. Hắn sẽ buộc phải dùng đến nó để buộc những cái miệng nào có thể phát ra tiếng kêu. Hắn khẽ đẩy cánh cửa phòng Hiến. Giường trống không. Trên bàn có một cây nến đại đã cháy được một phần ba, đủ soi sáng cả căn phòng. Hắn hơi ngại ngần vì không biết Hiến đi đâu. Giữa lúc hắn đang hành sự mà vị sư trẻ đột ngột quay trở về phòng thì sẽ khó xử lắm. Đứng im quan sát một lúc, tai căng ra nghe ngóng nhưng vẫn không thấy có gì bất thường, hắn liền bước vào phòng và tiến đến vách tủ nơi Hiến vẫn treo chùm chìa khoá. Ngay bên dưới vách tủ là chiếc bàn. Giữa chiếc bàn là ngọn nến đang cháy. Chùm chìa khoá xe máy và một gói giấy nhỏ được đặt ngay ngắn dưới chân ngọn nến. Hắn hơi sững người lại rồi thò tay cầm lên chùm chìa khoá. Lúc này những dòng chữ trên tờ giấy trải rộng trên mặt bàn mới đập vào mắt hắn. Tự nhiên hắn thấy run bắn cả người. Hắn cầm tờ giấy lên, vừa đọc, mồ hôi vừa toát dưới chân tóc.
...Tôi đã nhìn thấy ám khí nặng nề trong mắt Đàn buổi chiều hôm nay. Tội ác sẽ lại diễn ra dưới bàn tay của Đàn. Tôi không muốn sáng mai người ta sẽ kinh hoàng khi phát hiện ra xác chết của hai thầy trò tôi trong ngôi chùa này. Dục vọng được thoả mãn thì cái ác tạm thời bị triệt tiêu. Đàn hãy cầm tiền, cầm xe và rời khỏi chùa đi. Tôi chẳng có gì cho Đàn cả. Tất cả là của chùa. Lộc chùa ai muốn hưởng thì cứ hưởng. Có lại về không, không lại thành có. Ngày xưa Đàn đã những muốn thử treo tôi lên cây cột ở trường bắn, bây giờ tôi không muốn bị Đàn treo lên dưới dải phướn giữa sân chùa. Đàn hãy đi đi và hãy tự cứu rỗi cho chính mình...
Hắn đưa tay lên vuốt mồ hôi mặt, cố dằn xuống cái tâm trạng lén lút bị bắt quả tang. Hiến đã tính đến nước này thì hắn cứ yên tâm cầm tiền, dắt xe mà đi, chẳng phải lo gì cả. Nhưng Hiến ơi, thế này thì mày sẽ coi tao ra cái thứ gì hả Hiến? Mày vẫn là thằng bạn tốt nhất trong cuộc đời tao. Cái tốt của con người chỉ có thể đo bằng đánh đổi sự sống. Đã có lúc tao nghĩ sẵn sàng đánh đổi sự sống của tao nếu có thể giúp được mày điều gì đó. Nhưng rồi tao cứ hàm ơn mày mà chẳng giúp được gì cho mày. Một kẻ tu hành thì có thiết thứ gì trên đời này đâu để tao có cơ hội được trả nợ? Nhưng thôi, lúc này tao đang cần những thứ này của mày. Tao mượn tạm, hưởng tạm chút lộc chùa rồi lại hoàn cúng về chùa sau. Hắn rút chiếc bút ở lọ ra, viết xuống bên dưới những dòng chữ của Hiến:
Cái thằng khốn nạn này xin lạy mày một lạy!
Rồi hắn quay ra hành lang, tra chìa vào ổ khoá, mở máy, dắt xe đi. Trên người hắn vẫn là bộ áo nâu nhà chùa. Trên đầu hắn vẫn là chiếc mũ len màu nâu, được kéo xuống bịt kín tai. Hắn rời khỏi chân núi chưa bao xa thì những chốt barie, những bóng dân phòng trộn lẫn với sắc màu cảnh phục đập vào mắt hắn. Tất cả các con đường dẫn ra khỏi khu vực này đã được kiểm soát chặt chẽ. Người ta không dễ dàng bỏ đi khi tóm hụt hắn. Họ đã mất quá nhiều công sức theo đuổi hắn suốt từ bãi vàng Lũng Sơn về đây. Con cá đã nằm trong nơm rồi, chỉ cần lựa tay khua để bắt cho gọn nữa thôi, không được phép sơ sểnh, không được để cái ác thoát ra khỏi vòm nơm lúc này. Trường đời đã dạy cho hắn kinh nghiệm phát hiện và lẩn tránh những nguy hiểm, lần này hắn ngửi thấy mùi hiểm nguy đang vây bủa xung quanh nhưng hắn phải liều thôi. Với bộ quần áo thầy tu trên người hắn có thể qua mắt được những cặp mắt cú vọ kia. Hắn hưng phấn lướt xe đi. Nhưng đột nhiên hắn phanh sững lại. Cả xã này chỉ có một ngôi chùa. Người trong xã ai chẳng biết mặt vị sư trẻ trụ trì ở đó. Đêm hôm như thế này nhà sư đi đâu? Mấy tên dân phòng ngứa mồm lên lại hỏi tu ở chùa nào, căn cước đâu, sao lại đi xe của sư Pháp Thiện ở chùa Áng Sơn, biển số xe kia ai chẳng thuộc, chẳng biết, thì hắn sẽ phải trả lời ra sao? Ngẫm nghĩ một lúc, hắn quyết định cởi bỏ bộ quần áo nhà chùa ra. Để khi nào rời khỏi cái huyện này hắn sẽ dùng đến. Rồi hắn vốc bùn ở dưới ruộng trát vào biển số xe. Riêng chiếc mũ len hắn vẫn để nguyên trên đầu, có kéo xuống cho che bớt cái mặt đi. Yên tâm với bộ dạng mới, hắn lại lên xe, phóng vụt về phía trước. Chưa tới chốt canh phòng đầu tiên thì hắn đã bị "tít" lại rồi. Ở đâu mọc ra ngay trước mắt hắn một chiếc xe Xít đờ ca đỗ bên thành ruộng cùng ba người mặc cảnh phục, hai người mặc dân sự lẫn trong bóng tối nhập nhoà. Họ yên cầu hắn dừng lại kiểm tra giấy tờ xe. Hắn bàng hoàng khi nhận ra một trong hai người mặc dân sự chính là người đã vồ hụt hắn ở Trạm Đá mấy hôm trước. Chiếc mụn ruồi ở mắt trái to bằng đầu đũa kia thì không thể lẫn vào ai được. Trong lúc loay hoay móc túi lấy giấy tờ xe hắn liếc thấy người đàn ông mặc dân sự lùi lại sau thành xe Xít đờ ca, rút đèn pin ra soi vào một vật gì đấy, nhỏ bằng bàn tay. Thôi chết, chắc họ đang xem ảnh truy nã. Đúng lúc ấy có thêm một chiếc xe máy nữa đi đến. Thấy người cảnh sát trước mũi xe hơi lơ đãng, hắn liền bật khóa, mở máy rồi rú ga phóng vọt đi. "Đứng lại, Bạch Đàn, anh đừng trốn chạy, vô ích", người đàn ông có vết ruồi to bằng đầu đũa hét lên như vậy, và anh ra rút súng ra bắn chỉ thiên. Chiếc xe Xít đờ ca lập tức được nổ máy, chuyển bánh đuổi theo hắn. Cứ chạy theo đường xã chắc chắn sẽ bị bắt. Hắn liền rẽ vào đường bờ ruộng. Chiếc xe Xít đờ ca phải dừng lại, mấy bóng người trên đó vội nhảy xuống, rọi đèn pin về phía hắn, vừa đuổi theo vừa vẩy súng, đạn đi veo véo bên chân hắn. Họ cố vô hiệu hoá chiếc xe máy mà hắn đang sử dụng nhưng không viên đạn nào trúng lốp cả. Bỗng nhiên hắn thấy đau nhói như bị một nhát dùi lửa đâm vào bắp chân. Hắn hoảng hồn, vê ga hết cỡ, chiếc xe nhảy chồm chồm trên mặt thành ruộng. Hết phần ruộng xe hắn lại đâm vào đường lên chùa Áng Sơn. Tất cả bỗng trở nên im ắng đến khó chịu. Đầu hắn quay cuồng với hàng trăm ý nghĩ không đầu không cuối. Sự im lặng này là khoảng lặng trước khi tấm lưới chụp xuống đầu hắn chăng? Điện đàm đã được nối giữa các tổ chốt canh phòng và tất cả các con đường ra khỏi xã đã bị thít chặt lại rồi chăng? Bóng đêm tan loãng ra rồi, ánh ngày sắp xuất hiện rồi, cái mặt hắn sắp lồ lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật, không tìm ra được nơi ẩn nấp nhanh thì lại khốn nạn thân tù bây giờ. Nhưng trốn đi đâu? Làm gì còn chỗ nào cho hắn dung thân nữa bây giờ. Hắn bỗng thấy âm ấm ở bắp chân. Chết cha rồi. Máu cứ rỉ ra thế này sẽ rất tai hại. Hắn móc trong bọc ra chiếc áo nâu nhà chùa, đưa lên miệng dùng răng xé roàn roạt rồi cúi xuống buộc chặt chỗ máu rỉ. Vẫn chưa yên tâm, hắn lại buộc thêm cả chiếc giày dưới bàn chân phải nữa. Như thế máu sẽ không rỉ xuống đường, không làm dấu cho người đàn ông có nốt ruồi đen ở mắt trái kia tìm đến bắt hắn.
Xong xuôi, hắn lao xe vào con đường dẫn lên chùa Áng Sơn. Khi hắn tới trước cổng tam quan thì cũng là lúc ánh ngày đang bắt đầu buông xuống. Như chờ đợi sẵn, chú tiểu mở cổng chính cho hắn vào, sau đó cánh cổng lại được khép lại. Hắn dựng xe ngoài thềm sân rồi tập tễnh bước vào phòng khách ngay phía ngoài nhà thờ tổ. Hiến đang ngồi đó, khuôn mặt đẹp như thiên thần, ánh mắt có phần nghiêm nghị nhưng vẫn chưa hết những tia ấm áp. Hiến chỉ cho hắn ngồi vào chiếc ghế đối diện rồi rót nước mời hắn.
- Hãy uống chén trà nóng này đi. Rồi sương sẽ tan, nắng ấm sẽ đến, lòng người sẽ thanh thản, bận tâm làm chi đến những lẽ vô thường.

Hắn đứng lên đặt chùm chìa khoá và gói tiền xuống trước mặt Hiến, bảo:
- Tôi trả lại cho ông đây. Tôi tận kiếp rồi. Bây giờ ông cho tôi một dải lụa hay một chén thuốc độc, tôi xin lạy ông ba lạy.
Hiến thấy hắn nhăn mặt vì đau, liền bảo:
- Bây giờ Đàn vào trong kia nằm. Để tôi bảo tiểu mang nước nóng lên xem cái chân kia của Đàn thế nào. Nếu nặng thì phải mời bác sĩ. Nếu nhẹ tôi có thể chữa được. Thầy tôi có nhiều bài thuốc nam chữa rất hay.
(Còn tiếp)
04:46 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Hắn cũng ngay lập tức hiểu ra cái trò nực cười đó. Và việc đầu tiên hắn bắt tay vào là tích trữ thật nhiều gạo, mì tôm cùng những thứ thực phẩm khác trong một cái hang sâu. Hắn biết vùng Lũng Sơn này vô cùng hẻo lánh và heo hút. Công an có thể bủa vây cả tháng trời nhưng nếu hắn đủ lương thực thì vẫn có thể ung dung ngồi trong hang đá chờ cho kiếp nạn trôi qua. Lần trước hắn cùng Lân không thể nào trụ lại được là vì thiếu ăn. Lần này hắn chọn một cái hang chưa ai đặt chân đến. Và với số lương thực có thể dùng được trong hai tháng cho năm người ăn, hắn tin là hắn sẽ tránh được mọi phiền phức mỗi khi công an muốn thanh lọc đám đào vàng để tìm bắt những kẻ trốn trại như hắn.
Nhưng còn một điều khiến hắn luôn băn khoăn, ấy là số phận của Nhung hiện giờ ra sao?
Không một ai biết là Nhung còn sống hay đã chết. Không một ai biết cái đêm súng nổ đì đùng ở mấy cái hang đá nơi vùng núi Lũng Sơn kết cục xảy ra điều gì? Nếu Nhung chết thì phải có phần mộ ở khu vực này. Nếu Nhung được cứu sống thì phải tìm đến bọn thằng Xế theo địa chỉ đã hẹn trước. Nếu Nhung bình an vô sự thì bây giờ nàng đang nuôi con hắn. Đứa trẻ là gái hay trai? Giống hắn hay giống Nhung?
Nghe ngóng thấy tình hình có vẻ yên ắng. Cái lệnh truy nã hắn có vẻ như đã bị phủ lấp lên hàng trăm hàng ngàn cái lệnh khác, hắn liền cùng thằng Xế mở cuộc tìm kiếm người đàn bà Chúa sinh ra để giành cho hắn. Ở công an huyện người ta bảo: "Lần ấy hình như có bắt được một con bé là người tình của thằng tướng cướp Bạch Đàn. Họ đưa về tỉnh ngay đêm hôm ấy.Con bé bị thương rất nặng. Lại đang chửa. Thật là khốn nạn. Đời cha như thế rồi đời con biết sẽ ra sao?".
Ở công an tỉnh người ta bảo: "Rất may là lần ấy có đoàn bác sỹ ở trên Bộ xuống khảo sát một số cây thuốc nam ở vùng núi Lũng Sơn. Họ đã dùng mấy cây thuốc đó đắp vào chân cho con vợ thằng tướng cướp nên nọc độc rắn được rút ra hết, bó chân vài hôm thì khỏi. Điều đặc biệt nữa là trong đoàn có một bác sĩ còn rất trẻ, vị bác sĩ này đã nhận ra con vợ thằng tướng cướp chính là em ruột của mình, từng bị mất tích năm lên sáu tuổi. Sau khi lấy lời khai và làm các thủ tục xong, cô gái ấy đã được anh trai đón về Hà Nội để nhận lại gia đình".
Ở Hà Nội, người của Bộ bảo rằng: "Đúng rồi, bác sĩ Bảo quê ở vùng đạo Ninh Bình. Nhưng bác sĩ Bảo đi nghiên cứu sinh ở bên Nhật rồi. Cả vợ con cũng sang bên ấy. Ở quê bác sĩ Bảo vẫn còn một người mẹ già và một cô em gái".
Ở vùng đạo Ninh Bình người ta bảo: "Cả cái huyện này biết bao nhiêu là nhà thờ, phải biết xã nào hay thuộc họ nào thì mới tìm được. Tháp chuông hai tầng thì nhà thờ nào chả có. Phù điêu khắc đoá Mân côi thì nhiều vô kể, còn khắc trên đá thì thử đến nhà thờ đá xem".
Ở nhà thờ đá, người ta bảo: "Trẻ em bị bắt cóc từ những năm nảo năm nào thế ai mà biết được? Người đến đây dự lễ từ các nơi trên khắp cả nước chứ đâu chỉ một xã này. Bác sĩ Bảo à? Dân này làm bác sĩ có tới cả ngàn. Lạy Chúa tôi, tìm gì mà cứ như tìm chiên lạc thế?"
Cuộc tìm kiếm của hắn đã trở lên vô vọng. Điều hắn nhận ra một cách chua xót là hình như Nhung không muốn gặp lại hắn. Có thể Nhung đã tìm lại được gia đình của mình, đã muốn quên đi quãng đời lưu lạc khổ đau, đã tìm thấy hạnh phúc ở một nơi nào đó, bên người mẹ già hay ngay dưới nóc tháp chuông, và không muốn có một chút liên hệ nào với hắn. Đã thế thì hắn cũng không nên tìm kiếm làm gì nữa. Chẳng ai muốn neo bám cuộc đời vào một thằng cướp đêm như hắn. Chẳng ai muốn làm vợ hắn, làm con hắn để rồi phải chứng kiến cái phút giây hắn phải đền trả mọi lỗi lầm của mình. Lần đầu tiên hắn thấy chán sống. Hắn đã dặn dò lại cho thằng Xế tất cả những điều phải làm rồi lẳng lặng ra bờ sông nâng khẩu K54 lên áp nòng vào thái dương. Đúng lúc ngón tay hắn đang run run thì thằng Xế lao đến ôm trầm lấy hắn, gào lên:
- Đàn ơi, mày đừng chết. Biết đâu cái Nhung nó lại đang đi tìm mày thì sao? Nếu một ngày nào đó nó tìm đến chỗ tao, với cả con mày nữa, hỏi mày đâu thì tao biết trả lời thế nào? Nó khổ thì được nhưng chẳng lẽ con mày cũng phải chịu khổ sao? Thôi mày cố sống mà dành dụm lấy ít tiền, bao giờ trao được cho nó thì mày hãy chết. Còn chuyện này nữa tao chưa kể với mày. Mấy năm qua mẹ mày cứ lang thang đi tìm mày, cố gặp mày bằng được. Đợt mày còn ở bên Lào, mẹ mày tìm lên bãi vàng, không gặp được mày, bà cụ bảo: "Tôi chết mấy lần nhưng trên đường đến âm ti địa ngục chợt nhớ ra là chưa gặp được thằng Đàn nên lại quay trở lại.". Rồi mẹ mày khóc lóc thảm thiết lắm. Mày cũng cần phải sống để mẹ mày được nhìn mặt trước khi bà ấy chết chứ.
Thằng Xế đã đánh đúng vào nỗi đau trong hắn.Không ai có thể chết được khi nỗi đau còn nảy mầm trong ý nghĩ. Người ta chỉ có thể tự sát khi xác lập được một vùng cảm nghĩ bình yên và thanh thản dẫu vùng cảm nghĩ ấy chỉ tồn tại trong một giây. Nếu trong một giây ấy nỗi đau trồi lên, phá vỡ vùng cảm nghĩ vừa xác lập thì con người ta lại phải sống, cái sống lúc ấy cần thiết không những cho bản thân, mà còn cho chính nỗi đau không thể hoá giải kia. Hắn chỏ súng xuống mặt sông, bóp cò rồi cùng thằng Xế quay trở lại bãi vàng.
Hắn thực sự trở nên tàn bạo từ bữa ấy.
Hắn tìm thấy niềm vui khi gọi chệch Lũng Sơn thành Lương Sơn, và thích thú khi được mọi người gọi là Tống đại ca. Hắn huyễn hoặc cuộc sống phi pháp của mình theo kiểu Thi Nại Am viết Thuỷ Hử truyện. Hắn tuyên bố: "Tất cả những kẻ trốn trại cần một mái ấm để trú ngụ thì hãy đến với Đàn tôi. Đàn tôi có cơm cho các vị ăn, có việc cho các vị làm, có tự do cho các vị hưởng..."
Trong vòng một năm sau đó những trang hồ sơ tội lỗi về hắn không ngừng được bổ sung. Hắn đã lôi kéo về nơi hang đá của mình tới gần hai chục tên tù sổng. Hắn có tới cả nghìn viên đạn dùng cho ba khẩu súng, hàng trăm trái nổ các loại. Nơi bờ sông hoang vắng đêm nào, bên thằng Xế, hắn đã sống vì một động cơ tưởng như rất tình người. Còn bây giờ hắn sống vì hắn sợ ngày mai hắn phải chết. Nghĩa là hắn sống gấp. Với hắn lúc này hưởng thụ đi kèm với nổi loạn. Chính điều đó đẩy hắn bước nhanh lại chỗ cây cột dành đợi sẵn cho hắn.
Hắn đã tính nhầm khi cho rằng với số lương thực chất trong hang có thể dùng được hàng tháng đó sẽ giúp hắn tránh được những đợt lùng bắt của công an. Hắn đã không nhận ra được một điều rằng truy bắt tội phạm với giải toả khu đào vàng là hai việc hoàn toàn khác nhau. Nếu chỉ là giải toả nửa vạn người đang ngày đêm cần mẫn đào đãi kia, thì hắn có thể trốn chui trốn lủi ở trên núi vài tháng, chờ cho việc giải toả qua đi, sẽ xuống núi như một cánh bèo tấm hết tan lại tụ. Nhưng truy bắt một nhóm tội phạm thì lại không đơn giản thế. Hắn và cái lũ trốn trại quanh hắn đã được đưa vào một chuyên án mang mật danh X,Y, Z nào đó, và tổ chuyên án sẽ có cách ra tay riêng, hoàn toàn bất ngờ đối với hắn. Thoạt tiên họ gửi đến cho hắn một bức thư. Nội dung bức thư ấy nhắc đến cái vốn tri thức cỏn con của hắn, kêu gọi hắn hãy ra đầu thú để được hưởng lượng khoan hồng. Hắn cười gằn, xé nát bức thư trước mặt đám bạn bè chiến hữu vẫn thường tâng bốc hắn là Tống Giang của thời đại. Rồi sau đó là khoảng thời gian im ắng đến tệ hại. Chính thời điểm này Cuồng sĩ xuất hiện.
Bản thân Cuồng sĩ đi vào "hang cọp" mà không hề biết mình đang mang trên người sứ mệnh của một "đặc tình". Hình ảnh một cậu sinh viên báo chí nửa đời nửa nghệ trên đường đi tìm một hình mẫu nửa trí thức nửa lưu manh đã đập vào mắt một điều tra viên già dặn kinh nghiệm phá án. Lập tức Cuồng sĩ (tức chàng Tâm cận) được hướng dẫn một cách rất tự nhiên đường đến Lũng Sơn. Những cái đầu biết tính toán nhất trong tổ chuyên án đã kiên trì chờ đến ngày Tâm cận phải về trường trả bài thi. Vào ngày ấy họ lại khéo léo moi được toàn bộ thông tin cần thiết về đặc điểm tâm lý, địa hình hoạt động, thói quen ăn nghỉ của hắn từ chàng Cuồng sĩ luôn yêu đời yêu người đến độ cả tin kia. Các biện pháp nghiệp vụ cùng lúc được triển khai. Khi đã căn chính xác toạ độ ẩn náu của hắn, họ giả làm những người đào vàng để tìm cách tiếp cận và ra tay. Gần chục khẩu súng chỉ có một khẩu duy nhất cất được giọng, đó là khẩu K54 lúc nào cũng giắt trong cạp quần hắn. Viên đạn đầu tiên mà hắn bắn ra trong lần bắn cuối cùng ấy đã xé rách phổi và lá lách của vị điều tra viên có công "sử dụng" Cuồng sĩ như một đặc tình bất đắc dĩ. Viên đạn thứ hai qua gan, dạ dày, nhiều quai ruột và găm lại trong đốt sống Đ3 của một trinh sát viên trẻ. Viên đạn thứ ba phá vỡ mảnh xương đùi của người lao tới quật ngã hắn. Viên đạn thứ tư, thứ năm hắn bắn vào vách đá. Viên đạn cuối cùng hắn bắn vào một con gà mái tơ để thoả mãn cái dạ dày đói ròng rã suốt ba ngày ba đêm liền của hắn.
Sau này hắn cứ tiếc mãi về viên đạn cuối cùng ấy. Giá viên đạn đó được đưa vào thái dương khi hắn mò về đến đầu làng thì tốt biết mấy. Hắn đã thoát khỏi cuộc vây bắt hết sức công phu, và không biết bằng sức mạnh nào, hắn đã mò về đến quê hắn sau ba ngày không ăn, không uống, không ngủ nghỉ.
Cho nên khi nhìn thấy con gà mái tơ của nhà ai đó đang thơ thẩn kiếm ăn ở bờ ruộng đầu làng, hắn đã nâng súng lên và bóp cò trong sự nín nặng hoá đá. Viên đạn đã xé nát một bên cánh, đi xuyên qua phần lưng, phá vỡ bọc diều chứa đầy giun và thóc. Hắn lấy đất ruộng bọc con gà lại rồi nổi lửa lên nướng.
Tất nhiên đó là một bữa ăn đáng nhớ trong đời hắn. Nhưng rồi đám xương gà đã báo hại hắn. Những người lùng bắt hắn tưởng đã đứt mối lại phát hiện ra vùng ẩn náu của hắn từ đám xương gà nát vụn rơi vãi bên chân ruộng. Hắn thực sự thấy cùng đường. Khẩu súng trong tay hắn lúc này chỉ còn là một cục sắt vô hồn mà thôi. Nếu hắn chạm mặt những người đang lùng bắt bắt hắn lần này nữa là coi như chấm hết khoảng trời tự do mà hắn đã phải đánh đổi bằng một cái giá quá đắt. Nhưng hắn đói. Đói khủng khiếp. Hắn đã nhiều lần mò về nhà nhưng chỉ bén mảng đến ngõ nhà ông Thảnh là đã lại phải quay lưng vì phía trước có rất nhiều những kẻ khả nghi. Hắn cũng đã tạt sang xóm bên, định vào nhà cô giáo Hường, gặp Dịu nhưng lại thôi vì loáng thoáng cảm thấy bất ổn. Không còn chỗ nào cho hắn tá túc cả. Thiên la địa võng đã bủa vây xung quanh hắn. Có lúc hắn đã mừng đến thót tim khi nhìn thấy một con đò chầm chậm trôi trên dòng sông lưu dấu cả tuổi ấu thơ của hắn. Nhưng hắn đã thở dài ngao ngán vì đó không phải là đò của ông Thảnh. Ông Thảnh đi đâu về đâu rồi hắn cũng không biết nữa. Nếu còn sống ông cũng đã già lắm. Có lẽ đã ngoài tám mươi rồi. Cuộc đời ông Thảnh dài lắm, đoạn trường lắm. Còn cuộc đời hắn sao mà ngắn ngủi, tù túng, đơn điệu và ảm đạm thế. Cuộc đời ông Thảnh ghềnh thác nổi chìm nhưng ông luôn sống hết mình, lại biết lựa theo dòng trôi, nên ông là lịch sử, lịch sử là ông, trọn vẹn một kiếp người. Còn hắn, muốn sống trọn vẹn một kiếp người sao mà khó thế? Hắn là thứ đá cuội bị hất văng ra bên đường và bánh xe lịch sử nghiến lên, nghiền nát. Hư vô quá thể. Tủi phận quá thể. Hắn lại đưa nòng súng lên dí vào thái dương và nghiến răng bóp cò. Nhưng viên đạn cuối cùng đã được dùng cho việc hoá kiếp con gà mái tơ. Hắn chua chát lẳng mạnh khẩu súng xuống sông. Tiếng "bùm" từ nước sông vọt lên làm hắn chợt nghĩ đến một sự giải thoát mới. Thôi thì cũng "ùm" một tiếng như thế, rồi để cho thân xác chìm nghỉm xuống lòng sông kia, thế là xong, mọi sự sẽ thành hư vô hết. Nhưng hắn không sao đủ can đảm để nhảy xuống dòng nước chất chứa trong mình vô vàn những huyền thoại ấy. Với những đứa trẻ làng Áng Sơn, dòng sông này là cả một kho cổ tích. Ông Thảnh đã gieo vào đầu những đứa trẻ như hắn khát vọng một lần được tìm xuống đáy sông, đến với thế giới của ba ba, thuồng luồng, của thuỷ cung với Long vương và Hà Bá để thoả mãn trí tưởng tượng non nớt về một thế giới cổ tích huyền nhiệm. Hắn cười gằn trong cổ họng. Sao ngày xưa những truyện ông Thảnh kể lại có sức hấp dẫn đến thế, lại làm hắn tin đến thế. Tới mức hắn đã thần thánh hoá ông, coi ông như một thứ người giời, một ông tiên có bàn tay phù thuỷ. Chắp nhặt tất cả những mẩu chuyện của ông lại, hắn đã từng lơ mơ nghĩ rằng ở dưới lòng sông kia là cả một thế giới riêng với những điều kỳ diệu không thể giải thích được. Và hắn đã từng ước có ngày được đặt chân xuống đáy sông. Khi ấy hắn sẽ sục sạo vào những toà lâu đài, sờ lên những báu vật, nhìn ngắm thoả thích những nàng tiên cá thân hình uốn lượn, lấp lánh vẩy vàng vẩy bạc. Có thể hắn sẽ cứu được những người chết đuối, những cô gái bị lẳng xuống sông một cách oan uổng, những em bé chẳng may đang bơi bị chuột rút... Ước vọng thơ trẻ mới buồn cười làm sao. Ước vọng ấy đã có cơ thực hiện được khi hạn hán kéo về rút kiệt dòng chảy xanh trong này. Chỉ hiềm nỗi khi mép nước đã tụt xuống đến mức kỷ lục, hắn bỗng nhận thấy một cảm giác đau xót đang vỡ ra trong mình. Thế giới long cung đang hiện nguyên hình ra kia. Những bờ bãi lở loét, những hang hốc khô kiệt, những vạt bùn nứt nẻ, thao láo nhìn trời. Bao câu chuyện vẫn giữ kín trong lòng sông, giờ đây sông đãi hết, chỉ còn lại một lạch nước nhỏ đang thở hổn hển giãy chết cùng những vết nứt vô hồn, vô nghĩa. Thuỷ thần ở đâu? Hà Bá ở đâu? Bao xác người vô tội ở đâu? Những nàng tiên cá xoè đuôi giỡn nguyệt trong những đêm trăng sáng đâu? Ôi ông Thảnh ơi, sao thế giới cổ tích của ông tàn tạ, hoang hoá, vô hình, vô ảnh thế! Hắn ôm mặt khóc hu hu, khóc tức tưởi. Ông Thảnh bảo: " Cậu bé đa sầu đa cảm của tôi ơi. Tôi không lừa dối cậu đâu, tại cậu cứ thích khám phá tận cùng sự thật đấy thôi. Sự thật chỉ dành cho người lớn, còn cổ tích dành cho trẻ con. Cậu đã là người lớn đâu mà cứ thích xé bỏ đi lớp cổ tích cuộc đời?"

Hắn đã một thời ngây thơ như thế đấy. Ngây thơ như chính những mảnh ruộng này, những đá núi kia, những con đò dọc, những đứa trẻ làng Áng Sơn đêm đêm mò vào trường bắn xem tử tù đền tội. Sự ngây thơ ấy bây giờ bị đánh đổi đi đâu? Những mảnh ruộng cũng trở nên lạnh lùng, chứa đầy hiểm nguy, những đứa trẻ ngày xưa bây giờ đều đeo băng đỏ, lượn lờ như thể chờ bắt hắn từ lâu. Chỉ còn đá núi là bao bọc chở che hắn. Nhưng đá núi không thể ăn được. Hắn bỗng nhớ đến Trạm Đá. Đúng rồi, khe núi lúc nào cũng rào rạt gió. Hắn đã từng ở đó gần một năm trời để trông coi máy nghiền đá và ôn thi. Hắn vội vã tìm về nơi ấy. Đói và mệt. Nhưng kia rồi. Người ra kẻ vào có vẻ nhộn nhịp. Một lô một lốc những máy nghiền đá nằm rải rác quanh chân núi. Cái khe đá năm nào bây giờ đã được mở rộng. Mấy quả núi được bạt đi, xe công nông, xe tải ra vào thoải mái, không còn lén lút, gượng nhẹ, như cái thời xửa xưa khi hắn còn làm ở đây nữa.
Hắn nhận ra một người quen: Trạm trưởng Trạm đá. Người mua bánh bao nhân thịt cho anh em cải thiện năm nào vẫn vậy, không già đi chút nào cả. Hắn chạy ào tới, khẽ gọi tên anh. Người trạm trưởng quay lại nhìn hắn, thoáng một nét bất ngờ rồi như khó xử, anh cứ gằm gằm nhìn xuống, nói mãi không diễn đạt nổi một ý, rằng anh không giúp gì được cho hắn đâu, hắn hãy đi ngay đi. "Em đang đói. Anh còn tiền không?". Hắn hỏi luôn vào mục đích chính để người trạm trưởng khỏi phải rườm lời. Nhưng đúng lúc người trạm trưởng thò tay vào túi móc tiền ra cho hắn thì trong căn phòng ở phía đầu hồi nhà Trạm Đá hai bóng người mặc thường phục chạy bổ ra, lao về phía hắn. Khốn nạn rồi. Hắn lách qua vai người trạm trưởng, thoắt cái đã biến vào hẻm núi. Một trong hai người mặc thường phục đuổi theo hắn rút ở thắt lưng ra một vật nhỏ màu đen, đưa lên trời và "đoàng...đoàng", những phát súng chỉ thiên làm cả Trạm Đá chết lặng đi. Đám lái xe, công nhân đều lơ ngơ không biết điều gì đã xảy ra. Còn hắn, sau một hồi cắm đầu, cắm cổ chạy, cảm thấy như đứt hơi ngã gục xuống một triền dốc nhỏ dẫn lên một quả núi đất. Mặt hắn đập vào một đôi giầy vải mầu đen. Hắn cố ngước mắt lên nhìn lần cuối người đi đôi giầy vải ấy. Nhưng hắn chỉ kịp nhìn thấy vạt áo nâu sòng phất phơ trong gió thì gục xuống, bất tỉnh.
(Còn tiếp)
04:36 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chương 7

Quả mỏ vịt của Lân sáu ngón bùng loé lên giữa ban ngày ban mặt, xé phăng, xoá nát lán trại trung tâm của bọn Hùng quăn cũng là lúc cái gọi là cuộc sống chồng vợ của hắn được đặt dấu chấm hết.
Hùng quăn vốn không ưa gì hội Áng Sơn, chẳng qua vì sợ cái máu liều của Lân, sợ cái khả năng tổ chức hội nhóm rất chặt chẽ của hắn, mà phải chịu chung sống hoà bình để các bên cùng có lợi nơi khoảnh rừng heo hút này mà thôi. Nhưng quyền lực, dù là thứ quyền lực giang hồ, bao giờ cũng có xu thế biến thể theo hình chóp. Hắn mạnh lên thì bọn Hùng quăn phải yếu đi. Quyền lực giang hồ vốn là thứ quyền lực cơ bắp, được thực thi chóng vánh, được củng cố bắng dao, kiếm, súng đạn và sự liều lĩnh. Đám Hùng quăn không phải không liều lĩnh. Nhưng vì thực lực yếu, không đủ sức cưỡng lại với hội Áng Sơn của hắn. Phạm trốn trại và những kẻ gây án bị truy nã mò lên bãi Lũng Sơn ngày một nhiều. Số này sẽ phải lựa chọn một hội nhóm nào đó để mà đầu quân. Nếu phận mọn thì xuống làm cửu, hàng ngày đào đãi, tìm kiếm sự sống từ những hạt cám vàng nhỏ li ti. Nếu chứng minh được bản lĩnh, dần dần đi vào vòng sóng trung tâm quyền lực của một nhóm thì sẽ hưởng lợi theo tỉ lệ phần trăm được phân chia theo tiêu chuẩn "đại ca" mà không phải trực tiếp đào đãi. Cuộc chiến khốc liệt nhất giữa các nhóm vơi nhau là cuộc chiến tranh giành mốc hầm. Ban đầu tất cả đều ra sức đào, ra sức cắm mốc, ra sức đặt lán trại. Nhưng rồi đất được chia thành từng thửa, đồi cũng được đánh dấu, xác định quyền khai thác, sử dụng của từng nhóm. Cửu, hoặc là người tự nguyện tìm đến, hoặc là được tuyển mộ khắp nơi, đến bãi vàng này muốn bổ nhát cuốc xuống bất kỳ vạt đất nào cũng phải biết rằng nó đã có chủ. Đất đã có chủ rồi thì cửu đành giữ phận người làm thuê. Cửu đào đãi được bao nhiêu, được giữ lại bao nhiêu, phải nộp lên bao nhiêu, điều đó phụ thuộc vào sự ấn định của từng hội nhóm. Hội Áng Sơn duy trì tỉ lệ 4/6. Cửu được 6, các bưởng được 4. Vấn đề còn lại là làm sao phải tìm ra những chỗ đất có mạch cám vàng. Khu vực tìm kiếm cứ thế mà rộng ra mãi, vết cuốc xẻng loang theo những triền đồi chạy dọc hai bên bờ suối. Những lán trại liên tiếp dựng lên trên phạm vi không giới hạn. Hội Áng Sơn cắm mốc ở những phần đất đai gần suối nhất. Các hội khác rất khó chịu vì xa nguồn nước, việc đãi vàng hay bị hội Áng Sơn nhòm ngó, gây khó dễ. Đám Hùng quăn chịu ức chế đã lâu. Khi cơ hội đến là quyết ăn thua đủ một phen với bọn hắn.
Và cơ hội đã đến với Hùng quăn khi cùng lúc trại của hội Yên Mĩ nhận ba tên tù trốn trại về đầu quân.
Cảm thấy thế và lực đã đủ phân thua với hội Áng Sơn, Hùng liền cho ngăn dòng suối để nước chảy sang hướng khác. Hùng tuyên bố nhánh suối mới thuộc quyền quản lý của hội Yên Mĩ, ai muốn đãi vàng trên nhánh suối này phải nộp mười phần trăm số vàng thu được cho bọn Hùng. Hàng chục hội nhóm còn lại hận Hùng đến thấu xương nhưng ngay lập tức chưa có cách gì để đối phó. Nơi đầu nguồn suối, Hùng cho dựng một chiếc lán, lúc nào cũng có gần chục thằng tù trốn trại đầu trọc lốc, mắt đấy ám khí chốt ở đó để bảo vệ nhánh suối mới. Cả bãi vàng nhao nhao lên như ong vỡ tổ. Con suối cũ chỉ còn là một cái lạch nhỏ, nước bám sát lòng, không thể đãi được vàng. Chỉ riêng cửu của hội Yên Mĩ là hả hê chuyển từng bao đất ra nhánh suối mới trang đất, đãi vàng. Bọn Thành dê, Tùng chột đành đến thương lượng với Hùng quăn để bàn với nhau cho ra một quy chế mới, tất nhiên là bất thành văn, để làm sao nguồn nước được sử dụng một cách hợp lý nhất. Giữa lúc các bên còn đang giằng co nhau về quyền khai thác nguồn nước như thế thì Lân sáu ngón bảo số cửu đang đứng nằm rải rác bên những lỗ hầm đào dở:

- Chúng mày theo tao. Khi nào tao bảo chúng mày phá đập thì cứ thế ào lên. Phải trả con suối này về đúng với dòng chảy của nó.

