images
Thịnh hành
Cộng đồng
Bé yêu - Mẹ có quà cả nhà đều vui
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Cơ trưởng 8X và Trương Thế Vinh hủy hôn
Mình có lần bay với nàng cơ trưởng này. Nhìn ngoài đời thì nàng rất dễ thương và sang trọng hơn cái ảnh khỉ gió trên. Ấn tượng thứ 2 là nàng thông báo trên loa khi máy bay đang lăn bánh trên phi đạo của Narita: Hiện đang có một hành khách vẫn đang sử dụng điện thoại trên khoang thương gia. Nếu quý khách không tắt máy chúng tôi sẽ cho máy bay trở lại ga và lập biên bản. Ấn tượng thứ 3 là chiếc A321 đáp Tân Sơn Nhất êm ru bà rù (NRT-SGN chuyến 19:00).
04:35 CH 14/11/2016
Đưa chữ Hán vào trường phổ thông: Ai nghĩ cho học...
Mình dẫn lại tham luận cho đủ ý:
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=327623160913595&id=100009977416332
THAM LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN VÀ GIỮ GÌN SỰ
TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ”
Khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường
- một phương pháp quan trọng
để giữ gìn tiếng Việt và văn hoá Việt Nam
ĐOÀN LÊ GIANG(*)
1. Tại sao phải học chữ Hán?
Sự sụp đổ của tiếng Việt?
Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, tiếng Việt đang bị dùng sai một cách khủng khiếp. Chỉ có mấy từ dùng sai mà sửa mãi mấy chục năm vẫn không hết: yếu điểm được dùng như điểm yếu, cứu cánh được dùng như cứu giúp, thậm chí có nhà văn nọ trên báo Văn nghệ còn dùng từ khiếm nhã như là trang nhã… Ngay cả sinh viên ngành khoa học xã hội và nhân văn mà vốn từ hết sức nghèo nàn. Nhiều trong số họ không còn có khả năng hiểu được cả những từ gắn với nhà trường như: học phong, môn phong, đồng song, đồng môn, không phân biệt được nghĩa của những chữ đồng âm như: Minh: thông minh, đồng minh, u minh, Đồng: đồng bào, đồng hồ, hài đồng v.v. Nếu như có dịp chúng ta thử thống kê một bài luận của một người có bằng thành chung trước 1945 và một người có bằng tú tài hiện nay xem vốn từ của họ chênh lệch với nhau như thế nào? Liệu tiếng Việt trong tương lai có thể sẽ như ngôn ngữ “chat” trên mạng không? Tiếng Việt có thể sẽ trở về như một thổ ngữ chỉ nói được những chuyện đơn giản thường nhật không?
Những sai lầm yếu kém trên sẽ không có nếu học sinh được học chữ Hán, có thói quen tra từ điển Hán - Việt và tiếng Việt. Vì vậy nếu như 50 năm trước Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là do lo ngại tình trạng lạm dụng từ gốc Hán, như: thay vì sân bay thì nói phi trường, núi lửa thì nói hỏa diệm sơn, tàu ngầm thì nói tiềm thủy đĩnh…, nhưng với tình hình giáo dục như hiện nay thì lấy đâu ra người hiểu được chữ Diệm là cái sáng, cái nóng trên ngọn lửa, Tiềm thủy là ẩn dưới nước…, thế cho nên bây giờ nói đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt chính lại là phải học chữ Hán.
Ở Nhật Bản từ mấy chục năm trước những trí thức có tâm huyết đã báo động về nguy cơ suy thoái của tiếng Nhật qua một loạt sách bán rất chạy với tựa đề gây “sốc”: Sự sụp đổ của tiếng Nhật (崩(くず)れゆく日本語), Tại sao người ta phá hoại tiếng Nhật? (なぜ日本語を破壊するのか) của Fukuda Tsuneari 福田恒存; Tiếng Nhật hấp hối (死に掛けた日本語) của Tsuchiya Michio 土屋道雄(1). Trong đó cuốn Sự sụp đổ của tiếng Nhật với phụ chú “Tiếng Nhật của bạn đang hỗn loạn như thế nào!” (あなたの日本語はこんなに乱(みだ)れている) trở thành một loại sách bestseller – trong vòng 3 năm nó được tái bản đến 10 lần với số lượng hàng trăm ngàn bản. Trong tất cả các sách ấy, người ta đều quy nguyên nhân cho sự suy thoái của tiếng Nhật là ở chỗ dùng từ gốc Hán sai, kiến thức về chữ Hán nghèo nàn, lạm dụng từ gốc tiếng Anh... Tiếng Nhật với một chương trình giáo dục chú ý giảng dạy gần 2000 chữ Hán mà còn như vậy, huống chi tiếng Việt. Trước tình hình giáo dục và sử dụng tiếng Việt như hiện nay, chúng ta cảnh báo về sự sụp đổ của tiếng Việt có còn sớm quá không? Số từ gốc Hán chiếm đến 70% số từ vựng tiếng Việt, mà người Việt không học chữ Hán, không hiểu chữ Hán, thế thì làm sao mà chẳng dùng từ sai và vốn từ nghèo nàn. Nếu tình hình không được cải thiện thì viễn cảnh về sự sụp đổ của tiếng Việt sẽ còn không xa.
Vong bản ngay trên đất nước mình
Có lần một sinh viên Nhật Bản khoe với tôi: Em đến thăm chùa Vĩnh Nghiêm thấy đề là chùa thuộc phái Lâm Tế, em thấy rất thân thuộc vì giống như ngôi chùa ở gần nhà bà ngoại em. Thế nhưng đối với một thanh niên Việt Nam thì khi họ đến chùa Vĩnh Nghiêm hay chùa Tây Phương, chùa Bút Tháp…, nhìn lên bảng hiệu, hoành phi, câu đối hay bài vị, họ sẽ cảm thấy xa lạ như bất kỳ một ngôi chùa nào ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc…
Thanh niên Việt Nam không còn thấy có một mối dây liên hệ nào giữa mình với quá khứ của ông cha: đình chùa, miếu mạo, thư tịch. Họ không có xúc cảm nào trước một tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, một quyển Kiều bằng chữ Nôm, một ngôi mộ của Nguyễn Du, của Nguyễn Đình Chiểu…Có thể nói thanh niên Việt Nam đang vong bản ngay chính trên đất nước mình. Thế nên ai cũng thấy, so với các nước Đông Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…thanh niên Việt Nam hiện đại hóa yếu nhất, nhưng đồng thời cũng giữ bản sắc dân tộc kém nhất. Vì vậy nếu như vào thời Lê, Nguyễn Trãi yêu cầu phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tức là không lạm dụng văn hóa, ngôn ngữ, trang phục Hán, bây giờ giữ gìn bản sắc dân tộc thì lại phải học chữ Hán và có hiểu biết về văn hóa phương Đông(2).