Nói xong, Lân sáu ngón đi trước, đám cửu kéo theo sau. Không chỉ cửu của hội Áng Sơn mà cửu của các hội nhóm khác cũng vác xẻng, cuốc đi theo xem sự thể thế nào. Hùng quăn tuyên bố: "Nếu mày bước đến vành đập ngăn bọn tao sẽ ra tay. Thằng nào cũng chỉ có từng ấy máu thôi. Nếu muốn chảy thì cùng chảy".
Lân chẳng nói chẳng rằng, móc quả mỏ vịt, giật chốt rồi liệng luôn vào giữa đám của hội yên Mĩ. Tất cả đều quá bất ngờ trước sự tàn bạo của Lân, nằm hết cả xuống, đến khi choàng tỉnh thì một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt. Đất bạt đi, lán đổ nghiêng, hàng chục xác người nằm ngang dọc. Lập tức đám cửu kéo theo không còn nghĩ đến việc phải tháo đập tràn cho nước chảy về đúng dòng nữa, vội lao tới chỗ máu mê chân cẳng rơi rụng kia để chuyển xuống chân núi tìm cách đưa đi cấp cứu. Hai người chết ngay tại chỗ, ba người lần lượt chết vào những ngày sau đó. Như thế là tiếng nổ đã xuất hiện nơi bãi vàng Lũng Sơn. Tiếng nổ sẽ gọi tiếng nổ. Người chết sẽ gọi người chết. Máu sẽ gọi máu. Và sự bình yên cho cuộc sống gọi chính quyền đến ra tay can thiệp.
Sáng sớm hôm ấy từng đoàn xe, đủ kiểu chở công an, bộ đội tới bao vây bãi vàng Lũng Sơn. Tất cả những người đào vàng được tập trung lại để kiểm tra căn cước và được yêu cầu ra xe rời bãi vàng ngay lập tức. Một số phạm nhân trốn trại bị bắt lại, số có lệnh truy nã trước khi thụ hình cũng dễ dàng bị nhận diện. Đám còn lại rút sâu vào trong núi lẩn trốn. Hắn cùng Nhung và Lân sáu ngón chạy vào trốn trong một ngách hang bí mật vẫn để dự phòng khi bị truy đuổi. Nhưng nghe chừng lần này chính quyền ra tay có vẻ cương quyết. Suốt một tuần trôi qua mà lực lượng công an, quân đội, tự vệ vẫn không rút. Lân là đối tượng cần phải bắt bằng được. Thức ăn và mấy can nước dự trữ đã hết. Bọn thằng Xế cùng các thành viên của hội Áng Sơn hầu hết đã bị lùa ra xe đưa về thị trấn để từ đó tìm đường mà về lại bản quán. Số cửu sẽ bám lại thị trấn hoặc dạt về các huyện, chờ khi nào yên lại lần mò quay trở lại. Họ là những người dân tự do, ở đâu có thể kiếm ăn được thì đến, đuổi thì đi, không đuổi nữa thì lại tụ về. Hắn đã giao ước với bọn thằng Xế rồi. Khi tình huống bất lợi xảy ra, bọn thằng Xế cứ chấp hành theo mọi yêu cầu của chính quyền, còn hắn và Lân sẽ trốn vào núi. Khi nào tình hình yên ắng trở lại, cả bọn sẽ gặp nhau tiếp tục tìm cách làm ăn.
Thế nhưng hắn không ngờ lần này công an lại truy đuổi gắt gao đến thế. Những lần trước họ chỉ ở lại vùng này dăm ba ngày rồi rút. Bãi Lũng Sơn quá heo hút, xa huyện, xa tỉnh, theo đuổi đến cùng để bắt lại bọn hắn không phải là chuyện dễ. Lần này họ có vẻ quyết tâm bắt cho hết đám tù trốn trại như hắn. Lân là mục tiêu số một của họ vì Lân vừa gây một vụ mà theo như cách nói của họ là cực kỳ nguy hiểm. Còn để Lân ngoài xã hội một ngày nào là Lân còn có thể gây ra những vụ như thế. Hắn cũng chung một con đường sống với Lân. Hắn bàn với Lân cách tắt núi, băng rừng tìm sang tỉnh bên để thoát thân, chứ cứ ở lại trong hang đá này trước sau cũng bị bắt. Lân đồng ý. Hắn và Lân mò ra chỗ chôn tiền vàng, đào lên, lấy mang theo. Lân ôm khư khư con lợn đất bọc trong chiếc áo Pilot. Hai đứa quay trở lại hang để đón Nhung. Gần về tới cửa hang thì một tiếng quát to làm hắn giật bắn mình: "Đứng lại! Các anh đã bị bắt". Hắn vội lăn xuống triền núi, nấp vào một tảng đá, rút súng ra bắn lại. Tiếng AK, tiếng K54 rít lên, chiu chíu, nhoáng nhoàng bên tai hắn. Hắn tiếp tục lăn xuống dưới chân núi rồi tìm đường vòng trở về hang đá.
Trong hang, một cảnh tượng bất nhẫn đập vào mắt hắn. Dưới ánh nến leo lết, chập chờn, Nhung đang ngồi quị xuống, hai tay ôm chặt lấy cổ chân bầm đỏ, tóc tai rũ rượi. Thấy hắn trở về, Nhung vẫn không kêu than một tiếng, chỉ trào nước mắt, lã chã cả xuống đầu gối. Hắn vội thò tay vào hốc đá rút ra chiếc đèn pin. Dưới ánh đèn loé sáng, hắn nhìn thấy cách chỗ Nhung không xa một con rắn cạp nong màu vàng đen, đầu bị dập nát, thân giập mấy khúc, cong queo, chết tự bao giờ. Hắn hiểu ngay việc gì đã xảy ra với Nhung. Chính hắn cũng đã từng đập chết tới bốn con rắn ở trong chiếc hang này. Nhưng với Nhung thì điều này quả là vô cùng kinh hãi. Và hình như Nhung đã bị rắn cắn? Tại sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ thế nhỉ? Nhung rất thuộc mẩu chuyện về đàn ông, đàn bà và con rắn, để rồi chính nỗi khủng khiếp ấy lại xảy ra với Nhung như sự linh ứng của một lời nguyền không thể hoá giải. Hắn còn đang loay hoay chưa biết xử trí ra sao thì một tràng AK rộ lên ngoài cửa hang. Có tiếng chân chạy gấp gáp rồi Lân hiện ra, một tay ôm chiếc áo bọc con lợn đất, tay kia cầm khẩu AK cưa báng. Giọng Lân hổn hển:

- Tất cả đã bị bao vây rồi. Công an đã mò đến đây, quyết bắt bằng được tao với mày. Đã có thằng dính đạn của mày. Bây giờ phải biến khỏi đây thôi. Mau lên.

Hắn bảo:

- Nhung bị rắn cắn. Máu vẫn còn đang rỉ ra ở gót chân.

Lân vứt chiếc áo và khẩu súng xuống nền hang, chạy đến bên Nhung, đưa tay nhấc cổ chân của cô lên xem. "Bỏ mẹ rồi". Lân buông ra một câu như vậy rồi lập tức lao tới góc hang, xé roàn roạt mảnh áo lót của hắn treo ở đấy. Băng cho Nhung xong Lân quay ra bảo:
- Rồi. Bây giờ tao với mày biến khỏi đây ngay. Chậm thêm phút nào là ăn đạn phút đấy.
Hắn bảo:
- Để tao cõng Nhung cùng chạy.

Lân giữ hắn lại, giọng gầm gừ:
- Mày ngu thế? Muốn chết chùm với nhau à? Tao đã ga rô cho nó rồi, tí nữa công an đến sẽ đưa nó đi. Nó sẽ không sao cả. Còn tao với mày bị bắt lại là chết. Hiểu chưa?
Lân đẩy hắn ra khỏi hang, rồi kéo hắn chạy xềnh xệch xuống dốc núi. Hắn vừa chạy vừa quay lại nhìn nhưng còn nhìn thấy gì nữa khi mà xung quanh là màn đêm tối đen. Hắn không ngờ Nhung lại chịu lỳ đến thế. Không nói, không rằng, không kêu than, thậm chí khóc cũng cố nén lại để không thành tiếng. Nhung đã chờ cái ngày này từ lâu rồi. Nhung biết một kết cục không hay ho gì tất yếu sẽ phải đến với cả hai đứa. Nhung cũng không phải là người dễ khóc. Sự đời đã làm Nhung trở nên chai cứng. Nhưng hôm nay thì Nhung đã khóc. Khóc vì rắn cắn, khóc vì những tiếng nổ xé rách không gian thấp thỏm trong lòng hang, hay khóc vì sự chia lìa? Hắn vừa chạy theo Lân vừa suy nghĩ về Nhung. Dẫu sao thì cũng là vợ chồng. Dẫu sao thì cũng là sự gắn bó như là tiền định, không thể không vấn vương trong hoàn cảnh này. Nhung cũng đã mang trong người một sự sống do hắn gieo trồng. Nhung có thể sống được nếu công an đến kịp, Hắn cầu mong cho công an đến sớm. Hắn bỗng dừng lại, rồi chạy ngược về phía hang đá nơi có Nhung đang trú ẩn, đưa súng lên trời, bóp liên hồi. Lân quay lại theo, giật tay hắn, gào lên:
- Mày điên à?
Hắn quay sang bảo:
- Để họ biết mà tìm đến ngọn núi này. Nếu không Nhung sẽ chết.

Bỗng một tràng AK rộ lên từ phía sườn núi dẫn lên hang đá. Họ đến rồi. Bây giờ thì hắn có thể yên tâm chạy được. Hắn quay sang bảo Lân:
- Nào, biến.
Cả hai lao xuống dốc núi dẫn ra con đường tắt để đi sang dãy núi phía sau. Vượt qua dãy núi đó bọn hắn sẽ đặt chân sang đất Hà Sơn Bình. Từ đó chúng có thể về Hà Nội hoặc ngược trở lại Vinh theo đường 1A. Hắn rời bãi vàng Lũng Sơn lần này là lần thứ hai. Rồi hắn sẽ trở lại nếu dòng người đào đãi còn mò đến tìm sự sống ở đó.
Và hắn đã trở lại sau hai năm lang bạt.
Đó là hai năm khốn khổ, khốn nạn cho cái kiếp chui rúc của một thằng tù trốn trại. Hắn và Lân đi đến đâu cũng ngửi thấy mùi nguy hiểm rình rập. Kinh nghiệm cho biết trốn trại mà mò về quê hương bản quán là dễ bị bắt nhất. Lân rủ hắn vượt biên giới đường bộ sang Lào. Lúc đầu Lân tưởng với vốn sống của mấy năm làm lính ở Campuchia sẽ giúp hai đứa dễ thích nghi với xứ Lào hoang sơ, đất rộng, người thưa. Nhưng bọn hắn đã lầm. Kiểu sống đặc trưng của các nhóm dân cư thưa thớt trên đất Lào không dễ gì du nhập được. Chúng tìm đường qua Thái Lan mấy lần nhưng không thành, luẩn quẩn mãi vẫn không sao ra khỏi mấy tỉnh Pusamsao, Puhoạt, Pulaileng giáp biên giới Việt-Lào. Đói rách quá, cuối cùng hai đứa lại lộn trở về Việt Nam. Đêm cuối cùng trước khi hắn và Lân chia tay để mỗi đứa một phương, Lân bảo:

- Trước mắt tao về quê xem thế nào đã. Nếu con nhỏ vẫn không sao thì tao sẽ tìm đường vào Sài Gòn.

Hắn buột miệng hỏi:
- Người đàn bà ở nhà mày là ai thế?

Lân bảo:
- Khốn nạn gặp nhau thôi. Tao ơn người ấy.
Hắn không muốn hỏi thêm, bảo:
- Tao sẽ quay trở lại Lũng Sơn xem thế nào. Nếu một trong hai thằng kiếm được chỗ làm ăn khá thì báo tin cho nhau. Mẹ kiếp, sao bây giờ dân thành phố giàu thế. Đi đâu cũng thấy xây dựng nhà cửa, đường xá, xe máy chen chúc, to nhỏ các kiểu, hàng hoá thì xanh đỏ, hoa cả mắt. Cuộc sống thay đổi đến chóng mặt mà tao với mày thì lại như thế này. Án chồng lên án, biết đến bao giờ mới gỡ được ra?

Lân bảo:

- Cái thằng trí thức đến đầu gối trong mày lại trỗi dậy rồi đấy. Quên mẹ nó đi. Xã hội có thay đổi đến đâu thì làm thằng tù cũng không sung sướng gì. Mà án của tao với mày đều đáng phải dựa cột. Coi như kiếp này bỏ, làm lại vào kiếp sau. Đừng nghĩ ngợi nhiều, nó bủn rủn người ra, rồi chẳng làm được gì đâu.

Hắn vẫn không quên trong hắn còn một con người "trí thức đến đầu gối" như cách nói của Lân. Nhưng hắn đã sa chân lỡ bước rồi. Hắn luôn phải sống bằng cái danh phận một thằng tù trốn trại. Hắn lấy con người sau đè bẹp con người trước. Hắn lấy sự bung phá bản năng đè bẹp nỗi sợ hãi, lấy cái khắc nghiệt của cuộc sống giang hồ mỉa mai, chế giễu những ánh xạ trong trẻo đôi khi vẫn lấp lánh trong sâu thẳm tâm hồn hắn. Hắn sợ đối diện với chính mình. Sợ phải trả lời những câu hỏi về tương lai cuộc đời. Hắn vịn vào những kẻ như Lân để quên đi nỗi sợ, vịn vào những môi trường sống như bãi vàng Lũng Sơn để quên đi cái tôi nhỏ nhoi, thánh thiện, tựa hồ như đang hấp hối trong hắn.
Trở lại bãi vàng hắn mừng rỡ như chết đuối vớ được cọc khi thấy mọi sự dường như không thay đổi. Người đón hắn đầu tiên vẫn lại là thằng Xế. Sau gần ba tháng giải toả, đám người đào vàng như những cánh bèo tấm, dạt đi rồi tụ lại, lúc đầu lẻ tẻ, sau rộ lên, đông đúc dần. Chính quyền cắm một cái chốt trị an, để một tổ công an trực ở đó, sẵn sàng giải quyết những xích mích từ đám người đang dốc kiệt sức mình ra cho việc đào đãi kia. Được sáu tháng thì cái chốt chẳng còn ma nào ở nữa, nó bị bỏ không, mặc cho nắng mưa phủ lên màu quên lãng. Không ai hơi đâu bỏ công sức, tiền của ra để trông coi cái đám bát nháo này làm gì. Quả thực, bãi vàng Lũng Sơn trong thời gian này cũng có tạo được một vẻ mặt yên bình. Các hội nhóm vẫn ngấm ngầm hình thành nhưng việc "Bốc của giời" có vẻ như hoàn toàn khách quan, không có thế lực nào áp chế cả. Lực lượng ở chốt trị an rút đi rồi, các thành phần bất hảo như hắn mới bắt đầu tìm đến. Đám Thành dê, Tùng chột khiếp hồn khi thấy hắn lù lù dẫn xác về. Tất cả đều nghĩ hắn và Lân đã bỏ mạng hoặc bị lưu đầy mất xác từ lâu rồi. Trận đọ súng trong đêm Nhung bị rắn cắn đã bị những kẻ thích buôn chuyện giang hồ chế tác thành những huyền tích giật gân lưu truyền ngầm ngấm trong đám dân đen bấy lâu nay. Trong cái mớ chuyện truyền kì rẻ tiền ấy, ở phần kết hắn cùng Lân và Nhung đã được miêu tả là chạy vào hang sâu và mất tích trong đó. Rồi xảy ra mấy cái kết như thế này: Có người bảo cả ba đã tìm ra được một cửa hầm dẫn vào lòng núi và chúng phát hiện ra nơi đó chứa rất nhiều vàng. Bọn hắn đã vơ vét cho bằng đủ rồi tìm đường vượt biên. Con tàu chở hắn đã bị hải tặc cướp, cả ba bị bắn chết và bị quẳng xuống biển. Người khác lại bảo bọn chúng đã cho nổ mìn tự sát khi bị truy đuổi, núi sập xuống và cả một đại đội công an cũng chết theo. Cũng có người lại bảo nửa đêm dậy đi đái, chính mắt nhìn thấy ba đứa ngồi uống rượu bên triền núi, nhìn trăng cười ha hả. Bọn hắn đã thành ma rồi. Những con ma ấy cứ quanh quẩn quanh bãi này để giữ vàng, thấy ai đào trúng vỉa là bóp cổ cho chết rồi lấp hầm luôn. Những mẩu chuyện kiểu ấy cứ thế lan truyền. Nhiều người lập bát hương, kêu cầu khấn vái cho ba đứa hắn trước khi động thổ đào hầm. Chính thằng Xế cũng nửa tin nửa ngờ về điều này. Vì vậy khi hắn xuất hiện cả bãi vàng nháo nhác cả lên. Hắn bỗng được khoác lên người tấm áo choàng huyền bí. Tấm áo choàng ấy biến hắn thành một tên cướp đặc biệt, một tên cướp thần thánh và đầy huyền tích.

(Còn tiếp)
04:34 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Mẩu chuyện Đàn ông, Đàn bà và con rắn như sau:
Ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ nào mọc lên vì Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất.
Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra Con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và Con người trở nên một sinh vật. Rồi Thiên Chúa trồng một bụi cây ở Êđen, về phía đông, và đặt vào đó Con người do chính mình nặn ra.Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trồng thì đẹp, ăn thì ngon, cả cây trường sinh ở giữa vườn và một cây cho biết điều thiện điều ác. Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen để cấy cầy và canh giữ đất đai. Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết".
Rồi Thiên Chúa lại phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó". Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với Con người, xem Con người gọi chúng là gì. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú nhưng Con người không tìm cho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên Con người, và Con người thiếp đi. Rồi thiên Chúa rút một cái xương sườn của Con người ra, lắp thịt thế vào, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với Con người.
Con người nói:- Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.
Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ để gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng mà Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?". Người đàn bà nói với con rắn: Trái các cây trong vườn thì chúng tôi được ăn, còn trái trên cây ở giữa vườn Thiên Chúa bảo không được động tới kẻo phải chết. Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, điều ác". Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quí vì làm cho mình được tinh khôn. Bà ta liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó cùng ăn với mình. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng, họ mới kết lá và làm khố che thân.
Nghe thấy tiếng Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, Con người và vợ mình trốn vào giữa đám cây cối để khỏi giáp mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa gọi con người ra và hỏi:
- Người ở đâu?

Con người thưa:
- Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì trần truồng, nên con lẩn trốn.
Thiên Chúa hỏi:

- Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?

Con người thưa:
- Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.
Thiên Chúa bảo người đàn bà:
- Người đàn bà làm gì thế?
Người đàn bà thưa:
- Con rắn đã lừa dối con nên con ăn.
Thiên Chúa phán với con rắn:
- Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy, dòng giống ấy sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.
Với người đàn bà, Chúa phán:

- Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén, ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.

Với Con người, Chúa phán:
- Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta truyền ngươi đừng ăn nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi, ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất.

Thiên Chúa nói: "Nay con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ đừng để chúng giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi". Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Êđen để cày cấy đất đai. Từ đó ở phía đông vườn Êđen, Thiên Chúa đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, canh giữ đường đến cây trường sinh...
Hắn ngồi nghe Nhung kể chuyện đến khi trời sáng bạch thì bước xuống giường, bảo:
- Tối nay chúng ta sẽ làm đám cưới. Chúa sinh ra anh là đàn ông, sinh ra em là đàn bà, chúng ta phải làm chồng vợ thôi.
Nhung tròn mắt ngạc nhiên:

- Anh nói thật hay đùa đấy? Mà ở cái nơi khỉ ho cò gáy này cưới cheo làm gì? Nếu anh thích em sẽ là của anh. Em vẫn đang thuộc về anh đấy thôi.

Hắn không nói không rằng, bước ra phía cửa sau, lần về hang đá tìm thằng Xế. Buổi tối hôm ấy, những nhân vật chủ chốt của hội áng Sơn tập trung ở ngay bãi cỏ cách nơi ở của hắn không xa. Một đống lửa được đốt lên. Bốn bình ắc quy đặt bốn góc thắp sáng tám ngọn điện hình quả quýt. Hắn vẫn chiếc áo da mốc meo, hôi xì, còn Nhung rực sáng trong chiếc áo dài trắng có đeo dây thánh giá trước ngực. Gà quay, thịt nướng, bia hộp la liệt, khả năng ăn uống được đáp ứng đến mức tối đa, khách mời cứ việc thực lòng vui cho đám cưới của hắn. Nhung đẹp đến mức đờ đẫn trước những con mắt đang bắt đầu ngầu lên vì bia. Hắn cũng thấy là Nhung đẹp. Nét bầm giập của một đứa con gái qua tay hết thằng này đến thằng khác đã được thay thế bằng vẻ thuỳ mị, đoan trang đến khó ngờ. Lân sáu ngón hôm ấy là người uống nhiều nhất. Càng uống mặt Lân càng đanh lại, khô lạnh, vô cảm. Sống với Lân đã lâu, là chiến hữu thân thiết từng vào sống ra chết với nhau nhưng quả thực hắn không hiểu Lânlắm. Hắn đánh giá rất cao bản lĩnh chiến trận của Lân, ngoài ra hắn không hiểu gì về con người này. Lần hai đứa trốn trại ra, hắn đã từng ở nhà Lân. Đó là một ngôi nhà tồi tàn và ẩm mốc. Trong ngôi nhà đó có một người đàn bà khắc khổ cùng một đứa trẻ gái lên tám. Người đàn bà gọi Lân là cậu- Cậu Lân. Đứa bé gái gọi Lân là bố. Suốt ba ngày hắn ru rú trong buồng nên không hiểu quan hệ giữa người đàn bà đó với Lân là thế nào. Lúc đầu hắn tưởng là hai chị em. Nhưng rồi hắn thấy lạ là khi bữa cơm cuối cùng có đông đủ mọi người đứa bé lại gọi người đàn bà đó là mẹ. Hắn không muốn hỏi Lân về cái sự lạ đó. Sau này khi lên trên bãi vàng hắn ở hang trên, Lân ở hang dưới, hai đứa ít có dịp tâm sự với nhau. Mà Lân thuộc típ người không thích tâm sự. Chỉ một lần duy nhất Lân kể chuyện, ấy là trên chuyến xe chạy ba trăm cây số từ quê Lân tới bãi vàng. Qua câu chuyện hắn biết được Lân đã từng là lính ở Campuchia. Sau khi giải ngũ Lân có lấy vợ. Song người đàn bà vẫn gọi Lân là Cậu ấy chắc chắn không phải là vợ Lân. Chuyện Lân kể là chuyện về chiếc xe bò. Khi ấy chiếc xe khách chở hai thằng đang đi bỗng phanh dúi lại để tránh một chiếc xe bò qua đường. Lân buông ra một tiếng chửi thề, rồi bảo: "Xe bò của mình buồn cười thật, không giống như xe bò của người Khơme".
Hắn hỏi: " Ông đi đâu mà biết xe bò của người Khơme?"
Lân bảo: "Trước kia tôi đánh nhau ở Campuchia mấy năm. Bên ấy nhiều xe bò lắm, nó giống y như hình khắc ở những tấm phù điêu của đền thờ Bay on. Đôi bánh của nó cao lênh khênh, bằng gỗ đóng vành sắt. Thành chiếc thùng xe không vươn quá vành bánh. Đặc biệt xe nào cũng có một cái cần cong vút ra phía trước".

Hắn thấy lạ, hỏi: "Sao lại có cái cần cong vút ra phía trước?"

Lân kể: "Vì truyện cổ Campuchia nói về một người đàn ông làm cá ở Biển Hồ. Người đàn ông hễ đưa xe cá qua đoạn sông kia thì bị một con cá sấu ra ngăn đường, đòi phải nộp một số cá lớn cho cá sấu ăn đủ no. Người làm cá rất uất ức vì đưa cho cá sấu thì vợ con ở nhà sẽ đói. Nếu không thì cá sấu đòi nuốt cả bò lẫn người. Đã vậy cá sấu ngày một tham lam, nó đòi ăn ngày càng nhiều hơn. Người làm cá bàn với sấu: "Cao sang như ông sao lại chịu hạ mình ăn cá ươn. Ông hãy để tôi mang theo ông trên xe, hễ đói là ông có cá tươi ăn cho đã". Sấu nghe bùi tai đành để kéo lên thùng xe. Xe tiếp tục đi trên con đường quá ư gồ ghề. Mỗi lần bánh xe lục khục thì sấu cũng bị xô gập mình vào thành xe đau ê ẩm. Người làm cá lại nói: " Ông sấu ơi, để tôi cột tạm ông bên thùng xe, nếu không xương sống của ông sẽ gẫy mất". Sấu ta cũng biết đề phòng, chỉ cho cột qua loa. Người làm cá liền cho xe rẽ vào lối đi gập ghềnh hơn nữa. Sấu bị lắc qua lắc lại tưởng đến đứt hơi, bèn vội nài người làm cá cột mình vào thành xe thật chặt. Được thể, người làm cá bèn đem hết số thừng chão dự trữ cột thật chặt sấu vào thành xe, vào cả càng xe. Xe cứ đi và sấu ta thì đau đớn vô cùng, nhưng càng quẫy thì chão thấm nước càng thít chặt thêm, làm thân sấu phù thành từng khúc. Cái đầu sấu ưỡn ra, rền rĩ xin tha nhưng người làm cá đời nào chịu tha cho sấu. Đến lúc chết thân sấu cứng ngắc, đầu sấu vươn dài ra trước xe. Chiếc cần cong bây giờ chính là cái đầu cá sấu xửa xưa ấy biến cách mà ra".

Hắn nghe xong chuyện, gật gù: "Thì ra cái cần câu đó nhắc nhở đến trí thông minh và lòng dũng cảm của người Khơme".
Lân bỗng buột miệng: "Hồi đám cưới tôi, cả hai họ cũng đều đi xe bò. Nhưng sau này con vợ tôi khốn nạn quá. Tôi đã giết nó. Rồi cũng lại dùng xe bò chở đi ra sông vứt xác. Tôi trốn chạy trên một chiếc xe bò và bị bắt cũng ở ngay trên thùng chiếc xe bò khi trên người phủ đầy cá ươn".

Lân nói xong câu đó thì im lặng, không hé răng nửa lời cho đến khi chiếc xe dừng lại cho hai thằng nhảy xuống. Hôm nay Lân lại chia vui với hắn bằng bộ mặt lạnh như đá núi. Đám cưới của hắn gợi nhắc cho Lân nhớ về chuyến xe hoa có bò kéo ngày nào chăng? Lân hơn hắn bốn tuổi, từng là lính chiến, lại đã có vợ con nên cuộc đời nhiều trang vui buồn hơn hắn. Chính Lân là người đã dạy hắn bắn những viên đạn đầu tiên từ khẩu K54 mua được bằng số tiền cướp ở tiệm vàng sau khi trốn trại. Cũng chính Lân vạch ra kế hoạch cướp súng của bọn Thành dê ngay đêm đầu đặt chân đến bãi vàng này. Lân bảo: "ở đây muốn làm ăn được phải là bưởng của các bưởng. Hội áng Sơn của mày phải mạnh hơn các hội khác. Muốn mạnh phải có vũ khí. Thời này chỉ trông chờ vào vài ba khúc côn với mấy con lê thì vứt. Phải có súng. Đòm một phát là đâu vào đấy hết. Chiều nay tao thấy hai thằng đàn em của Thành dê tháo AK ra lau ở bãi cỏ bên cạnh lán trại. Phải lấy hai khẩu súng ấy cho bằng được". Hắn hỏi: "Lấy bằng cách nào?". Lân bảo: "Kiếm khoảng mười thằng, bịt mặt lại, mang theo dao và kiếm. Tao với mày sẽ nhái giọng miền trong. Nửa đêm nay ập vào cướp. Sáng mai vẫn sang chia buồn như thường. Nếu chúng nó chống cự đến cùng thì tao sẽ rút quả mỏ vịt này ra, đốn chúng như đốn cây non ấy".

Đêm ấy bọn hắn đã thành công. Cũng chính Lân đã tháo lắp từng bộ phận trên súng AK chỉ cho hắn biết đâu là nòng, là qui lát, là hộp tiếp đạn, là báng, là lò so, là kim hoả, là đầu ruồi của một khẩu súng. Sau đó Lân cũng dạy hắn cách bắn tà âm, tà dương, cách để nấc liên thanh, tắc cú, điểm xạ. Lân lì lợm, giỏi tác chiến, hơi hiếu sát và đôi lúc tâm tính bất thường như người có biểu hiện mắc bệnh thần kinh. Hắn chịu trách nhiệm tổ chức hội nhóm, khai thác, cô đúc, lưu thông, phân phối số cám vàng thu được. Lân luôn ủng hộ hắn. Dù sao hắn cũng là thằng có học. Hắn chịu khó đọc báo, nhận biết được những thay đổi từng ngày của xã hội, biết tiến ra, rút vào đúng lúc, phù hợp nên hội áng Sơn của hắn không ngừng lớn mạnh. Ngay cả việc hắn tổ chức thành công quán hàng tổng hợp do Nhung đứng quản lý cũng chứng tỏ hắn có đầu óc hơn những bưởng khác có thâm niên ở bãi vàng này.
Cuộc vui của hắn rồi cũng đến lúc tàn. Lân đến bên hắn, bảo: "Ông chui vào hang cho sớm đi. Bắt đầu từ ngày hôm nay ông sẽ phải nghĩ đến việc có ra tự thú hay không đấy. Con vợ ông nó sẽ nhắc nhở ông điều ấy. Nếu đúng thế, nó là con vợ tốt. Dù có phải bóp cổ nó thì cũng nên xây cho nó một nấm mộ đàng hoàng".

Rồi Lân lững thững bước về hang đá của mình. Lân cũng được hưởng lợi từ bãi vàng này tỉ lệ tương đương như hắn. Lân đánh thành từng lá to bằng đốt ngón tay cho vào con lợn đất. Lân bảo: "Bao giờ ruột con lợn này được lèn chặt thì tao sẽ tìm về quê, đặt nó lên đầu giường đứa con gái, rồi ra gốc chuối sau vườn nhà, đòm một phát, thế là xong".

Chính vì Lân có một mục đích sống khá rõ ràng như thế nên phong thái Lân lúc nào cũng ung dung tự tại. Lân tàn bạo và hiếu sát là để giành giật lấy khoảng thời gian và không gian ngắn ngủi này mà kiếm vàng nhét cho đầy con lợn đất kia. Lân cần sống, cần vàng, vì thế Lân sẵn sàng làm tất cả. Còn hắn? Hắn không nhìn thấy tương lai của mình có một phát đòm nhẹ nhàng ở dưới gốc cây chuối sau vườn nhà như Lân. Hắn ham sống nhưng chẳng biết sống để làm gì? Hắn cần vàng nhưng vàng chẳng là gì trước cái giá của sự tự do, trước mẹ hắn và Dịu. Hắn rơi vào hoảng loạn triền miên. Lối thoát của hắn chỉ là đáy hang đen ngòm, lạnh ngắt. Bây giờ thì hắn có thêm Nhung. Nhung đã chấm hết tuổi con gái của mình ở tuổi mười ba. Sau khi mẹ Lan chết bởi bệnh tim bẩm sinh quái ác, Nhung bị ông bố nuôi râu xồm đánh cướp lạc thú làm người ở cái tuổi mà cơ thể chưa được Chúa vẽ lên những vệt mực tầu cần thiết. Đôi mắt luôn ngước lên của Nhung không tìm được sự lý giải nơi trần nhà lúc nào cũng vàng vọt ánh nêông, đã phải khép mi lại thả trôi theo dòng nước. Nhưng dòng nước cũng chả nỡ giết hại một đứa trẻ đẹp đẽ như Nhung nên đã trả Nhung về với vạn chài nhỏ nép mình nơi cửa sông. Những người đàn ông ở vạn chài tìm thấy ý nghĩa của tạo hoá ở Nhung nên họ nuôi cô để lấy thân xác cô chứ không cần đôi mắt ngước lên, thánh thiện, trước mỗi mùa giông bão. Nhung kinh tởm đám người lúc nào cũng nồng nặc mùi vị tanh tưởi của cá, cô tháo chạy lên bờ, và tìm đường trở về với ngôi làng có tháp chuông hai tầng trước cửa có bụi Mân côi khắc trên đá. Đường về của cô cứ dài ra mãi, chỉ dằng dặc những đàn ông là đàn ông, cho đến khi cô ngỡ là Chúa sinh ra mình chỉ để đi trên con đường ấy và cô đành chấp nhận sự an bài. Con đường đó đã dẫn Nhung đến với bãi vàng Lũng Sơn và ở đây cô gặp người đàn ông cuối cùng của đời mình. Chỉ có điều người đàn ông ấy không được tự do. Người đàn ông đó luôn nhốt mình trong hang đá, triền miên hoảng loạn, triền miên toan tính, triền miên đâm chém và triền miên mơ về một cõi xa xôi, rất thực nhưng lại chẳng thể nào tìm đến được.
Đúng như Lân nói. Mỗi khi nhìn cái bụng của Nhung nhô dần lên sau làn áo thun mỗi ngày một chật cứng, hắn lại nghĩ đến hai chữ: Tự thú. Bẩy năm, mười năm, hay mười lăm năm ở tù đi nữa thì vẫn còn có một ánh đèn ở cuối đường hầm kia làm đích cho hắn đi tới. Đằng này quanh hắn chỉ là hang đá tối đen, hun hút, vô định, mông lung lắm. Hắn sợ. Rồi hắn ghen với sự bình thản ở Lân. Sao hắn không tìm thấy sự thanh thản cho mình ở đằng sau một phát đòm dưới gốc cây chuối nơi vườn nhà hắn nhỉ? Nhiều đêm, hắn ngồi ôm bụng Nhung mà nước mắt ứa ra.
Xung quanh hắn hang đá ẩm ướt và lạnh lẽo.
(Còn tiếp)
04:30 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chương 6

Hắn trở thành kẻ giết người, lần đầu tiên, vào khi nào? Không say rượu, không dùng chất kích thích, không thèm bạc vàng, không đói ăn, cũng chả tranh nước uống. Hai bàn tay hắn như hai gọng kìm cứ xiết lại, xiết lại mãi để Lân sáu ngón có thời gian đẩy bật chấn song sắt cửa sổ phòng giam ra, đem tự do cho cả hai đứa. Có vẻ như lại là số phận đưa đẩy, có vẻ như lại là một sự tình cờ, tình cờ như hôm hắn đến bãi vàng Lũng Sơn bị hội Yên Mĩ đánh thì phải đánh lại vậy. Phòng giam của hắn có bẩy người. Hắn và Lân sáu ngón là một, bốn phạm nhân thấp cổ bé họng còn lại là một và trưởng phòng Hân là một. Với việc trốn trại của bọn hắn, bốn phạm nhân còn lại sẽ không đáng phải bận tâm, nhưng trưởng phòng Hân mà biết thì coi như việc của chúng sẽ đi toi, bao nhiêu công lao ngồi cưa song sắt của Lân sáu ngón cũng sẽ đi toi. Trưởng phòng Hân to béo như con gấu đen. Hân quá tin tưởng ở sự quản lý của mình nên không thể ngờ được dưới trướng Hân có hai thằng phạm đang ngày đêm tìm cách thoát khỏi phòng giam. Hân đủ sức mạnh và uy dũng để bóp nát những ý đồ tạo phản nhằm thoát khỏi án đời đối với sáu phòng viên vẫn ngày ngày làm việc, ăn ngủ cùng buồng. Hân đang bước dần từng bước đến cánh cửa tự do để trở về với người vợ có nghề tráng bánh cuốn ở một huyện ngoại thành Hà Nội, vì thế Hân trân trọng khoảng thời gian này, mọi biến động bất lợi cho lộ trình đi đến tự do của Hân sẽ bị dẹp ngay khi còn ở dạng mầm mống. Lân sáu ngón và hắn hiểu rõ điều đó nên một mặt tỏ ra cần mẫn cải tạo trước cái nhìn săm soi của Hân, một mặt bí mật nhét từng hạt muối vào vết cưa dở trên song sắt phòng giam, chờ đến ngày hành sự. Và ngày hành sự đã đến. Đúng lúc Lân đang tìm cách đẩy bật chấn song sắt ra khỏi vị trí của nó nơi thành cửa sổ thì bất ngờ Hân tỉnh ngủ, chồm ngồi dậy. Hắn vẫn nằm bên cạnh Hân, cố nghiêng người che khuất góc nhìn của Hân để Lân sáu ngón yên tâm làm việc. Đến khi Hân bật ngồi dậy, mắt nhắm mắt mở xác định tiếng động nơi thành cửa sổ thì hắn hoảng hồn, nhận ra mọi việc đã vỡ lở, hắn và Lân không những không thoát được mà còn phải nhận thêm án kỷ luật của trại. Một giây tê dại điếng qua người hắn. Rồi một tia sáng loé lên trong đầu, hắn vật Hân nằm xuống, hai tay bóp chặt vào yết hầu Hân. Tất cả sức mạnh của một thằng con trai có nghề đập đá như hắn trút cả vào mười đầu ngón tay. Hân ằng ặc trong cơn mê ngủ rồi cứ thế lịm dần, lịm dần đi trong tay hắn. Ngồi xổm trên bụng Hân, hai đầu gối thúc mạnh vào mạng sườn Hân, riêng mắt hắn thì nhìn không chớp về phía thành cửa sổ nơi Lân sáu ngón đang đưa nốt những nhát cưa cuối cùng. Đến khi Lân quay lại khẽ ra hiệu cho hắn chuồn thì hắn mới rời khỏi bụng Hân, cơ thể rã rời, tâm thần bất định, đờ đẫn ngồi dựa lưng vào thành tường, không hiểu là mình đang làm gì. Lân phải quay lại, vỗ vỗ vào người hắn mới làm cho hắn tỉnh táo trở lại. Và như một con báo, hắn lần tay ôm lấy bọc quần áo, lẳng lặng theo Hân luồn qua cửa sổ, bỏ phòng giam lại sau lưng với một xác chết còn ấm nóng.
"Hình thánh giá, thánh giá...". Khi hai đứa mệt lả, gục xuống ngồi nghỉ bên khe núi, hắn mới ú ớ lẩm nhẩm câu đó làm Lân sáu ngón kinh ngạc.
- Mày lẩm nhẩm cái gì vậy? Thánh giá nào?
- Tay Hân ấy mà. Có lẽ tao đã bóp chết nó rồi.
- Hãy quên chuyện đó đi. Nghỉ một lát rồi chuồn nhanh khỏi nơi đây. Nhưng mà mày vừa nói cái gì... thánh giá?
- Trên cổ thằng Hân có một sợi dây đeo thánh giá. Chiếc thánh giá đó nằm ở ngay yết hầu. Tao bám vào đó làm tâm điểm, bóp mạnh.
- Xì, tao tưởng chuyện gì. Ngày mai khám nghiệm tử thi người ta sẽ ghi vào biên bản là cổ nó có vật hình thánh giá tác động vào cho đến khi nghẹt thở. Nó theo đạo đấy. Chúa nhờ tay mày lấy nó về bên mình Chúa. Chắc bây giờ nó được lên thiên đàng rồi.
- Sao mày cứ tỉnh bơ thế? Tao bắt đầu thấy sợ Lân ạ.
- Sợ gì? Thôi, nghỉ đủ rồi, dậy chuồn thôi. Sáng mai tao với mày phải sang đến đất Hoà Bình. Nếu không, cầm chắc là bị bắt lại. Mày sẽ dính thêm một án giết người. Không có thời gian cho mày nghĩ linh tinh nữa đâu. Theo tao, mau!

Thánh giá! Hắn không thể nào quên được cái biểu tượng ghê gớm đó. Hắn là kẻ vô đạo. Thánh giá hiện hữu trong hắn là cái chết của Hân. Thi thoảng vào những buổi chiều sẩm tối hắn cũng có thấy Hân làm dấu thánh giá và lẩm nhẩm đọc kinh. Cây thánh giá hắn vẫn nhìn thấy ở đâu đó, có khi lủng lẳng ngay trên vòm ngực vạm vỡ của Hân, nhưng không để lại trong hắn ấn tượng gì cả. Còn bây giờ cây thánh giá găm vào óc hắn là hình ảnh của cái chết nằm thẳng đuột của Hân. Khủng khiếp quá! Không ít lần hắn liên tưởng đến cây cột mà người ta vẫn dùng để bắn tử tù ở quê hắn. Tại sao hình thánh giá không gợi cho người ta nghĩ đến một điều gì tốt đẹp hơn nhỉ? Hắn đã từng hỏi thế rồi lắc đầu chán ngán. Biểu tượng khủng khiếp hình chữ thập kia không thể xoá đi được trong đầu hắn, nó trở thành nỗi ám ảnh dai dẳng, đôi khi tưởng đã bị vùi sâu dưới nền tiềm thức, lại vùng bật dậy, sừng sững trong óc hắn.
Chính Nhung đã làm cây thập giá trong óc hắn dựng đứng dậy.
Từ áng Sơn quán đến chiếc hang đá nơi hắn ẩn nấp quanh co, khúc khuỷu, tính ra cũng phải mất mấy cây số. Hắn xuống quán rồi lại ngược về hang không ra một quy luật nào cả. Hắn và Lân sáu ngón là hai kẻ đã mất quyền công dân nên áng Sơn quán không phải là nơi chúng có thể thường xuyên chường mặt ra được. Nhung là chủ quán, là phát ngôn viên của hội áng Sơn nhưng kẻ cai quản, quán xuyến mọi hoạt động của quán thực chất là hắn. Thông qua một đường dây liên lạc rất đáng tin cậy là thằng Xế, hắn đã làm cho các hoạt động của hội áng Sơn ở bãi vàng Lũng Sơn trở nên sinh động và có sức sống hơn. Từ ngày ở trại ra cho đến khi tạo lập được một hội nhóm mạnh nhất bãi vàng, có thể uy hiếp được toàn bộ hoạt động đào đãi của gần năm nghìn cửu và hàng trăm bưởng lớn nhỏ đối với hắn là cả một quá trình không đơn giản chút nào. Hội áng Sơn có cái đầu biết nghĩ là hắn, có mười hai ngón tay thép là Lân, có sự khôn ngoan, ranh cáo của thằng Xế nên các nhóm khác không thể xem thường. Cho đến khi gặp Nhung, chữa khỏi bệnh cho Nhung hắn vẫn không có chút tình ý gì ngoài việc cần có một bàn tay phụ nữ phục vụ cho việc bán mua, trao đổi giữa chốn đào vàng toàn những thằng đàn ông thô lậu. Đêm hôm ấy tự dưng hắn thấy buồn tình, liền một mình rời khỏi hang lần mò xuống quán. Bãi vàng hắn đi qua im ắng, các hầm đều đã nghỉ, những thân người nằm ngang dọc trong lán trại làm hắn chợt nhớ đến cái đêm đầu tiên hắn cũng ngủ như thế này và phải lấy nồi úp lên đầu để tránh đòn phủ đầu của bọn Yên Mĩ. Tất cả đã xa rồi. Thời gian đã nhuộm hắn trở thành một con người khác. Rất khác. Hắn vừa nhổ bọt vừa đi như mộng du quanh mép bãi, dọc theo bờ suối nham nhở. Xuống tới quán, hắn đi vòng lối cửa sau gõ theo ám hiệu. Nhưng bàn tay hắn đưa lên đến nửa chừng thì dừng lại vì hắn nghe thấy có thứ âm thanh lạ ở trong buồng của Nhung. Hắn vội cúi xuống nhòm qua khe cửa. ánh sáng hắt xuống từ bóng điện nhỏ như quả nhót nối từ ắc quy đủ để hắn thấy toàn bộ cảnh tượng trong buồng. Cảnh tượng ấy làm cho cây thập giá bật dựng đứng dậy trong đầu hắn, khiến hắn thở dốc, hai tay ôm chặt thái dương. Nhung đang quỳ gối trước chiếc hòm cá nhân. Trên nắp hòm là cây thánh giá cắm vào chân nến cháy dở to bằng bàn tay, màu bạc. Nhung vừa làm dấu thánh vừa đọc một bài kinh bằng thứ giọng ê a nghe rất buồn ngủ. Mái tóc buông rối xuống một bên ngực Nhung, sợi dây có đeo thánh giá mắc hờ trên mép cổ áo làm Nhung hiện lên như một nữ tu uẩn khúc, đớn đau trong dáng hình trinh nữ thánh thiện. Trí tò mò làm hắn đứng yên như một bức tượng, lắng nghe cho bằng hết những lời cầu nguyện của Nhung. Nhung đọc đi đọc lại một bài kinh nói về cây thập giá. Hắn không bỏ sót một từ. Tự nhiên thấy nhập tâm.
Con lạy thánh giá, con kính thánh giá, thánh giá là phép màu nhiệm của lòng thương xót vô cùng. Đấng hằng sống đã chịu chết, cho người chết được sống.
Thánh giá là bàn thờ Đức Chúa Con dâng mình tế lễ trước Đức Chúa Cha.
Thánh giá là giường Chúa muôn vật nằm khi tắt thở.
Thánh giá là cờ Vua cả toàn thắng đã cứu chúng con cho khỏi tay ma quỷ.
Thánh giá là tàu vượt qua biển, đem chúng con đến nơi vĩnh phúc.
Thánh giá là chìa khoá mở của Thiên Đàng cho chúng con được vào.
Lạy cây thánh giá, từ xưa đến nay chẳng có cây nào sánh bằng cây thánh giá.
Lạy Chúa nằm trên cây thánh giá chịu chết vì chúng con.
Hắn rùng mình. Đêm thanh vắng quá thể. Tất cả đều đã chìm vào màn đêm màu nhiệm để lấy lại chút sinh lực đã tiêu phí cả vào ngày, chỉ riêng Nhung vẫn một mình lặng lẽ cầu nguyện nơi góc khuất này. Hắn vô cùng ngạc nhiên vì ngay cả khi Nhung phơi toàn bộ thân thể trước mắt hắn, hắn cũng chưa hề thấy cây thánh giá đeo trước ngực bao giờ. Đôi mắt Nhung thường nhìn xuống, lẩn trốn, chứ không mấy khi ngước lên thành kính thế kia. à, hắn nhớ ra rồi. Đôi mắt ấy có ngước lên một lần, nhìn thẳng vào hắn, trong đêm mờ tối ở hang đá ẩm ướt, khi hắn quyết định trả Nhung về với Hùng quăn. ánh nhìn ngước lên ấy có sức lay động đến mức khó lý giải. Nó có khả năng kêu gọi được chút tình thương duy nhất còn sót lại ở trong bất kỳ một con quỷ dữ nào. Bây giờ thì hắn biết thêm rằng trong người con gái kia không chỉ có sự hời hợt, vô tâm của một đứa con gái giang hồ. Hắn bỗng thèm được khám phá cái thân thể bỗng chốc trở nên hấp dẫn bởi thứ sắc màu tâm linh đang vây bủa quanh Nhung. Khi Nhung thu dọn các biểu tượng tôn giáo lại, chuẩn bị đi ngủ thì hắn gõ cửa. Chỉ cần đếm tiếng gõ vào cửa là Nhung biết hắn đến. Nhung mở cửa cho hắn vào rồi như thường lệ nàng lôi sổ sách, tiền bạc ra để báo cáo công việc hàng ngày với hắn. Nhưng hắn gạt bỏ tất cả những thứ đó sang một bên. Đôi mắt hắn nhìn như thôi miên vào ngực áo buông trễ một bên của Nhung. Đêm ấy hắn làm chàng Ađam còn Nhung là Eva. Nhung ngỡ ngàng trước cơn hứng tình hừng hực từ hắn. Nhung cảm thấy hạnh phúc vì rồi cuối cùng nàng đã quyến rũ được hắn. Và trên cả những đam mê chăn gối, nàng còn nhận ra một thứ tình cảm khác đang nảy nở trong hắn. Không như những thằng đàn ông khác, sau khi được nàng là gạt nàng ra như một tấm rẻ rách, hắn nằm lại bên Nhung, ôm ấp vuốt ve nàng rất lâu, rất kỹ, và lắng nghe những chuyện nàng kể.
Tuổi thơ của nàng ư? Nàng chỉ có một tuổi thơ lên sáu thôi, còn sau đó không còn gọi là tuổi thơ nữa, vì thế nàng không muốn nhớ đến cái đoạn đời khủng khiếp đó. Nhưng ngay cả cái tuổi thơ lên sáu của nàng cũng chỉ còn lại lờ mờ trong ký ức, không sao gọi về hoàn chỉnh được. Nàng nhớ về một cái nhà thờ lớn rất rộng. Mẹ nàng thường đưa nàng đến đó tham gia các buổi hành lễ với rất nhiều những thủ tục rắm rối, phức tạp. Đôi mắt trẻ thơ của nàng tìm thấy niềm vui thú ở những khối kiến trúc đồ sộ, những hình ảnh, màu sắc gây ấn tượng rất đặc biệt đối với trí óc non nớt của nàng. Ngôi giáo đường ấy nằm giữa một bên là nhà thờ thành Giuse và một bên là nhà thờ thánh Phê Rô. Phía trước có một lầu chuông nhỏ, hai tầng. Nền nhà thờ rất cao, có cột, xà, tường, chấn song, tháp, bàn thờ đều bằng đá hoặc gỗ đen bóng. Mặt trước là toà Đức Mẹ ở giữa hai ngọn tháp hình vuông, nhiều tầng, có khắc bốn thứ tiếng: Việt - Hán - Pháp - La tinh. Nội dung những dòng chữ ấy đại loại là: Trái tim rất thánh Đức Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, cầu cho chúng tôi. Những hình khối trong nhà thờ đường nét thanh thoát, nhẹ nhàng. Hai bên vách có những chấn song đá, viền những bức chạm hình cây tùng, cúc, trúc, mai. Ba bàn thờ chạm trổ rất đẹp, bàn thờ chính ở giữa có hình trái tim với lưỡi gươm đâm xuyên qua, bên trái tạc một cái giếng đậy nắp gọi là giếng niêm phong, bên phải tạc một khu vườn rào kín. Những thứ ấy hàm ý chỉ Đức Mẹ trắng trong trinh khiết. Phía trên bàn thờ chính là Nhà Tạm bằng gỗ chạm khắc, sơn son, thiếp vàng, bên ngoài có những bức chạm thông phong bằng đá rất đẹp với các hình chim phượng xòe cánh mang bút nghiên, sư tử có bờm dài, nhe răng nanh trông như mặt người đang cười. Quanh nhà thờ có rất nhiều những cửa đá nhỏ xinh xắn. Nàng đặc biệt thích phiến đá dài ở trước cửa nhà thờ. Buổi đi lễ nào mẹ nàng cũng dắt nàng ra chỗ đó, chỉ cho nàng thấy bụi hoa Mân côi khắc trên đá, bảo cho nàng biết ý nghĩa của cái tên mà mẹ nàng đặt cho nàng. Bụi Mân côi tức hoa hồng từ giữa phiến đá toả ra thành nhiều ngành, trên các ngành mười bẩy vị thiên thần mang khuôn mặt trẻ thơ, có cánh sau lưng đang đeo bám, chơi hoa, vặt quả, vô cùng sống động trong mắt nàng. Sau này, khi chán những buổi lễ dài lê thê với những lời rao giảng nhàm chán, nàng thường bỏ thánh đường, tìm ra chơi chỗ bụi Mẫn côi khắc trên đá. ở đây nàng gặp một người đàn bà lúc nào cũng bịt khăn che kín mặt. Người đàn bà này có giọng nói ngọt ngào không thể tả. Mụ ta làm quen với nàng bằng những cây kem bông trắng muốt. Những cây kem ấy có sức hấp dẫn nàng đến mức nàng sẵn sàng lên xe theo mụ ta đi đến một nơi rất xa. ở đó, khi đêm xuống nàng nhớ nhà, nhớ mẹ và khóc đến khản cả cổ. Mụ ta vẫn nói với nàng bằng thứ giọng ngọt ngào như những miếng kem bông xôm xốp, trắng muốt kia. Mụ bảo thế là cô cháu ta lạc đường rồi, cháu đừng khóc nữa, chịu khó ăn đi, ngủ đi, chờ cô hỏi tìm đường để đưa cháu về với mẹ. Nàng chẳng biết mụ hỏi đường những ai, chỉ thấy càng đi càng không còn nhìn đâu thấy tháp chuông có toà Đức Mẹ nữa. Lần đầu tiên nàng biết đến các bến xe, bến tầu. Đôi mắt nàng ngơ ngác, ngước lên nhìn mọi sự một cách trong trẻo và lạ lẫm. Nàng không biết rằng đôi mắt nàng đáng đồng tiền đến mức mụ đàn bà kia phải cất công bỏ đi gần hai trăm cây số để tìm cho bằng được. Mụ mang nàng về một thành phố nhỏ có những dãy phố sầm uất, trao nàng cho một gia đình giầu có. Nàng bị bắt phải gọi một người đàn ông có bộ râu xồm, lúc nào cũng mắc một cái quần soóc trắng, cả khi đi ngủ, lẫn khi ngồi lên xe máy đi ra ngoài đường, bằng bố. Nàng cũng phải gọi một người đàn bà gầy đét, cổ tay, cổ chân nhỏ như những cành củi khô, bằng mẹ. Mẹ Lan. Mẹ Lan buôn buôn bán bán, chủ yếu với những người đàn ông trở về từ những cuộc viễn dương dài ngày. Mẹ Lan rất giàu, giàu đến mức khó tin. Nhưng mẹ Lan lại nghèo đường con cái. Mẹ Lan cũng là người đàn bà mê tín nhất trên cõi đời này. Mẹ Lan có một bác sĩ riêng, một lái xe riêng (Tất nhiên mẹ toàn đi xích lô), một vệ sĩ riêng và một thầy bói riêng. Tất cả những người làm việc cho mẹ Lan đều trên cơ sở hợp đồng miệng, rất lỏng lẻo về cơ chế nhưng lại rất chắc chắn về nghĩa vụ. Thầy bói riêng của mẹ Lan có ảnh hưởng nhiều nhất đến các hoạt động của mẹ. Khi mẹ Lan muốn kiếm con nuôi, thầy bảo: "Bà phải kiếm một đứa con gái độ tám tuổi trở lại, sùng đạo, có đôi mắt Đức Mẹ, sự trong trắng, thánh thiện của nó sẽ tránh cho bà khỏi mọi sự trừng phạt". Mẹ Lan đã bỏ ra mấy cây vàng để thuê lũ người chuyên đi bắt trẻ con tìm về quê nàng. Chúng đã chọn nàng và nàng trở thành con gái yêu của mẹ Lan.
Nàng được mẹ Lan chăm sóc như một cô công chúa. Nàng lại tiếp tục đến trường. Nàng đã dần quên ngôi làng nhỏ có nhà thờ đạo rộng lớn với bụi Mân côi trên đá. Bài kinh duy nhất mà nàng còn thuộc là bài kinh Kính thánh giá, bài giảng duy nhất mà nàng còn nhớ là bài Chiên lạc, mẩu chuyện duy nhất trong kinh thánh mà nàng không quên là chuyện Đàn ông, đàn bà và con rắn. Bài Chiên lạc có nội dung như thế này:
Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe người, còn những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư thì lẩm bẩm: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng". Đức Giêsu mới kể cho họ nghe một dụ ngôn:
Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con lại không để chín mươi chín con ngoài đồng hoang đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó". Vậy, tôi nói cho các ông hay: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn. Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được. Tìm được rồi bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đánh mất". Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối. Rồi Đức Giêsu nói tiếp: Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói. Thôi, đứng lên đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng nên đáng gọi là con cha nữa. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhẩy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: Em cậu đã về và cha cậu làm thịt con bê béo vì được lại cậu ấy mạnh khoẻ. Người anh cả nổi giận và không chịu vào nhà. Cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: Cha coi, đã bao năm trời con hầu hạ cha, chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Nhưng người cha nói với anh ta: Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy.
(Còn tiếp)
04:25 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
- Anh Đàn! Em cũng không ngờ bị lây bệnh nhanh như thế này. Bây giờ anh có trả em về đâu thì cũng hết đường sống rồi. Bọn Hùng quăn sẽ lại bán em đi xứ khác thôi. Mà cũng có thể chúng sẽ cho em một nhát cuốc vào đầu rồi đút xuống một cái hầm bỏ không nào đấy, lấp đất lại rồi rắc vôi bột lên trên. Anh cứu em với!
Hắn lại trầm ngâm ngồi hút thuốc và nhìn Nhung khóc. Cô khóc trông thật hơn là cô cười. Tiếng khóc của cô có vị mặn của muối, có vị chát đắng của số phận và những giọt nước mắt đang lăn tròn trên má kia là thứ duy nhất đẹp đẽ, long lanh trên khuôn mặt Nhung lúc này. Nhưng mà cô khóc cũng chẳng giải quyết được việc gì. Chính hắn cũng không cứu nổi hắn ra khỏi vách hang lúc nào cũng ẩm ướt, tăm tối này, hắn có thể giúp được gì cho cô? Bọn Hùng quăn, Thành dê, Tùng chột dẫu sao cũng rộng cẳng hơn hắn, bầu trời tự do còn mở ra với chúng, và chúng có điều kiện để cứu cô hơn. Cứu cô rồi chúng còn có thể tiếp tục thu lãi từ cô nữa kia mà? Làm sao cô phải khiếp đảm, hãi hùng đến thế?

- Em van anh, anh Đàn ơi! Em biết hết ruột gan chúng nó rồi. Đứa nào cũng tỏ ra yêng hùng hơn anh, phỉ nhổ vào cái mác học thức của anh nhưng lại chẳng làm được một việc gì nhân nghĩa bằng anh. Cả bãi vàng này đều biết anh là người tử tế hơn cả. Bọn cửu vạn gọi anh là Tống Giang của vùng Lũng Sơn. Em chẳng biết Tống Giang là ai nhưng chắc phải là một người tốt. Nếu không cứu được em thì anh cho em một phát đạn cũng được. Rồi xin anh cho em một cỗ ván. Chúng nó chẳng đứa nào coi em là người. Sống đã chẳng được coi là người thì chết chúng nó coi em ra thứ gì? Em van anh. Anh cứu em với. Em xin anh đấy.

Không thể nói là hắn đã vô cảm trước những giọt nước mắt của phụ nữ dù hắn là một tên cướp. Hắn thương Nhung thật. Bản tính hắn ưa nhẹ nhàng, dễ mềm lòng, đặc biệt rất ưu ái với phụ nữ. Con đường tội lỗi của hắn có hình tên phóng nhưng mũi tên ấy bao giờ cũng lánh xa đàn bà, con gái. Phóng lao phải theo lao. Hắn sẵn sàng đi đến tận cùng của cái ác, nhưng vùng tội lỗi quanh hắn không có bóng dáng của phụ nữ. Phụ nữ có thể sợ hắn như đám cửu vạn dưới kia sợ hắn. Vì sợ hắn lên ai cũng cúi xuống hoặc tránh xa hắn chứ chẳng ai ngẩng mặt nhìn hắn, chuyện trò tâm sự, coi hắn như một người tâm giao cả. Người đầu tiên dám nhìn thẳng vào mắt hắn với tiếng khóc nguyên thuỷ ở bãi vàng này là Nhung. Và hắn đáp lại bằng những gì mà hắn có trong tay, thuần tuý hào hiệp, không một chút vụ lợi.
Ngay sáng hôm sau hắn đến gặp Hùng quăn để thoả thuận lại hợp đồng miệng vừa ký tắt tối hôm trước. Hai cửa hầm mới mở dưới chân núi sẽ thuộc về đám cửu của Hùng quăn, đổi lại, Hồng Nhung, con bớp vô mao, sẽ thuộc về hội áng Sơn của hắn. Hắn giao cho thằng Xế đưa Nhung về thành phố chữa bệnh. Hơn một tháng sau Nhung trở lại bãi Lũng Sơn, quản lý một quán ăn cho hắn. Gọi là quán ăn nhưng đó là nơi mua đi bán lại cả trăm thứ trên đời. Quần áo, chăn màn, cuốc xẻng, bao bố, máng tôn, máng gỗ, kèo cột, lưới sắt, thúng tre, xảo sắt, nồi gang, dây điện, giầy dép, mì tôm, ắc qui, thuốc tây, trứng, thịt, rau, quả... đủ cả. Lúc đầu quán của Nhung thực chất là bộ phận hậu cần của cả hội áng Sơn. Sau một thời gian, quán phình to, trở thành nơi cung cấp hàng hoá cho cả vùng vàng Lũng Sơn. Hắn đã từng bước bóp nghẹt các quán khác để độc chiếm những mối hời từ việc mua bán đổi chác. Trong quán của Nhung lúc nào cũng có hai thợ kim hoàn được thuê từ thành phố lên để nấu, lọc, cô, đúc số vàng khai thác được. Đây cũng là nơi trao đổi cám vàng của đám cửu làm thuê đồng thời thực hiện các dịch vụ như ký gửi, vay lãi, sơ chế vàng cám, cân đong, đo đếm, tính tuổi vàng cho bất cứ ai có nhu cầu. So với mười năm trước, khi hắn lần đầu tiên đặt chân đến nơi này, bây giờ bãi vàng Lũng Sơn đã biến dạng tới mức thảm hại. Những dải đồi uốn lượn yên ngủ hàng ngàn năm nay bị đánh thức, bịt mồm, chẹn họng, moi ruột, moi gan, chặt đầu, chặt đuôi. Con suối chảy theo triền dốc như một viền bạc điểm trang cho núi đồi thủa sơ khai giờ lở loét, ngầu đục, quằn quại, sủi đục bởi sỏi và cát, đất và đá, rác rưởi và xác chết. Những nhóm người bị hút về đây từ tự phát, phân tán, cơ bản là tử tế nay được tổ chức, phân chia theo hội, nhóm, đối xử với nhau theo kiểu luật rừng, ai cũng mang trên mình khuôn mặt của kẻ cướp. Thay đổi hết cả, biến dạng hết cả. Các bưởng vàng xuất hiện như thể đã có bầy đàn thì phải có thủ lĩnh. Bưởng mạnh thì hội mạnh. Hội mạnh thì số hầm nhiều, đất đai rộng, có đoạn suối dài, cửu vạn lắm, vàng thu về lớn. Cửu vạn lên đây chỉ có làm thuê, cần mẫn đào đãi, số vàng đãi được sẽ theo tỉ lệ định sẵn mà phân chia. Khá ra thì có vài cây vàng đem về cho vợ, cho con, lỡ phải vận đen thì cứ ăn chịu, ở chịu, bán sức cho các bưởng sống lay lắt qua ngày. Chính quyền vào dẹp, công an, quân đội hết tới lại lui, đám dân đào vàng như đám bèo tấm, hết tan lại tụ. Bãi Lũng Sơn xa dân cư, xa thành thị nên cũng xa cả chính quyền. Vì thế đất cứ lở lói, người cứ ùn ùn tới, chính quyền không sao dẹp được.
Khi hắn theo bọn thằng Xế, thằng Học tới đây hắn cũng chỉ mong kiếm được vài ba chỉ vàng như bất kỳ một anh cửu vạn nào trong lúc bí bách phải tìm vận may mà thôi. Vì thế hắn không dám nói lời chia tay với Dịu. Hắn biết là Dịu sẽ chẳng bao giờ đồng ý để hắn đi. Nhưng một năm rất dài. Hắn không thể trần mình mãi nơi trạm đá hun hút gió lùa ấy để nhặt nhạnh những lời ong tiếng ve của người làng, người xã. Hắn phải khuất mặt đi một thời gian, vừa là kiếm tiền, vừa là trốn chạy thực tế khốn khổ, khốn nạn của một thằng sinh viên lĩnh án kỷ luật, đằng đẵng hai năm sau mới được thi lại. Dẫu sao thì một năm cũng đã trôi qua rồi. Hãy quên đi một năm nữa bằng cách đến bãi đào vàng này, tới gần ngày thi thì về. Rồi hắn sẽ đỗ thôi. Hắn sẽ học lại từ đầu. Sẽ yêu Dịu một cách lãng mạn như tất cả những tình yêu sinh viên khác, sẽ ra trường, đi làm và cưới Dịu. Hắn nghĩ thế và việc ra đi của hắn ngày hôm nay cũng là vì Dịu.
Nhưng sự đời lại chẳng thuận theo những suy nghĩ của hắn. Hắn lên bãi vàng giữa lúc hội Yên Mĩ đang bành chướng thế lực, từng bước lấn ép uy thế của hội áng Sơn. Đêm đầu tiên hắn được ngủ với bọn thằng Xế ở ngay chiếc lán dựng phất phơ dưới chân núi. Đi đường mệt nhọc khiến hắn ngửa ra là lịm vào giấc ngủ say sưa không còn biết trời đất gì nữa. Song giấc ngủ đến với hắn chưa được bao lâu thì những tiếng gào thét dựng đứng hắn dậy. "úp nồi lên đầu, bọn Yên Mĩ đánh lén đấy". Hắn chẳng hiểu gì cả, quờ tay vớ được chiếc mũ cối, vội chụp lên đầu rồi nép mình vào những tấm lưng khác, nửa nằm, nửa ngồi, co quắp tránh đá từ bên ngoài ném vào. Sau những phút hoảng loạn, thằng Xế, thằng Học bò ra ngoài lán nhặt đá ném lại, lũ thanh niên áng Sơn ở các lán khác cũng ào ra tiếp viện, ném trả vào bóng tối hiểm nguy bủa vây xung quanh. Cuối cùng thì bọn Yên Mĩ phải rút đi, bóng đêm lại im lặng, phủ lên bọn hắn những lo âu, căng thẳng. Hầu như không ai ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau cảm giác yên bình theo những tia nắng sớm rọi xuống khắp mái lán. Hắn hít thở khoan khoái, thấy bóng đêm vốn nát con người ta chứ quả thực sự sợ hãi không đến nỗi tệ như hắn nghĩ. ánh ngày mang lại sự tự tin cho cả hội áng Sơn. Bọn hắn tổ chức ăn uống xong rồi người nào người nấy mang theo đồ nghề kéo nhau ra bãi. Thằng Xế đưa cho hắn cái máng gỗ có hình một chiếc thuyền rồi ra hiệu cho hắn đi theo sau. Bọn hắn hành quân đến chỗ mấy cái cửa hầm nằm sát nhau, cách bờ suối không xa thì dừng lại. Từng người chui xuống. Cuốc chim vung lên, đất rơi rào rào, xẻng lùa xàn xạt, một bao đất đầy được đưa lên. Hắn còn chưa biết mình sẽ phải làm gì thì ở cửa hầm bên kia thằng Xế ơi ới gọi hắn tới đỡ một bao đất khác. "Tí nữa mày cùng mấy thằng kia mang đất ra suối đãi. Nhìn theo chúng nó mà làm, không cẩn thận vứt hết mẹ nó cám vàng đi đấy". Hắn gật đầu hiểu ý. Thì ra cũng không có gì là khó nhọc lắm. Đào đất rồi đãi đất tìm vàng hoá ra còn sướng hơn cái việc ngồi ghè đá ở nhà. Chút phấn chấn ấy vừa thoáng đến đã vội tắt ngay trong hắn khi đá từ đâu bay tới, vèo vèo, sượt qua tai hắn. Một thằng cùng hội đứng cách hắn không xa bỗng lăn đùng ra đất, hai tay ôm đầu lăn lộn. Từ những kẽ tay của nó, máu rỉ ra nhoe nhoét, nhờn nhợt màu đỏ tươi. Hắn hoảng hồn quay lại, mặt tái đi khi thấy hơn chục thằng mặt mũi hầm hè, lăm lăm tay dao, tay gậy ào tới.
"Biến khỏi đây ngay, tao tuyên bố năm cửa hầm này thuộc về hội Yên Mĩ, thằng nào muốn hôn đất, nuốt vàng thì ở lại". Một thằng có vẻ mặt hung dữ nhất, tóc quăn tít, đuôi mắt trái bị kéo ngược lên thái dương bởi một vết sẹo to như con sâu róm, đứng chống nạnh tuyên bố. Thằng Xế lóp ngóp chui từ dưới hầm lên, tay cầm cán cuốc, bảo: "Hầm này tự bọn tao mở cửa, không chiếm lại của hội nào, bọn mày là cái thá gì mà dám đòi?". Cạch! Chát! Lập tức hai hòn gạch bay vèo về phía Xế, may cả hai đều trúng vào cán cuốc. "Làm việc!". Thằng tóc quăn phất tay. Cả bọn Yên Mĩ liền ào đến vung gậy đập tứ tung, có thằng cầm côn ba khúc cứ nhằm cẳng chân hắn mà lia tới. Xế bị mấy gậy vào người, vứt cuốc bỏ chạy, mấy thằng còn lại của hội áng Sơn cũng nháo nhào chạy theo. Hắn cũng quay lưng định chạy nhưng thằng cầm côn ba khúc lại bất ngờ vung ngược côn lên, quật chéo một khúc vào người hắn. Như bị một vệt cháy sém lưng, sức nhiệt trong hắn được thổi bùng lên, hắn quay lại và nhìn thấy tấm máng đãi vàng nằm cạnh đó. Hắn nhào tới hai tay bê tấm máng gỗ lên, lăn xả vào bọn Yên Mĩ quay tròn. Chát! Bụp! Xạt! Tiếng va chạm của gậy, của dao làm hắn sởn tóc gáy nhưng máu đã bốc lên tới đầu, hắn cứ lia chiếc máng vào mặt bọn Yên Mĩ, chẳng cần biết sự thể ra sao. Bọn Yên Mĩ đang ở thế hùng hổ tấn công bỗng hoảng loạn trước hành động liều lĩnh của hắn. Có thằng rơi dao, rơi gậy, cuống cuồng bỏ chạy, tránh cú lia bạt mạng từ tấm máng ở tay hắn. Hành động liều lĩnh của hắn bỗng chốc thay đổi tình thế. Thằng Xế, thằng Học từ xa cầm đá ném tới tấp vào bọn Yên Mĩ rồi hô hào hội áng Sơn quay trở lại phản công. Cuốc chim, mai, xẻng, cột, kèo vung lên, quay ngang, tạt dọc khiến bọn Yên Mĩ kêu oai oái, mất thế thượng phong vội quay đầu bỏ chạy. Hắn quẳng chiếc máng sang một bên, vớ lấy đoạn tam tiết côn của một thằng trong hội Yên Mĩ rớt lại đuổi theo vụt rát rạt. Cả hội áng Sơn thừa thắng xông lên kéo thẳng một mạch đến lán trại của bọn Yên Mĩ. Thằng Xế tuyên bố toàn bộ cửa hầm của bọn Yên Mĩ từ nay thuộc về hội áng Sơn. Thằng Học chỉ đạo việc dỡ lều bạt, khuân tất cả của cải, đồ đạc của bọn Yên Mĩ mang về lán trại hội áng Sơn. Mấy ngày sau đó hắn cùng bọn thằng Học, thằng Xế trở thành những kẻ có máu mặt nhất bãi vàng Lũng Sơn. Bên hội Yên Mĩ bốn thằng phải đưa đi cấp cứu, toàn bộ tài sản bị mất sạch. Niềm vui chiến thắng đến với bọn hắn chưa được bao lâu thì vào một buổi chiều mùa hè nóng nực, cả bọn đang trần trùng trục đào, đãi bỗng hoảng hồn nhận ra xung quanh đã bị vây kín bởi những bóng áo vàng. Hắn ngoan ngoãn theo họ lên xe thùng về công an thành phố. Tại đây hắn được người ta hướng dẫn cho cách khai báo thành thật về những việc làm xảy ra ở bãi vàng giữa hội áng Sơn của hắn và hội Yên Mĩ của Hùng quăn. Hắn thật thà khai nhận tất cả. Có đánh người không? Có. Đánh như thế nào? Cầm máng lia bạt mạng, cầm côn đập thẳng cánh. Có gây thương tích không? Có. Mấy người? Không nhớ rõ, cứ ngã ra, lăn lộn, kêu xin thì thôi. Có người nào chết không? Không biết! Nhằm vào chỗ nào để đánh? Chẳng nhằm vào đâu cả, tiện đâu phang đấy. Có dỡ lều bạt không? Có. Lấy làm gì? Mang về cho cả hội dùng. Đó là tài sản của ai? Của hội Yên Mĩ. Sao lại lấy tài sản của người khác mang về dùng? Vì bọn nó thua chạy, bỏ lại.Hắn khai hết tờ giấy này đến tờ giấy khác, người ta chỉ vào đâu thì ký vào đấy. Cứ tưởng như thế là thật thà, là hoàn toàn tự vệ, là nó đánh tôi thì tôi đánh lại, là nó cướp của tôi thì tôi cướp lại. Đơn giản, chắc người ta cũng sẽ giải quyết một cách đơn giản. Ai ngờ người ta ấn vào tay hắn một lô một lốc những quyết định khởi tố, quyết định tạm giữ, tạm giam, kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản giao nhận. Hắn kinh hoàng khi phải tiếp xúc với hàng loạt những thuật ngữ pháp lý mà cả đời hắn chưa bao giờ biết đến dù đã có hơn hai năm học triết. Thì ra hắn đã trở thành tội phạm. Hắn cứ tưởng có lẽ chỉ phạt hành chính về xô xát vớ vẩn, ngờ đâu người ta đang tiến hành các thủ tục tố tụng để đưa hắn ra toà, lĩnh án. Biết thế này thì hắn cứ chối phắt đi là xong. Nhưng cuộc đời mà cứ vài lần biết thế như hắn thì chẳng còn là cuộc đời nữa. Hắn choáng váng khi nghe toà tuyên bố năm năm tù. Thằng Xế, thằng Học cũng bị tuyên án hai năm nhưng cho hưởng án treo. Chú Hùng cho xe ô tô đưa mẹ hắn và Dịu đến thăm. Hắn nhất quyết không ra gặp mặt. Tưởng xa Dịu vài tháng rồi sẽ được về với Dịu, bây giờ coi như hắn đã mất Dịu, còn gặp lại làm gì. Hắn không muốn gặp Dịu nhưng không thể không gặp mẹ. Mẹ hắn đi một mình đến trại thăm hắn. Một lần, hai lần, đến lần thứ ba thì hắn chịu ra gặp. Vừa nhìn thấy hắn, mẹ hắn đã tru tréo lên:
- Đàn ơi là Đàn, sao mày lại không ra gặp mẹ, mày ăn phải thứ gì mà lú lẫn đi cướp của người ta thế hả con. Tao có cần vàng của mày đâu, sao mày đâm đầu lên cái xó ấy để hư hỏng ra thế này. Tao muốn đâm đầu vào đá chết cho xong, nhưng thương cái thân mày khốn khổ nơi tù ngục lại không chết được, phải cố mà sống để thăm nuôi mày. Sao mày lại gàn dở, ương bướng không chịu ra nhìn mặt mẹ mày hả Đàn?
- Mẹ gặp con thế này thì con vào cho xong. Coi như mẹ không có con nữa, anh Dương sẽ nuôi mẹ, mẹ khóc lóc, chửi rủa con làm gì. Con cũng đang muốn chết đây.
- Đừng, đừng chết con ơi!
- Mẹ hắn bỗng nín bặt, đưa tay chùi nước mắt rồi chuyển giọng khẩn thiết, van nài hắn
- Con đừng nghĩ dở mà mẹ không sống được đâu. Anh cán bộ quản giáo bảo với mẹ rồi, nếu con cải tạo tốt thì chỉ ba năm là về. Mẹ còn khoẻ, còn sống để chờ con về. Con làm gì thì cũng phải nghĩ đến mẹ. Mẹ cố sống là vì con, mẹ sẽ thăm lo, tiếp tế cho con, con đừng nghĩ dại, Đàn nhé!