Các trí thức, nghiên cứu sinh Việt Nam với các trí thức, nghiên cứu sinh Đông Á
Khi một nhà văn Nga, Mỹ đến thăm Y.Kawabata, nhà văn Nhật Bản được giải Nobel năm 1968, thì thường được Kawabata viết tặng cho một bức thư pháp chữ Hán theo phong cách Nhật Bản. Một giáo sư Trung Quốc, Đài Loan đến thăm một giáo sư Việt Nam, các ông cũng thường tặng một bức thư pháp. Cái thú tao nhã ấy đối với các nhà văn Việt Nam đã lùi xa lắm rồi - thời Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương thì còn, chứ như bây giờ thì hoàn toàn không. Trong giao tiếp còn như vậy huống chi trong sáng tác. Vì vậy sẽ không lấy làm lạ khi trong tác phẩm của các nhà văn Đông Á chiều sâu của văn hóa truyền thống sâu sắc hơn hẳn các nhà văn Việt Nam hiện nay.
Đối với nhà văn thì thế, với các nhà nghiên cứu tình trạng cũng buồn không kém. Các nhà nghiên cứu Đông Á - trừ Việt Nam, dù không nghiên cứu chuyên về cổ điển nhưng vẫn hiểu được khá sâu chữ Hán và văn hóa truyền thống của họ. Dù họ làm văn, sử, triết, nhân học, ngôn ngữ học…hiện đại, họ vẫn có thể đọc được thư tịch cổ của nước họ - với nhiều mức độ khác nhau. Ở Việt Nam một nhà nghiên cứu sẽ cảm thấy rất khó khăn khi hiểu về những vấn đề văn, sử, triết, ngôn ngữ cổ của dân tộc mình. Sinh viên, nghiên cứu sinh về KHXH và nhân văn của Việt Nam gần như không hiểu được sách vở của cha ông nếu không được dịch, chú, phiên âm ra chữ quốc ngữ Latin – mà đã đọc bản dịch mà không có khả năng kiểm tra độ chính xác của bản dịch ấy thì mức độ tiếp thu, thấu hiểu rất khiêm tốn. Có một hiện tượng cần lưu ý là hiện nay có nhiều nghiên cứu sinh, học viên cao học Trung Quốc đang nghiên cứu rất sâu về văn hóa cổ của Việt Nam – mà Đại học Quảng Tây là một trung tâm được phân công chuyên nghiên cứu về việc ấy. Họ nghiên cứu từ văn bản gốc về Lý Công Uẩn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn…, trong khi đó hầu như các nghiên cứu sinh Việt Nam không thể làm được điều ấy – trừ số tốt nghiệp chuyên ngành Hán Nôm(3).
Có thể nói khi ra nước ngoài học tập, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh Việt Nam không thua kém gì so với sinh viên các nước Đông Á khác về khoa học tự nhiên, kỹ thuật, hay kể cả kinh tế, nhưng về KHXH và NV thì còn kém khá xa. Không ít sinh viên Việt Nam than thở không biết biểu diễn bộ môn văn hóa truyền thống gì cho bạn bè các nước xem, trong khi sinh viên Hàn Quốc ai cũng biết biểu diễn trống dân tộc và viết được thư pháp Hàn, sinh viên Nhật thì khỏi phải nói: trà đạo, kiếm đạo, hoa đạo, nhu đạo, thư đạo…Sinh viên Việt Nam ngoài áo dài và nem rán ra thì hết! Tại sao sinh viên Việt Nam đến nông nỗi ấy? Trước hết là vì kinh tế, nhưng quan trọng hơn là: nền giáo dục của chúng ta rất kém trong việc giáo dục văn hóa truyền thống mà việc loại bỏ chữ Hán là biểu hiện đầu tiên và gây ấn tượng nhất. Học tắt, “đi tắt” là não trạng chiến tranh hay là một khiếm khuyết của dân tộc?
Sinh thời nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo từng nói nhiều về ích lợi của chữ Hán trong sự phát triển của trí tuệ, từng cảnh báo nhiều lần về nguy cơ hiểu biết hời hợt về văn hóa của người Việt khi Việt Nam là nước duy nhất trong khu vực Đông Á bỏ chữ Hán hoàn toàn. Gần đây GS. Nguyễn Đình Chú cũng viết bài nói về sự cần thiết phải khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường(4). Việc dạy chữ Hán không phải được đặt ra gần đây, mà nó đã được đặt ra từ hơn 100 năm trước – từ thời các chí sĩ duy tân mở trường Đông Kinh Nghĩa thục, rồi trở đi trở lại nhiều lần trong lịch sử giáo dục Việt Nam, nhưng rồi do chiến tranh, do những lấn cấn trong quan hệ Việt-Trung và nhất là do nhận thức chưa tới mà chủ trương ấy đành bỏ dở.
2. 100 năm – một chủ trương bỏ dở
Ước mơ của thế hệ trí thức cận đại
Trong luận văn khét tiếng Luận về chính học cùng tà thuyết của Ngô Đức Kế, nhà chí sĩ đã phê phán một cách mạnh mẽ tình trạng học thuật đương thời: “Âu học vẫn chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ”(5). Ông vẫn mơ ước dân tộc ta có một nền Quốc học sâu sắc để làm cơ sở tiếp thu nền văn minh hiện đại từ phương Tây.
Trường Đông Kinh Nghĩa Thục của các chí sĩ duy tân thành lập năm 1907, cho đến nay vẫn được nhiều chuyên gia về lịch sử, ngữ văn, giáo dục đánh giá là trường học có tư tưởng giáo dục tiên tiến nhất, sâu sắc nhất ở nước ta từ trước đến nay. Trường đề cao thực học, đề cao tự do trình bày tư tưởng, cổ động việc học chữ quốc ngữ Latin thay cho chữ Nôm, nhưng bên cạnh đó Trường vẫn tổ chức học một cách nghiêm túc 2 ngoại ngữ bắt buộc: Pháp văn (do Nguyễn Văn Vĩnh cùng một số nhà giáo nữa phụ trách) và Hán văn (do Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Lương Trúc Đàm…phụ trách). Nếu từ đó đến nay tư tưởng giáo dục ấy được thực hiện thì chúng ta đã có một nền giáo dục Việt Nam khác hẳn: hiện đại hơn, nhưng cũng đậm đà bản sắc dân tộc hơn.