- Thôi mẹ đừng nói chuyện đó nữa. Thế bây giờ ở nhà mẹ sống thế nào?
- Dễ chịu lắm rồi con ạ. Mẹ được chia ruộng khoán, thỉnh thoảng cái Dịu cũng có sang làm giúp mẹ. Cái ăn bây giờ chả hết. Mẹ nuôi lợn chờ mày về rồi bán. Nhưng mà mày thế này thì mẹ để dành tiền cho mày. Anh Dương ra công tác ở Quảng Ninh rồi. Nó đang định cuối năm nay lấy vợ nhưng mày lại vào đây thì làm sao lo giúp mẹ một tay hả con?
- Anh ấy không lấy cái chị gì ở Vĩnh Phú nữa à?
- Không, nó theo người ta ra Quảng Ninh, ở đấy nó cũng yêu một cô mỏng mày hay hạt lắm, làm cái gì về tiền lương ấy, đưa về cho mẹ xem mặt rồi. Nó trách mày nhưng mẹ bảo em nó còn dại, đừng chửi mắng nó, tội nghiệp.
- Anh Dương biết con vào đây chưa?
- Biết chứ. Nhưng... Mà thôi. Mẹ giận nó lắm. Nó bảo vì con mà nó mất mặt với gia đình bên nhà gái. Nó bảo con là ngu, là đần, là chẳng chịu giữ gìn cho anh, để nó công tác có tiến bộ bao nhiêu cũng chẳng được tổ chức đoái hoài đến vì có một thằng em trai làm cướp. Mẹ mắng nó, nó bảo mẹ bênh mày. Mẹ không muốn nói với nó nữa. Từ xưa đến nay nó vẫn khái tính. Nó giống bố mày. Đã vì công việc thì quên hết mọi người trong nhà. Con cũng chẳng trách anh làm gì. Nó thế nhưng nó cũng thương con lắm đấy. Nó gửi tiền mẹ cầm lên cho con đây. Rồi nó sẽ lên với con sau.

Hắn nghe mẹ nói, chỉ thấy bản thân mình đáng trách chứ không hề giận anh Dương. Hắn quá hiểu anh Dương, và trong sâu thẳm ký ức, anh Dương vẫn là con người đáng kính trọng nhất của hắn. Hắn sai lầm, tội lỗi, ngu dại bị anh mắng, anh chửi là đúng thôi. Anh Dương mang lại niềm vui cho mẹ, đáng hãnh diện với cả làng, còn hắn, hắn toàn mang lại những điều đàm tiếu, chê cười của thiên hạ mà thôi. Hắn là một đứa con hư, một đứa em ngỗ ngược, phá gia chi tử, vô dụng, mạt kiếp, rước oan nghiệp vào thân, làm ô danh cả làng, cả xã. Nếu gặp hắn, nóng lên có khi anh Dương lại cho hắn mấy cái bạt tai cũng nên. Hắn lẳng lặng ôm túi đồ tiếp tế vào ngực, đứng lên bảo:
- Thôi mẹ về đi, mẹ cũng đừng lên đây thăm con nữa, đường xa lắm, mà mẹ yếu nhiều rồi. Mẹ bảo với Dịu hộ con là lấy chồng đi, đừng chờ con. Cho con gửi lời cảm ơn đến chú Hùng và cô giáo Hường.
- ừ, nhưng mà này, nhớ lời mẹ bảo đấy nhá. Cố gắng mà cải tạo, chỉ ba năm thôi. Mẹ chờ, cái Dịu nó cũng sẽ chờ. Chú Hùng về ở với cô Hường rồi. Chú ấy cũng mới lên nhận công tác ở huyện. Chú ấy bảo khi nào con về chú ấy còn công tác thì còn lo được việc cho con. Đừng lo nghĩ nhiều rồi phát phiền lại nghĩ dở con nhá.

Những lời mẹ nói đã đốt lên trong hắn ngọn lửa khát thèm tự do. Hắn lao vào làm việc, cố gắng quên đi tất cả, chỉ chăm chăm một điều: Được xét giảm án. Nhưng thời gian vẫn cứ là thời gian. Dù anh có vặn kim đồng hồ quay hết một vòng thì vẫn không thấy tốc độ ánh sáng đi nhanh hơn được. Một ngày đêm vẫn cứ là hai mươi bốn tiếng. Một tháng vẫn cứ phải ba mươi ngày. Lửa nhiệt tình trong mỗi con người không phải lúc nào cũng rực cháy. Hắn muốn hét thật to để thời gian trôi nhanh. Rồi hắn lại phải đối mặt với sự ù lì, chậm chạp của ánh ngày và bóng tối. Đúng lúc hắn nản lòng đến mức muốn ngủ một giấc và không bao giờ thức dậy nữa thì Lân sáu ngón vào làm bạn tù với hắn. Lân sáu ngón thổi vào trong hắn một luồng kích thích mới, ngày đêm nhắc nhở hắn nhớ tới hai chữ tự do. Nhưng không phải là thứ tự do ở phía bên kia của thời hạn cải tạo. Muốn tự do thì phải tự tìm đến, tự vượt qua bức tường bao quanh mình, tự vượt núi băng rừng mà về với nó. Tự do ấy nằm ở bên ngoài song sắt. Nếu muốn, hãy bẻ gẫy song sắt mà chui ra. Tự do sẽ ở ngay trước mặt.

(Còn tiếp)

04:21 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chương 5

Những bước chân cuối cùng. Hắn biết thế nên cố gắng bước thật chậm. Kể từ lúc chúi đầu lao xuống gốc cây bạch đàn, rồi lẫm chẫm biết đi, đến bây giờ hắn đã đi được bao nhiêu bước? Hành trình của một đời người là những bước chân. Thường thì khi kết thúc hành trình của mình người ta bước xuống và nhắm mắt trong sự tiếc thương, dù ít dù nhiều, của đồng loại. Còn hắn kết thúc hành trình ngắn ngủi, với vô vàn những bước chân trốn chạy, bằng cách bước lên. Cây cột sừng sững trước hắn như bậc tam cấp bước vào sự huỷ hoại mãi mãi. Phải, thân xác hắn phải bị huỷ hoại, phải được rắc vôi bột và muối, để cái ác không còn bật mồ mà đứng dậy được nữa. Vách núi bỗng mềm nhũn, tan loãng, dập đềnh hư ảo như những tảng mây trôi dưới sắc màu hoàng hôn. Hắn nhìn thấy Dịu. Dịu mặc áo dài trắng, neo mình bên vách đá và hát. Hắn lắc đầu để dứt khỏi những ảo ảnh mơ hồ. Nhưng đúng là Dịu. Vách núi nào cũng có Dịu, như sự tương phản màu nhiệm. Đuôi áo dài tung bay, bồng bềnh, vuốt lên mặt đá. Tóc Dịu bạt đi trước gió. Dịu không nhìn hắn mà nhìn về một chân trời nào đó, xa xăm lắm. Và Dịu hát. Vách núi hát. Quanh hắn là cả một dàn đồng ca. Những câu hát bủa lưới vào vùng ký ức hắn. Hắn phải dừng bước để nhận biết mình trong thực tại. Những câu hát tiếp tục rơi xuống người hắn như mắt lưới.
Em đi qua chuyến đò thấy con trăng đang nằm ngủ
Con sông là quán trọ và trăng - tên lãng du
Em đi qua chuyến đò ối a con trăng còn trẻ
Con sông đâu có ngờ ngày kia trăng sẽ già.
Con trăng, dòng sông, chuyến đò?
Đúng rồi, đấy là lần đầu tiên hắn được bay lên, trôi đi trong cảm giác thần tiên. Trạm Đá vào buổi tối thường vắng người. Hắn tranh thủ về nhà ăn cơm với mẹ, rồi ra giếng nước sau vườn dội ào ào. Cái cơ thể hừng hực sức trai của hắn thèm thứ nước giếng trong, mát lạnh, thèm sự khoả nước ào ạt sau mỗi ngày làm việc. Và khi những ngôi sao nhấp nháy trên đỉnh núi Ngựa thì hắn trở lại Trạm Đá châm đèn ngồi học. Hắn thường học rất khuya, đến khi buồn ngủ là nằm vật ra giường, thẳng đơ như những tảng đá xếp đầy sau trạm. Chú Hùng vẫn nhắc hắn khi ngủ phải bỏ màn, đừng để muỗi đốt dễ lây bệnh sốt rét. Nhưng Trạm nằm ở giữa khe núi, bao nhiêu gió trời hút cả vào đấy, mát mẻ và thoáng đãng, chả có con muỗi nào cả. Thỉnh thoảng Dịu đến thăm hắn. Dịu thường kéo theo một cô bạn nữa đi cùng. Nhưng hôm ấy Dịu lại đi một mình. Dịu mang theo một chiếc áo kẻ ca rô, cổ cứng, dài tay, lượn đôi tôm. Có lẽ đó là chiếc áo đẹp nhất mà hắn được mặc trong quãng đời niên thiếu của mình. "Em nhờ may ở trên huyện đấy. Tuyệt không? Em ưng nhất cái cổ, con trai mặc áo sơ mi phải cổ cứng". Hắn bảo: ừ, đẹp, đi đâu anh mới mặc. Dịu hỏi: Anh không nhớ hôm nay là ngày gì à? Hắn bảo: Nhớ, nhưng đang muốn quên. Dịu nhăn mày: Đừng, ngày sinh nhật thì phải nhớ chứ!
Hắn gãi đầu ngượng nghịu. Đang cảm động đến mụ cả người đi thì Dịu rủ: Chúng mình ra sông chơi đi?. Hắn bảo: Thì đi!
Và hắn mang theo cả cây ghi ta theo nữa.
Trăng lấp ló sau dãy núi Voi, vương hạt vàng xuống vệt cỏ lau. Gió thỉnh thoảng lại thốc vào người hai đứa làm Dịu cứ phải đưa tay khép lại vạt áo.
- Đò ông Thảnh kìa, bọn mình xuống đó nhé? - Dịu bảo.
- Sao lần này ông ấy đi lâu thế nhỉ, cứ bỏ mặc đò thế kia à?
- Anh không biết gì sao?
- Biết gì?
- Ông Thảnh có hai người con trai, một người theo đằng mình, hy sinh năm sáu tám, còn người kia theo ngụy, cấp cũng to lắm, bây giờ đang cải tạo. Hai cô con dâu đều khó khăn, bà vợ thì đau yếu. Ông Thảnh phải vào trong đó giúp họ.
- Thế còn con đò?
- Ông Thảnh gửi đò cho chị Tình trông hộ. Thỉnh thoảng chị Tình lại dùng đò của ông ấy đi thả lưới kiếm mấy con cá sông. Con đò cũng nát lắm rồi, không chở nặng được nên người làng cũng ít đi.

Vừa đi vừa nói chuyện, tới nhà chị Tình, hai đứa vào hỏi mượn đò. Dịu đưa tay cho hắn dắt xuống bến. Hắn níu dây đò rồi cùng Dịu chui vào trong khoang. Hắn tháo dây thả cho con đò tự trôi theo hướng gió. Trăng đã vượt khỏi dãy núi Voi, soi sáng cảnh vật, rọi sắc vàng lấp lánh vào ánh nhìn của Dịu. Hắn cố tỏ ra tự tin nhưng tim hắn đập như đá vỡ, cử chỉ cứ lúng ta lúng túng. Hắn yêu và được yêu. Hắn biết thế, hưởng thứ hạnh phúc ngọt ngào êm ái ấy đã lâu, nhưng đây là lần đầu tiên hắn được ở gần Dịu như thế này, giữa gió trăng, sông nước và chỉ có hai người. Hắn ôm lấy cây đàn, gẩy lên vài nốt nhạc bập bẹ để khỏi ngượng ngập, để xua đi không khí im ắng, nhưng nhức giữa hai đứa.
Dịu bảo:
- Anh Đàn ơi, hôm nọ em chép được một bài thơ hay lắm, để hôm nào sẽ đọc cho ông Thảnh nghe, nó rất hợp với ông ấy.

Hắn bảo:
- Thử đọc cho Đàn nghe xem nào?
Dịu đọc luôn:

Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn để gió lén mơn râu

Hắn bảo:
- Hình như nghe ở đâu đó rồi. Đọc tiếp đi xem nào?
Dịu lại đọc:
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi

Hắn bảo:
- Nhớ rồi, nhớ rồi. Đây là bài Bến My Lăng của Yến Lan. Một bài thơ bị cấm vì thuộc văn học lãng mạn. Ông Thảnh rất thuộc bài thơ này, thuộc từ thời trước cách mạng cơ. Ông bảo ông rất thích hai câu cuối:
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.

Dịu bảo:
- Văn học lãng mạn bây giờ được xem xét lại rồi, nghe bảo sắp tới sẽ được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy cho học sinh. Các thầy cô ở trường em đọc lại thơ lãng mạn từ lâu rồi, toàn chép tay thôi, ở đâu ra mà nhiều thế!
Hắn nhìn Dịu nói một cách say sưa thấy trong người rào rạt một thứ sóng rất lạ. Hắn dạo đàn rồi bảo:
- Đàn hát cho Dịu nghe một bài nhạc vàng nhé. Bài này ở trong băng cát xét của thằng Bằng. Chẳng hiểu sao Đàn lại thuộc bài này. Có lẽ vì nó cũng nói đến dòng sông, con đò như ở quê mình.

Dịu bảo:
- Anh hát đi, thử xem em có biết không? Hắn so dây, dạo lướt một lượt rồi cất tiếng hát:
Em đi qua chuyến đò thấy con trăng đang nằm ngủ...
Dịu vội "a" lên:
- Em biết bài này. Không phải nhạc vàng hải ngoại đâu. Nhạc của một ông nhạc sĩ họ Trịnh từng xuống đường với sinh viên miền Nam trước giải phóng đấy. Trường em cũng nhiều đứa thích hát những bài của ông ấy. Bài anh vừa hát là bài Biết đâu nguồn cội.

Hắn vừa nghe Dịu giảng giải, vừa gật gù đệm đàn và hát:

Trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra.
Em đi qua chuyến đò lắng nghe con sông nằm kể.
Trăng ơi trăng rất tệ mày đi nhớ chóng về...

Hắn hát đi hát lại mà vẫn thấy thèm được hát nữa. Đôi mắt Dịu lúng liếng nhìn hắn. Cái miệng Dịu bập bẹ theo hắn. Môi Dịu cong lên, mềm mại, khơi gợi quá. Hắn hát đến câu: Tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót hài, thì buông đàn ôm lấy Dịu. Bóng trăng phủ lên người Dịu.
Bóng trăng mơn man vành môi thiếu nữ ngọt mềm mê đắm của Dịu rồi khẽ lần tìm xuống vùng cổ trắng ngần. Bóng trăng quờ tay vuốt ve bả vai và eo lưng Dịu. Dịu nhắm mắt, run rẩy dưới bóng trăng rừng rực hơi thở nồng nàn ấm nóng. Những chiếc cúc cuối cùng bật ra, cả một vùng ngực lồ lộ hai bầu vú mềm, thiêu đốt những ham muốn đang trào lên từng đợt từng đợt trong bóng trăng.
Bóng trăng rửa sinh khí trai tráng trong Dịu để trở thành đàn ông từ hôm ấy. Bóng trăng yêu Dịu cuồng nhiệt, phủ lên người Dịu những cái hôn lửa đốt, những dập dềnh sóng lũ, những lắng dịu êm ái, những rì rầm yêu đương, cả chút bạo liệt, băm bổ. Sau những giây phút thẹn thùng ban đầu, Dịu dần trở nên chủ động hoà quyện vào với bóng trăng. Da thịt Dịu mát lịm, hút chặt lấy thân nhiệt hừng hực của bóng trăng. Cơ thể bóng trăng bỏng rẫy. Những vùng da thịt cọ xát phát nhiệt đê mê. Bóng trăng mở hết tất cả các giác quan để thoả mãn sự khám phá Dịu. Dịu thả lỏng toàn thân cho những khoái cảm tràn đến từng thớ thịt. Cặp vú Dịu lúc này căng mẩy như hai trái lê con, eo hông dập dềnh, lượn sóng, dồn dập, hối hả dưới bóng trăng. Những tiếng rên khe khẽ thả xuống làn nước, tạo dư ba trên mặt sông, chạy vào vùng nhạy cảm thần tiên. Bóng trăng đưa lưỡi lùa vào miệng Dịu, ngấu nghiến bờ môi Dịu, chồm lên cơ thể êm ấm, giãn nở, tạo những cơn giật rùng mình trước khi hoà vào Dịu, trong Dịu và tan ra cùng Dịu giữa mặt sông lấp lánh ánh vàng.
Sau những nghiến ngấu, cuồng nhiệt, bóng trăng lại trở về bên Dịu, vuốt ve, ôm ấp. Bóng trăng có dáng dấp của một bức tượng thần Hy Lạp lim dim mắt tận hưởng những khoái cảm từ Dịu. Bóng trăng ấy mãi mãi là người đàn ông thánh thiện trong Dịu. Nhưng con sông đâu có ngờ rằng ngày kia trăng sẽ già. Xa Dịu bóng trăng đã hiện nguyên hình là một con quỷ dữ. Và hắn mang con quỷ dữ ấy trong mình bước tới chân cột để nhận sự kết liễu. Dịu đừng hiện lên bên những vách đá kia để con quỷ trong hắn lặng lẽ đến với sự trừng phạt. Dịu là miền cổ tích được chôn giấu rất sâu trong ký ức hắn. Dịu hãy đưa miền ký ức ấy đi xa đi, hãy mang tới một nơi nào đó và hoả thiêu để tránh cho hắn một sự đau đớn. Cuộc sống xác thịt của hắn sau này không nhuốm màu trăng như thế. Đó là những cuộc giải toả sinh lý triền miên trong nỗi khốn cùng của kẻ trốn chạy. Người đàn bà ấy có lẽ cũng yêu hắn, cũng tôn thờ bức tượng thần Hy lạp nằm bên mình mỗi đêm mà không biết rằng khát vọng chồng vợ chẳng bao giờ có thể đạt được.
Hắn gặp người đàn bà ấy trong chốn ngổn ngang, cắn xé, tranh giành nhau nơi từng hạt cám vàng đốt cháy lên những cuồng vọng. Bọn thằng Xế về bảo với hắn rằng bãi vàng vừa xuất hiện một con bớp không có tuổi. Tại sao lại không có tuổi? Thằng Xế nhếch mép đểu giả: Vì cái của nợ ấy vô mao. Nó là một đứa con gái chưa kịp lớn đã phải làm đàn bà, bây giờ mọi thứ trong nó đã lớn thì cái vệt mực tàu đánh dấu sự hoàn thiện của cơ thể một người phụ nữ chẳng mọc ra được nữa!
Hắn thờ ơ khi nghe thông tin này, thậm chí, một thoáng kinh tởm len lén đi qua óc hắn. Nhưng mấy ngày hôm sau lũ đàn em lại cứ xì xào bàn tán về cái con bớp vô mao ấy, như thể ngàn năm tạo hoá mới sinh ra được một người đàn bà đặc biệt như vậy, không nếm thử coi như phí đi cơ hội trời cho, hàng thiên niên kỷ mới có một lần.
- Thế cái con ấy nó tên là gì? - Hắn tuột miệng hỏi.
- Nhung. Hồng Nhung. Tên cha mẹ đặt cho đấy, không phải tên giang hồ đâu.
- Nó ở trại nào?
- Trại Hùng quăn.
- Hùng quăn bao nó à?
- Thời gian đầu thôi. Bây giờ tháo khoán. Hùng quăn dùng cách này để bóc lột cửu vạn cũng được đấy. Bọn Thành dê, Tùng chột thỉnh thoảng cũng ký tắt với Hùng quăn "mượn" em Nhung về cải thiện. Trại Thành dê cũng có ba bốn em nhưng từ ngày Hùng quăn có Hồng Nhung bọn ấy vắng khách hẳn.

Tối hôm ấy hắn cũng ký tắt với Hùng quăn một hợp đồng miệng để mượn Hồng Nhung về trại của mình. ở bãi vàng Lũng Sơn này người ta có thể bắt gặp tất cả những gì được coi là quái đản nhất trên thế gian. Hồng Nhung về phục vụ bên trại hắn một tuần, đổi lại Hùng quăn sẽ được quyền khai thác hai hầm có nhiều cám vàng nhất của bọn áng Sơn. Đất có trộn lẫn cám vàng là vật quy đổi, là thứ bảo đảm cho mọi giao dịch cả hợp pháp lẫn phi pháp áp dụng rộng rãi trong cái xứ nửa người nửa ngợm này. Đêm đó hắn được sở hữu người con gái ngàn năm tạo hoá mới sinh ra một lần. Khuôn mắt tròn trĩnh, u buồn, mệt mỏi. Nước da nâu mịn, rắn rỏi, trường sức nhưng không căng tràn, nhuộm sắc. Bộ ngực vẫn còn căng, eo vẫn gọn, đùi thon dài, quả vẫn đáng đồng tiền bát gạo, vẫn có thể mang về cho Hùng quăn hết lọ penicilin cám vàng này đến lọ penicilin cám vàng khác. Nhung cười có làm cho khuôn mặt sáng lên nhưng không lấp hết được những oằn oải ẩn sâu trong hố mắt. Tuổi Nhung mười tám hay hai mươi? Chịu. Hắn không thể đoán được. Nhung vừa có nét của con bé mười sáu, lại vừa có dáng dấp của một mụ ba mươi, vừa có vẻ lần đầu lên giường với người khác giới, lại vừa có những biểu hiện đầy kinh nghiệm chăn gối của một gái giang hồ. Tất nhiên trước Nhung, mọi ý nghĩ của hắn rồi cũng lại quay về với cái đặc điểm không giống ai trú ẩn trên cái cơ thể đang kêu gọi dục tính kia. Nhưng hắn chưa vội. Hắn ngồi đốt thuốc và thả những tia mắt quét lên người Nhung, dò xét, thật khó phân biệt được đó là những tia khoái cảm hay thương xót, hững hờ hay thèm thuồng, chờ đợi hay chán ngán. Nhung không thích ánh mắt ấy. Cô không muốn bị đẩy mãi vào thế bị động. Sau một khoảng thời gian co mình lại để khỏi để khỏi bị những tia mắt của hắn quét đi, quét lại, Nhung bắt đầu làm những công việc mà cô thường phải làm.
Nhung tiến đến bên hắn bằng nụ cười không sinh khí, đưa tay lần mò những khuy cúc và chủ động tạo những cọ xát gây hứng thú. Hắn không nói không rằng chỉ khẽ xoay người để cô ta tháo bỏ những vướng mắc khoái cảm. Khi cơ thể hắn hiện ra nguyên vẹn trước Nhung thì hắn giữ tay cô lại. Nhung cho đó là sự nhắc nhở ngược, liền lẳng lặng cởi bỏ những thứ trên người mình ra trước cặp mắt hơi nheo nheo của hắn. Nhung làm mọi việc một cách căng thẳng. Cô thấy ức chế trước thái độ của hắn. Những người đàn ông mà cô phải tiếp hoặc là quá tỉnh táo hoặc là quá mê muội, đằng này hắn lạnh lùng một cách rất khó hiểu. Hắn không đẹp trai nếu xét về khía cạnh tao nhã. Cao một mét bẩy hai, đùi to, ngực nở, cơ bắp cuồn cuộn, trán gồ, cằm bạnh, tiềm ẩn những cơn cuồng khát mà trong đời lưu lạc của mình, Nhung biết những người như hắn sẽ rất đáng sợ khi vào cuộc mây mưa. Vòm hang lạnh lẽo, không khí trở nên ẩm ướt khi đêm xuống. Nhung không chịu nổi sự im lặng cứ bao trùm lên mối giao cảm có vẻ như lạc lõng, xộch xệch này. Cô kéo hắn xuống tấm giát có lót chăn, thực sự muốn cái cơ thể kia của hắn tan nhão ra. Nhung biết, những người đàn ông dù ghê gớm đến đâu đi nữa, thì rồi cũng sẽ mệt mỏi và gục ngã trước cơn hứng tình của người đàn bà. Hắn là một tên cướp, một bưởng vàng có thâm niên, có án tích, có máu lạnh, có đầu óc. Cô nghĩ về hắn thế. Các bưởng khác cũng nghĩ về hắn thế và ngầm nể sợ hắn. Nhung cố gắng đẩy bật nỗi sợ hãi ra khỏi trí óc đang trở nên hoảng loạn của mình trước thái độ đến là khó hiểu của hắn. Nhưng Nhung chỉ có thứ vũ khí duy nhất, ấy là bản năng giới tính. Cô sẽ dùng nó để chế ngự dục tính trong hắn, thôi miên, hoá giải mọi sức mạnh của hắn để lấy lại sự tự tin cho mình. Khi ở thế thượng phong trên giường chiếu cũng là lúc có thể làm chủ được lý trí của bạn tình. Nhưng Nhung sốt ruột và khó chịu vì thứ vũ khí của cô có vẻ như không vào cuộc được để phát huy tác dụng. Đúng lúc Nhung giơ tay tắt đèn thì hắn giữ tay cô lại như đã từng giữ tay cô không cho khám phá hết cơ thể đẹp như bức tượng thần Hy lạp của hắn. à thì ra thế. Nhung chợt hiểu. Hắn muốn kiểm nghiệm xem có hay không cái vệt mực tầu nơi đàn bà nhất của cô. Khốn nạn cả! Hắn cũng như bao thằng đàn ông khác mà thôi, muốn tìm khoái cảm ngay cả trong sự giả tưởng. Nhìn cái bộ phận trời cho ấy thanh sạch, trắng muốt, mấp mô, mũm mĩm như núi đồi ngái ngủ ngậm sương, bọn con trai sẽ có cái cảm nghĩ là mình được ngủ với một nữ đồng trinh. Thì ra hắn cần điều ấy ở Nhung mà cô không biết. Điện vẫn sáng và vòm hang vẫn lạnh lẽo, ẩm ướt đến khó chịu. Hắn lại ngả lưng ra ghế, rút một điếu thuốc và nhúng vào chén nước đặt bên cạnh. "Cô có nhìn thấy những nốt mẩn đỏ chạy dọc hai bên háng và đã bắt đầu ăn lên rốn rồi không?". Nhung hoảng hốt trước giọng nói ráo hoảnh của hắn. Không có gì kinh khiếp hơn đối với một người đàn bà, ấy là khi bị người ta phát hiện ra những khiếm khuyết trên cơ thể. Nhung sống và tồn tại được là nhờ cái cơ thể đặc trưng giới tính của mình. Vậy mà giờ đây cái cơ thể ấy đã bị hắn phát hiện ra những điểm xấu xí, độc hại và ủ đầy mầm bệnh. "Hãy mặc quần áo vào đi và về bảo với Hùng quăn rằng chớ có động vào một hạt cát ở hai cái hầm dưới chân núi".
(Còn tiếp)
04:19 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chị Thái ở đầu phố, nhà chỉ có hai bố con. Bố chị làm nghề cắt tóc, sau không làm nữa, nhường lại toàn bộ mặt tiền cho chị mở hàng cắt, gội, sấy đầu tóc nam nữ, cả trang điểm cô dâu nữa. Chị có nghề đàng hoàng như vậy nhưng người lớn lại cứ nhắc đến chị với một sự kinh tởm về cái nghề phụ đó của chị. Chị xinh đẹp vô cùng. Đối với em, cho đến bây giờ, khi đã là một chàng trai trưởng thành rồi, em vẫn cứ nghĩ rằng, chị Thái là người đã đem đến cho em khái niệm về cái đẹp. Nhà chị Thái không có chế độ tem phiếu nhưng sinh hoạt của chị, nhất là ăn mặc, lại tỏ ra hơn cả những gia đình được hưởng bao cấp. Chị có bao nhiêu bộ quần áo em không biết nhưng nếu một lúc nào đó thấy cuộc đời này tẻ nhạt quá, đơn điệu và ảm đạm quá, thì hãy đến gặp chị Thái. Màu sắc trên người chị luôn phong phú, Khuôn mặt chị xinh đẹp, nụ cười chị có duyên và cách nói chuyện của chị rất cuốn hút. Nghe chị nói chuyện cánh đàn ông cứ cười hinh hích, đôi khi họ làm động tác trợn tròn mắt, lè lưỡi, lắc đầu. Họ bảo chị nói nghịch, đàn bà con gái gì mà ăn nói quá thể lắm. Họ quay quanh chị như những hình hoạ ở khung đèn kéo quân quay quanh ngon nến cháy. Thế mà xa khỏi chị là họ nói xấu chị. Mà tục lắm, hư đốn lắm, đểu giả lắm, vô nhân lắm. Tất nhiên những từ này em phải vay mượn ở thời tương lai chứ lúc ấy em chưa gọi tên ra được một cách chính xác thế. Em không ưa những người nói xấu chị Thái, vì quả thực chị chưa chửi đánh ai, chưa tranh chồng hại vợ, chưa bắt chẹt khách, chưa tỏ ra cáu kỉnh, nhăn nhó với đám trẻ con như em bao giờ. Tóm lại là em chẳng thấy chị có gì xấu cả, với riêng em chị còn có mối quan tâm đặc biệt nữa. Lân ấy em cầm tiền bố cho thập thò trước cửa nhà chị để cắt tóc. Em không biết là bố chị đã nghỉ làm để nhường cửa hàng lại cho chị. Nhìn thấy em, chị mỉm cười mời em vào nhà rồi đặt em lên chiếc ghế đệm, quàng quanh người em một mảnh vải trắng có cổ, sạch bong. Và chị cắt tóc cho em. Lại gội đầu bằng một thứ dầu rất thơm nữa. Lần đầu tiên em được chị chẻ ngôi cho. Em thấy mình chững chạc và người lớn hẳn ra với mái tóc chẻ ngôi từ tay chị. Chị không lấy tiền. Chị hỏi em: Ngủ có mơ thấy mẹ không? Em bảo: Có mà mơ thấy con ma ấy. Chị bảo: Không được nghĩ về mẹ như thế, mẹ bỏ em mẹ đau khổ lắm, lớn lên em sẽ hiểu. Em cãi: Lớn lên ư? Lúc ấy mẹ chỉ còn là một cục đất. Chị Thái không thích em nói thế, chị bảo: Ngày xưa mẹ em từng bế chị đấy. Trong ngàn vạn người cũng có những người gặp bi kịch trong cuộc sống, với họ hãy cảm thông. Tiếc là những người như thế thường chỉ được cảm thông khi đã trở thành một cục đất.
Một lần em đi học về, vừa đi vừa khóc. Lúc ngang qua nhà chị Thái chị hỏi em vào và hỏi: Sao thế? Con trai mà lại khóc à? Em bảo: Bố chả bao giờ mua cho em truyện tranh, em toàn mượn đọc của chúng nó, không có gì để trao đổi lại, hôm nay chúng nó bảo nhau không cho em mượn nữa. Chị Thái bảo: Thôi em về đi, sáng mai đi học qua đây chị sẽ mua cho em ba quyển liền. Em tin chị và không khóc nữa. Sáng hôm sau em có ba quyển truyện mới để mang đến lớp.
Chị Thái có nhiều người yêu nhưng em chả biết chị yêu người nào. Có con ông hiệu trưởng trường cấp ba đến với chị, cả một người đàn ông trung trung tuổi, cả con ông chủ tịch huyện, cả anh chàng khoèo tay vẫn đứng bán săm lốp ở trước cửa hàng bách hoá. Hôm nay thấy chị đi với người này, hôm sau đã lại thấy chị đi với người khác. Một hôm chị đứng cửa đón em đi học về, rủ em đi với chị có chút việc. Chị đèo em trên chiếc xe máy mà chị mượn của một người đàn ông nào đó. Chị đưa cho em cầm một cái cuốc và một con dao dựa. Còn một cái túi to nữa chị để ở trên đầu xe. Chị trở em tới bãi tha ma. Chị cùng em đào đất đắp cho hai ngôi mộ, một ngôi mộ của mẹ chị, một ngôi mộ của mẹ em. Sau đó chị bỏ những thứ ở trong túi ra, đặt lên hai ngôi mộ và quỳ xuống xì xụp, khấn vái. Xong chị quay sang bảo em lạy trước mộ mẹ. Khi chị trở em về thì người đàn ông của mẹ em đến. Ông không nhìn thấy em nên em cũng không để ông nhận ra mình. Bữa trưa hôm ấy em ăn cơm ở nhà chị Thái. Chị Thái bảo: Sau này chị đi lấy chồng, em lớn lên, thỉnh thoảng sang đây giúp bố chị nhé, bố chị già rồi, những lúc trái gió trở trời ấy mà. Em bảo: chị lấy con ông chủ tịch huyện đi, hay con ông hiệu trưởng trường cấp ba cũng được, nhà các ông ấy đều giầu. Chị Thái cười buồn: Con các ông ấy không đủ dũng cảm để lấy chị, họ không giám bước qua những hàng dào vô hình dựng lên xung quanh họ. Em không hiểu, bảo chị: Thế thì chị đừng hư hỏng nữa. Đôi mắt đen láy của chi dựng lên thành một dấu hỏi rồi cụp xuống, buồn thảm. Thời nào cũng có thuận và nghịch, cái sự thuận và nghịch ấy con người ta nhiều khi không lựa chọn được, sinh ra đã phải chấp nhận rồi, lớn lên em sẽ hiểu.
Em vặn lại: Tại sao cái gì cũng cứ phải lớn lên mới hiểu?
Chị Thái cười: Cũng như phải đến năm hai nghìn em mới bay vào vũ trụ được, không thể là bây giờ.
Một tuần sau đó chị Thái không mở hàng. Nửa tháng sau cả khu phố xì xầm việc chị Thái vượt biên.
Ngày ấy vượt biên là một cái gì đó ghê gớm lắm, người ta ít nhìn đến yếu tố kinh tế của những người vượt biển ra đi, họ bị đổ lên đầu một đống những ngôn từ rổn rảng. Chị đi được một vài năm thì bố chị sống rất khổ. Ông cụ không có sổ lương thực nên thường phải vác rá đi vay gạo hàng xóm. Bố em là công nhân, được bao cấp nên hiếm khi nhà em thiếu gạo. Bố chị Thái mất một vài năm thì xoá bao cấp. Tính ra cụ còn nợ em ít ra là nửa năm cắt tóc không mất tiền. Nếu chị Thái còn thì bây giờ là thời thuận của chị. Cứ nhìn vào Loan là thấy điều ấy cả thôi.
Năm cuối cấp Loan đẹp rực rỡ. Những lần em đưa Loan đến chơi với ông giáo dạy nhạc Loan thường tỏ ra say mê tiếng đàn, ham thích nghiệp cầm ca. Loan được ông giúp đỡ thi vào trường Văn hoá - Nghệ thuật tỉnh. Loan có giọng hát tốt, liên tiếp doạt giải thưởng tại các cuộc thi hát ở trung ương. ánh hào quang đến với Loan càng nhiều thì em thấy mình càng bị đẩy ra xa khỏi cô ấy mặc dù lúc nào Loan cũng tranh thủ thời giản rảnh rỗi để đến với em. Loan đã từng đến thăm em ở ký túc xá, từng giặt cho cả phòng mấy đống quần áo to tướng. Loan bảo em gầy và xanh, có vẻ lo lắng cho em. Loan bây giờ đã trở nên nổi tiếng. Cô ấy có cả những chuyến đi biểu diễn ở nước ngoài. Em bỗng thấy mình chỉ là một tên thư sinh mặt trắng, chẳng đủ sức ôm trọn cái khối hào quang toả ra từ Loan. Loan là biểu tượng của sự thuận thời. Đôi mắt hình dấu hỏi của Loan chiếu vào mọi ngóc ngách của cuộc đời và nụ cười trên môi cô ấy là câu trả lời mãn nguyện. Khu phố em ở chẳng còn khung cửa sổ nào nữa. Chẳng còn chú bé nào dán mắt qua song sắt nhìn ra ngoài đường. Tiếng còi ôtô "bim, bim" chẳng còn lạc lõng giữa muôn ngàn âm thanh chói loà của thời đại điện tử. Huyện em đã trở thành một quận của thành phố. Dãy phố tềnh toàng với khoảng bốn chục nóc nhà xốc xệch ngày nào giờ đã trở thành một khu buôn bán sầm uất. Người đàn ông dậy nhạc cũng đã treo đàn đi theo mẹ em rồi. Chị Thái không còn thuộc về em nữa, còn Loan thì hư ảo, biến hiện, khiến em luôn cảm thấy mình không nắm giữ nổi. Trước ngày em lên đây Loan có chuyến biểu diễn ở trong Nam. Loan bảo em về căn hộ cô mua mà ở, sang năm cố học nốt rồi ra trường. Nhưng em không sống nổi nếu không viết. Mà viết thì không thể nằm trong cái căn hộ ấy. Em khoác ba lô lần lên đây sau khi đã mò xuống trại tìm anh.
- Đó không phải là cách tốt nhất, hắn bảo với chàng cuồng sĩ như thế, mà viết là cái gì mà phải vật vã, đau đớn, khốn khổ đến thế. Cuộc đời chú mày chả có cái móng tay gì là bi kịch cả, sao không học một lèo cho xong lại còn dở dói ra thêm một năm nữa làm gì?
- Anh biết không. Tâm "cận" kể, mấy năm đầu em ở trong ký túc, vào đúng phòng anh, nằm chính giường anh, dòng tên anh khắc vào cạnh giường vẫn còn nguyên. Chuyện về anh người ta vẫn kể truyền tai từ khoá này tới khoá khác. Em được nghe kỹ hơn qua miệng cô Xuân béo, chủ quán nước ở đầu hồi nhà B1. Rồi chuyện anh bị bắt vì tội chiếm đoạt tài sản của người khác rộ lên trên các trang báo. Tất cả các bài báo đều khai thác một khía cạnh: Tại sao từ một sinh viên hiền lành, chăm chỉ anh lại tuột dốc trở thành một tên cướp? Em cũng muốn làm sáng tỏ điều ấy. Tất nhiên lý giải theo cách của em. Em tìm xuống trại giam thì được biết anh đã trốn trại rồi. Hỏi lần mãi cũng biết anh đã bật lên trên này. Em đánh liều mò lên đây với hy vọng là được gặp anh, được sống cuộc sống của người đào vàng. Rồi em sẽ ra trường và trở thành một nhà báo. Hiện em đã là cộng tác viên ruột của một tờ báo khá ăn nên làm ra. Em cần vốn sống thực tế. Nhưng không phải tất cả chỉ phục vụ cho những bài báo. Cao cả và thiêng liêng hơn nữa kia, thơ anh ạ. Em tìm thấy mình trong miền lãng du với những cánh buồm thơ.