Trước 1945 ở nước ta, sau khi thực dân Pháp bỏ các kỳ thi chữ Hán thì chữ Hán vẫn được giảng dạy trong nhà trường, mỗi tuần 1-2 tiết. Tuy số tiết học rất ít ỏi, nhưng cũng đủ cho người học hiểu được chữ Hán, không dùng sai tiếng Việt và để cái tinh thần truyền thống qua thứ chữ ấy góp phần tạo nên cốt cách con người. Nhiều gia đình có gia phong tốt vẫn mời thầy về hoặc tự gia đình mình dạy chữ Hán cho con cháu. Nhờ cách làm ấy mà các trí thức được đào tạo thời Pháp nhìn chung đều có một kiến thức Hán học khá vững chắc bên cạnh kiến thức Tây học căn bản. Chính họ chứ không phải ai khác đã làm rường cột trí thức cho quốc gia và mãi mãi là niềm tự hào của đất nước: Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Đặng Thai Mai, Ca Văn Thỉnh, Trần Văn Giáp, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giàu…
Chương trình Hán văn khóa bản ở miền Nam trước 1975
Nhận thức được tầm quan trọng của chữ Hán nên Bộ Quốc gia Giáo dục miền Nam trước 1975 từng tổ chức một chương trình Hán văn dạy cho học sinh từ trung học đệ nhất cấp với bộ sách giáo khoa khá tốt: Hán văn khóa bản, học 1 giờ/ tuần bên cạnh hai sinh ngữ bắt buộc: Anh văn và Pháp văn. Lên đến trung học đệ nhị cấp, các chuyên ban được chia ra như sau:
- Ban A: chuyên sâu về Vạn vật
- Ban B: chuyên sâu về Toán
- Ban C: chuyên về Sinh ngữ (Anh, Pháp)
- Ban D: chuyên về cổ ngữ (chọn Anh hoặc Pháp và một cổ ngữ: Hán văn hoặc Latin) (6)
Một chương trình như thế là rất căn bản, rất đáng tham khảo, học tập. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam cũng hiểu cái tế toái của việc dạy - học chữ Hán, cái khổ công của việc học một hai ngoại ngữ, nhưng họ sẵn sàng bỏ bớt nhiều môn học khác để dành thời gian học ngôn ngữ và cổ ngữ (học cả tiếng Latin như các trường phổ thông ở châu Âu), vì chỉ qua ngôn ngữ người ta mới hiểu sâu được văn hóa và mới có thể phát triển tư duy. Học ngôn ngữ là cái học căn bản, từ đó tạo điều kiện cho người ta tự học, tự học suốt đời. Ngày nay để giải quyết tận gốc cái tệ “trần ngôn sáo ngữ” trong việc học và thi môn ngữ văn ở trường phổ thông, tôi thấy cần phải tham khảo nghiêm túc chương trình giáo dục, trước hết là quốc văn và sinh ngữ của miền Nam trước 1975 cùng với chương trình các nước Đông Á và phương Tây khác để làm ra một chương trình mới căn bản hơn, hiện đại hơn, có tác dụng bồi bổ nguyên khí của quốc gia.
“Thoát Hán học”?
Ở miền Bắc chữ Hán bị loại hẳn ra khỏi trường phổ thông từ khá sớm. Trong chương trình giáo dục phổ thông không thấy học Hán văn mà chỉ có môn Trung văn với tính cách là môn ngoại ngữ hàng đầu cùng với môn Nga văn. Nguyên nhân của sự ghẻ lạnh với chữ Hán có lẽ xuất phát từ không khí “phản đế phản phong” bao trùm xã hội bấy giờ. Tất cả những gì thuộc về cổ học và Hán học đều dễ bị đánh đồng với chế độ phong kiến tàn ác, bảo thủ, lạc hậu. Phải chăng lúc bấy giờ chúng ta muốn xây dựng nền giáo dục mới, con người mới, xã hội mới, một nền độc lập tự chủ trên cơ sở một nước Việt Nam mới phủ định quá khứ phong kiến, có xu hướng “thoát Hán học”?
Cách mạng văn hóa của Trung Quốc nổ ra, ít nhiều ảnh hưởng đến nước ta với khẩu hiệu “phê Lâm phê Khổng” (phê tên phản động Lâm Bưu, phê Khổng Tử) làm cho xu hướng bài xích Hán học càng mạnh. Đỉnh điểm của xu hướng bài xích Hán học ấy là việc Trung văn, Hán học bị lẳng lặng đưa ra khỏi nhà trường sau khi tiếng súng của người đàn anh khổng lồ nổ ra ở biên giới phía Bắc năm 1979.
Thoát Hán học có phải là con đường đúng đắn để xây dựng nền giáo dục mới không? Hán học có mặt ở nước ta hàng nghìn năm nay, gắn bó với dân tộc này, nên nó đã trở thành một phần của Quốc học. Vì thế “thoát Hán học” cũng mở đường cho thoát Quốc học. Các nước Đông Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc không cần thoát Hán học, thậm chí đưa cả một phần tinh thần Hán học vào hoạt động kinh tế, xã hội, thế mà vẫn xây dựng được đất nước hùng cường với một nền kinh tế phát triển, một nền công nghiệp hiện đại.
3. Dạy chữ Hán trong nhà trường như thế nào?
Người Việt cô đơn ở khu vực Đông Á
Hiện nay cùng với sự tăng trưởng đầu tư mạnh mẽ của các nước Đông Á, số lượng học viên học các tiếng Hoa, Nhật, Hàn tăng lên nhanh chóng. Theo thống kê gần đây: số lượng người học tiếng Nhật toàn quốc lên đến 20.000 người, số lượng người học tiếng Hoa nhiều hơn một chút. Việc học các ngôn ngữ phương Đông có sử dụng chữ Hán như trên, khiến cho sinh viên Việt Nam càng thấy trong vốn ngôn ngữ của mình thiếu hụt trầm trọng chữ Hán và vốn văn hóa truyền thống quá nghèo nàn.