Quả thật Cuồng sĩ, hắn thích gọi Tâm như thế, đã rất liều khi tìm lên bãi vàng Lũng Sơn. Với những người như hắn, cái miền lãng du và những câu thơ ngô nghê từ miệng gã thư sinh kia chỉ là trò hề. Song Cuồng sĩ đã biết lánh vào đúng mái hiên thánh thiện, trong trẻo nhất trong tâm hồn hắn. Cuồng Sĩ luôn nhắc lại những kỷ niệm cũ, luôn nói về cái thời giấy bút là điều bận tâm lớn nhất đối với hắn. Cuồng Sĩ đưa vào cơ thể hắn một liều lượng vừa đủ, chất giảm đau hiện tại, chất kiềm chế những cuồng nộ, chất hạn chế những bản năng, để hắn thỉnh thoảng được hơm hớp bầu không khí trong sạch, được trở lại với thằng học trò nhà quê ngây thơ thủa nào. Điều này làm hắn vừa muốn tống khứ Cuồng Sĩ biến khỏi phạm vi hoạt động của hắn, nhưng lại cũng muốn giữ chàng ta ở lại bên mình để cân bằng cái trạng thái chênh chao thường trực của thực tại khắc nghiệt dù không phải không có những lần hắn phải bực mình. Cuồng sĩ có khả năng nốc rượu đến mức hắn phải ngạc nhiên. Nếu quen nhìn Cuồng Sĩ là một cậu thư sinh trói gà không chặt thì sẽ đánh giá không hết những gì cậu ta nghĩ và cậu ta làm. Cuồng sĩ có thể làm được nhiều việc, nhưng không phải một lúc, mà cứ từ từ, với sự bền bỉ của mình, bằng xong thì thôi. Cuồng sĩ cũng một mình một xẻng, cũng đội máng, ôm lưới ra suối đào đãi. Tất nhiên không phải với hy vọng đào được những cây, những chỉ, mà với cuồng sĩ, những hạt vàng cám nhỏ li ti có ý nghĩa gợi nhắc một thứ triết lý nhân sinh nào đó. Điều quý giá hơn cả đối với Cuồng Sĩ là những tờ giấy ôm ấp những dòng chữ được chắt ra từ tim óc của cậu. Hắn hiểu và trân trọng điều đó. Nhưng quả thật, những câu chữ Cuồng Sĩ viết ra không phải lúc nào hắn cũng hiểu được.
Người say muôn thủa ghé qua chơi
Nhựa níu, men chào, tóc lả lơi
Trau chuốt ân cần..., thôi uổng quá
Dợ phàm đâu buộc cánh chơi vơi
Cuộc đi, khói, rượu, thơ, tình, mộng
Ăm ắp đầy then, chẳng mượn đời
Hứng sẵn, neo thuyền ghi chút cảm
Buông về cao rộng mấy trùng khơi
Cuồng Sĩ viết nhiều về cái sự say. Hắn bảo với Cuồng sĩ rằng chú mày loẻo khoẻo thế, say sưa được bao nhiêu mà cứ làm trò. Cuồng Sĩ cười, đưa tay gãi gãi đầu trông rất lành. Cái sức yêu, sức say không phụ thuộc vào độ cường tráng của cơ thể anh ạ, cuồng sĩ bảo với hắn vậy.
Cạn đi!
Và lại cạn!
Say rồi, gắng thêm say!
Bao nhiêu mơ, mà đắng?
Bao nhiêu quế, mà cay?
Đắng cay trút xuống bàn tay
Nắm tay lần chót, thuyền quay mũi rồi .
Cuồng Sĩ lên với hắn được hơn hai tháng thì Lân sáu ngón bị xử bắn. Nghe tin hắn lạnh toát sống lưng, cảm thấy tử thần sắp tìm đến với cả hắn rồi. Lân sáu ngón là thằng bạn thân nhất của hắn hồi còn ở trại Thanh Dương. Hai bàn tay Lân mỗi bàn mọc thêm một đốt thịt thừa ở ngón tay cái, vì thế Lân có biệt danh sáu ngón. Chính Lân đã kỳ công kiếm về phòng giam lưỡi cưa lá lúa và đêm đêm ngồi thức cưa thanh cửa sổ. Lần nào đi ăn cơm về Lân cũng bớt lại mấy hạt muối để nhét vào chỗ cưa dở trên song sắt. Đến khi "công trình" của Lân gần xong Lân mới rủ hắn trốn. Chỉ cần lấy ức bàn tay đánh nhẹ một cái là song cửa gãy bật ra. Lân cùng hắn lập tức chui qua rồi tắt đồi ra đường cái tìm về quê Lân. Hắn nằm trong nhà Lân ba ngày để nghe ngóng tình hình xem như thế nào. Trong ba ngày ấy Lân đã tranh thủ vào cướp một tiệm vàng để lấy tiền mua một khẩu K54 và một quả lựu đạn mỏ vịt. Sau đó hai thằng tìm về bãi vàng Lũng Sơn này. Hội áng Sơn cắm mặt xuống đất để bọn Phù Lưu cai trị, được hắn như được hổ, chẳng mấy chốc lấy lại thanh thế. Lân liều lĩnh và hiếu sát hơn hắn. Lân đưa cho hắn khẩu K54 còn Lân đi đâu cũng kè kè theo quả mỏ vịt. Thằng nào thích toé hoa cà, hoa cải trước khi về chầu trời thì động vào tao. Lời tuyên bố của Lân khiến bọn Hùng quăn, Thành dê, Tùng chột, phải khiếp. Lần bọn Hùng quăn có thêm "viện binh" từ trại Thanh Hoá về tràn sang định lấy phần đất của hội áng Sơn, Lân đã cho nổ quả mỏ vịt ngay giữa ban ngày ban mặt, cả nghìn người nhìn thấy. Sau đận ấy Công an truy rát, hắn cùng Lân phải lẩn sâu vào núi, dạt sang cả Lào một thời gian. Cuối cùng bí quá, hai thằng đành chia tay nhau, mỗi đứa một đường, hẹn khi nào ổn thì gặp lại nhau. Hắn về bãi vàng, còn Lân cướp xe khách trên đường về quê, không thành, bị bắt. Hắn tìm cách gửi quà cáp vào thăm Lân, đọc báo theo dõi tình hình xét xử, đến khi nghe tin tử hình hắn vẫn không tin là Lân sẽ chết. Có mặt hoặc vắng mặt ngoài xã hội, thế thôi, với bọn hắn, việc đi trại là vắng mặt. Dẫu thế nào thì cũng sống nhưng sống trong cái không gian và thời gian hạn hẹp, chẳng được như người thường. Vì thế việc vào trại hay ra trại đối với bọn hắn cũng là chuyện lật sấp, lật ngửa bàn tay mà thôi. Nhưng đến khi hắn nhận được cái áo Pilot của Lân thì hắn hiểu là Lân dựa cột thật rồi. Sự ra đi của Lân lần này không phải là một cuộc vắng mặt thông thường mà là sự vắng mặt vĩnh viễn, sự đào thoát vào cõi hư vô theo con đường khủng khiếp mà tử tội phải đi qua. Đêm ấy hắn uống đến khuya. Hắn sợ. Bóng đêm quanh hắn như những họng súng lúc nào cũng muốn ngoáo cò. Cái sợ cứ bám riết lấy hắn. Hắn không muốn xem sổ sách, không muốn nghe bọn đàn em tính toán ngày qua thu được bao nhiêu cám vàng, không muốn nhìn một khuôn mặt nào, tất cả đối với hắn đều nhàm chán, vô nghĩa, không giúp được gì cho hắn trong việc khoả lấp nỗi sợ hãi. Vàng làm gì, tiền làm gì, cả thứ xác thịt điên rồ kia nữa, có nghĩa lý gì khi cứ phải chui lủi như con chó dại nơi rừng xanh núi đỏ này. Bất kỳ lúc nào cái còng số tám cũng có thể bập vào hai cổ tay hắn, và đòm một phát, thế là lại đi vào cõi nhung nhúc những quỷ sứ mà thằng Lân đã đi. Ngay cả Cuồng sĩ hắn cũng muốn túm cổ lẳng ra ngoài lán trại, cho lăn lông lốc xuống vách đồi lô nhô sỏi đá kia để những câu chữ âm u như đá núi nổ tung, vụn nát dưới ấy. Đúng lúc hắn lên cơn thần kinh như thế thì Cuồng sĩ lại đọc cho hắn nghe những câu rất dễ hiểu.
Hành trình của tử tội chẳng dài lắm đâu
Cây cột có hình thánh giá trước mặt
Hãy bước lên và nhìn lại
Nơi cái ác bị kết liễu
Là cái thiện hồi sinh
Những giọt máu rớt xuống chân cột
Đất sẽ lại nảy mầm.
Cuồng sĩ có vẻ nhìn thấu gan ruột hắn. Cuồng sĩ biết lúc này hắn đã trở thành một con hổ đói, mọi sự lởn vởn vô nghĩa trước mặt sẽ là chú cừu non đáng bị phanh xé. Cuồng sĩ chấp nhận trả giá khi phóng ra một câu hỏi như mũi lao có tẩm thuốc độc, cắm phập vào tim hắn:
- Anh đã bao giờ nghĩ đến chuyện đầu thú chưa?
- Mày có muốn tao nổ một phát đạn vào đầu mày không?
- Anh có thể sẽ đánh em một trận thừa sống thiếu chết nhưng anh sẽ không nỡ giết em vì em chỉ bàn về con đường sống của anh. Em biết rằng nói với anh điều gì lúc này cũng thừa, nhưng không nói điều gì còn tệ hại hơn. Em không phải là một thằng cuồng sĩ như anh tưởng, không ai có thể thản nhiên đi vào miền lãng du duy mỹ mà dửng dưng với cái ác, lẽ nào em lại đứng yên nhìn anh hoảng loạn trong cuộc chạy trốn chính bản thân mình. Theo em được biết thì không có một tội phạm nào, dù nguy hiểm đến đâu, lại bị xử bắn khi đã ra đầu thú.

- Nhưng tao đã chọn rồi, một là tự do, hai là tự sát.
- Nhưng anh đã không làm được hai việc ấy. Hiện tại anh đang tự giam mình trong cái hang này, tự đày ải mình ở bãi vàng này. Còn tự sát? Người ta có thể giết cả vạn người nhưng không giết nổi chính mình.
- Mày im đi. Ngày mai tao sẽ cho chúng nó dẫn mày xuống chân núi. Và tao cũng sẽ chọn một cái hang khác. Đó là việclàm tốt nhất của tao đối với mày lúc này. Tao tin là mày không hại tao nhưng tao vẫn cứ phải cảnh giác.
- Em tự đến rồi em sẽ tự đi. Em chỉ muốn được nói chuyện với cái con người hơn chục năm trước đây của anh, nhưng cái con người ấy rất ít trở lại trong anh. Nó đã bị cái con người hiện tại lấn ướt, chen lấn. Em không tin là anh đã trở lên là không thể thay đổi. Anh đang say đấy thôi, một cơn say dài, nhưng cơn say nào rồi cũng kết thúc, chỉ có điều khi kết thúc, thì cái gì sẽ đến?
- Mày bảo tao cũng say như mày sao? Cũng đi tìm miền lãng du với những trăng và gió như mày sao? Cũng lảm nhảm những câu kinh số phận, cũng muốn đến với những hiện thực khắc nghiệt bằng con mắt của kẻ thưởng lãm, cũng thích tấu lên những khúc bi ai bởi những rung động nghệ sĩ, cũng tự đầy đoạ mình bằng cách tưởng tượng ra những bi kịch, cũng... Mà thôi. Tao chợt nhớ đến thầy Quý. Tao đã không học hết những điều cần thọc nên không thể hiểu được chú mày. Nhưng cách tốt nhất là ngày mai chú mày vẫn phải xuống núi. Đừng ở cạnh người say như tao làm gì.

- Nhưng kết thúc cơn say sẽ là một cái sống tỉnh táo.
- Hoặc?
- Cái chết.
- Vậy thì cơn say của tao chưa kết thúc.
- Có hai thứ có thể giải say cho anh được.
- Thứ gì?
- Mẹ anh và chị Dịu.
(Còn tiếp)
04:11 CH 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chương 4


Hắn đang bước từng bước đến chỗ cây cột. Lạnh lẽo và ẩm ướt. Những vệt sáng loằng ngoằng trong đầu hắn. Vách đá mở mắt ra thao láo nhìn hắn. Thẳng đứng, lồi lõm, nứt toác vây bọc, dàn trận quanh hắn. Bỗng hắn nghe thấy tiếng thì thầm của đá. Đúng rồi, những câu thơ gẫy vụn như cám của Cuồng Sĩ bật ra từ vách đá.

Từ ổ lá mềm mại

Từ lồi lõm hang động

Từ thịt da nóng bỏng

Oà ập âm dương

Hoang dã

Mê cuồng

Hừng hực oải oằn nhịp lửa.

Ôi, Cuồng Sĩ ơi giờ này chú mày đang ở đâu? Buổi gặp mặt cuối cùng với chú mày cách nay đã ba tháng. Nhưng đơn xin ân xá đã bị bác rồi, chú mày biết chưa? Đừng ngạc nhiên hoang dại như thế. Đừng thả mắt bồ câu vào chảo lửa như thế. Kết cục sẽ phải thế này thôi. Nhớ bãi vàng Lũng Sơn quá. Lở loét và nhức nhối.

Bằng vết dao trên ngực

Bầu vú trắng ngần

Nhũ hồng chớm tuổi biết thương

Gió lược

Trăng thừng

Máu như sữa chát...

Mọi thứ hiện ra trước mắt chàng Cuồng Sĩ là thế. Đàn thấy nực cười dù trong số hàng ngàn người đang chen chúc ở bãi vàng này, hắn là người có khả năng nắm bắt những rung động nghệ thuật hơn ai hết. Buổi ấy bọn thằng Xế về báo rằng có một tên thư sinh mặt trắng mới xuất hiện, cứ lảng vảng quanh khu vực hang thượng, hỏi dò về hắn. Lúc đầu hắn không để ý, chỉ dặn dò đồng bọn cẩn thận hơn. Bọn hắn sợ nhất là bị công an đánh úp. Công an vẫn dùng cách đó để buông lưới lũ tiền án, tiền sự, trốn trại, truy nã trà trộn, vật vờ trong đám dân đào vàng. Đến tối thì Xế lôi xềnh xệch tên thư sinh mặt trắng về cho hắn. Mảnh như cây sậy, quần thô túi vuông, giầy da để răng cưa, khuôn mặt xanh rớt, lại choàng cặp kính cận sáng lóa, chàng nhà báo nửa mùa có vẻ không biết sợ, hoặc giả có một động cơ gì thôi thúc lắm, buộc phải tới gặp hắn lên cố mà tự tin dù biết sức thư sinh không chịu nổi một cái tát mạnh.

- Mày là thằng nào? Sao biết tao?

- Em là Tâm. Tâm "cận". Em học khoa báo chí năm cuối. Em được đọc rất nhiều bài báo về anh, biết anh trước học khoá 27, em muốn xin anh một chân đãi cát.

- Mày đang học cơ mà?

- Em nợ nhiều học trình quá nên phải xuống học với khoá sau. Thời gian này em được tự do muốn làm gì thì làm. Học đại học bây giờ khác trước nhiều rồi anh ạ. Quản lý bằng bài thi là chính, quản lý con người là phụ.

- Mẹ kiếp. Nhưng mà sức chú mày lẻo khoẻo thế kia thì làm được gì? Vài bữa lại ngã kềnh mẹ nó ra, run cầm cập, giật đùng đùng, ú ớ mê sảng, chả bỏ về sớm.

- Em chịu được. Mà em chỉ nhờ anh giúp em sống thôi chứ em không lên đây kiếm vàng. Em cần sống được để viết. Đến hạn thì em về trường thi.- Viết cái gì? Mày lại định lôi các bố mày lên mặt báo à? Mày liều nhỉ? Mày có biết đã vào đây là tắt đường về không? Thả mày về cho công an đến tóm chúng tao à? Mày có biết...

- Em biết. Anh đang bị truy nã vì trốn trại. Em không quan tâm đến việc ấy. Em chỉ cần anh chấp nhận em ở lại đây thôi. Rồi anh sẽ tin rằng em không làm điều gì hại đến các anh. Em chỉ đi tìm miền lãng du của em. Em cần không khí này, đất đai này, đồi núi này, con người này...

- Tao hiểu rồi. Một thằng cuồng sĩ của thế kỷ hai mươi. Bây giờ thì mày hãy đọc thơ đi. ở đây thơ khó gieo mầm đấy. Nhưng đã cấy đuợc xuống thì sẽ sống rất dai.

Tâm "cận" hớn hở, mặt tươi như vừa uống rượu tiết dê, không khách khí, đọc luôn:

Ôi, ba hồn bảy vía

Những chàng trai xứ Đông xứ Đoài

Con của sắn, của khoai Của sỏi ong, đá tảng

Của gạo dự, gạo tám

Của những giêng hai hội làng

Theo đường sông mà lội

Theo đường núi mà trèo

Trời thì mênh mông

Đất cũng mênh mông...

Đêm ấy và những đêm sau nữa Tâm cận ngủ cùng với hắn. Tâm luôn đem lại cho hắn sự bất ngờ. Suy nghĩ của Tâm khác lạ quá. Con người tưởng như rất yếu ớt về sinh lực của Tâm chứa rất nhiều những số phận, những ám ảnh, cả khát khao nghệ sĩ và sự cô đơn trần thế. Tâm là tấm gương soi rất nhiều những cảnh đời và từ đó bật ra những bóng chữ nhập nhèm nhưng linh thiêng, uẩn ức. Hắn không thể tưởng tượng nổi một thằng oắt con mới ngoài hai mươi tuổi như Tâm lại có những ý nghĩ kỳ cục, lạ lùng, đầy chiêm nghiệm về cuộc đời và số phận.

Quán trọ trần gian

Người đến và người đi

Những lời giải muộn mằn

Trên môi người khách trả phòng

Là câu hỏi bí ẩn

Dành cho người khách đến thay chỗ

Va ly mở ra

Thiện và ác

Cuộc đấu trường sinh...

Em được sinh ra vào những năm cuối cùng của thập kỷ bảy mươi, Tâm kể. Em đến trường vào một buổi sáng mùa thu nắng trong, gió nhẹ. ấn tượng sâu sắc nhất của buổi tựu trường là cảm giác choáng ngợp trước những điều to tát. "Các cháu sẽ là những công dân trưởng thành của thế kỷ 21, đến năm 2000 chắc chắn sẽ có những cháu ngồi đây được bay vào vũ trụ...". Bố đứng chờ em ngoài hành lang lớp học. Tan buổi, em trèo lên gác-ba-ga và bỗng nhìn thấy mẹ. Em đã quay đi và mẹ thì thẫn thờ đứng nhìn theo.

Trí óc non nớt của em bảo cho em biết mẹ là người không tốt. Mẹ đã bỏ bố vì bố nghèo, điều này sau đó đã trở nên khó lý giải vì mẹ lại về làm vợ một người đàn ông khác cũng nghèo như bố. Nhưng tại sao mẹ lại bỏ rơi em? Vì bố đã ngăn cản, không cho mẹ đến thăm em ư? Bố vắng nhà suốt ngày, em bị nhốt một mình, toàn ngồi sau song sắt cửa sổ nhìn ra ngoài đường. Những lúc như thế sao mẹ chẳng đến?

Em rất sợ tiếng còi ô tô và không thích mùa hè. Nhà em nằm trên một dãy phố nhỏ, một tụ điểm dân cư lạc lõng bám dọc theo con đường chạy vào cửa ô thành phố. Hai bên phố khoảng bốn chục nóc nhà, đa phần là mái ngói, một ít mái lá ghép lẫn với giấy dầu và rất ít, một,hai nóc thôi, mái bằng. Căn nhà em lợp ngói, tường nhiều màu loang lổ. Ngoài cùng là lớp ve màu xanh, chỗ nào lớp ve màu xanh bong ra thì thấy lộ rõ lớp ve màu vàng. Lớp ve màu vàng lại luôn bị lớp ve màu trắng đẩy bật ra khỏi tường. Và rồi lớp ve màu trắng cũng lại bị bong ra nốt, những chỗ ấy em đập tay vào, cát bay ra lả tả.

Nhà em có một cửa chính và hai cửa sổ. Các cánh cửa đều bằng gỗ và được sơn màu xanh. Bố chỉ mở một cửa sổ duy nhất để em trèo lên, thò hai chân qua song và dán mắt vào khoảng trống giữa các song sắt đó để giao lưu với thế giới bên ngoài. Đó cũng là chỗ duy nhất ánh sáng trở nên phóng túng đối với em đồng thời cũng là chỗ duy nhất khiến em không nổi da gà mỗi khi nghe tiếng còi ô tô. Ngôi nhà khá dài, thông thống một không gian thiếu sáng. Chỗ bố con em ngủ lúc nào cũng đùng đục một màu nước hến, những lúc em nằm ở đó một mình, bất ngờ tiếng " bim, bim" choá lên, em co rúm người lại vội chạy ra cửa sổ.

Tiếng còi ô tô đối với em thật kinh khủng, nó đi vào giấc ngủ, là nguồn cơn của mọi ác mộng và thường thì sau mỗi cơn ác mộng như thế bố lại ôm chặt em vào lòng, khẽ bảo "khổ thân con tôi, ban ngày chơi gì mà đêm ngủ cứ giật mình thon thót". Tiếng còi ô tô đặc biệt là cộng hưởng với mùa hè, tạo thành một lưới không gian ngột ngạt, mờ tối, ảm đạm, tĩnh lặng bao chùm lên em thứ phản ứng bất an thường trực. Bố thường về vào lúc mười một giờ trưa, vội vàng cơm nước cho em xong rồi cùng em lên giường đi ngủ. Khi em tỉnh giấc đã không thấy bố em đâu nữa. Rất có thể lúc ấy thứ tiếng "bim, bim" kia ập vào xé rách khoảng không mờ tối và em hốt hoảng nhận ra mình đang nằm một mình trên giường. Ngay lập tức xuất hiện cái cảm giác bủn rủn lan truyền khắp cơ thể và nó chỉ tan biến đi khi em bật dậy chạy ra chỗ cửa sổ, leo lên đó phóng tầm mắt ra ngoài đường, bám níu, nương tựa vào những bóng người thưa thớt, qua lạ trên hè phố.

Một hôm bố em về sớm hơn thường lệ. Bố thay cho em bộ quần áo mới nhất rồi đặt em lên sau xe. Bố đưa em đến một đám ma, không khí ở đó thật buồn bã ủ ê. Đám ma không đông lắm, bố dắt xe đi vào hàng cuối, lẫn với những người đưa đám. Có một vài ánh mắt nhận ra bố con em. Họ nhìn trộm, họ chỉ chỏ rồi hình như là họ chép miệng. Khi người chết đã được đắp cho một ngôi mộ vuông vức, phủ kín vòng hoa, chờ cho đoàn người đưa ma ra về hết, bố đưa em đến trước mộ và bảo: "Con quì xuống lạy mẹ đi". Trong khi em còn chưa hiểu gì thì bố lại lẩm bẩm: "Mẹ con số đoản mệnh, xẹt qua cõi đời này như một chớp sao, đủ để làm khổ hai người đàn ông rồi ra đi".

Sau này khi đã vào đại học, trong một lần tham gia trò chơi hái hoa dân chủ em bốc phải câu hỏi: "Bạn nghĩ gì về tình mẫu tử?" em đã không trả lời được, vì thực sự, thứ tình đó đối với em chưa từng hiện hữu trên cõi đời này. Ngay cả khi đứng trước ngôi mộ của mẹ, em cũng không hề thấy trong mình có một cảm giác gì đặc biệt, dù chỉ là một cái rùng mình thoáng qua.

Mẹ em bị bệnh tim. Bà chết sau khi em đến trường được vài tháng. Thường bố vẫn qua trường đón em vào buổi trưa, có một lần cô giáo đưa em về qua chỗ cơ quan bố, nhưng em không thích không khí ở chỗ đó. ở đấy có những người đàn ông tay đầy dầu mỡ, những cô công nhân khẩu trang đeo kín mặt, họ bí hiểm, đáng sợ sau trang phục màu xanh bảo hộ. Thấy em họ thường đùa tếu những câu em không hiểu nhưng họ lại cười toáng lên, ý vị và vui vẻ lắm. Thế nên em không nhờ cô giáo đưa về qua đó nữa, em kiên nhẫn đứngở cổng trường đợi bố.

Hôm ấy bỗng dưng có một người đàn ông đến đón em. Ông bảo em về chỗ mẹ chơi rồi ông sẽ đưa em về nhà với bố sau. Không hiểu sao em lại có cảm tình với khuôn mặt nhẹ nhõm và khuôn mặt hiền từ của người đàn ông ấy. Em trèo lên sau xe của ông và ông đưa em đến một ngôi nhà nhỏ nằm giữa một khu vườn rậm rạp, hoang vắng, ngay cạnh bờ sông. "Mẹ con kia, con có nhớ mẹ không?". Nghe ông nói thế và nhìn theo cánh tay ông chỉ vào bức ảnh trên bàn thờ em mới chợt nhớ ra rằng mẹ em đã chết và cách đây chưa lâu, chính bố đã đưa em đến đứng trước ngôi mộ được đắp vuông vắn, bên trên phủ đầy hoa. "Chả có gì để nhớ", em bảo vậy. Người đàn ông đó khẽ gượng cười rồi đưa em ra sau nhà. Ông ấy bứt cho em mấy quả doi màu hồng nhạt. Em nhớ là trong ngăn tủ của ông có rất nhiều bánh kẹo và những thứ hấp dẫn khác hoặc giả ông đã có cách dỗ trẻ khéo đến mức em đã nghĩ như thế. Trong khi em chưa biết là mình có thích hay không thì ông gỡ cây đàn ghi-ta xuống và bập bùng bài "Bé bé bông bông". Đã quá mười một giờ trưa. Ông vội vàng đưa trả em về nhà. Bố có vẻ không vui nhưng hai người nói với nhau điều gì đấy rồi ông bẹo má em chào ra về. Bố bảo em ăn cơm. Em đã ăn no ở nhà người đàn ông của mẹ rồi nên không thiết ăn nữa. Bố bảo: "Thế thì ngồi nhìn bố ăn". Rồi bố kể chuyện nhà cu Tám.

Cu Tám lên mười tuổi, nhà ở phía đối diện với nhà em, nhưng chéo về hướng ngã tư. Bố mẹ đi làm cả ngày nên cu Tám bị nhốt trong nhà như em. Cu Tám đã lớn nên được bố mẹ giao cho cầm chìa khoá cửa, chiếc chìa khoá ấy được treo lủng lẳng ở cổ, khi nào cần thiết mới đem ra mở. Hôm đó bỗng có một cô đến đưa cho cu Tám hai chiếc bánh mì kẹp thịt, bảo là mẹ cu Tám gửi cho. Khi cu Tám ăn xong cô nọ lai bảo cô làm cùng xí nghiệp với mẹ, cu Tám hãy đưa chìa khoá để cô mở cửa vào nhà ngồi nghỉ. Cu Tám đưa chìa khoá và khi người lạ mặt đó vào nhà rồi, liền trói cu Tám lại, nhét giẻ vào mồm, đút xuống gầm giường, lấy đi của nhà cu Tám một chiếc ti vi đem trắng, một cái đài và một bộ comple còn mới. Mãi đến trưa hôm ấy bố mẹ cu Tám mới đi làm về và cu Tám được cứu thoát khi đã lả đi vì ngạt...

Em ngồi nghe cứ thấy rờn rợn. Bố bảo: "Như thế là may, nếu chúng bắt đem đi bán cho mẹ mìn thì toi rồi".

Em hỏi: "Mẹ mìn mua trẻ con để làm gì?". Bố em bảo: "Mẹ mìn mua trẻ em để bán lại cho những người đi săn ở trên rừng. Những người thợ săn đó cho trẻ con vào những chiếc cũi bằng gỗ, rồi đặt chúng ở những khu rừng già. Hổ, báo, sư tử và nhiều con thú khác ngửi thấy mùi thịt người sẽ mò đến để ăn thịt. Những người thợ săn nấp ở gần đó và họ sẽ nạp đạn vào những con thú rừng ấy".

Câu chuyện của bố hướng tới một mục đích, là doạ em không được tự tiện đi với người lạ, tất nhiên với cả người đàn ông ở căn nhà bên bờ sông hoang vắng kia. Nhưng mọi cố gắng của bố đều vô ích.Sau này càng lớn lên em càng năng đến chỗ ông. Rảnh rỗi lúc nào là em tới với ông lúc ấy. Ngôi nhà của ông đối với em thật kỳ thú.

Trước ngày vào đại học em đưa Loan đến để chào ông. Ông bảo: "Mẹ con ở với ta thì thuận người nhưng nghịch đời, ở với bố con thì thuận đời nhưng nghịch người, nhưng dù thế nào thì cũng không tốt cho bà ấy". Ông là giáo viên của trường Văn hoá - Nghệ thuật tỉnh. Mẹ em là hạt nhân văn nghệ của cơ quan bố. Họ biết nhau qua những lần hội diễn văn nghệ quần chúng. Chất công nhân thuần tuý của bố không đủ phóng túng, rộng rãi để chứa những khát vọng lạc lõng của mẹ. Bố em mất mẹ vì không có khả năng giữ cho mình những thứ hư ảo. Ông giáo viên nhạc kia mất mẹ vì bệnh tim quái ác. Mẹ em ra đi là sự mất mát cho cả hai người nhưng đã kịp để lại em, một nốt nhạc trầm buồn rơi rớt vào cuộc đời.Loan của em có đôi mắt giống chị Thái. Thực ra ngay cả khi vào cấp ba rồi, em vẫn là một cậu bé sống rất trầm. Thế mà em lại nằm trong số rất ít những học sinh cuối cấp có người yêu. Thứ tình yêu học trò, dấm dúi, vụng trộm hay bị người lớn phủ nhận ấy đến với em như một tiền định, sâu sắc và dấu vết chứ không bồng bột, thoảng qua như người ta vẫn thường bảo. Loan là một trong những cô gái nằm trong đám bạn bè ít ỏi của em. Buổi sáng thứ năm hôm ấy chúng em sẽ đi học thêm như thường lệ. Nhưng bố đi làm lâu rồi mà em vẫn không sao ra khỏi giường. Cơn sốt quái ác đã đánh qụi em từ đêm hôm trước, sáng hôm sau em vẫn mê man, thân nhiệt không giảm. Trong một lần tỉnh lại em thấy trán mình mát lạnh. Thì ra đó là bàn tay của Loan. Học xong tiết đầu tiên, Loan đã bỏ lớp học thêm để về tìm em. Chưa bao giờ em thấy cần có người bên cạnh như lúc ấy. Bố cứ đi biền biệt suốt ngày, mà nếu bố có ở nhà thì vào những lúc như thế bố cũng chỉ biết nấu cho em bát cháo và ép em uống thuốc. Hôm ấy Loan cũng nấu cháo và cho em uống thuốc nhưng em tiếp nhận dễ dàng hơn, lại rất phấn chấn và cảm thấy cơn sốt như đã bị đẩy lui ngay sau khi viên thuốc đầu tiên được nuốt vào trong bụng. Em háo hức nằm nghe Loan kể chuyện ở lớp. Loan nói, Loan cười, hàm răng trắng bóng, đôi môi đỏ cong cong, đôi mắt như dấu hỏi, tất cả thân thuộc, gần gũi và máu thịt đến nỗi em không giám nghĩ khác đi rằng, một lúc nào đó, vào một cơn ốm khác, Loan lại không có ở bên cạnh. ảo giác không giúp em tỉnh táo được lâu hơn. Cơn sốt quay trở lại và kéo em trôi tuột vào vong xoáy hun hút của ác mộng. Em thấy mình bị nhét vào một cỗ máy có hình bánh răng, vô cùng ngột ngạt và khó chịu. Tim em bị nén chặt, cơ thể bị phân ra nhiều mảnh, mỗi mảnh dội lên những cảm giác khác nhau, kỳ quái. Bố đứng bên cạnh em và chăm chú nhìn theo vòng quay của chiếc bánh răng. Em gào xin bố hãy dừng vòng quay của bánh răng lại nhưng bố cứ mặc em quay cuồng trong ấy. Khuôn mặt bố lúc ấy được che đậy trong dáng vẻ cần mẫn nhưng em lại thấy toát lên sự gian ác, vô cảm, lạnh lùng. Nhưng rồi mẹ đã xuất hiện. Mẹ rút phụt công tắc điện ra khỏi bảng điện. Mẹ ôm chầm lấy em. Mẹ hôn lên trán em. Mẹ nói điều gì đó nhưng em không nghe rõ. Hàm răng mẹ trắng bóng. Đôi môi mẹ đỏ tươi, cong cong. Đôi mắt mẹ hình dấu hỏi, đem láy, ngộ nghĩnh, đầy cá tính. Em ôm chặt lấy mẹ mà vẫn cảm thấy chưa hết sợ. Người mẹ mát lạnh, gây cho em cảm giác thích thú vô cùng. Em mở bừng mắt ra, và trời ơi, người mẹ mà em ôm chặt lại là Loan. Loan nhìn em đầy thương xót. Hình như em đã gọi mẹ nhiều lần trong cơn mê. Một vài rọt nước mắt từ Loan rớt xuống người em. Em chưa từng lưu giữ hình ảnh nào về mẹ, vì thế lần đầu tiên em mơ thấy mẹ lại là một người mẹ hiện hình qua dáng vẻ của Loan. Mặc dù đã tỉnh lại nhưng trước Loan, em vẫn là một cậu bé yếu đuối, them khát sự chở che. Em không muốn Loan bỏ em nằm lại một mình, em có thể gọi Loan bằng mẹ cũng được, bằng chị cũng được nhưng Loan đừng bỏ em đi vào lúc ấy. Và Loan đã không bỏ em. Chiều hôm sau em lại đi học, em ngượng ngùng khi gặp lại Loan nhưng em hiểu là em không thể thiếu Loan được. Chỉ có điều đôi mắt của Loan rất giống một người, đó là chị Thái.

(Còn tiếp)
04:08 CH 18/08/2016
Tiếng thở thời gian
Chẳng mấy chốc chúng tôi bước vào kỳ ôn thi cuối cấp. Hôm đó bộ ba chúng tôi ra sân chơi bóng ma. Sân trường vẫn còn xâm xấp nước vì trời vừa đổ một cơn mưa rào. Hoa phượng đã bắt đầu nở. Cuối buổi chiều nên học sinh đã ra về hết. Bỗng chúng tôi nhìn thấy một cô bạn cùng khóa đang dắt xe đạp ra phía cổng. Cô bạn mặc áo dài trắng, phía trước giỏ xe có một cành phượng vừa bẻ. Tôi bảo với Hoàng và Dương: “Kìa, hãy chơi bóng ma với cô bé kia đi!”. Thế là chúng tôi đá bóng về phía cô bạn nữ sinh cùng trường. Ba đứa chúng tôi dùng bóng đan thành một vòng tròn nhốt chặt cô bạn ở phía trong. Cô bé sợ hãi, cứ co rúm người lại bên chiếc xe đạp. Nhiều lần bóng tạt qua người cô gái, khiến cô giật mình, hoảng hốt. Chúng tôi cười vang thích thú. Chiếc áo dài trắng đã lấm tấm bẩn. Và quả bóng lại tiếp tục lao về phía cô bé. Lần này thì quả bóng chạm đúng bánh trước của chiếc xe đạp. Cành phượng bị hất tung lên. Cô bé vội đưa tay ra giữ lấy cành phượng và thế là chiếc xe đổ kềnh ra sân trường. Cô bé vừa muốn giữ hoa lại vừa muốn giữ xe, vì thế trở nên luống cuống và bị xe kéo ngã xoài xuống đất.
Chúng tôi đã nhận ra giới hạn của trò đùa. Tôi định chạy lại phía cô gái để nâng cô ta dậy nhưng cô Huệ Huệ đã lại xuất hiện rất kịp thời. Cô nhặt cặp sách, dựng xe cho học sinh nữ kia lên rồi nói điều gì đó nhưng cô bé lắc đầu không nghe. Cô khóc rấm rứt rồi tất tả dắt xe ra cổng trường, leo lên đạp thật nhanh. Cô Huệ Huệ bước về phía chúng tôi. Cô bảo ba đứa chúng tôi đứng xếp hàng ngang trước mặt cô. Và cô vung tay lên tát liên tiếp vào những bộ mặt học trò lấm lem đất cát của chúng tôi. Tôi chưa kịp cảm nhận được cái đau từ sự giận dữ của cô thì cô bỗng ôm mặt khóc nấc lên. “Sao các con ác thế? Một cô gái trong tà áo trắng đẹp như thế, những bông hoa phượng đầu mùa đẹp như thế, mà sao các con nỡ nã bóng vào đó? Phỉ báng cái đẹp thì làm người làm gì? Các con có thể không làm ông này, bà nọ, có thể không thành đạt, có thể chỉ là những người bình thường nhưng các con nhất thiết không được tàn nhẫn với cái đẹp. Làm nhà giáo cô chỉ mong điều ấy thôi. Các con làm cô thất vọng quá!”. Tôi cứ nghĩ cô sẽ bắt chúng tôi làm bản kiểm điểm hoặc nặng hơn thì sẽ mời phụ huynh đến gặp. Nhưng cô đã bỏ qua cho chúng tôi chuyện ấy. Hôm sau cô có gặp riêng tôi và bảo: “Hôm qua cô tát các con có đau không? Đừng giận cô nhé. Con nên thay mặt cho cả nhóm đến gặp bạn gái đó xin lỗi, đừng để cô giáo chủ nhiệm bên ấy đưa vấn đề ra Ban giám hiệu sẽ không hay”. Tôi thầm cảm ơn cô và làm đúng như lời cô dặn. Cô bé đó có tên là Phượng. Thảo nào cô ta nâng niu cành phượng thế! Tôi đã làm cho cô ta quên đi trò nghịch ngợm của chúng tôi. Và khi vào cấp ba, cô bé đó còn là bạn thân của tôi nữa.
Vào cấp ba, hầu như chúng tôi không còn có dịp gặp lại cô giáo Huệ Huệ. Đã có lúc chúng tôi quên cô. Vào đại học tôi học chuyên ngành khảo cổ. Thằng Hoàng học mỹ thuật ở Nga, còn thằng Dương học quản trị kinh doanh ở Úc. Một hôm thằng Dương e-mal cho tôi, nói rằng: “Vô tình được đọc một cuốn sách của cô Huệ Huệ do một người bạn cùng trường mang từ Việt Nam sang”. Rồi nó bảo tôi nên quay lại trường cũ thăm cô giáo Huệ Huệ.
Nghe lời nó tôi tìm đến cô Huệ Huệ. Cô rất mừng mặc dù phải sau một lúc lâu mới nhận ra tôi. Cô gọi tôi là “em” nhưng tôi vẫn xưng “con” với cô một cách lễ phép như thời còn đi học. Tôi thưa với cô rằng cả ba chúng tôi đều chưa có người yêu vì tất cả còn mải học tập. Cô cười khi nghe tôi nhắc lại chuyện thằng Dương và thằng Hoàng đã từng thể hiện “tình yêu” với em Lan như thế nào. Đúng là trẻ con quá! Cô vẫn chưa có chồng. Cô vẫn yêu thơ và lại đọc cho tôi nghe bài Chiếc lá đầu tiên. Từ ấy thỉnh thoảng tôi ghé qua chơi với cô. Tôi và cô nói chuyện với nhau có nhiều điểm tương đồng. Có lần tôi đưa cả Phượng đến chơi. Chúng tôi vẫn là những người bạn tốt của nhau. Một lần tôi hỏi cô về bác sĩ Toàn. Cô bảo: “Người ấy bỏ cô vào cái ngày trời đổ mưa rào và cây phượng sau trường bắt đầu nở những bông đầu tiên. Cô đau khổ quá, chạy ra ngoài nhưng chẳng biết đi đâu, đang lang thang trên sân trường thì nhìn thấy các em đá bóng tới tấp vào người một bạn nữ sinh cùng khóa. Hôm ấy tôi đã tát các em. Đó là cái tát vào những bộ mặt đàn ông đẹp đẽ mà không bao giờ chịu thuộc về cô. Có lẽ đó là những cái tát chất chứa tất cả sức mạnh của cô. Tối hôm ấy về cô thấy đau dại cả cánh tay. Hôm sau nhìn các em cô thấy mình có lỗi. Cũng may là các em còn trẻ quá, chẳng nhận thấy điều gì đằng sau cái tát của cô”.

Cô đã bước sang tuổi bốn mươi ba rồi. Cuối cùng thì ông trời cũng đã đền bù cho cô. Một người đàn ông là tiến sĩ về văn hóa dân gian đã đến xin hỏi cưới cô. Cô thông báo cho tôi là có thể cuối năm cô sẽ lên xe hoa. Tôi mừng cho cô nhưng cuối năm trôi qua vẫn không thấy cô gửi thiếp mời. Nhân tiện có thằng Hoàng về nước, tôi rủ nó đến chỗ cô. Hàng xóm bảo cô đi an dưỡng. Chúng tôi vào viện điều dưỡng thăm cô. Cô nằm buồn bã. Thấy chúng tôi, cô bật khóc. Cô bảo: “Các em đẹp quá. Đàn ông đẹp quá. Thế mà chẳng có ai thuộc về cô cả. Đám cưới của cô hủy bỏ rồi...”

Chúng tôi ngồi lặng đi, chẳng biết phải nói với cô thế nào? Tự nhiên nước mắt tôi cũng chảy ra. Nếu cô có thể tát vào măt chúng tôi, những khuôn mặt bảnh bao đẹp đẽ của giới mày râu mà tan đi hết được ưu phiền thì chúng tôi sẵn sàng để cô tát hàng trăm cái cũng được. Nhưng cô không tát. Cô chỉ thở dài buồn bã và đọc thơ cho chúng tôi nghe.
Em biết không tất cả đã xa rồi, trong tiếng thở của thời gian rất khẽ
Hết.
06:03 CH 15/08/2016
Thanh tẩy
Phần II

Công việc của một thủ đền như chị Yến bận rộn nhất là vào dịp tết âm lịch. Không phải vì năm cùng tháng tận, mà vì mùng một Tết là ngày lễ chính thờ Thần Đá Rơi.
Mấy năm trở lại đây, dân trong vùng biết trại giam Thanh Tẩy khôi phục ngôi đền thiêng nên Tết nào cũng có các đoàn xin vào dâng lễ cúng thần. Để chuẩn bị cho ngày lễ chính đó, ban giám thị thường cho người ra cùng với chị Yến sang sửa lại nội thất ngoại viên của khu đền. Các phạm nhân của khu D, những tiểu yêu của trại Thanh Tẩy, thường được điều ra đây để giúp chị Yến làm những việc vặt này. Năm ngoái là một thằng bé mười bảy tuổi, tên là Tiến, phạm tội giết người. Nó giúp chị Yến quét vôi lại toàn bộ ngôi đền và sơn các pho tượng đặt nơi điện thờ chính. Nó làm công việc ấy hết năm ngày. Cứ hàng sáng nó được một quản giáo dẫn theo cùng đoàn người từ phân trại A đi làm qua đây. Tới cổng đền, người quản giáo dắt nó lên giao cho chị Yến. Chiều tối, lại vẫn người quản giáo ấy dẫn nó cùng đoàn người làm đá về nhập trại. Vì nó không được ngủ lại qua đêm nên mấy ngày đó chị Yến chỉ có thể bù đắp khẩu phần ăn cho thằng Tiến vào bữa trưa. Có cái gì ngon nhất chị đều dành cho nó. Đền chỉ có nhiều bánh trái, gặp may thì có thêm xôi oản, thịt gà, trứng luộc, giò lụa. Tiến ăn khỏe, được mấy bữa no nê, thích lắm, hôm cuối cùng nó bảo: “Lần sau có việc gì cô cứ bảo các chú ấy cho cháu ra đây làm cô nhé”. Chị Yến mỉm cười bảo: “Cô có quyền gì mà đề xuất hả cháu. Hãy cứ biết mưa lúc nào mát mặt lúc ấy thôi cháu ạ”. Tiến là trai phố, đang học lớp chín thì phạm tội, là vị thành niên nên án tử thì thoát, án giam vẫn bị buộc. Chị Yến hỏi nó: “Cháu giết ai?” Nó vừa vung tay phết sơn vào mặt tượng Thần Đá Rơi, vừa đáp: “Cái bà già ở bên cạnh nhà cháu”.
- Sao lại giết?
- Cháu chơi net. Lần đó bọn cháu chơi nửa tháng không về nhà. Mấy đứa bạn cháu đã lần lượt đi cứu net rồi. Hôm ấy đến lượt cháu. Cháu chả biết đi đâu, liền về nhà, nhảy lan can qua hàng xóm, định bắt con chim cảnh mang đi bán. Nhà ấy đi vắng cả, còn mỗi bà cụ già. Cháu đang gỡ lồng chim xuống thì bà cụ mở cửa xộc ra sân thượng, cầm gậy vụt cháu túi bụi. Cháu giật được cái gậy đó và vụt lại mấy nhát vào đầu bà cụ. Thấy bà cụ ngã, cháu vội cầm lồng chim bỏ chạy. Con chim đó cháu bán được hơn một triệu, chơi được đến ngày hôm sau thì cháu bị bắt.

- Bà cụ chết ngay à?
- Vâng. Mẹ cháu bảo, hồi cháu còn bé, bà ấy vẫn thường bế cháu đấy.

Chị Yến chép miệng:
- Oan nghiệt. Mà net là cái gì mà cô thấy bao nhiêu đứa vào đây chỉ vì cái thứ ấy thế?
- Là trò chơi điện tử ấy mà cô.
- Chơi một lúc rồi thôi chứ chơi gì mà suốt ngày suốt đêm thế?
- Bọn cháu thường đánh qua đêm. Buồn ngủ quá thì lấy vỏ bao vina gài vào bàn phím giữ nguyên bài đang chơi dở, chợp mắt tí, tỉnh dậy lại đánh tiếp. Chơi chán thì vào nhà nghỉ ăn uống, ca hát, lên giường vui vẻ với nhau.
- Lên giường?
- Thì… chúng cháu lớn rồi mà cô. Cháu trông thế thôi mà biết ngủ với gái từ khi mười lăm tuổi đấy cô ạ. Cháu dậy thì sớm mà.

Chị Yến hơi đỏ mặt trước vẻ hồn nhiên của Tiến. Chị lại hỏi:
- Nhóm bạn cháu có đông không?
- Gần chục đứa cô ạ, cả trai lẫn gái, toàn quen nhau qua mạng thôi.
- Con gái cũng bỏ nhà đi qua đêm thế à?
- Vâng.
- Nhưng mà cứ đi thế thì tiền ở đâu ra?

Tiến bỏ chổi quét sơn xuống, đứng dậy vươn vai:
- Xong rồi cô ạ. Cái ông Thần này chả đẹp gì cả, trông cứ như thằng lính chì trong trò chơi Hầm mộ cổ ấy, cô nhỉ!
- Phỉ phui cái mồm cháu!
- Chị Yến vội khua tay trước miệng thằng Tiến - Cháu ăn nói thế không sợ Thần Thánh về vật cổ chết tươi à. Thôi, cháu nghỉ một tí rồi sơn tiếp hai vị Nam Tào, Bắc Đẩu kia đi.

Đấy là chuyện của năm ngoái. Hai tháng trước chị Yến bất ngờ gặp lại Tiến trong đoàn người đi làm đá qua cửa đền. Thì ra Tiến đã bước qua tuổi mười tám, không còn là “tiểu yêu” nữa, được chuyển sang phân trại B và hàng ngày phải đi lao động. Thỉnh thoảng những nhóm phạm vẫn dừng lại nghỉ chân bên khuôn viên khu đền. Có rất nhiều nhóm phạm khác nhau. Nhóm làm đá, nhóm làm vôi, nhóm làm lúa, nhóm làm gạch, nhóm xây dựng, nhóm chặt mía, nhóm làm đường, nhóm chăn nuôi... Họ tranh thủ uống ngụm nước, hút điếu thuốc hoặc hưởng chút lộc hoa quả của nhà đền. Chị Yến thường để dành lộc cho họ. Cũng có khi họ đi làm xa về, kiếm được chút thức ngon quả lạ đầu mùa, đưa nhờ chị đặt lên bàn thờ cúng Thần Đá Rơi. Chị hay có ý chờ nhóm của Tiến đi qua thì lại chạy xuống dúi vào tay nó mấy cái bắp ngô, vài dóng mía, miếng dưa hấu hay túi cam. Nó cười toe toét, có lần còn bảo: “Đôi mắt cô buồn buồn, khi cười cũng vẫn buồn, giống con bé người yêu cháu”.

Sang năm nay chị Yến lại báo cáo lên ban giám thị những “hạng mục” cần phải tu bổ để xin người ra giúp. Lần này là một thằng bé mười lăm tuổi, người Mường, tên Rú, cũng án giết người. Rú nói ít, bảo gì làm nấy, hễ mở miệng là văng tục. Chị Yến giao cho nó quét vôi toàn bộ hàng lan can dọc theo các bậc đá dẫn lên điện thờ chính. Nó quét được một lúc thì hét lên: “Á à, đ. mẹ mày, dám cắn ông à”. Chị vội chạy xuống thì thấy Rú đang lấy chân di mấy con kiến lửa ngay dưới chỗ nó đứng. Chị bảo: “Ở nơi đền miếu linh thiêng, cháu không được chửi bậy”. Nó cúi đầu: “Nhưng đau chịu được”. Chị lại bảo: “Cô nói lần nữa, cháu không được nói bậy ở đây nghe chưa?”. Nó im lặng. Chị Yến vừa quay đi thì nó lại lẩm bẩm: “Bố mày đút c... vào, về trại còn sướng hơn”.
Chị Yến đã định đề nghị với người của ban giám thị cho đổi thằng tiểu yêu khác nhưng rồi chị nhận ra Rú không biết chữ. Nó giết người hết sức bản năng. Nó cùng với một thằng bạn bằng tuổi, sống cùng làng, đi vào núi chơi. Chỉ vì hai đứa cùng nhìn thấy một con quay của ai đó vứt lăn lóc bên đám cỏ khô nên đã cùng lao đến tranh giành con quay. Rồi chửi nhau. Rồi lao vào đánh nhau. Rú khỏe hơn, đè được lên người thằng kia, hai tay cứ thế bóp cổ bạn cho đến khi buông tay ra thì bạn đã tắt thở. Rú chạy về làng, bảo với mẹ thằng kia rằng: “Nó đánh nhau với cháu. Cháu bóp cổ nó. Nó cứ nằm mãi không chịu dậy. Cháu bỏ nó lại trên núi cháu về đấy. Cô lên mà vác nó về”. Khi làm việc ấy Rú đã bước qua tuổi mười bốn, và theo luật định, nó vẫn phải vào đây chịu án nhưng tận trong sâu thẳm tâm hồn hoang dã, nó vẫn không hiểu nó có tội gì. Nó làm chết bạn, nhưng biết đâu nó đánh không lại, bạn làm nó chết thì sao? Ở quê nó trẻ con đánh nhau là chuyện bình thường. Đánh không lại thì phải chịu, sao lại bảo nó là tước đoạt quyền sống của người khác, là phạm tội giết người với động cơ côn đồ, là cần phải cách ly khỏi xã hội?
Càng tìm hiểu về Rú, chị Yến càng thấy thương nó. Pháp luật là sản phẩm của một xã hội văn minh, thằng bé này chưa thoát khỏi cuộc sống mông muội, liệu sự trừng phạt của pháp luật có giúp nó trở thành một công dân tốt hay không? Chị hỏi nó: “Tại sao cháu không đi học?” Nó bảo cả làng nó chả có ai đi học. Bố mẹ nó cũng không biết chữ. Chị lại hỏi: “Vậy tất cả các loại giấy tờ tố tụng mà cháu phải ký nhận thì cháu làm thế nào?” Nó chìa ngón tay trỏ ra, đáp tỉnh bơ: “Cháu chỉ cần ấn ngón tay này vào giấy là xong”.
Khi sơn đến bức tượng Thần Đá Rơi, Rú cười ré lên, rồi bảo: “Cái tượng này buồn cười nhỉ, trông như khỉ”. Chị Yến tái mặt: “Cháu không được hỗn thế, đó là một vị thần rất linh thiêng đấy”. Nó quay sang hỏi chị: “Đây là đàn ông hay đàn bà?” Chị Yến bảo: “Đó là đàn ông”. Nó lại cười ré lên: “Thế sao không có chim?” Chị Yến lắc đầu, bảo: “Cháu hư quá. Cháu không được báng bổ tượng Thần như thế”. Thằng Rú im lặng một lúc rồi lại hỏi: “Ông ấy là cái gì mà phải thờ, phải quỳ lạy khấn vái rồi đặt trước mặt ông ấy nhiều thứ thế? Mà ông ấy có ăn được đâu, bọn cháu muốn ăn thì chả cho”. Đến nước này thì chị Yến không chịu nổi nữa. Chị bảo thằng Rú ra ngoài đánh vecni mấy tấm phù điêu bằng gỗ, còn bức tượng Thần Đá Rơi để chị tự tay sơn phết, tô điểm lại.
Đêm đó chị nằm mơ thấy người yêu cũ của mình hiện về. Trong giấc mơ anh thường mang khuôn mặt của Thần Đá Rơi. Anh cứ ngồi ngoài sân nhìn vào trong điện thờ. Chị từ trong điện đi ra thì anh lại đi xuống các bậc đá. Chị chạy theo thì bóng anh đã chập chờn ẩn hiện về phía hồ Thanh Tẩy. Chị choàng tỉnh dậy, hốt hoảng chạy lên gian chính điện. Bức tượng Thần Đá Rơi bị một vết bẩn quệt ngang mặt. Rõ ràng hôm qua chị vừa sơn phết lại rất đẹp. Chả lẽ thằng Rú trước khi về đã lấy tấm giẻ nhúng vecni quệt lên mặt tượng?
Cả ngày hôm sau chị bồn chồn, nôn nóng, khắc khoải một điều gì đó sẽ xảy ra. Khoảng bốn giờ chiều thì có tin đưa đến. Một phạm nhân của phân trại B chết đuối ở hồ Thanh Tẩy. Chị vội vàng đến nơi khâm liệm. Chị không tin vào mắt mình nữa. Người chết đuối chính là thằng Tiến. Chết đuối mà không một hạt nước trong phổi. Giám định pháp y kết luận là chết ngạt. Nhóm phạm làm đá về đến đây thì dừng lại nghỉ ngơi, rửa ráy. Tiến tranh thủ tụt hết quần áo, nhảy ùm xuống lặn một hơi cho mát. Nhưng rồi Tiến đã không nổi lên. Khi các bạn tù tìm ra Tiến thì chỉ còn là một cái xác cứng đơ trong tư thế ngồi dưới mặt nước. Đây là kiểu chết mà những người tự tử thường chọn. Nhưng với tính cách của Tiến thì việc tự tìm đến cái chết là không thể. Vậy thì chỉ có thể lý giải đó là kiểu chết của trời đánh thánh vật. Đúng rồi. Tiến đã từng phỉ báng Thần Đá Rơi. Chị Yến là người hiểu hơn ai hết cái sự linh nghiệm khủng khiếp này. Nhìn Tiến nằm im phắc trên bệ đá để lau rửa sau khi khám nghiệm tử thi, chị Yến bỗng òa lên khóc nức nở. Cơ thể Tiến căng tràn, rắn chắc, dài rộng, đẹp đẽ thế này mà chỉ còn là một cái xác vô hồn thôi sao? Tiến đang ở cái tuổi phát triển đầy đủ nhất về thể lực. Khuôn mặt nam tính, ngực nở, bụng thon, cặp đùi dài chắc nịch, dáng dấp ấy, khí lực ấy, độ thanh xuân tươi trẻ ấy, chưa dùng được vào việc gì, chưa trả lãi gì cho đời, đã vĩnh viễn bị đòi đi như thế này sao?
Đêm ấy chị Yến cúng khấn cho Tiến đến khuya. Sáng sớm hôm sau chị chuẩn bị sẵn một cái bảng gỗ và mấy viên phấn. Khi Rú đến, chị Yến bảo: “Mỗi ngày cô sẽ dạy cháu một tiếng đồng hồ. Cháu phải cố biết lấy cái chữ cháu ạ. Khi nào cháu viết được tên cháu, cháu đọc được văn bia đặt dưới gốc cây đại kia thì cháu sẽ không dám phỉ báng tượng thần ở ngôi đền này. Khi ấy cháu sẽ biết làm người, sẽ tránh được tai họa như phạm nhân của phân trại B hôm qua”.
Chị Yến cứ tưởng sẽ phải thuyết phục thằng Rú rất nhiều nó mới chịu nhận làm học trò của chị, không ngờ nó lại tỏ ra thích thú. Thời hạn sửa chữa đền Thần Đá Rơi đã sắp hết. Chị Yến phải nghĩ ra thêm nhiều hạng mục nữa để xin ban giám thị cho thằng Rú tiếp tục ra giúp thủ đền. Cái ngày thằng Rú sung sướng nhất là ngày nó viết được tên mình. Nó sung sướng đến nỗi, khi hết giờ học rồi, trong giờ làm việc mà nó cứ lấy sơn, lấy vôi, lấy vecni viết những chữ cái R-Ú lên bất kỳ chỗ nào có thể viết được. Chị Yến cũng thấy trong lòng rất vui. Chị dự tính trong đầu những ngày tiếp theo sẽ dạy nó tập đánh vần để đọc hết được những dòng văn bia dưới gốc đại già kia. Nhưng vào đúng ngày cúng ông Công ông Táo thì người của ban giám thị ra đền gặp chị. Lần này họ đưa ra một người phụ nữ khác để thay thế chị làm thủ đền. Chị Yến có ba mươi phút để dọn đồ đạc rồi theo người của ban giám thị về khu C, vốn là phân trại quản lý cũ của chị.
Trong lúc chị cuống cuồng làm theo lệnh của ban giám thị thì thằng Rú cứ loay hoay không biết xử trí thế nào. Nó không muốn rời chị, không muốn bỏ dở chừng sự nghiệp học hành rất tiến bộ của nó. Bỗng người của Ban giám thị nhìn thấy tấm bảng dạy chữ của chị Yến, rồi lại nhìn thấy những chữ cái R-Ú rải rác, nhòe bẩn khắp khuôn viên khu đền. Chị Yến vội bảo thằng Rú xóa hết những chữ đó đi, trả lại sự sạch sẽ cho ngôi đền linh thiêng. Nhưng người của ban giám thị bảo: “Thôi, kệ nó, chị theo tôi về làm thủ tục, muộn rồi”.
Chị Yến bỗng run run cất giọng hỏi:
- Thưa cán bộ, cán bộ có thể cho em biết về phân trại để làm thủ tục gì không ạ?
Người của ban giám thị bảo:

- Về làm thủ tục ra trại. Chị có tên trong danh sách đặc xá tha tù trước thời hạn đợt này.

“Dạ...”

Chị Yến như muốn khuỵu xuống. Chị bỗng vứt gói đồ trên tay, lao đến ôm chặt lấy thằng Rú. Chị hôn chùn chụt vào mặt nó. Rồi chị khóc nức nở: “Rú ơi, hơn hai mươi năm ở đây, giờ cô mới làm được một điều mà cô mơ ước suốt đời mình, cô đã có học trò đầu tiên là cháu, cô đi, cháu cố học tiếp cho đến lúc biết đọc biết viết cháu nhé!”.
Tết năm đó, khi các đoàn đến lễ Thần Đá Rơi trong trại giam Thanh Tẩy, không ít người đã hỏi: “Cô thủ đền cũ năm nay đi đâu rồi nhỉ?”
Người viết truyện này cũng không biết chị Yến đi đâu, làm gì và hiện giờ sinh sống ra sao.
05:49 CH 15/08/2016
Ở nơi bão tố
Bỗng y tá Thạch im bặt. Anh ta sẽ còn tiếp tục nói nữa nếu như không có tiếng bước chân ngoài cửa hầm. Nó nhìn thấy bốn, năm người bước vào. Một người có vẻ nhiều tuổi hơn cả tiến sát tới bên giường khẽ đặt tay lên trán nó, rồi quay ra bảo:
- Hiếu kiểm tra lại vết mổ xem sao! Còn Thạch, bệnh nhân có biểu hiện gì khác thường không?
- Báo cáo đảo phó, tình trạng bệnh nhân sau mổ ổn định ạ!
- Y tá Thạch đáp lại một cách nghiêm trang.
Ngay sau đấy một người mặc bờ lu trắng, đội mũ vải trắng, cổ đeo dây nghe, tay cầm một hộp sắt nhỏ bước tới bên nó, lật chăn lên. Anh ta nghe nhịp đập tim phổi, đo huyết áp, dùng bông tẩm cồn lau rửa vết mổ ở phần bụng dưới cho nó rất kỹ càng và cẩn thận. Hơi đau một tí nhưng nó có thể chịu được. Tự nhiên nó thấy tủi thân. Nó không quen bất cứ khuôn mặt nào đang nhìn nó kia cả. Nó lại đang ở giữa lòng biển khơi. Bố mẹ nó thì ở rất xa. Cả bác nó cùng những người đàn ông trên con tàu Người Bạn cũng đã không còn ở bên nó nữa. Nó lạc vào giữa những khuôn mặt xa lạ, những âm thanh đầy tính mệnh lệnh, những câu chuyện hơi hướng cổ tích, và phảng phất quanh nó là mùi thuốc sát trùng như tà khí vây quanh cái cơ thể nhiễm khuẩn của nó. Nó thấy cô đơn. Và tự nhiên nước mắt nó ứa ra. Người nó hình như rung lên...

- Con trai!
- Người đàn ông được gọi là "đảo phó" bỗng nói với nó bằng một giọng rất nhẹ nhàng - Hãy nín đi. Ồn cả rồi. Vài ngày nữa vết mổ lành miệng, sẽ có tàu ra đưa con về. Bố đã đánh điện về đất liền rồi. Cả nhà con cũng đã biết tin và đang chờ con khỏe lại để về với thầy cô giáo và các bạn. Con trai có nghe bố nói không? Đừng khóc nữa nhé!
Đáng lẽ nó phải nghe lời người đàn ông ấy nhưng không hiểu sao nó lại bật khóc òa lên. Sau này, khi đã ra khỏi căn hầm quân y, khi đã có thể mon men tới các góc đảo, nó cứ xấu hổ mãi mỗi khi nhớ lại giây phút ấy. Tại sao nó lại có thể bật khóc trước mặt mọi người ngon lành như thế được nhỉ?
Lên mặt đất, việc đầu tiên là nó phóng tầm mắt ra bãi nước có mầu xanh đặc biệt. Bãi nước ấy bây giờ ở rất gần nó. Ngoài xa kia, biển khơi rộng bao la và tịnh không thấy có một bóng tàu thuyền nào cả. Hóa ra trên đảo khá đông người và họ gọi người đàn ông cứng tuổi là "Đảo phó Vương". Còn nó, nó gọi là "bố Vương". Bố Vương rất vui tính. Bố bảo: "Ngay khi nhìn thấy mày tao đã nhắm cho con gái tao rồi. Cho nên lúc thằng Hiếu nó định lia kéo xuống chỗ giữa hai đùi, tao phải giữ tay nó lại ngay. Nó mà xẻo mất cái của quý ấy thì con gái tao sau này mất nhờ!". Mọi người cười ầm lên còn nó thì mãi sau này mới hiểu ra câu nói đùa ấy của bố Vương. Bố Vương có một cô con gái năm nay mười hai tuổi, đang học lớp sáu. Bố đưa cho nó xem ảnh của con gái rồi khoe rằng: "Rất xinh nhá, lại hát rất hay nhá, lại học sinh giỏi nhá, mày còn chê được ở điểm nào? Còn mày thì vừa thấy bố vợ đã khóc nhè. Chán chết!". Rồi bố Vương lại bảo: "Đây, tao mở băng cho mày nghe nhá. Con gái bố mày giải nhất hát dân ca toàn tỉnh cơ đấy". Và bố Vương bật chiếc đài pin lên cho nó nghe. Từ trong ấy phát ra một giọng hát rất trong trẻo và ngọt ngào: Ầy hoa tôi là nay ớ... hoa thơm/ Ố tình là con bướm lượn/ Ố tình là con bướm dạo ới... ơ/ Bướm lượn là bướm ối a nó bay/ Bướm dạo là bướm ối a nó bay... Nó cười bẽn lẽn. Rồi nó hỏi bố Vương:
- Bao giờ mới có tàu ra hả bố?

Nghe nó hỏi câu ấy, bố Vương không tếu táo nữa, giọng có vẻ như hơi chùng xuống:

- Mọi năm ngày này là tàu ra rồi đấy, năm nay không hiểu sao vẫn chưa thấy ra? Nhưng con yên tâm đi. Nhất định tàu sẽ ra. Còn phải mang hàng ra cho bộ đội cơ mà.

Rồi nó nhận ra một điều, không chỉ bố Vương mà tất cả mọi người trên đảo đều mong tàu ra. Tàu ra là thư ra. Tàu ra là những món quà ở đất liền sẽ theo ra. Và tàu ra sẽ mang những thứ mà người ở biển gửi về cho đất liền. Còn nó mong tàu ra để được về với mẹ, về với trường lớp và những người bạn ở Câu lạc bộ Hải dương học của nó. Nó đã quen được với khá nhiều người trên đảo. Ngoài bố Vương ra, nó đặc biệt quyến luyến với bác sĩ Hiếu và y tá Thạch. Bác sĩ Hiếu hiền lành và rất ít nói. Lúc nào nó cũng thấy anh tỉ mẩn với số ốc trinh nữ mà anh kiếm được. Anh lựa chọn đủ kiểu dáng, kích cỡ, mầu sắc để làm cái gì đó, có vẻ bí hiểm lắm. Còn anh Thạch thì chứa trong đầu cả một kho chuyện về đại dương. Chẳng biết chuyện nào của anh là thật, chuyện nào là giả. Nhưng chuyện nào cũng thú vị và hấp dẫn. Anh đưa cho nó xem một khẩu súng rất kỳ dị. "Có biết súng gì đây không? Súng bắn cá mập đấy. Anh là sát thủ đối với loài cá mập ở khu vực này. Chúng nó nhìn thấy anh là không bao giờ còn được quẫy đuôi nữa. Hà, hà. Bố vợ anh thách cưới hai trăm cái vây cá mập. Hai trăm cái vây chú mày có biết là bao nhiêu con không? Một trăm con. Anh đã có tới tám mươi bộ vây rồi. Còn hai mươi bộ nữa anh sẽ kiếm trong vòng bốn tháng. Tháng tư sang năm về bờ là anh đi hỏi vợ được".
Nó không tin lắm vào cái chuyện vây cá mập của anh, nhưng chuyện anh bắt bạch tuộc thì nó tin sái cổ. Hóa ra bãi nước xanh kỳ bí mà nó nhìn thấy ở trên tàu chính là bãi san hô sắp ngoi lên khỏi mặt nước. Các nhà hải dương học bảo rằng những hòn đảo ngoài biển chính là do san hô mọc lên mà thành. Nhưng từ dưới đáy đại dương, ngoi lên được khỏi mặt nước thì phải mất hàng vạn năm. Bãi san hô kia sắp ngoi lên khỏi mặt nước rồi. Và mặt nước hiện tại hấp thụ sắc mầu của san hô nên mới có một mầu kỳ lạ thế. Chỉ vài năm nữa thôi cả bãi san hô sẽ nổi lên và thế là cái mầu xanh huyền diệu kia sẽ biến mất. Nhưng đấy là chuyện của vài năm nữa. Còn bây giờ bãi san hô kia là nơi để những người như anh Hiếu ra đó nhặt ốc trinh nữ và anh Thạch ra đó bắt bạch tuộc mỗi khi nước triều rút. Nó đã được theo anh Thạch ra đó một lần. Anh mang theo một thanh sắt dài và một cái xà beng nhỏ. Chỉ liếc mắt một cái là anh phát hiện ra tổ con bạch tuộc nằm ở đâu. Anh xiên thanh sắt xuống, găm chặt con bạch tuộc lại, rồi dùng xà beng bẩy tổ, lôi con bạch tuộc ra. Con bạch tuộc thường phóng ra một vệt mực dài để người bắt nó mất dấu. Nhưng anh Thạch đã nhằm bắt con nào là con ấy không thể chạy thoát được. Anh chỉ chọn bắt con to, búi râu của nó dài tới ba bốn chục xăng ti mét. Thế mà anh còn bảo: "Ăn thua gì. Anh còn bắt được con bạch tuộc cụ ở đây. Nó nằm trong một cái hang rất sâu, mãi ngoài biển kia cơ. Anh vào hang đánh nhau với nó mấy trận, vòi nó ghê gớm lắm, chặt vòi này nó lại ra vòi khác. Nó mà ghì chặt vào hang thì chỉ có chết. Sau anh lừa chọc mù hai mắt nó. Thế là cứ thế buộc cổ nó lôi đi. Hôm ấy cả đảo ăn no bạch tuộc. Trong bụng nó có cả một đôi giày da trẻ con rất đẹp". Nó hỏi: "Đôi giày ấy đâu rồi?". Anh Thạch nói lảng đi: "Thì vất đi chứ để trên đảo làm gì có ai đi vừa. Thế chú mày đã nghe chuyện cá bọc thép cắn gẫy dao của anh chưa?".