Sau giấc mơ hiện đại hóa bằng cách làm bạn với các nước XHCN Đông Âu bất thành, Việt Nam trở về với khu vực của mình: Đông Nam Á và Đông Á. Văn hóa Đông Nam Á là cơ tầng thứ nhất của Việt Nam, nhưng chúng ta đã xa cách vùng văn hoá này từ hàng nghìn năm nay, ngày nay chúng ta càng cảm thấy xa hơn nữa do tôn giáo Đông Nam Á chủ yếu là Hồi giáo và Phật giáo tiểu thừa. Việt Nam trở về với khu vực Đông Á, còn được mệnh danh là Khu vực văn hóa chữ Hán (Hán tự văn hóa quyển), phát triển mạnh mẽ hơn, mà gần gũi với mình hơn. Trở về với Đông Á mới thấy việc loại bỏ hoàn toàn chữ Hán ra khỏi chương trình giáo dục khiến người Việt Nam hiện tại đứt đoạn với truyền thống dân tộc, và người Việt trở nên lạc lõng, cô đơn với các nước trong khu vực. Dân tộc Việt Nam vốn không phải là một dân tộc cực đoan, nhưng do những trớ trêu của lịch sử và cả sai lầm trong nhận thức khiến cho chúng ta đoạn tuyệt với chữ viết, văn hóa ông cha mạnh mẽ hơn tất cả các quốc gia khu vực văn hóa chữ Hán còn lại.
Nhìn ra các nước Đông Á, không có nước nào dám đoạn tuyệt với chữ Hán:
• Người Trung Quốc trước kia trong cơn sùng bái phương Tây và đổ lỗi sự lạc hậu của dân tộc mình cho chữ Hán, đã từng mơ Latin hóa chữ viết của mình, nhưng giấc mơ ấy bất khả. Họ đành bằng lòng quay về với việc dùng chữ Hán giản thể, và dạy cho học sinh phổ thông biết tối thiểu khoảng 3.000 chữ Hán để có thể đọc được tiếng phổ thông.
• Người Nhật Bản cũng từng thử nghiệm dùng chữ Romaji (Chữ Latin) nhưng những văn bản Latin tiếng Nhật hồi đầu thế kỷ XX trở thành những bản mật mã. Họ đành sử dụng hệ thống chữ Kana (chữ phiên âm) mà dân tộc họ đã sáng tạo ra từ hơn 10 thế kỷ trước với hai dạng Hiragana và Katakana(7), bên cạnh đó vẫn phải bắt buộc học sinh tốt nghiệp trung học phải biết thuần thục 1.945 chữ Hán
• Người Hàn Quốc chính thức sử dụng chữ Hangul mà dân tộc họ đã sáng tạo ra từ TK.XV(8), trong văn bản tiếng Hàn thông thường hiện nay hầu như không còn chữ Hán nữa, nhưng những văn bản cổ hơn hay tài liệu khoa học thì dùng khá nhiều. Vì vậy chương trình giáo dục của Hàn Quốc vẫn dạy chữ Hán cho học sinh: cấp 2 dạy 900 chữ, cấp 3 dạy 900 chữ, tổng cộng là 1800 chữ. Lên đại học, sinh viên muốn đi sâu vào KHXH thì phải học chữ Hán nhiều hơn nữa.
Chỉ riêng có Việt Nam là hoàn toàn không dạy chữ Hán trong chương trình phổ thông. Điều ấy có liên quan gì không với tình trạng kinh tế Việt Nam phát triển kém nhất, tiếng Việt dùng sai, nghèo nàn và bản sắc văn hóa dân tộc mờ nhạt nhất so với các nước trong khu vực?
Làm thế nào để dạy chữ Hán trong nhà trường?
Hiện nay chữ Hán đã “tuyệt chủng” ở Việt Nam chưa? Mặc dù tình hình học tập chữ Hán khó khăn như thế, nhưng chữ Hán vẫn còn sống. Những người biết chữ Hán bao gồm:
- Những nhà nghiên cứu, giảng viên chuyên nghiên cứu về Hán Nôm. Hiện có 3 trung tâm lớn nghiên cứu và giảng dạy lâu đời về chữ Hán là: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Bộ môn Hán Nôm thuộc Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH và NV – ĐHQG HN và Bộ môn Hán Nôm thuộc Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH KHXH và NV – ĐHQG TP.HCM
- Một số học giả từng được đào tạo về Hán Nôm đang làm việc ở các ngành khác: văn, sử, triết, văn hóa…
- Một số người tự học Hán Nôm hay được đào tạo Hán Nôm từ những chương trình khác nhau: từ gia đình cho đến trường học.
Chủ trương đưa chữ Hán vào dạy trong trường phổ thông chắc chắn sẽ gây phản ứng dữ dội từ nhiều phía. Chúng tôi đã hình dung ra những câu hỏi cơ bản và cách trả lời sau:
(1) Hỏi: Sao không nghĩ học cái gì khác hiện đại, kiếm ra tiền, lại bày ra trò học Hán Nôm – một thứ chữ “cổ lỗ, lạc hậu” đã chết từ lâu rồi?
Trả lời: Việc giáo dục không phải chỉ học cái hiện đại, dễ kiếm tiền, việc giáo dục con người có sứ mệnh lớn hơn thế nhiều. Lợi ích của việc học chữ Hán như đã nói ở trên là để cứu lấy tiếng Việt, để bảo vệ văn hóa dân tộc, để góp phần xây dựng người Việt Nam trở thành những con người có học vấn, có căn bản, biết tiếp thu cái mới, nhưng cũng biết kế thừa tinh hoa truyền thống…Việc làm này không có gì mới mà chỉ là kế thừa tư tưởng giáo dục của ông cha từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục cho đến chương trình giáo dục của miền Nam trước 1975, cũng tương tự như người Nhật, người Hàn dạy chữ Hán, người phương Tây dạy chữ Latin cho con em họ.
(2) Hỏi: Học sinh hiện nay học đã quá tải rồi, học thêm chữ Hán nữa thì còn thì giờ đâu nữa?
Trả lời: Học trò quá tải vì chương trình của chúng ta quá rườm rà và vì cách học nhồi nhét, cách thi theo kiểu “trả bài” của chúng ta. Nên lược bớt chương trình đi, chỉ học những môn căn bản thôi. Chữ Hán là một trong những môn căn bản. Chính việc học chữ Hán sẽ cho chúng ta thấy học ngữ văn mà học thuộc văn mẫu mất rất nhiều thì giờ như hiện nay là không cần thiết. Hơn nữa có lẽ trước mắt chúng ta chỉ cần dạy cho học sinh khoảng 1000 chữ Hán để cho họ biết chữ nghĩa căn bản, biết cách tra từ điển, biết cách tự học, những ai có hứng thú thì có thể học lên chuyên ngành ở đại học. Sau này khi có điều kiện tốt hơn, có thể dạy khoảng 2000 chữ Hán như người Nhật, người Hàn Quốc đang làm.