Cứ thế chuyện của anh Thạch không bao giờ cạn. Nó sẽ còn được nghe nhiều chuyện nữa nếu như không có tàu ra. Cuối cùng thì sau bao ngày mong đợi tàu cũng đã ra với đảo P.
Tàu ra nhưng lại không thể cập đảo vì liên tục mấy hôm liền biển nổi phong ba. Nó đứng trên đảo nhìn con tàu to như một cái nhà tầng đang dập dềnh trôi ngoài xa mà bâng khuâng nghĩ đến lúc được bước chân lên đó để về với đất liền. Mấy ngày chờ đợi ấy nó đã hiểu thêm về biển. Biển đỏng đảnh và hung dữ lắm. Mặt biển chao lắc như người ta lắc một chậu nước đầy vậy. Nước quất ràn rạt lên nhà đảo. Gió tốc mọi thứ bay xuống biển nếu không đưa xuống hầm. Muối bám khắp mặt đảo, trên thành tường, mặt bàn ghế, trong đáy bát, trên bề mặt da người... Tiếng sóng đánh vào bờ không lúc nào ngớt. Vậy mà anh Thạch vẫn phải đi gác đêm. Nó ngủ với anh Thạch nên nó thường thấy anh trườn dậy rất nhẹ nhàng để đi nhận đổi gác cho người khác. Có lần nó lặng lẽ dậy theo anh. Nó thấy anh mặc áo mưa trùm kín người, lặng lẽ ôm súng đứng dưới gốc phong ba nơi góc đảo. Gió thốc vào mặt nó. Tiếng rú gào của đại dương làm nó nhiều lần rùng mình. Nhỏ nhoi và cô độc quá! Mênh mông và vô định quá! Anh Thạch hơn nó có sáu tuổi thôi. Mấy ngày nữa là anh bước sang tuổi hai mốt. Nó đã chỉ lên ve áo anh và hỏi: "Anh cấp gì". Anh bảo: "Hạ sĩ". Nó chẳng biết hạ sĩ là to hay nhỏ. Bây giờ nhìn thấy anh cầm súng đứng gác trong chiếc áo mưa trùm kín người nó thấy thương anh quá. Nó không muốn anh nhìn thấy nó đang thập thò đứng xem anh gác. Nó lại lặng lẽ chui vào màn và thao thức mãi không ngủ được. Nó bị ám ảnh bởi cái dáng lùi dần, lùi dần của anh quanh gốc phong ba khi tránh nước biển hắt lên. Ở trong đất liền nó đã ngủ rất ngon mà chưa bao giờ nghĩ rằng để canh giấc ngủ cho nó, ngoài đảo xa này luôn phải có những người như anh Thạch đứng gác. Đêm ấy nó đã thức đến sáng.
Sáng hôm ấy trời quang mây tạnh. Mặt trời nhô lên nơi mặt biển cuộn mình khuất sau tầm mắt. Bố Vương bảo: "Thời tiết này xuồng sẽ vào được". Thế là cả đảo háo hức đợi chờ. Nhưng phải hai giờ chiều, nước lên xuồng mới cập được! Biển cả phức tạp quá. Nó nghĩ thế nhưng nó cũng hiểu rằng ra với biển phải tuân theo quy luật của biển. Những người đến hạn được về bờ đã chuẩn bị mọi thứ, chỉ chờ gọi tên là nhấc ba lô lên vai ra tàu. Bác sĩ Hiếu cũng đã hoàn thành cái công trình bí ẩn của mình. Những con ốc trinh nữ đủ sắc mầu bây giờ ngự trên những cành thép có đính vài ba chiếc lá nhựa, làm nên cả một đóa hồng tuyệt đẹp. Thì ra bác sĩ Hiếu đã hứa gửi cho cô bạn gái chùm hoa làm từ ốc trinh nữ, và lời hứa ấy phải được thực hiện trong dịp này.
Hai giờ trưa, trời nắng chang chang. Chiếc xuồng máy kéo chiếc xuồng chuyển tải vào bờ khá khó khăn vì vấp phải vô số đá mồ côi. Anh Thạch cùng một số người phải bơi ra để phụ giúp kéo xuồng vào. Trên xuồng có rất nhiều thứ, nào mì tôm, thịt hộp, nào thư báo, đường sữa, thuốc men, lại cả một chú "ỉn" nằm hồn nhiên trong khoang xuồng ngọ nguậy đuôi nữa. Nó cũng đã chuẩn bị xong mọi thứ để về đất liền. Bố Vương cho nó một cái ba lô và tặng nó một cái mũ tai bèo. Bố còn bảo: "Bố đã báo cáo với chỉ huy vùng rồi. Tàu sẽ đưa con về đất liền, sau đó chỉ huy vùng sẽ bố trí người đưa con về tận nhà. Mấy ngày đi tàu con giữ gìn sức khỏe cẩn thận. Và đừng quên những người lính ở nơi bão tố này, con trai nhé!". Anh Thạch kỷ niệm nó khẩu súng bắn cá. Bác sĩ Hiếu tặng nó ba bông hồng được làm từ ốc trinh nữ. Ngoài ra trong ba lô của nó còn có san hô, quả bàng vuông, cá bọc thép, các loại vỏ ốc...
Bố Vương bế nó từ cầu đảo đặt lên xuồng. Anh Thạch chuyển ba lô lên cho nó rồi lội xuống biển đẩy xuồng ra ngoài xa. Bác sĩ Hiếu gọi với theo nó, nhắc buộc lại quai mũ tai bèo cho chặt không gió cuốn đi mất. Con xuồng từ từ rời khỏi đảo P. Nó giơ một tay lên vẫy vẫy cho đến khi không còn nhìn thấy những người đứng trên cầu đảo nữa. Xung quanh nó có nhiều người khóc vì chia tay. Nước mắt nó cũng ứa ra, nhưng nó quay mặt đi để không ai nhìn thấy. Con gái bố Vương biết nó khóc sẽ cười. Nó đã ghi địa chỉ của con gái bố rồi. Về tới đất liền việc đầu tiên là nó sẽ viết thư cho các chú các anh ở đảo P và con gái bố Vương. Trong thư gửi cho con gái bố Vương nó sẽ gửi kèm theo một tấm ảnh chụp cảnh bắn pháo hoa ở thành phố quê hương. Nó tin là con gái bố Vương sẽ rất ngạc nhiên khi nhận được thư nó.
Tàu đã quay mũi rồi. Trước mặt nó là đất trời đang chờ đợi, sau lưng nó là quần đảo bão tố với sóng và gió, với bố Vương, anh Thạch và bác sĩ Hiếu. Thế là nó sắp bước sang tuổi mười lăm.
Nó đã hiểu thế nào là ở nơi bão tố!
Hết.
05:32 CH 15/08/2016
Nỗi ám ảnh khôn nguôi
"Linh thân mến!
Bây giờ Nam mới viết thư cho Linh được. Hòm thư cứ thay đổi liên tục nên Nam chưa dám viết thư cho bạn sợ thư hồi âm thất lạc. Hiện giờ thì Nam đã tương đối ổn định ở đơn vị công tác mới. Nhiệm vụ của Nam là cùng đồng đội thay phiên nhau canh gác khoảng 20 kilômét đường biên. Để có thể giữ được biên giới tốt nhất, ngoài việc thường xuyên cảnh giác, bọn Nam còn phải nhờ vào dân. Muốn nhờ vào dân thì công tác dân vận phải tốt. Tức là phải làm sao để dân hiểu, dân thương, dân sẵn sàng giúp đỡ bộ đội. Nam phải thường xuyên đi bộ tới các bản làng, thôn xóm quanh khu đơn vị đóng quân. Ăn ở cùng với dân, giúp dân làm ruộng, dạy dân học chữ chữa bệnh cho dân, vận động dân bỏ những tập tục lạc hậu, đưa văn minh đến cho dân. Ở đây dân không biết đến Rônanđô, Demi Mua hay Lêonarđô Dicapiro. Dân chỉ biết đến có bộ đội thôi. Văn công bộ đội là món ăn tinh thần vô giá đối với họ. Nhưng văn công chuyên nghiệp không đến với dân ở đây thường xuyên được. Thế là bọn Nam phải tự biên tự diễn, tự tạo ra các đêm văn nghệ, tự biến chính mình thành văn công. Tay đàn của Nam quả là cũng có ích ít nhiều. Với người lính chúng mình làm được điều gì cho dân vui thì đó không chỉ là nhiệm vụ mà còn là một niềm hạnh phúc. Linh có thấy ngạc nhiên về điều này không?..."
"Linh!
Hôm nọ mình được đi hội thao ở dưới tỉnh. Chiếc xe tải chở mình qua những con phố dài đông vui tấp nập. Mình thấy nhớ nhà quá. Khi thành phố lên đèn phố phường ở đâu cũng giống nhau. Giống từ ánh điện thừa mứa đến những biển hiệu nhà hàng xanh đỏ, giống từ nền đường rải nhựa đến những cây đèn rũ mình phát sáng, giống cả những đôi lứa tay dắt tay nhau đi dạo dưới lòng đường. Nhiều ánh mắt nhìn lên bọn mình. Có ánh mắt thờ ơ vô cảm. Có ánh mắt ráo hoảnh, lướt vội. Có ánh mắt thích thú, ngưỡng mộ. Có ánh mắt thương cảm, an ủi. Mình thấy thích thú hơn cả là những ánh mắt của trẻ con. Chúng nhìn bọn mình mới ngộ nghĩnh làm sao. Chúng đang cố liên tưởng giữa bọn mình với những điều mà chúng học được trong sách vở. Có đứa chào rõ to: "Cháu chào chú bộ đội". Nghe tiếng chào ấy bọn mình cùng phá lên cười rồi cùng lặng đi vì xúc động. Với những người lính chúng mình có lẽ chỉ cần một lời chào ấy thôi là đủ ấm lòng để có thể vượt qua mọi khó khăn gian khổ ở phía trước. Sau này Linh hãy dạy đàn em nhỏ làm cái điều mà người lính rất trân trọng ấy nhé. Linh đã nghĩ tới điều ấy bao giờ chưa?..."
"... Đợt xuống phố vừa rồi Nam có được một ít thời gian để nghỉ ngơi thư giãn, Nam đi bộ ra vườn hoa nhìn những chùm bóng bay bỗng nhớ tới thằng Bình. Năm nay nó vào lớp bảy rồi. Ngày bố Nam hy sinh nó vẫn còn nằm trong bụng mẹ. Hồi còn nhỏ, đi chơi với Nam nó rất thích bóng bay. Có lần nó đòi mua nhưng Nam không có tiền, nó cứ khóc nhè mãi, cáu quá Nam đã phát vào mông nó mấy cái. Bây giờ với mấy đồng phụ cấp này Nam có thể mua cho nó cả chục quả bóng bay. Nhưng không thể gửi ra ngoài đó những quả bóng bay xanh đỏ, dễ vỡ kia được. Nam lang thang dạo quanh mấy thảm cỏ mật lại nhớ bãi bóng sau sân trường cấp ba của bọn mình. Ở đó chẳng có một ngọn cỏ nào. Biết bao bàn chân đã chạy lên đó. Biết bao con người đã lớn lên từ đó. Cỏ không có chỗ để mọc nhưng những trận bóng lại vô cùng sôi động. Vết sẹo nơi bắp chân bên phải của Nam là do ngã ở sân bóng đó. Nếu có những thảm cỏ mật này trải lên, những trận đấu chắc chắn sẽ còn thú vị hơn nhiều. Nhưng mà đến bao giờ mới được trở lại với thời cắp sách hồn nhiên vô tư ấy?.
Có nhiều người đến mời chào Nam chụp ảnh. Từ ngày vào lính đến giờ Nam chưa chụp một kiểu ảnh nào. Nam gọi một người thợ ảnh đến, bảo chụp cho Nam một kiểu với nguyên vẹn cầu vai, quân hàm. Đến khi chụp xong Nam mới ngớ ra là hôm sau mới có ảnh. Hôm sau thì Nam đã không còn ở đây nữa rồi. Người thợ ảnh bảo để địa chỉ lại sẽ gửi ảnh đến sau. Tự nhiên Nam lại rút bút ra ghi địa chỉ của Linh. Nếu Linh nhận được ảnh, thấy đẹp, rửa gửi vào cho Nam nhé. Ở nơi Nam đóng quân bán kính 20 cây số không có lấy một hiệu ảnh. Nếu có máy ảnh ở đây sẽ chụp được rất nhiều cảnh đẹp. Mà biết đến bao giờ những người như Linh mới đặt chân tới được nơi này nhỉ?... ".

Linh còn thuộc nhiều những đoạn thư như thế nữa. Lá thư cuối cùng Linh nhận được cũng là lúc tấm ảnh của Nam được gửi tới. Đó là một bức ảnh đẹp, bắt được thần thái của Nam, chỉ có điều Linh chưa kịp rửa để gửi vào cho Nam thì cơn đại đồng thủy ập đến với miền Trung...
Anh ở Singapore về với lỉnh kỉnh những nước hoa, cavát, rượu ngoại, thuốc lá ngoại, áo sơ mi, nơ kẹp tóc, bút bi, bấm móng tay, dây đeo chìa khóa. Sau đó tíu tít đi đến chỗ này, chỗ nọ để tặng quà. Có học có hơn, nhiều người đã nói với anh thế. Ở anh giá trị của học vấn đã được trả về với đúng nghĩa của nó. Anh bỗng đẹp lên gấp nhiều lần trong con mắt của mọi người. Không ít cô gái chạy theo anh đắm đuối, si mê. Ở cái tỉnh lẻ nửa quê nửa phố này anh là mẫu người lý tưởng. Linh cũng tự hào về anh, luôn nhắc mình cần phải trân trọng anh, anh như chiếc bình pha lê, các cô gái mới lớn cứ xô đẩy nhau để được cầm, nắm, ngắm, nhìn như thể không cẩn thận có ngày sẽ vỡ mất. Và quả thật Linh không biết nên vui hay nên buồn khi thấy Mai ngày một đờ đẫn trước anh. Chiếc nơ anh mua tặng Mai được cặp lên sau gáy làm tóc Mai vốn đã đẹp lại càng trở nên óng ánh hơn. Mai dùng nước hoa của anh với một niềm tự hào thầm kín nhưng mãnh liệt. Mai lại còn khoe với Linh là được anh mời đi uống càphê và nghe nhạc Trịnh Công Sơn nữa. Tất nhiên Mai không quên hỏi Linh được anh tặng những gì? Linh hỏi lại: "Theo Mai thì cần anh tặng thứ gì?" Mai cười tinh nghịch: "Nói thật nhá! Một bó hoa tươi và... một trăm đô". Linh lắc đầu: "Anh ấy tặng tớ một bức tượng bằng đá tạc anh bộ đội Giải phóng quân miền Nam đi dép cao su và quấn khăn rằn. Tượng đó do chính tay một nhà điêu khắc tài ba của Singapore làm. Ngoài ra anh ấy tặng tớ một cuốn sách dày năm trăm trang in bằng hai thứ tiếng với tiêu đề "Những đội quân nổi tiếng thế giới". Trong cuốn sách đó có nói cả đến những đội quân của Xêda, Thành Cát Tư Hãn, Napôlêông, Cutudốp, Stalin, Hitle... Chỉ thế thôi. Không có hoa tươi, cũng chẳng có đồng đô la xanh xám".

- Tớ biết rồi. - Mai lắng nghe như nuốt lấy từng lời của Linh rồi bắt đầu bình luận - Anh chàng tìm hiểu Linh qua tớ, biết Linh mê hình ảnh người lính nên chàng mang về cho Linh những thứ ấy. Như thế kể cũng hay, chơi toàn của độc. Linh mà thích những chú bướm vàng có lẽ anh chàng sẽ mang cả viện bảo tàng côn trùng ở bên ấy về cho Linh cũng nên.
Linh lặng im không nói gì, chỉ kịp nhận thấy là hình như anh rất hợp với Mai. Mẫu người anh là để cho người như Mai, ngược lại Mai xứng đáng là một mã số thú vị để dành cho anh giải. Những người lính trong năm trăm trang sách mà anh mang về cho Linh kia không có gương mặt nào của bố Nam. Cả cái tượng anh Giải phóng quân cầu kỳ và đắt tiền kia nữa. Đó là hình ảnh người lính Việt Nam dưới cái nhìn ngoại quốc. Cho dù đó là sự cảm phục, cho dù nó làm ra không phải với mục đích thương mại thì đâu cũng cần phải sang đến tận nước họ mới mang về được hình ảnh ấy để châm ngòi cho xúc động phát nổ nơi hồn mình. Đâu cần phải nhờ đến một trái tim nghệ sĩ, một đôi bàn tay tài hoa của người nước ngoài để tái hiện một hình ảnh mà chỉ có người trong nước mới có thể cảm nhận hết được nỗi bi tráng trong đó? Với lối tư duy ấy, với thói quen làm việc kiểu computơ ấy anh đáng được biếm họa bằng hình ảnh cái đầu thì phình to ra còn trái tim thì bé tí lại. Linh chợt bật lên một tràng cười khi gán cho anh hình ảnh hài hước đó. Ngồi bên cạnh, Mai giật mình nhìn sang Linh rồi với một ánh mắt nghi ngại Mai hỏi:

-Linh đã nghe người ta nói về một căn bệnh sau sốc bao giờ chưa?

Một cảm giác tê tái lan khắp người Linh. Thì ra các người giống nhau đến thế. Hãy thử rơi vào hoàn cảnh như mẹ Nam rồi hãy định nghĩa thế nào là sốc. Không phải nàng vọng phu nào cũng hóa đá được. Họ phải sống vì sự sống có ý nghĩa hơn cái chết. Và hãy lý giải sức sống của họ bằng một lý lẽ khác, lý lẽ của con tim chứ không phải bằng "những căn bệnh sau sốc" dớ dẩn được lấy ra từ cỗ máy vi tính vô cảm kia. Anh có hiểu được điều ấy không? Cả Mai nữa. Đừng mãi vô tâm với cuộc đời thế. Hãy cùng Linh đến nhà Nam để nghe mẹ Nam kể về một người lính đã hy sinh như thế nào. Mà không phải chỉ một người. Cái chết của bố Nam là có thật. Thần tượng của Nam là có thật. Nam đã đúng trong buổi hội thảo về thần tượng năm nào nhưng đúng giữa lúc chân lý đang bị hài hước hóa, thậm chí, tầm thường hóa. Và điều ấy làm Linh không chịu nổi. Điều ấy phi lý và bất công. Nhưng chính Linh cũng đã từng bất công và phi lý như thế. Làm sao Linh có thể trách anh và Mai được khi chính Linh cũng đã từng phải tự trách mình?
Chuyện trong ngày Valentine:
Nơi bố Nam đóng quân là một đỉnh núi nằm ở độ cao một nghìn bốn trăm bảy mươi tư mét. Đứng từ đỉnh núi này phóng tầm nhìn bao quát xung quanh sẽ thấy hàng trăm ngọn núi khác nối nhau như hình con rồng khổng lồ đang thỏa mình uốn lượn giữa trời mây. Vị trí mà tiểu đội của bố Nam chốt giữ chính là mắt con rồng đó. Những người lính trấn ải lưu đồn như bố Nam phải trải qua vô vàn nỗi khổ nhưng có một cái khổ không thể không nói đến, đó là sự thiếu nước triền miên. Một lần bố Nam về phép thăm nhà. Nửa đêm ông sực tỉnh bởi tiếng tí tách phát ra từ chiếc vòi nước. Ông trở dậy, lẳng lặng ra đằng sau vặn chặt vòi nước rồi mới lại lên giường nằm ngủ. Nhưng vòi nước quá cũ, ren đã chờn nên nước vẫn tí tách chảy ra. Ông không sao ngủ được vì những giọt nước ấy đã làm ông nghĩ tới những cơn khát lả người mà ông từng phải chịu đựng. Bể nước do chính tay ông và đồng đội đục khắc vào núi luôn là nỗi ám ảnh triền miên đối với những người lính canh chốt. Mỗi khi hết nước tiểu đội lại phân công nhau xuống chân núi gánh nước lên dưới làn đạn bắn tỉa của địch. Gọi là gánh nhưng thực ra là cõng nước. Nước được đưa vào những bao cao su hình ống, to và dài như một con trăn đất. Người lính quấn con trăn ấy lên cổ, vắt qua mình nhiều vòng rồi cứ thế lầm lũi cõng nước lên đỉnh núi. Ngày nào cũng phân công một tổ ba người đi lấy nước. Cung đường lên và xuống dài một nghìn hai trăm mét. Mỗi ngày tiểu đội phải dành ra ba đôi chân đi trên đoạn đường ba ngàn sáu trăm mét chỉ để làm mỗi việc là hứng lấy "lệ rồng" mang về đơn vị. Nghĩ đến điều đó bố Nam thấy xót ruột trước những giọt nước trong vắt đang rỉ ra từ chiếc vòi sắt nơi góc nhà. Ông không thể nào ngủ được. Ông vùng dậy bật điện, lấy đồ nghề ra, tháo chiếc vòi sắt xuống cặm cụi ngồi sửa lại. Mẹ Nam không hiểu được việc làm ấy. Mẹ Nam đã càu nhàu vì mất ngủ, vì sự "trở chứng" của ông. Sau này mẹ Nam mới hiểu được rằng nếu chưa trải qua nỗi đau mất chồng thì không thể lý giải được những sợi tóc bạc trên đầu người chinh phụ. Cũng như vậy nếu chưa từng trải cái khát lả người thì không thể nào hiểu được việc làm đêm ấy của bố Nam.
Và cái định mệnh ấy đã đồng lõa với kẻ thù!
Vẫn chuyện trong ngày Valentine:
Bọn địch thì đông, chúng đã tràn qua ngọn Mắt Rồng vào sâu trong nội địa hàng cây số rồi. Tiếng súng trên ngọn Mắt Rồng vẫn nổ. Điều ấy thắp lên niềm tin cho người ở phía sau, cản bước tiến của địch, khẳng định phên dậu của nước nhà vẫn chưa bị bẻ gẫy. Và sức chịu đựng của người lính ở đấy mới dẻo dai làm sao. Không biết bao nhiêu bom đạn trút xuống. Không biết bao nhiêu lượt quân địch liều mạng xông lên. Núi Mắt Rồng vẫn sừng sững. Những người lính giữ chốt vẫn đều đặn nhả đạn. Sức mạnh hỏa lực không xô ngã được ngọn núi, lợi thế quân đông không áp chế được tay súng như bố Nam. Từng ngày từng giờ khắc khoải trôi qua. Những giọt lệ rồng, phải, chính những giọt lệ rồng không đến kịp đã rút kiệt sinh lực họ. Khi đại quân ta phản công lấy lại ngọn Mắt Rồng, lên tới chốt thì cả tiểu đội vẫn nguyên vẹn trong tư thế chiến đấu. Ngoài bố Nam ra những người lính kia còn rất trẻ. Nửa nằm, nửa ngồi hai tay họ ôm chặt lấy cây súng, khi chạm vào người họ thì họ đã chết từ bao giờ, chết không phải vì đạn thù mà chết vì khát! Cái khát khủng khiếp đã thiêu đốt thân thể họ, làm cạn kiệt nguồn máu trong họ, tạc họ vào hình núi khiến kẻ thù không dám xông lên điểm cao nơi họ chốt giữ. Khi hay tin, mẹ Nam tưởng phát điên lên. Bà mở tung vòi nước cho nước chảy lênh láng cả ra nhà. Nước có đáng là bao, nước thừa thãi quanh ta, nước có thể phung phí như khí trời kia mà. Vậy mà những người lính như bố Nam đã chết vì khát. Như vậy một người lính có thể phải chết nhiều lần trong một lần chết. Và người sống phải chịu nỗi đau do người chết để lại. Quá nhiều nỗi đau mà không hóa đá được thì lại phải sống. Sống cho ra sống để người chết được an ủi. Mẹ Nam là một người như thế.
Anh lại đưa Linh đến quán càphê mới mở ấy và nói với Linh rằng:

- Em đừng cực đoan như thế. Xét cho cùng đó là sự phân công lao động xã hội. Những người lính làm nhiệm vụ của họ ở phía trực diện với kẻ thù. Còn những chàng trí thức trẻ lại đang phải làm những công việc khác. Công việc nào cũng hữu ích và giọt mồ hôi nào thì cũng đáng trân trọng như nhau.

Linh bảo:
- Em không bao giờ đối lập anh với Nam. Cả hai đều tuyệt vời và cả hai đều đáng được hưởng những gì tốt đẹp nhất mà cuộc sống đem lại. Nhưng một người thì đi mãi trong những cánh rừng tràn ngập hoa cỏ, không bao giờ trở về nữa, còn một người thênh thang đi lại trong xa lộ thông tin, nhẩn nha hưởng thụ. Cứ nghĩ đến điều ấy em lại thấy ngộp thở. Có lẽ em là một cô gái nhạy cảm quá mức. Em không muốn thế nhưng cũng lại không thể nào khác thế.
Anh hạ giọng:

- Có thể em đã yêu Nam quá sâu sắc và thời gian chưa đủ để em lấy lại được thăng bằng.

Linh lắc đầu:

- Chưa thể nói đấy là tình yêu. Trong cuộc đời mỗi người đều có những ám ảnh rất lạ. Có những điều ám ảnh làm con người ta sống tốt lên nhưng cũng có những điều ám ảnh làm con người ta sống xấu đi. Nam là một chiều kích ám ảnh đẩy em tới cực tốt của cuộc sống. Chỉ thế thôi, đừng phức tạp hóa mọi điều, cũng đừng lẫn lộn giữa cảm kích và lòng thương hại.

Anh đứng dậy kéo ghế ngồi sát lại bên Linh. Bờ vai Linh như xọm xuống. Anh nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Linh, giữ rất lâu trong bàn tay anh rồi nói một cách âu yếm:

- Anh yêu em, yêu cái sự ám ảnh đang giằng xé trong em. Anh cần em với tất cả những chiều kích trái ngược mà em gọi là ám ảnh ấy. Em hiểu không?

Hiểu không ư? Sao Linh lại không hiểu. Linh bỗng bật khóc. Khóc như tức tưởi, hờn dỗi. Khóc như tủi thân, oan ức. Khóc đến đâu thấy trong lòng nhẹ đi đến đấy.
Đã hơn một năm trôi qua rồi. Với những người dân miền Trung thì cơn lũ thế kỷ mãi là nỗi ám ảnh hãi hùng dai dẳng. Linh cũng đã khóc vào cái buổi chiều đầu đông se lạnh ấy. Các chú, các anh ở đơn vị của Nam từ miền Trung ra cũng với những đôi mắt ầng ậc nước. Nghe các chú nói khi lập bàn thờ cho Nam lục khắp ba lô không có lấy một bức ảnh, Linh đã oà lên nức nở. Ngay hôm sau Linh đi rửa hai tấm ảnh Nam thật to. Một tấm gửi vào cho các chú ở đơn vị Nam, còn một tấm để lại cho mẹ Nam. Bây giờ Nam vẫn đang ngồi đó, đôi mắt ngời sáng, cái miệng thật tươi, lọn tóc buông xuống vầng trán rộng mênh mông sương khói. Trong cơn cuồng điên của nước Nam đã sải cánh tay, quẫy mình giành giật lại sự sống cho gần hai chục con người để rồi chính Nam lại bị dòng nước cuốn đi, nhấn chìm. Bố Nam chết giữa bốn bề đá núi còn Nam chết giữa mênh mông sóng nước. Số lượng những người lính chết trên đất nước này đã làm điều đáng nói như sự ám ảnh do từng cái chết mang lại có sức công phá dai dẳng tới mức không thể nói được bằng lời. Linh chỉ mong anh hiểu được điều đó thôi. Vậy mà đến mãi bây giờ anh mới chịu hiểu ra. Linh khóc cho trôi hết đi những tủi hờn chất chứa. Linh khóc để giãi bày lòng mình trước anh. Như đồng cảm với Linh, sau quầy tủ tiếng hát Khánh Ly vọng ra da diết: Tôi là ai, là ai mà yêu quá đời này...
Tự bao giờ, anh cũng lẩm nhẩm hát theo.
Hết.
05:23 CH 15/08/2016
Những bước nhảy trong đêm
Phần II

Cảm nhận đầu tiên của Duy là nó không sang trọng lắm. Khi điệu nhạc đầu tiên nổi lên và nhìn những đôi lứa ôm nhau ra sàn Duy hiểu rằng mình đã sai lầm khi bước chân vào đây.
Không phải vì nó ô uế hay phức tạp mà vì khả năng khiêu vũ của Duy nếu bước ra sàn chắc chắn sẽ chỉ nhận được những ánh mắt coi thường mà thôi. Duy đã tin vào khả năng khiêu vũ của mình một cách ngây thơ. Những gì Duy học được ở đơn vị hoặc qua các lớp tập huấn về cán bộ Đoàn chỉ đủ để “múa may” trong các đêm lửa trại hoặc các buổi dạ hội kết nghĩa chứ không thể góp một chân nam cho Quỳnh trong sàn nhảy này. Duy lắng nghe mãi điệu nhạc đầu tiên mà vẫn không nhận ra được nó là điệu gì. Các bạn của Quỳnh đã lần lượt lên sàn rồi mà Duy vẫn không dám mời Quỳnh ra. “Anh không thích nhảy Mambo à?”. À, thì ra đó là điệu Mambo. Duy quay sang Quỳnh, thành thực: “Anh không nhảy được đâu Quỳnh ạ. Những gì anh trải qua không giống thế này”. Lần lượt các điệu Chachacha, Boston, Bebop, Tango, Rhumba... lướt qua mắt Duy. Những đôi nhảy đều đã vượt qua trình độ cơ bản. Duy đứng vào đó sẽ trở nên vô cùng lạc lõng. Có đôi ba người đến mời Quỳnh ra nhảy. Đến lúc này Duy mới biết Quỳnh có biệt danh là nhím. Quỳnh “nhím” có vẻ khá nổi tiếng trong giới nhảy trẻ. Nhưng Quỳnh đã không ra sàn với ai mà kéo Duy xuống tầng dưới ngồi uống bia. Quỳnh gọi mỗi người một chai Heineken nhỏ và cứ thế người nào người ấy dốc ngược vào miệng mình. “Hôm nay quả thực em cũng không muốn nhảy. Em chỉ muốn làm cho anh vui thôi”.
- Em thấy anh có giống anh Hải không?
- Đôi lúc em cứ nghĩ anh là anh Hải. Nhưng em có thể mang lại niềm vui cho anh chứ anh Hải thì không. Anh ấy căm ghét em trong khi em lại rất muốn yêu anh trai mình mà không được.
- Thế là sao?
- Khi em còn bé, anh ấy thường dứt tóc em, vứt đi một chiếc giày, một chiếc dép hay một bên cặp tóc của em. Một lần em bị bọn trẻ con cùng phố bắt nạt. Đúng lúc ấy anh Hải đi đến. Em sung sướng vì sẽ được anh ấy bênh vực. Nhưng anh ấy đã bỏ sang bên kia đường, thản nhiên đứng nhìn bọn con trai đánh em. Còn em thì hễ có cơ hội là tìm cách để lấy lòng anh ấy. Anh ấy từ chối tất cả. Anh ấy luôn đem cái bờ sông quê của ký ức lên mười ra để so sánh và chê bôi những gì em có. Khi em vào năm cuối cấp ba thì anh ấy đi ra nước ngoài học. Anh ấy bảo: “Tao đi để khỏi có một lúc nào đó có thể sẽ bóp cổ mày”...

Thỉnh thoảng lại có một cậu trai mới lớn đi qua đá mắt đưa đẩy với Quỳnh. Anh có người yêu chưa? Quỳnh đưa chai bia lên miệng và làm như vô tình hỏi Duy câu ấy. Duy lắc đầu. Anh bằng tuổi anh Hải em. Ba mươi rồi. Anh Hải em cũng không có bạn gái. Anh Hải em thường nói xấu về phụ nữ. Tại sao lại thế? Duy không trả lời bằng cách đưa chai bia của mình lên nhưng không uống. Anh biết không? Tất cả với anh Hải chỉ có cái bờ sông quê nhà anh là thiêng liêng thôi. Chính vì thế em rất muốn một lần về nơi đó. Em muốn xem nó thế nào? Có thể em sẽ tìm thấy một điều gì đó để làm vui lòng anh Hải em chăng?
- Vậy hôm nào em về quê anh chơi nhé?
Duy đã bật thốt ra lời mời chân thành đó mặc dù Duy không tin rằng cái bờ sông quê nhà mình lại có thể hấp dẫn một cô gái trẻ đậm chất thành thị như Quỳnh.
Lời rủ rê đó được đưa ra vào đầu mùa thu, ngay dưới sàn nhảy, trong lúc cả hai còn đang muốn tiếp tục uống bia. Sau đó là cả một mùa thu đi qua và Duy không gặp lại Quỳnh lần nào nữa. Đêm đó, khi ở sàn nhảy về Duy đã ngủ trong căn phòng bỏ không của Hải. Chiều hôm sau chú Nhuận đưa Duy trở lại trường. Chú vào siêu thị mua cho Duy một cái áo sơ mi và một ít đồ ăn đóng gói sẵn, lại còn nhét vào túi Duy một ít tiền nữa. Duy đã có trong tay địa chỉ email của Hải. Ngay tối hôm đó Duy ra quán cà phê Internet trước cổng trường viết thư cho Hải. Lá thư khá dài, trong đó có một ý rằng tại sao cậu lại có thể đối xử với cô em gái của mình tệ như thế? Một tuần sau Duy nhận được mail trả lời. Hải cho biết rằng Quỳnh không phải là con của chú Nhuận. Quỳnh là cô em gái cùng mẹ khác cha, và sự hiện hữu của Quỳnh luôn làm Hải khó chịu bởi nó nhắc tới sự phản bội của mẹ, sự tha thứ của bố, sự sụp đổ hình mẫu gia đình lý tưởng trong Hải. Lý trí bảo Hải hãy yêu quý Quỳnh nhưng tình cảm luôn xui khiến cậu làm những điều đau đớn, ê chề cho cô em gái. Cuối cùng thì lý trí đã thắng. Phần tình cảm khắc nghiệt đã chuyển hóa. Khi Hải thực sự thấy thương xót cho cô em gái thì Quỳnh đã trở nên hư hỏng. Quỳnh đã từng nghiện hút, từng đua xe, từng dùng thuốc lắc và đâm trọng thương người khác bằng dao Thái Lan. Mẹ vẫn lấy lý do vào Nam công tác để ở với những người đàn ông của mẹ, bố thì vùi đầu vào công việc để quên đi chuyện bất lực của bố. Hải phải ra đi vì sợ phải sống trong một gia đình khủng khiếp như thế, và sợ phải thừa nhận về mình một điều rằng, tất cả những sự hư hỏng của Quỳnh đều có nguyên do từ Hải. Cái lần bố gửi Hải về quê Duy khi Hải lên mười là để giải quyết chuyện khúc mắc giữa mẹ và người đàn ông kia. Vì yêu mẹ, bố đã chấp nhận em Quỳnh khi đó còn đang là một bào thai. Hải vô hình chung trở thành cái phần khuất lấp trong bố, phần không thừa nhận em Quỳnh, phần không thể tha thứ đối với mẹ. Bây giờ Hải rất muốn làm một Hải khác, tức là biến mình thành một người anh trai mẫu mực trước cô em gái nhưng không thể làm được. Mọi thứ diễn ra ngượng ngập, phi tự nhiên và giả dối. Hình ảnh Hải trong Quỳnh là như thế rồi, bây giờ Hải có muốn làm khác đi thì Hải phải chết, phải hóa thân trong một Hải khác thì cô em gái đáng thương kia mới có thể tiếp nhận được. Vì thế Hải phải ra đi. Và Hải đang bế tắc trong việc làm mới hình ảnh mình...
Như thế là mọi bí ẩn trong gia đình chú Nhuận đã trở nên rõ ràng đối với Duy. Duy thấy thương người đàn ông giàu có và hào hoa ấy. Khi ông chụp ảnh với bố Duy ở chiến trường ông nở một nụ cười rất tươi. Nhìn vào nụ cười ấy không ai nghĩ rằng một tương lai buồn đang chờ đón ông. Ông là một trong số những đồng đội thành đạt nhất của bố Duy sau ngày xuất ngũ. Vậy mà ông lại đang phải gánh trên vai mình cả một bi kịch gia đình. Thi thoảng trong giấc mơ, Duy gặp lại Quỳnh. Không hiểu sao Duy rất hay mơ thấy Quỳnh đang nhảy. Bước nhảy cuối cùng của Quỳnh rất lạ. Nó như một đóa quỳnh bừng nở rồi bị cuốn đi trong cơn gió lốc. Bước nhảy ấy có hình chim ưng và hai màu vàng đỏ. Duy thường thức dậy với một nỗi lo sợ mơ hồ. Cảm giác bất ổn ấy hoàn toàn có thể lý giải được.
Khi mùa thu tàn thì Quỳnh xuống trường tìm Duy. Quỳnh đưa Duy ra một khúc đê của sông Hồng, lôi trong túi xách ra nào bim bim, bò khô, chuối sấy, xúc xích, dưa chuột, bánh mì và, cả rượu nữa. Quỳnh bảo: “Em buồn quá anh Duy ơi, hôm nay em với cái Huệ sầu vừa ở tòa án về. Bố nó chính thức bị tuyên án hai mươi năm rồi. Tên tuổi bố nó có khi anh cũng biết đấy. Mấy hôm nay báo chí đưa tin ầm ĩ. Còn cái Hường Madonna thì đã bỏ vào Nam với ban nhạc điên khùng của nó rồi anh ạ. Hôm biểu diễn đêm đầu tiên em cũng đi theo để cổ vũ. Không ngờ bố nó cũng có mặt ở đó và ông đã chạy lên sân khấu lôi nó xuống tát cho mấy tát. Đêm diễn vỡ, chúng nó phải chạy bạc mặt mới trả được hết nợ. Tuấn răng vàng thì đang băng bó toàn thân. Nó đua xe trên Đường 5 và... bay xuống ruộng. Cái vũ trường mà em đưa anh đến đấy, cũng bị đóng cửa rồi. Chủ nó buôn thuốc lắc. Cái Huệ rủ em đi hít nhưng em không muốn dùng lại thứ đó nữa. Em nhớ đến anh, chạy ào qua siêu thị mua vài thứ rồi xuống đây”.
Trăng lấp ló bên kia sông. Gió đầu đông lạnh cóng. Cả khúc sông buồn trôi trong ánh mắt Quỳnh. Duy chẳng biết phải an ủi Quỳnh như thế nào cả. Duy liền đọc thơ cho Quỳnh nghe. Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may... Ôi, sao thơ hay thế? Anh đọc nữa đi! Ta đi nhưng biết về đâu chứ/ Đã dấy phong yên lộng bốn trời/ Thì cứ ở đây ngồi giữa chợ/ Uống say mà gọi thế nhân ơi?Ôi, buồn quá. Nhưng mà hay quá. Sao ngày xưa em lại ghét thơ thế nhỉ? Ngựa ơi! Hãy nghỉ chân cuồng khấu/ Cho thỏa lòng ta nỗi khát khao/ Ta chẳng mò trăng như Lý Bạch/ Nhưng tìm thi hứng mất đêm nao... Anh Hải em có thích thơ không? Mà sao anh thuộc những câu thơ lạ thế? Anh làm quân sự mà cũng lãng mạn nhỉ? Có bài thơ nào nói về khiêu vũ không hả anh? Lui đôi vai, tiến đôi chân/ Riết đôi tay, nhả đôi thân/ Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió/ Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ/ Chân rã rời/ Quay cuồng chi được nữa/ Đất trời nghiêng ngửa/ Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ/ Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Lạnh tê tái. Trăng bàng bạc trôi trên mặt sông. Duy không muốn đọc thơ nữa mà kể cho Quỳnh nghe về đơn vị của mình. Đó là những dãy nhà nằm ngang dọc trong một thung lũng nhỏ. Vào những đêm đông như thế này tiếng gió gào thật khủng khiếp. Ở đấy có núi non, có những đồi dẻ chạy dài, có hồ nước uốn lượn, có những bãi tập địa hình rộng mênh mông. Ở đó có rất nhiều những người trẻ tuổi, đều xa gia đình cả và đều thích những vần thơ lãng mạn, hoài cổ, có hình ảnh chinh nhân. Ở đấy cũng có những người thích nhảy. Một lần Duy đi kiểm tra gác vào ban đêm. Khi qua chốt gác ở cổng phụ thấy hai cậu lính trẻ đang dạy nhảy cho nhau. Trong túi họ có một cái cátxét Walkman. Từ chiếc cátxét đó điệu nhạc chachacha phát ra vừa đủ cho hai người nghe trong vòng bán kính 2 mét. Duy đã yêu cầu họ viết kiểm điểm vì trong khi thực hiện nhiệm vụ đã tự ý làm việc riêng. Cậu lính trẻ có chiếc Walkman bảo: “Hôm nay là sinh nhật một thằng bạn thân của em. Nếu ở nhà thì bọn em đã quậy tưng bừng ở Kinh Đô rồi kéo nhau ra Ngõ Huyện hát cả đêm. Lâu lắm rồi em không được nghe nhạc sống. Nhớ những bước nhảy quá!”. Kể xong câu chuyện đó Duy bảo với Quỳnh rằng Duy luôn nghĩ mình còn trẻ nhưng có lẽ Duy không hiểu hết được những người trẻ. Mãi hôm đi với Quỳnh lên sàn nhảy, Duy mới hiểu thế nào là “thèm nhạc sống” và “nhớ những bước nhảy” của những cậu trai phố. Hai cậu lính trẻ ấy ra quân cả rồi, bây giờ có lẽ đang làm một nghề gì đó và biết đâu, lấy vợ rồi cũng nên?
Rõ ràng những câu chuyện của Duy tẻ nhạt và xa lạ đối với Quỳnh nhưng cô lại ngồi nghe rất chăm chú. Cô có cảm giác như mình là người được tin cậy, được gửi gắm những điều tâm sự, điều mà anh trai cô không bao giờ làm đối với cô. Thật ra, trong sâu thẳm lòng mình cô còn hận anh trai lắm. Hận nhưng chỉ biết đem bản thân ra mà trả thù thôi. Cổ tay cô vẫn còn vết sẹo nhỏ như sợi chỉ. Đó là lần cô dùng lưỡi dao lam tự cắt mạch máu mình để tự tử. Đó cũng là lần duy nhất anh trai cô ôm cô vào lòng. Khi cô được cứu sống thì anh trai cô lại trở nên xa lạ. Tại sao chứ? Tại sao cô có anh trai mà lại như người dưng thế chứ? Khi trăng trôi về phía thượng nguồn thì Duy đưa Quỳnh về. Mặt Quỳnh đã tái đi và người cô thì rét run lên. Trước khi chia tay Duy, Quỳnh bảo “Hôm nào anh chép cho em mấy bài thơ anh vừa đọc nhé”. Từ hôm ấy, hễ có khi nào được ra khỏi trường là Duy lại lên nhà chú Nhuận chơi. Vợ chú Nhuận hồn hậu, vồn vã nhưng lúc nào cũng như đang còn phải làm dở một việc gì đó. Duy không sao nắm bắt nổi người đàn bà đẹp này. Chỉ có mùi nước hoa rất đặc trưng của bà là Duy còn lưu giữ được. Nó quyến rũ và gợi cho người ta cảm giác muốn đi ngủ. Bà luôn tránh cái nhìn của Duy và thường bỏ đi mỗi khi còn lại hai người. Bà nói với Quỳnh rằng Duy là một chàng trai trung thực, cậu ấy có ánh mắt rất nghiêm nghị, ánh mắt ấy gây cho người đối thoại cảm giác mình là kẻ tầm phào. Chú Nhuận rất vui. Chú cảm nhận được Duy có ảnh hưởng tích cực đến cô con gái bướng bỉnh và ham chơi của mình. Duy ít gặp lại đám bạn cũ của Quỳnh. Chỉ thỉnh thoảng thấy Tuấn tạt qua trao đổi gì đó với Quỳnh rồi lại rồ ga phóng vụt đi. Đôi ba lần Quỳnh đưa Duy đến nhà Huệ. Huệ có vẻ như đang trượt dốc thê thảm. Cô đã bỏ học và đang làm thủ tục xuất cảnh. Quỳnh đi học thêm một lớp nấu ăn. Lời mời về quê Duy chơi vẫn còn nguyên giá trị, và hai người hẹn nhau sẽ thực hiện điều đó vào dịp tết.
Và dịp tết đã đến.
Hai người thỏa thuận với nhau rằng Duy phải đón giao thừa ở nhà Quỳnh, sau đó cả hai sẽ về quê Duy vào sáng mùng Một. Đó không chỉ là ý của Quỳnh mà còn là ý của chú Nhuận nữa. Điều này cũng phù hợp với ca trực của Duy ở trường. Quỳnh đón Duy lên nhà từ chiều ba mươi. Cô đưa Duy đi chợ hoa Hàng Lược, rồi ra Hàng Mã, ngược lên Bờ Hồ, đi triển lãm Giảng Võ. Cô luôn miệng hỏi Duy thích cái gì? Duy bảo thích lấy vợ. Quỳnh bảo không được, lấy vợ thì Quỳnh sẽ mất ông anh ngốc nghếch và đáng yêu! Quỳnh khuân hết thứ này đến thứ khác về nhà, ngồi một lúc rồi lại nhớ ra còn quên cái này cái nọ, thế là lại lôi Duy đi. Khi từ siêu thị Tràng Tiền bước ra, Quỳnh gặp Tuấn. Tuấn bảo: “Vẫn thế chứ, không thay đổi nhé?”. Quỳnh gật đầu, khẽ đưa ngón tay cái lên làm hiệu. Chú Nhuận vướng đưa mấy ông bạn đối tác người nước ngoài đi xem chợ xuân, mãi hơn mười giờ mới về. Vợ chú ở nhà lúi húi soạn sửa việc cúng giao thừa. Hải gọi điện về vào lúc mười một giờ. Hải bảo muốn gọi vào lúc giao thừa nhưng sợ nghẽn mạch, thôi thì gọi trước cho chắc ăn. Duy có cầm máy nói chuyện với Hải đôi ba câu. Duy cảm nhận được sự yên ấm và hạnh phúc đang hiện hữu trong căn nhà của chú Nhuận. Không khí gia đình chú trước khoảnh khắc giao thời khác hẳn mọi ngày. Vợ chú Nhuận có vẻ điềm đạm và bình thản hơn. Bà chủ động chuyện trò với Duy. Bà sợ Duy nhớ nhà và tủi thân. Chú Nhuận bật rượu ra mời Duy. Có vẻ như muốn lai rai chờ đến giao thừa luôn. Nhưng Quỳnh nháy Duy đứng dậy để đi bẻ cành lộc.
Quỳnh mặc một bộ đồ thể thao màu đỏ xen những sọc vàng. Trông cô khỏe khoắn, trẻ trung có phần hồn nhiên, nhí nhảnh. Duy thấy nhớ nhà, nhớ đơn vị, nhưng đi bên Quỳnh thì lại thấy vui. Máy di động của Quỳnh chuông đổ liên tục. Cô tắt máy đi, không nghe. Hai người đi lòng vòng một lúc thì sắp đến giao thừa. Quỳnh mua mấy cành phát tài làm lộc rồi bảo Duy quay về cho kịp giờ. Khi ti vi truyền trực tiếp chương trình bắn pháo hoa thì Duy cùng Quỳnh và vợ chồng chú Nhuận nâng ly chúc mừng năm mới. Quỳnh chỉ uống một ly duy nhất rồi bảo: “Con đi ngủ đây. Lấy sức để mai còn đi đường xa”. Duy bỗng thấy cảm động. Cả nhà chú Nhuận đã chuẩn bị cho Duy rất chu đáo. Ngày mai hai anh em sẽ về nhà Duy bằng xe máy. Với Duy, có lẽ đây là một cái tết đáng nhớ. Duy thấy phấn chấn, liên tục giơ ly lên cụng cùng chú Nhuận. Cạn chai rượu thì chú Nhuận nhắc Duy đi ngủ. Thế là tàn giao thừa. Lại một đêm ba mươi nữa trôi qua trong đời. Nhanh thật!
Duy leo lên cầu thang, lần bước về phòng Hải. Duy đã quen với căn phòng này. Khi Duy tắt điện chuẩn bị đi ngủ thì có một bóng người lướt qua cửa phòng. Lúc đầu Duy cho là ảo giác vì thấy trong người cũng đã ngà ngà, rất có thể nhìn gà hóa cuốc. Nhưng cái bóng người ấy hình như mặc một bộ đồ màu đỏ? Duy bỗng nghĩ đến Quỳnh. Duy liền nhẹ nhàng bước theo những bậc cầu thang dẫn lên sân thượng. Cửa trổ ra sân không chốt. Đúng là có người đã ra ngoài. Chẳng lẽ Quỳnh không ngủ được, muốn ra sân thượng ngắm đất trời trong khoảnh khắc vào xuân? Duy đẩy cửa bước ra. Sân thượng vắng tanh. Duy đi ra phía trước. Và lần này thì không phải là ảo giác nữa, Duy đã nhìn thấy Quỳnh đang lom khom đi trên mái nhà hàng xóm. Từ sân thượng nhà mình, Quỳnh tụt xuống mái nhà bên cạnh thấp hơn, rồi Quỳnh lại tụt tiếp xuống tầng dưới. Nhà hàng xóm có một mái quán trổ ra phía mặt đường. Quỳnh nhẹ nhàng lần ra mái quán ấy và cô nhún mình nhảy xuống vỉa hè. Duy nhắm mắt lại. Bước nhảy có hình chim ưng và hai màu vàng đỏ! Duy định cất tiếng gọi nhưng không kịp nữa. Sau khi tiếp đất Quỳnh ngã lăn ra nhưng cô lại gượng dậy ngay. Cô chạy xuống lòng đường và leo lên một chiếc xe máy chờ sẵn. Chiếc xe phóng vụt đi. Duy đã nhận ra cái dáng quen thuộc của người cầm lái. Một cảm giác như là ghen tuông bỗng xuất hiện và cứ thế lớn dần lên trong Duy.
Quay trở lại phòng nhưng Duy không sao ngủ được. Không biết thời gian trôi qua được bao lâu thì có tiếng chuông điện thoại. Duy chạy xuống phòng Quỳnh nhấc máy kéo dài. Tiếng Huệ “sầu” run run: “Anh Duy ơi, cái Quỳnh đua xe bị tai nạn rồi. Bữa trước thằng Tuấn răng vàng đua bị thua. Chúng nó thách nhau đua vào đêm nay. Luật chơi là mỗi xe phải có một nam một nữ. Thằng Tuấn thì hiếu thắng, cái Quỳnh lại nể bạn nên chấp nhận ngồi cùng. Nó bảo chỉ ngồi một lần này nữa thôi, nhưng mà...”.