(3) Hỏi: Hay để giản tiện, chỉ học âm Hán Việt như trong các sách ngữ văn hiện nay có được không?
Không được. Vì chữ Hán là một thể thống nhất Hình - Âm - Nghĩa, chúng ta lược bỏ Hình đi thì từ gốc Hán sẽ không để lại một dấu ấn nào khả dĩ trong đầu óc học sinh. Hơn nữa mỗi một chữ Hán còn mang theo nó toàn bộ văn hóa truyền thống.
(4) Hỏi: Giả sử Quốc hội cho phép thực hiện chương trình dạy chữ Hán đại trà ở trường phổ thông thì lấy đâu ra giáo viên?
Trả lời: Hiện nay vẫn có nhiều giảng viên ở những đại học lớn biết chữ Hán nhất là ở các khoa ngữ văn, lịch sử của các trường đại học ở Hà Nội, Vinh, Huế, Quy Nhơn, Đà Lạt, TP.HCM, Cần Thơ…Chúng ta bắt đầu từ việc dạy đại trà cho sinh viên ngữ văn ở các đại học, rồi cho dạy thí điểm ở một số trường phổ thông. Sau đó dạy cho học sinh trung học cơ sở. Dần dần mở rộng ra học sinh chuyên ban KHXH ở trung học phổ thông. Cuối cùng mới tính toán đến việc dạy cho tất cả học sinh các ban khác.
4. Kết luận
Tôi có một niềm tin sâu sắc rằng việc dạy chữ Hán trong trường phổ thông là một xu hướng không thể đảo ngược được, các cơ quan có trách nhiệm cũng như một bộ phận trong dân chúng chỉ có thể trì hoãn chứ không thể cản trở được xu hướng này. Chừng nào chúng ta còn dùng tiếng Việt, chừng nào chúng ta còn coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc, chừng nào chúng ta còn nhìn các nước Đông Á như những cái mốc cần phải đạt được, thì chừng ấy chúng ta còn cần phải dạy chữ Hán. Đời nay không làm thì đời sau, con cháu chúng ta có hiểu biết hơn họ nhất định cũng sẽ làm. Chỉ có điều lúc ấy việc giảng dạy sẽ khó khăn hơn, cái giá phải trả về sự mất gốc, khủng hoảng tiếng Việt nặng nề hơn và chúng ta phải chịu sự oán trách của hậu thế.
Nếu chúng ta kiên quyết, kiên trì đưa Hán văn vào chương trình phổ thông thì sẽ đến ngày chúng ta thấy kết quả. Tiếng Việt của chúng ta sẽ giàu có hơn, trong sáng hơn, ít bị sai hơn. Chúng ta sẽ có được thế hệ người Việt Nam mới: hiện đại, giàu có, mạnh mẽ, nhưng cũng uyên thâm cổ học, biết cắm rễ tri thức của mình vào nguồn mạch phương Đông và dân tộc, biết sống thung dung theo đạo học phương Đông và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc…như người Trung Quốc, người Nhật Bản, người Hàn Quốc. Một thế hệ người Việt Nam mới như mong ước của các sĩ phu Duy tân đầu TK.XX và của cả dân tộc ta sẽ thành sự thật.
TP.HCM, tháng 4 năm 2010
Đ.L.G
CHÚ THÍCH
(1) Fukuda Tsuneari 福田恒存 (1975), Sự sụp đổ của tiếng Nhật 崩(くず)れゆく日本語, Eichosha 英潮社xuất bản,
Fukuda Tsuneari 福田恒存 (1978), Tại sao người ta phá hoại tiếng Nhật? なぜ日本語を破壊するのか , Eichosha 英潮社xuất bản
Tsuchiya Michio 土屋道雄(1976), Tiếng Nhật hấp hối 死に掛けた日本語, Eichosha 英潮社xuất bản.
(2) Nguyễn Trãi trong Dư địa chí viết: “Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp đẻ làm loạn phong tục trong nước” (Phan Duy Tiếp dịch, Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập 2, NXB.Văn học, 1999, tr.481)
(3) Về vấn đề này tôi đã có dịp trình bày trong bài Báo động đỏ về đào tạo KHXH và NV, Tập san KHXH và NV số 39, Xuân 2010, sau đó có đưa lên trang web: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn. Trong đó chúng tôi có viết: “Hiện có hàng trăm học giả, nghiên cứu sinh Trung Quốc và ở Trung Quốc đang nghiên cứu và chú giải về Lý Công Uẩn, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn…Họ nghiên cứu văn bản rất kỹ lưỡng, phương pháp rất mới mẻ, chú giải, bình luận rất thuyết phục, …Tôi đoan chắc 100% rằng gần như tuyệt đại đa số các tiến sĩ KHXH & NV của trường ta, những người đủ tư cách ngồi hội đồng, không thể phản biện nổi. Ai không tin tôi, xin chỉ cần đánh máy tên các cụ của chúng ta kể trên (bằng chữ Hán) rồi tìm trên Google, đợi 30 giây thôi sẽ hiểu rằng tôi không ngoa ngôn một chút nào! Tôi nói vậy không nhằm chê ai hết, mà chỉ nhằm đánh động rằng việc đào tạo KHXH và NV của chúng ta đã không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của đất nước, của dân tộc”.
(4) Nguyễn Đình Chú: Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam, tham luận Hội nghị khoa học “Nghiên cứu Hán Nôm và nghiên cứu văn hóa Việt Nam” do Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH và NV – ĐHQG TPHCM tổ chức năm 2009, xem website: http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
(5) Ngô Đức Kế: Luận về chính học cùng tà thuyết, trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 21, NXB.KHXH, Hà Nội, 1996, tr.710
(6) Tư liệu do giáo sư Nguyễn Khuê, nguyên Trưởng Bộ môn Hán Nôm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH và NV – ĐHQG TP.HCM cung cấp. Nhân đây xin gửi lời cám ơn ông.
(7) Chữ viết tiếng Nhật hiện tại đang sử dụng gồm 3 hệ thống chữ (không kể chữ phiên âm Latin/ Romaji): (1) Chữ Hiragana: chữ phiên âm có nguồn gốc từ cách viết thảo chữ Hán; (2) Chữ Katakana: chữ phiên âm có nguồn gốc từ cách viết một phần của chữ Hán; (3) Kanji/ Hán tự: chữ Hán. Chữ Hiragana và chữ Katakana được gọi chung là chữ Kana – chữ phiên âm. Tương truyền chữ Kana do đại sư Kukai/ Không Hải (người sáng lập Chân Ngôn tông ở Nhật Bản, đồng thời là một học giả tiếng Phạn) đã sáng tạo ra từ TK.IX.