Duy nghe thấy một tiếng “cạch” rất to. Tiếng của tổ hợp điện thoại rơi xuống đất! Vậy là ở dưới nhà chú Nhuận hoặc vợ chú cũng đã nghe thấy hết cả. Bước nhảy trong những giấc mơ tiên cảm của Duy cuối cùng đã hiện ra. Đó là một bước nhảy phi thân từ mái quán xuống vỉa hè. Bước nhảy có sắc màu, như một đóa quỳnh bừng nở rồi bị cuốn trôi đi trong cơn gió lốc...
Chú thích:
Thơ của Phạm Công Trứ, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương.
Hết.
05:00 CH 12/08/2016
Một chuyện khó tin
Tôi thực sự thấy mừng cho anh Bền vì cuộc sống đối với anh có vẻ đã dễ thở hơn. Tôi thấy anh có quần áo mới, lại sắm thêm được một số đồ vật cho căn nhà trọ tồi tàn của mình. Tôi đùa anh: "Cưới vợ đi thôi còn chờ gì nữa?". Anh Bền bảo: "Anh còn nặng nợ lắm, sáu, bảy miệng ăn ở quê trông chờ cả vào anh. Mà đứng trước con gái anh chẳng biết ăn nói ra sao cả. Họ chê anh ù lì, vô duyên".
Nhưng rồi anh Bền cũng có người yêu. Đó là một người đàn bà đã cứng tuổi, ngồi bán hàng nước ở cổng vườn hoa. Tôi bảo: "Trông như các Ma Ma ở lầu xanh ấy, không phải con nhà lành đâu anh Bền ạ". Anh Bền thở dài thườn thượt rồi bảo: "Thì cả đời làm nghề ấy, bây giờ già rồi ra ngồi vỉa hè, giá có chết cũng chưa chắc đã có người chôn, anh thấy tội, ngỏ ý, chị đồng ngay. Anh gần bốn mươi rồi, đời cũng đến thế này là hết, anh chị về ở với nhau trước hết là vì cái tình người đã, nếu có được với nhau một mặt con thì thật là ông trời ông ấy thương, em bảo anh còn mong điều gì hơn nữa?"
Giữa lúc anh Bền đang bàn đến chuyện lấy vợ thì tôi nhận được thư bố gọi về quê. Thư bố tôi viết rằng: "Vì nhà nghèo, bố mẹ hèn kém nên con mười bảy tuổi đã phải lăn lóc ra đời kiếm sống, bố nghĩ ngợi nhiều lắm. Nay bố được xã cho thầu khu đầm Mõm Chó gần bãi tha ma chỗ giáp với làng Thượng, vậy là nhà ta có cái để làm kinh tế rồi, con về cùng bố vỡ hoang khu đầm này, chắc chắn cả nhà ta sẽ hết cực khổ, các em con cũng có cơ mở mày mở mặt. Nhận được thư con thu xếp công việc về ngay, bố và các em chờ."
Vậy là tôi chia tay cửa hàng đồ gỗ cao cấp, chia tay anh Bền đang chuẩn bị bắt tay vào xây dựng gia đình riêng, chia tay anh Hùng suốt ngày "đánh bóng mặt đường" để bán hợp đồng bảo hiểm, chia tay thành phố và con ngõ nhỏ, trở về quê làm công việc của nhà nông.
Mãi ba năm sau tôi mới có dịp quay lại con ngõ mà tôi đã trọ suốt tuổi mười bảy. Tất nhiên công cuộc làm kinh tế của bố con tôi ở cánh đồng Mõm Chó đã thất bại thảm hại. Tôi lại mang sức trai hai mươi ra thành phố gánh vác trách nhiệm kiếm tiền gửi về cho bố mẹ trả nợ và nuôi các em. Tôi vội đi tìm những người mà tôi quen biết. Mới có ba năm thôi mà chẳng còn ai là người quen cũ cả ngoài anh Hùng vẫn ở một mình từ sau ngày tôi đi.
- Chú mày lại lên đây cùng anh chia nửa số tiền nhà trọ à?
- Anh Hùng đón tôi bằng một câu hỏi thẳng thừng như thế
- Khốn nạn! Bỏ quê mà đi là khốn nạn rồi chú em ạ.
- Vâng, anh Bền còn ở đây không anh?
- Không.
- Anh ấy lấy vợ rồi về quê ở hả anh?
- Vợ gì? Chuyện anh Bền chú mày chưa biết gì sao?
- Chưa, có chuyện gì vậy anh?
- Chuyện dài lắm nhưng mà...khốn nạn lắm.

Quả thực tôi không biết anh Bền gặp chuyện vui hay chuyện buồn vì với anh Hùng cái gì cũng "khốn nạn" cả. Học đại học ra cũng khốn nạn, ở lại thành phố cũng khốn nạn, bỏ quê mà đi-khốn nạn, đi làm bằng xe máy, giao dịch bằng điện thoại di động-khốn nạn, người yêu đến tận nhà khóc sướt mướt vì lỡ hẹn-khốn nạn, trúng số đề cũng khốn nạn, vậy chuyện khốn nạn của anh Bền được hiểu theo nghĩa nào?
Đêm hôm ấy anh Hùng đã kể cho tôi nghe chuyện về anh Bền. Câu chuyện như thế này:
Sau một thời gian từ chối không cho ông chủ quán rượu dâm dương hoắc thuê con khỉ đến mua vui vào ban ngày bỗng nhiên anh Bền thay đổi ý. Hình như anh Bền cần tiền, cần nhiều tiền, còn ông chủ quán rượu thì luôn muốn chiều khách. Thế là họ ký tắt với nhau một thoả thuận bằng miệng, đại thể anh Bền sẽ đưa con khỉ đến "làm thêm" ở quán rượu vào các buổi chiều ngày thứ bảy, chủ nhật ngoài các buổi tối như thường lệ. Buổi "làm thêm" đầu tiên anh Bền trực tiếp ôm con khỉ đến quán. Hôm ấy trời mưa sụt sùi, khách đến quán rất đông. Anh Bền chọn một góc quán ngồi độc ẩm. Con khỉ vẫn như mọi hôm, nhảy từ bàn này sang bàn khác, cầm rượu đổ vào miệng rồi tung chén trả lại cho khách. Nó cũng ăn dưa chuột, lạc chiên, bim bim và khi ngà ngà say nó cũng đi chếnh choáng, trệu trạo, trông rất tức cười. Chiều càng về muộn mưa càng to. Nước trút xuống tắc các ngả đường thành phố. Khách vãn dần. Ông chủ ngửa mặt nhìn trời rồi quyết định đóng cửa sớm. Anh Bền kiệu con khỉ ra về. Mưa hắt vào họ làm cả hai đều ướt. Về đến nhà anh Bền thấy người khó chịu, nằm vật ra giường. Con khỉ rúc vào ngực anh tìm hơi ấm, anh Bền quàng tay ôm lấy nó, cả hai cùng ngủ thiếp đi. Trời tối hẳn thì anh Bền tỉnh dậy. Anh có cảm giác ngực mình lành lạnh. Anh vội ngồi bật dậy. Con khỉ như đang ôm hờ vai anh liền rơi tuột xuống đùi. Anh Bền bế con khỉ lên nhưng nó đã chết. Nó chết mà như ngủ, phần lông ở ngực vẫn còn hơi âm ấm. Anh Bền vội hà hơi vào miệng nó, cố truyền cho nó chút sức lực của mình, hy vọng nó sẽ sống lại. Nhưng mọi cố gắng của anh Bền đều vô ích. Con khỉ mỗi lúc một lạnh ngắt, tứ chi bắt đầu cứng lại. Anh Bền ôm mặt, nức nức những tiếng trong cổ họng. Người dân ở trong ngõ chưa bao giờ thấy anh Bền khóc nhưng hôm ấy họ đã được chứng kiến anh Bền khóc thành tiếng. Khó có thể tưởng tượng nổi tiếng khóc của một người đàn ông gần bốn mươi tuổi dãi dầu mưa nắng như anh Bền. Nó ai oán, thảm thiết làm sao! Anh Bền cứ ngồi ôm con khỉ như thế mà khóc. Ngoài trời vẫn mưa. Mưa lây rây, lây rây chứ không ào ạt trút nước như ban chiều. Chẳng mấy chốc cái tin con khỉ chết loan tới tai những người bạn trong nhóm Mút chỉ đầu gà của anh Bền. Họ rủ nhau kéo đến chia buồn. Mỗi người trong số họ mang theo hai chai Lavi rượu, đút căng phồng cả túi quần. Họ kéo anh Bền ngồi xuống rồi xoay tròn cứ thế lần lượt nâng cốc. Vẫn những bộ mặt lầm lầm lì lì khi bắt đầu vào cuộc rượu. Chỉ đến lúc quá nửa số chai Lavi đã được dốc ngược họ mới chuyện trò với nhau. Một người bảo: "Không thể cứu được con khỉ này nữa rồi, hãy chọn cho nó một cách đưa ma sao cho xứng với những gì mà nó đã làm cho chủ". Một người khác tiếp lời: "Hoả táng là sạch nhất". Người khác nữa lại bảo: "Địa táng". Người tiếp theo bảo: "Thiên táng". Các ý kiến cứ nhao nhao lên, chỉ riêng anh Bền vẫn ngồi lặng yên, đôi mắt dại đi, tay trái vòng ôm chặt lấy con khỉ. "Thực táng! Chỉ có thực táng là hợp lý nhất vì máu thịt của con khỉ sẽ hoà vào với máu thịt của chúng ta, như vậy con khỉ sẽ không bao giờ mất đi, nó luôn ở trong mỗi tế bào của chủ nó. Ta sung sướng nó cũng được sung sướng, ta khổ sở nó cũng cùng chịu khổ, chả phải như thế mới đáng gọi là tình chủ tớ tuyệt vời nhất thế gian này hay sao?". Quả là một ý kiến khác thường nhưng nó làm cho đôi mắt của anh Bền sáng bừng lên. Cả nhóm Mút chỉ đầu gà sau một hồi ngớ ra đều nhất loạt vỗ tay hưởng ứng.
Thế là trong khi anh Bền châm hương lập bàn thờ thì nhóm bạn anh đun nước làm thịt con khỉ. Đêm ấy họ uống tới sáng. Cứ chốc chốc lại phải cử người đi lấy rượu. Riêng đầu con khỉ được đặt lên một chiếc đĩa, để ở giữa mâm. Những người tham gia lễ thực táng dùng tay xoay đầu con khỉ quay quay trên đĩa. Cái mõm của nó chỉ vào người nào thì đến lượt người ấy uống. Sáng hôm sau anh Bền tỉnh dậy thì không còn thấy một ai nữa. Nhóm bạn rượu của anh đã bỏ ra về tự lúc nào không biết. Giữa nhà chiếc đầu con khỉ vẫn còn nằm đó, mõm xoay về hướng anh Bền. Anh Bền đi đâu mõm con khỉ xoay theo đó. Anh Bền sợ quá vội quì xuống lạy lấy lạy để đầu con khỉ, đến khi ngẩng lên thấy nó cũng đang gập lên gập xuống lạy trả lại anh.
Anh Bền hét lên một tiếng rồi ngất đi. Người ta đưa anh Bền vào bệnh viện. Bố anh từ dưới quê lên chăm sóc anh. Anh Bền tỉnh nhưng không nói được, mọi việc đều phải ra hiệu, miệng kêu "Khẹc...Khẹc". Đến khi anh Bền khoẻ lại thì mắc bệnh ngứa. Các y bác sĩ cởi quần áo của anh ra và họ vô cùng kinh ngạc khi phát hiện toàn bộ cơ thể anh mọc một lớp lông dày màu xám trắng. Ông cụ đẻ ra anh xin đưa anh về quê để chăm sóc. Anh Bền về quê được hơn một tháng thì chết. Hôm anh chết ông chủ quán rượu dâm dương hoắc cũng có về đưa ma.
- Không, không thể như thế được, sao anh khéo tưởng tượng một cách độc ác thế, anh Bền có thù oán gì với anh đâu? - Tôi bỗng phản ứng lại một cách gay gắt trước câu chuyện được kể từ anh Hùng.
- Khốn nạn! Anh đã nói với chú mày ngay từ đầu là chuyện chẳng hay ho gì cơ mà? Anh chỉ kể lại những gì anh biết, nếu chú mày không muốn nghe nữa thì thôi, anh đâu phải thằng thích buôn chuyện.

Anh Hùng có vẻ bực bội, bỏ về giường nằm, để tôi ngồi lại bên bàn nước một mình. Cả đêm hôm ấy tôi không sao ngủ được. Sáng hôm sau vừa chuông đồng hồ là tôi chạy ngay sang chỗ mấy anh sinh viên trọ ở cuối ngõ. Tôi muốn hỏi họ về chuyện của anh Bền. Nhưng họ đã không còn ở đó nữa. Họ tốt nghiệp rồi và đã rời khỏi nơi đây. Tôi chạy sang nhà anh Bền. Nhà đã có chủ khác. Người mới đến thuê chỉ cho tôi xem chiếc đầu khỉ treo trên tường, bảo: "Tôi đến đây đã thấy treo ở đó rồi, của ai thì tôi chịu, tôi không biết anh Bền nào cả". Tôi chạy một mạch ra đầu phố, đến quán rượu dâm dương hoắc năm xưa. Bà chủ quán bước ra nhìn tôi như một khách quen, cất giọng xởi lởi: "Cậu đến lấy rượu sớm thế? Có điện đặt trước không? Bao nhiêu lít hả em?"

- Không, tôi muốn gặp ông chủ.
- Ông chủ nào?
- Ông chủ quán rượu dâm dương hoắc.
- Vớ vẩn. Lão ấy biến xới lâu rồi.
- Biến đi đâu?
- Ai mà biết được. Bây giờ ở đây bán rượu sán nùng chú em ạ. Dân thành phố bây giờ chuyển sang dùng loại rượu này rồi. Cậu em dùng dâm dương hoắc làm gì, trẻ thế kia đã phải dùng thứ ấy rồi sao? Mà làm gì có dâm dương hoắc, lừa đảo đấy thôi! Chị mày đây bán rượu từ năm lên mười tuổi, cậu em thích rượu gì chị bán cho rượu đó, làm gì phải mất công đi tìm lão chủ quán cũ, mệt người, vô ích, lại chả tốn tiền rước phải rượu rởm"

Tôi bỏ quán rượu, chạy ngược lên chỗ vườn hoa thành phố. Vẫn mấy người ngồi thu lu bên cửa ra vào kia nhưng không có ai là người đàn bà giống Ma Ma cả. "Ai cơ? à, mụ ấy hả, lên trại phục hồi nhân phẩm mà hỏi nhá. Mà sao đã đi tìm cái khoản ấy sớm thế? Giờ này chúng nó còn ngủ cả, chưa ma nào dậy đâu, chú em có chờ được thì chờ ".
Thế là chịu. Tôi không còn biết hỏi ai cho rõ thực hư về chuyện của anh Bền nữa. Nếu câu chuyện đúng như anh Hùng kể thì khó tin quá. Nhưng trên đời này thiếu gì những điều khó tin vẫn xảy ra. Và với anh Bền tôi phải tin vào một chuyện không thể tin được như vậy sao? Lần đầu tiên tôi đã thốt lên cái câu cửa miệng của anh Hùng: Khốn nạn!
Tối hôm ấy tôi ngồi viết thư cho bố. Tôi ghi rằng: "Bố ơi, cuộc sống thành phố đối với con rất dễ thở. Con sẽ cố gắng làm để gửi tiền về cho bố mẹ và các em. Bố đừng lo con trẻ người non dạ. Con sẽ làm được những điều mà bố không tin nổi cho mà xem. Bố cứ yên tâm bố nhá!"

Tất nhiên, tôi sẽ còn chưa thôi tìm hiểu về chuyện của anh Bền, một chuyện khó tin đến thế kia mà!
Hết.
04:43 CH 12/08/2016
Mơ về một khúc sông trôi
- Phạm nhân Quyên, ra ngoài!
Lại thứ ngôn ngữ lạnh lùng và đáng ghét ấy. Lại tiếng kẹt cửa và khuôn mặt vô cảm của người nữ quản giáo. Lại khoảng sân dài cùng hành lang hẹp đưa em đến phòng hỏi cung. Lần này không phải ông luật sư già có mái tóc bạc như cước. Lần này là người của “ông ấy”. Ông ấy lại cho người vào lên giây cót tinh thần cho em. Điền đừng quắc mắt lên như thế mỗi khi nghe em nhắc đến “ông ấy”. “Ông ấy” là bố chồng của em kia mà. Ông ấy có quyền yêu thương em chứ? Khi bố em là bí thư thị ủy thì ông ấy là người ở trên huyện. Cái thị trấn bé tí, đáng kể nhất là cái chợ mỗi khi đi học Điền thường phải đi qua, về mặt hành chính nó chỉ tương đương với cấp xã thôi. Bố em cũng chỉ là một bí thư xã chứ có to tát gì đâu. Thế nên ông ấy là cấp trên của bố em. Ông ấy có thể giúp bố em phát lộ quan chức hơn nữa. Bố em không thể không nể vì ông ấy. Và khi ông ấy ngỏ lời muốn em về làm dâu nhà ông ấy, làm sao bố em không mừng vui cho được? Khổ nỗi em lại đang vướng víu với Điền. Đôi ba lần ông ấy nhìn thấy em và Điền đèo nhau trên chiếc xe đạp Liên Xô do chính ông ấy tặng. Rồi ông ấy lại phát hiện ra ông ấy và bố Điền trước đây từng công tác một tổ với nhau khi còn ở ngành đường sắt. Thế là ông ấy tìm đến nhà Điền. Có lẽ vì thế mà Điền mới được kết nạp Đảng ngay khi còn ở trong trường. Rồi lại được điều về dạy ở trường điểm của huyện. Và Điền là một trong những đảng viên trẻ nhất của ngành giáo dục lên đường nhập ngũ khi chiến tranh biên giới xảy ra.
Chỉ có điều, Điền đã bỏ rơi em. Điền ham muốn công danh. Điền say mê quyền chức. Điền phủi em nhanh như phủi một cọng rơm. Cái ngày Điền đi, em đã muốn đến gặp Điền để mắng vào mặt Điền, thậm chí tát vào mặt Điền nữa. Nhưng hôm ấy Điền chỉ ríu rít với cô bạn hàng xóm của Điền thôi. Điền không thèm nhìn em. Điền không muốn dành cho em một nửa ánh mắt. Lòng tự ái của em bị tổn thương ghê gớm. Em đã không thèm gửi quà cho Điền, không thèm hẹn hò thư từ với Điền, không thèm nghĩ rằng đã có một người bạn như Điền nữa. Em bỏ về và sau ngày Điền đi một năm em về làm dâu nhà ông ấy.
- “Ông ấy” nói rằng án hai mươi năm là thắng lợi bước đầu. Cố gắng giữ vững lập trường, xử phúc thẩm chắc chắn sẽ giảm nữa. Hãy vì thằng Bin mà chịu đựng. Quá trình thi hành án sau này sẽ có những tác động hiệu quả hơn.
Thế đấy. Điền có biết bây giờ em sống vì ai không? Vì thằng Bin. Phải, cái thằng có lần cứ đòi nhảy từ tầng bốn xuống đất, sau Điền phải leo tường lên từ phía sau lôi nó xuống đấy. Nó đã 18 tuổi rồi Điền ạ. Nó là đứa cháu duy nhất của ông ấy. Ông ấy đáng thương lắm Điền biết không? Từ chiến trường ra cơ thể ông ấy bị nhiễm chất độc hóa học nên không dám sinh nở nhiều. Ông ấy chỉ có một người con là bố thằng Bin thôi. Trước khi về làm con dâu ông ấy, em không biết gì về người chồng của em cả. Chỉ được nghe nói rằng đó là một chàng trai cao lớn, thông minh, học ở Liên Xô về, đang công tác ở một công trường dưới Quảng Ninh. Mấy lần ông ấy đưa ảnh cho em xem. Quả cũng đẹp đẽ thật. Buổi sáng hôm rước dâu, ông ấy thông báo rằng, công trường xảy ra tai nạn lao động, con trai ông ấy và mấy chuyên gia Liên Xô bị thương nặng, hiện đang điều trị tại nhà điều dưỡng bên vịnh Hạ Long, không thể về được. Thế là em lên xe hoa một mình, không có chú rể.
Đêm tân hôn không có người đàn ông nào nằm bên em cả. Đêm ấy em mơ tới Điền. Tiếng súng đì đùng từ biên giới vọng về xé rách giấc miên viễn buồn nản của em. Một tuần sau một chuyến xe đặc biệt mới chở chồng em từ Quảng Ninh về. Em nhận ngay ra sự dối lừa khủng khiếp của ông ấy. Chồng em chẳng phải kỹ sư hay phiên dịch viên gì hết. Chồng em là một thanh niên đang suy sụp vì bệnh teo cơ. Chất hóa học ông ấy nhiễm phải truyền sang người cậu con trai, và chồng em đã phải bỏ dở chương trình học tập ở Liên Xô, trở về điều trị tại Quảng Ninh vài ba năm nay rồi. Em muốn bỏ về nhà ngay nhưng ông ấy đã khóc. Ông ấy bảo cuộc đời ông ấy chẳng còn gì cả, chỉ còn cậu con trai đáng thương ấy thôi. Lạy trời, bố thằng Bin không đến nỗi nào, ngoại trừ đôi chân giống như hai chiếc cẳng bò vô cảm. Em đau đớn quá. Nhưng em không còn chỗ để tháo lui. Hiện tại em không có tình yêu, quá khứ cũng khước từ em, em còn biết trốn chạy đi đâu, tìm đến miền trú ẩn nào nữa đây? Lần cuối cùng nói chuyện với em, Điền bảo rằng Điền hợp với cô bé hàng xóm hơn vì cùng cảnh ngộ. Em tưởng Điền nói đùa, ai ngờ từ đó không bao giờ em còn có cơ hội để nói chuyện với Điền nữa. Em cho rằng Điền thách thức lòng kiêu hãnh của em. Em cứ nghĩ rằng em đang phủi Điền, em tìm lại cảm giác soi mói và độc ác vào buổi chiều mang cuốn sổ liên lạc đến nhà Điền khi nhìn xuống vạt bụng gầy nhom và hai cạp quần được dây gai buộc túm lại. Em cứ nghĩ rồi Điền sẽ chạy đến với em. Nhưng em càng chờ đợi thì Điền càng rời xa em.
Năm năm sau ngày cưới cả bố em và ông ấy đều vô cùng sung sướng khi biết em có thai. Cuộc sống vợ chồng em cuối cùng thì cũng có kết quả. Em sinh ra thằng Bin. Ba cân rưỡi, chân tay, mặt mũi đều hoàn toàn bình thường. Ông ấy cảm thấy được đền bù. Ông ấy càng yêu quý con dâu hơn. Đường công danh của ông ấy cũng không ngừng thăng tiến. Ông ấy được rút lên tỉnh. Bố em cũng được rút lên huyện. Chồng em sống thêm được vài năm nữa, khi thằng Bin lên ba tuổi thì mất. Em bắt đầu bước vào quỹ đạo chính trị. Từ một cô giáo em được rút về phòng giáo dục, rồi đi học, rồi sang làm công tác phụ nữ, rồi công tác tuyên giáo, rồi trở thành nữ phó chủ tịch huyện. Trước đó vài năm bố em nghỉ công tác vì lý do sức khỏe. Còn bố chồng em, ông ấy vẫn ở trên tỉnh, vẫn hàng ngày chỉ đạo các hoạt động của em. Năm ngoái chủ tịch huyện được điều đi nơi khác, em lên nắm quyền chủ tịch. Em biết Điền đã xuất ngũ, đã đi học thêm ở Hà Nội rồi trở về mái trường chuyên nghiệp năm xưa em và Điền từng học. Thi thoảng em vẫn được nghe những tin tức về Điền. Điền lên trưởng khoa, rồi hiệu phó, và mới đây là hiệu trưởng. Điền còn tham gia cả Hội đồng nhân dân tỉnh nữa. Ai đó đã nói không sai rằng sự nghiệp của người đàn bà là tình yêu còn tình yêu của người đàn ông là sự nghiệp. Trên bước hoan lộ của của mình có bao giờ Điền nghĩ đến em không? Có. Đúng rồi. Chẳng phải đã có lần Điền xộc thẳng vào phòng em với ánh mắt quắc lên như ngày nào muốn giành giật từ em cuốn sổ liên lạc. Và Điền đã nói rằng: Khúc sông trôi...
- Tại sao anh lại nói đến khúc sông trôi? - Em đã hỏi Điền câu đó với tư cách là một nữ chủ tịch huyện.
- Đồng chí không biết quy luật của dòng chảy sao? Sáu tháng đầu năm bờ trái bồi, bờ phải lở, sáu tháng cuối năm thì ngược lại. Bây giờ đang là mùa lũ cuối năm. Làm đường bên bờ trái lúc này là đổ tiền của xuống sông xuống biển...
- Cám ơn đồng chí, chúng tôi đã có những chuyên gia giỏi về vấn đề này. Mà anh Điền này, anh vẫn nói với tôi là khúc sông đứng yên kia mà, có cái gì trôi được đâu?

Điền ngỡ ngàng nhìn em. Rồi Điền hạ giọng: “Chiều nay tôi muốn gặp Quyên ở quán cà phê dưới chân cầu treo có được không? Lâu lắm rồi chúng ta không có dịp nói chuyện với nhau”.

Buổi chiều hôm đó thật khủng khiếp đối với em. Vì em chợt nhận ra rằng em vẫn yêu Điền. Trong em không có hình ảnh nào có thể thay thế được Điền. Em đã phủi Điền bằng thời gian và sự căm ghét, đôi khi là cả sự thù hận nữa, nhưng Điền vẫn không ra khỏi em. Điền hỏi em rất nhiều điều. Về sức khỏe, về gia đình, về con cái... Giữa lúc ấy cậu lái xe hớt hải chạy vào báo với em rằng thằng Bin đang đòi nhảy từ tầng bốn nhà em xuống đất. Điền và em lao ra xe. Trong khi em van vỉ cậu con trai mù lòa đừng chán đời mà lao xuống đất thì Điền chui qua cửa sổ tầng ba, leo lên sân thượng tầng bốn túm lấy thằng Bin đưa xuống. Thằng Bin đẹp như bố nó nhưng lên 5 tuổi thì hai mắt bỗng dưng mù. Mấy năm gần đây, khi bước sang tuổi thiếu niên tự nhiên nó trở tính, hay hờn hay dỗi, thường cáu bẳn và đòi tự sát. Hôm ấy em hoãn cuộc họp thường vụ để ở nhà nấu cơm mời Điền. Em cảm thấy rất vui khi được làm một người nội trợ. Trong bữa cơm Điền liên tục kể những câu chuyện vui thời Điền đóng quân trên biên giới. Khiếu hài hước của Điền làm thằng Bin ngoác miệng ra cười thích thú. Nó thán phục Điền khi Điền kể về những chuyện chiến đấu, chuyện đói khát, chuyện lạc trong rừng sâu...
Tối đến, khi thằng Bin đi ngủ, Điền nhìn em bằng ánh mắt rất lạ. Trong một lần đèo em về trên chiếc xe đạp Liên Xô, Điền cũng đã từng nhìn em bằng ánh mắt như thế. Điền chở em ra bờ sông. Dưới chân cầu treo, gió rào rạt thổi, Điền đặt em lên yên xe, xoay mặt lại. Điền ngồi trên gác ba ga, xoạc chân ra hai bên làm trụ chống. Điền nhìn như thôi miên em. Ánh mắt của Điền lần đầu tiên có những tia sắc dục tươi trẻ và đắm say. Em đã nín thở khi đôi môi Điền chạm vào người em. Hai tay Điền bóp chặt lấy hông em. Trời ơi, cái cảm giác diệu kỳ ấy sau này thỉnh thoảng lại thức dậy trong em, và nó làm em thù Điền. Hôm ấy Điền lại nhìn em như thế. Nhưng em chưa thể tha thứ cho Điền. Điền đã từng phủi em một cách tệ hại. Điền không thể hối lỗi chỉ bằng một ánh mắt như thế kia. Giữa lúc Điền đang nhìn em thì em buông ra câu hỏi: “Vợ con Điền thế nào?”. Lập tức ánh mắt Điền cụp xuống. Thực ra em thừa biết hoàn cảnh của Điền. Điền lấy một cô vợ học khoa Tiếng Nga, từng là học trò của Điền và đã có một đứa con. Cô ấy được cử đi thực tập tiếng ở nước ngoài rồi ở lại luôn bên đó không về nữa. Điền bất hạnh lắm chứ chẳng sung sướng gì đâu. Ai bảo Điền bạc với em? Điền mải mê quyền lực nhưng chắc gì quyền lực Điền đã hơn em? Điền rủ lòng thương xót cho bi kịch gia đình của em nhỏ.
Hết.
04:34 CH 12/08/2016
b
Ba_Ngoai_Sophia
Bắt chuyện
863Điểm·89Bài viết
Báo cáo