(8) Hệ thống chữ viết Hàn ngữ/ Hangul (gọi đầy đủ là “Huấn dân chính âm/ Hunmin chongum) do vua Lý Thế Tông/ Yi Se-jong và các cộng sự của ông đã sáng tạo ra, ban hành vào năm 1446.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Fukuda Tsuneari 福田恒存 (1975), Sự sụp đổ của tiếng Nhật 崩(くず)れゆく日本語, Eichosha 英潮社xuất bản
2. Fukuda Tsuneari 福田恒存 (1978), Tại sao người ta phá hoại tiếng Nhật? なぜ日本語を破壊するのか , Eichosha 英潮社xuất bản
3. Ngô Đức Kế: Luận về chính học cùng tà thuyết, trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 21, NXB.KHXH, Hà Nội, 1996
4. Nguyễn Trãi: Dư địa chí, Phan Duy Tiếp dịch trong Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập 2, NXB.Văn học, 1999
5. Tsuchiya Michio 土屋道雄(1976), Tiếng Nhật hấp hối 死に掛けた日本語, Eichosha 英潮社xuất bản
TÓM TẮT BÁO CÁO
Bài viết nêu lên tình trạng báo động về việc tiếng Việt bị dùng sai và nghèo nàn, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hóa dân tộc do tình trạng không biết chữ Hán hiện nay. Bài viết cũng điểm qua quá trình đặt ra vấn đề dạy chữ Hán trong nhà trường trong suốt thế kỷ XX: từ trường Đông Kinh Nghĩa thục đến chương trình trước 1945 và từ 1954 đến 1975 ở miền Nam và miền Bắc. Bài viết cũng điểm qua tình hình dạy chữ Hán ở các nước trong khu vực: Trung Quốc dạy khoảng 3000 chữ Hán giản thể, Nhật Bản và Hàn Quốc dạy gần 2000 chữ Hán, từ đó đặt yêu cầu bức thiết khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường nước ta, coi đó như biện pháp cơ bản để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
10:47 SA 02/09/2016
'Trang sử hồng' dùng ảnh sát nhân minh họa anh...
Mình nhặt được cái này.
http://tuanbaovannghetphcm.vn/su-that-ve-duoc-song-le-van-tam/
Lê Văn Tám – “đuốc sống”, sự kiện ấy diễn ra và tồn tại trên nửa thế kỷ qua như là một truyền thuyết “Thánh Gióng” và đang định hình khá ổn định: Đã thành bất tử!
Nhưng mấy năm gần đây, lại có ý kiến “Lê Văn Tám không có thật” (!?) là một việc rất kỳ lạ! Mà ý kiến đó ở đâu? Các báo lớn (như Sài Gòn Giải Phóng, Công An, Pháp luật, Người Lao động…) không thấy nói. Chỉ thấy Tuần báo Văn Nghệ thành phố có mấy bài đề cập trong nội dung khác có liên quan (…) nhằm phê phán những kẻ cơ hội chuyên “phá phách”.
Tôi muốn tìm hiểu xem việc đó từ đâu ra (?) Tôi được anh Trần Hữu Phước (nguyên Giám đốc VP đại diện Bộ Văn hóa – Thông tin; khi nghỉ hưu chuyển sang làm Phó Ban thường trực Ban xây dựng Khu Di tích Trung ương Cục miền Nam ở Tây Ninh…) cho biết : “Việc đó đầy rẫy trên mạng (internet)”, ông cứ mở ra xem!”. Tôi hơi quê, vì nhà tôi không đủ điều kiện “bắt” được phương tiện hiện đại này. Tôi phải đến Thư viện Khoa học tổng hợp thành phố (TV KHTH) và họ cung cấp cho tôi khá đầy đủ (…). Sự việc bắt đầu từ bài của đồng chí Trần Trọng Tân đăng báo SGGP ngày 17-10-2008 (lúc đó, tôi đang nằm bệnh, không có báo xem), sau này mới đọc. Đồng chí viết: “… trận ngày 17-10-1945 với “cây đuốc sống Lê Văn Tám” là có thực…”. Sau đó, bài “Về câu chuyện LÊ VĂN TÁM” cùa ông Phan Huy Lê đăng tạp chí Xưa & Nay, số 340 tháng 9-2009… và những bài bình luận không thiện chí khác… phụ họa (phản bác bài của đồng chí Trần Trọng Tân). Tôi mới hiểu thêm chính bài “Về câu chuyện LÊ VĂN TÁM” không là “bình thường”.
Vấn đề chính mà Nhà sử học chóp bu (Chủ tịch Hội Sử học Việt Nam – GS. Phan Huy Lê – (GS.PHL)), quan tâm trong bài ấy không phải ở “Vấn đề thứ nhất là cần cố gắng sưu tầm các tư liệu đáng tin cậy để xác định rõ hơn sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy trong tháng 10 – 1945” (bởi “nói vậy mà không phải vậy”), mà chính là ở “Vấn đề thứ hai là cách ứng xử đối với “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám”. Sâu hiểm lắm!
Nếu ai có ý thức chỉ quan tâm ở nội dung “thứ nhất …” và mọi người đều thể hiện hết trách nhiệm về chuyên môn và lương tâm nghề nghiệp, thì sẽ không có chuyện “không bình thường” không đáng có làm phức tạp tình hình.
LV8-Kho-xang-Thi-Nghe
LV8 – Kho xăng Thị Nghè.
Tôi thật bức xúc (nhưng tôi lại “nghe lời” GS.PHL ở vấn đề “thứ nhất”), nên đi tìm “sự thật”… Tôi đến nhờ nhân viên TV.KHTH thành phố, xin được tiếp xúc những tư liệu xưa (báo cũ). Nhưng theo nguyên tắc phải có giấy GT, mà tôi không còn điều kiện vì đã nghỉ hưu. Tôi phải “cầu cứu” chị Trịnh Ngọc Hạnh (quen biết từ thời “tiếp quản”). Qua chị Hạnh (nguyên phó giám đốc Thư viện quốc gia ngày đó – 1975 – nay là TV.KHTH) đã nghỉ hưu nhiều năm. Chị vui vẻ tiếp tôi tại nhà riêng, còn kể cho nghe câu chuyện hơn sáu mươi năm trước (lúc đó nhà chị ở Giồng Ông Tố – Q.9 ngày nay). Chị kể : “Tôi còn nhỏ (ở tuổi 13), biết có kho xăng cháy vì tiếng nổ như bom nổ hình như cả tuần. Còn nhớ chuyện người lớn lao xao kể kho xăng rất là nghiêm ngặt chỉ có em bé mới có cách xông vô được để đốt… Vô kháng chiến mới nghe nhắc đến tên em bé tẩm dầu là Lê Văn Tám”. Chị còn hát bài “Em bé tẩm dầu” cho tôi nghe (còn kể đã hát cho ông Dương Đình Thảo, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Thành ủy Tp.HCM, nghe…).
Bắt mối ở chị nhờ giúp đến được nơi cần tìm (…), tôi mới có dịp “khám phá” mọi điều bí ẩn nằm yên (trong các ngăn tủ) sau hơn sáu mươi năm. Đó là:
- Báo ĐỘC LẬP (Cơ quan của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), ngày 20-10-1945, nội dung : “Ngày 16, quân ta đốt cháy 2 kho hàng của Pháp thiệt hại tới mấy triệu đồng. Lửa to quá, giặc Pháp không thể cứu được (Tin Đê-li ngày 18-10)”.
- Báo LA RÉPUBLIQUE (xuất bản bằng tiếng Pháp ở Hà Nội), số 2, ra ngày 21-10-1945, có bài Sự anh hùng của một chiến sĩ Việt Nam, viết: “Một người lính Việt Nam đã tẩm dầu vào thân mình và đã thành công trong việc đốt cháy kho Simon Piétri. Đám cháy kéo dài 2 ngày 2 đêm.”
- Cũng báo LA RÉPUBLIQUE, số 5, ngày 4-11-1945, có bài đuốc sống: “Ngày 16-10, một người lính đã biến thân mình thành đuốc sống, bằng cách thiêu thân mình sau khi tẩm xăng để đốt cháy kho dầu Simon Piétri ở Sài Gòn. Đám cháy đã kéo dài 2 ngày 2 đêm. Vị anh hùng vô danh, người đã đốt sáng ngọn đuốc chủng tộc (race) đã chiếu sáng tất cả chúng tôi trên con đường bổn phận”.
Tôi tìm gặp một số nhân chứng, trong đó có đồng chí Dương Đình Thảo, đồng chí kể: Thời điểm đó, đồng chí là chính trị viên phó (…) đang hoạt động ở Ngã ba Cây Thị, nghe rõ tiếng nổ và thấy cả ngọn lửa bốc cao… Nhờ vậy, tôi đã viết bài “17.10 hàng năm nên lấy tên là ngày “Tuổi trẻ yêu nước” của thanh thiếu niên Việt Nam”. Bấy giờ (đầu tháng 10 năm 2011), tôi mang bài đến vài báo (TT, TN…) – đều không được đăng (?!)
Lần này, sắp Kỷ niệm 70 năm Ngày Nam bộ kháng chiến (23-9) và cũng sắp đến 17-10 kỷ niệm ngọn “Đuốc sống Lê Văn Tám”, tôi gởi bài này cho Tuần báo Văn Nghệ Thành phố (chỉ sửa “kỷ niệm 70 năm…”) thì được đăng trong số báo 376!
Tuy vậy, về vấn đề cốt lõi “… là cách ứng xử đối với “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” (Vấn đề thứ hai… của GS.PHL) là một thách thức với ai có lòng tự trọng.
Có tôi! Không thể “ứng xử” như GS.PHL là làm mọi việc để “ngăn chặn mọi ý đồ dựng lên lý lịch Lê Văn Tám như một nhân vật có thật” (!?!) chính là “sợ” “… có người nhận là hậu duệ của nhân vật này.” (???) Thật là nghiệt ngã quá đáng!
Nhưng tôi lại làm theo “Vấn đề thứ nhất (của GS.PHL) là cần cố gắng sưu tầm các tư liệu đáng tin cậy để xác định rõ hơn sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy trong tháng 10-1945” (Tôi thấy GS.PHL cũng có “cố gắng” tìm… đấy chứ!)
Nhưng những tư liệu trên (của tôi tìm, cả của GS.PHL) vẫn chưa đến đâu (những trang mạng xã hội vẫn ra rả giọng điệu xuyên tạc “Lê Văn Tám không có thật !”, “ Không có thật…” mà không ít người vẫn tin. Một lần nữa vào những ngày gần đến kỷ niệm 70 năm “Mùa Thu lịch sử” (và cũng đúng 70 năm ngày xảy ra sự kiện “đuốc sống”), tôi tìm được một tư liệu có thể quý hơn vàng, đó là:
- Báo CỨU QUỐC (Cơ quan Tuyên truyền Tranh đấu của Tổng bộ Việt Minh (Hà Nội), số 71, ngày 19-10-1945 có bài đóng khung nổi bật Một gương hy sinh dũng cảm oanh liệt, với nội dung: “Tin điện từ Mỹ Tho (*) đánh ra ngày 17.10 cho hay rằng : một chiến sĩ Việt Nam đã tẩm dầu vào mình, tự làm mồi lửa hy sinh thân mình, chạy vào kho dầu Xi-mông Pi-ê-tờ-ri (Simon Piétri) của địch. Lập tức kho dầu bị bắt lửa. Và lửa đã bốc cháy dữ dội suốt hai ngày hai đêm…”. Ở trang 2 báo này còn đăng bài thơ LỬA THIÊNG (27 câu): “Kính tặng hương hồn một chiến sĩ Việt Nam tự thiêu mình để đốt một vị trí quân địch (tin Nam bộ)”của tác giả Đông Hà.
Từ tư liệu quan trọng này, tôi chợt trở về hồi ức của mình. Thời điểm đó, tôi vừa được mười tuổi, còn nhớ như in (“Mùa thu lịch sử” ấy đâu thể nào quên!):
Khoảng cuối tháng 10 năm 1945. Vào một đêm vừa được yên tĩnh (vì suốt nhiều ngày có bao nhiêu biến động do giặc Pháp đánh chiếm Sài Gòn… và chúng đang chuẩn bị đánh tới Mỹ Tho; mọi người đang chuẩn bị đối phó… như tập quân sự, thực tập báo động giả liên tục…). Cả nhà ông ngoại tôi ở một vùng sâu huyện Chợ Gạo đang ăn cơm tối thì cậu Hai Nguyễn Hữu Đức (cán bộ Việt Minh) đọc cho mọi người nghe một tin quan trọng (chắc chắn từ bản tin trên): Có một thiếu niên tẩm dầu vào mình đốt kho xăng giặc Pháp ở Sài Gòn cháy mấy ngày đêm liền. Cậu bé ấy đã bị thiêu cháy cùng lũ giặc gác kho. Tôi có ấn tượng rất mạnh mẽ về mẩu chuyện trên và ấn tượng ấy đã đưa tôi về với những nhân vật huyền thoại… Và từ ấy, tôi cùng nhiều bạn nhỏ trong xóm đều hăng hái tham gia đội Nhi đồng cứu quốc, hoạt động rất sôi nổi như tập võ, tập múa hát nhất là những bài hát cách mạng. Và một hôm có anh lãnh đạo cấp trên về xóm dạy chúng tôi bài hát “Em bé tẩm dầu”, mở đầu: “Cuộc kháng chiến Việt Nam có biết bao nhi đồng đã hiến thân liều mình vì nước. Gương em bé tẩm dầu đáng người đời soi chung…”. Hát đến đâu, tâm hồn chúng tôi như bay bổng theo câu chuyện đến đó. Chúng tôi lao vào hoạt động… Chiến tranh nổ ra… Nhiều bạn bè tôi tham gia hoạt động cách mạng tại chỗ (báo tin địch hoặc cùng cha mẹ giúp đỡ Việt Minh việc nầy việc nọ), cũng có những bạn thoát ly kháng chiến khi tuổi ngang tuổi “Em bé tẩm dầu” – “Đuốc sống”… và “Đuốc sống” đã thành linh hồn và máu thịt của chúng tôi suốt dọc dài hai cuộc chiến tranh. Ai từng dấn thân trên từng chặng đường khúc khuỷu gian nan của công cuộc cứu nước, ít nhiều đều được sưởi ấm bằng ngọn lửa hồng của “đuốc sống” – Lê Văn Tám”.
Song, “Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng”. Đó là, mới có chuyện lạ khác: Ở Thị Nghè không có kho xăng (ở thời điểm 1945 trở về trước), do đó, không có vụ “kho xăng ở Thị Nghè” mà chỉ có “kho xăng ở Khánh Hội bị đốt cháy”.
Tôi lại đi tìm, và những nhân chứng còn sống… đều khẳng định:
- Đại tá Võ Thành Kiết (địa chỉ E.2, đường Thất Sơn, P.15, cư xá Bắc Hải, Q.10, TP.HCM), viết : “… Tôi học ở trường Pétrus Trương Vĩnh Ký (thường gọi tắt là Pétrus Ký, nay là Lê Hồng Phong). Lúc ấy dời về gần sát Sở Thú thường qua chơi ở khu vực Thị Nghè, nên biết khá rõ trạm xăng dầu này. Đó là một khu nhà lợp tôn (như nhà lồng ở chợ nhỏ), vách ván đóng thấp; chung quanh có một lớp hàng rào dây thép gai, ngay cạnh sát cầu kinh, trên con rạch nhỏ nhánh của rạch Thị Nghè…”.
- Ông Mai Bá Hui, sinh năm 1929 (địa chỉ 37/3, Huỳnh Tấn Phát, KP6, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè), làm lơ xe bồn tại kho dầu gần cầu Dầu (cầu Phú An, bắc qua rạch Văn Thánh), thuộc hãng Shell, ông xác nhận: “Tôi vào nghề tài xế lúc đầu làm “lơ” khi mới 15, 16 tuổi (năm 1944, 1945) ở kho dầu Thị Nghè (kho nhỏ gần cầu Dầu – Phú An); đến 25 tuổi có giấy phép 3 dấu mới chính thức lái xe bồn cho hãng Shell ở kho lớn Nhà Bè; chủ kho (Thị Nghè) là người Việt Nam, tên là thầy Ba Có… lúc đó người Pháp thường xuyên chạy xe jeep đến kho kiểm tra (?) và lấy xăng ở đây. Kho có lính “Chà” gác, công nhân ra vào được kiểm tra rất chặt chẽ; còn theo tấm hình “Hãng dầu Thị Nghè – xã Phú Mỹ” thì chỉ giống ở khu vực ga-ra sửa chữa xe bồn ở bên trái hình (kho có khoảng 20-30 xe) và khu nhà làm việc của chủ và văn phòng kho (giữa). Còn khu vực bồn xăng thì không thấy (vì cách đấy cả trăm mét) và khu ấy có 5 bồn xăng cao to, nằm ở bên phải tấm hình (có lẽ đã cháy hết). Kho xăng ấy bị đốt cháy vào khoảng 10 giờ đêm, còn ngày tháng không nhớ. Lúc đó tôi cùng các bạn làm chung đi chơi ở Sở Thú vừa về. Hơi lửa nóng quá, bọn tôi vội ôm đồ (để ở phòng trọ) rồi bỏ chạy ra xa. Tới sáng hết cháy mới về và về nhà luôn. Sau một tháng mới trở lại nhận lương rồi nghỉ luôn, vì kho này không khôi phục lại. Còn ai đốt thì tôi không biết.”
- Ông Nguyễn Văn Lượng, sinh năm 1928 (địa chỉ 48/10, Huỳnh Tấn Phát, KP6, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè), cho biết: “… là thuyền viên tàu chở dầu hãng Shell ở Nhà Bè, bạn anh Mai Bá Hui; tôi có biết kho dầu Thị Nghè, vì có người anh rể là kỹ sư phụ trách kỹ thuật sửa chữa bảo dưỡng xe bồn kho Thị Nghè, tôi từng đến kho này thăm anh. Anh tên Trần Văn Sáng (anh đã mất, nếu còn sống cũng trên 100 tuổi). Lúc kho bị cháy, tôi theo tàu lên Nông-Pênh (CPC), vài ngày sau mới về, thì kho này bị cháy rồi. Thời gian sau, tôi có theo tàu kéo bồn dầu không ở Thị Nghè về Nhà Bè”.
Vậy, kho dầu (xăng) Thị Nghè là có thật và đã bị đốt cháy cũng có thật!
Không ai có quyền được phủ nhận thực tế này!
Còn Lê Văn Tám?
Trở lại nhân vật làm nên ngọn đuốc chủng tộc ấy thời gian đầu không có tên cụ thể nên các báo không nêu tên là lẽ đương nhiên. Bởi các nhà làm tin nhanh (cả trong và ngoài nước) đều là ngoại cuộc. Khi đó, “Lê Văn Tám” là người thật và đã có chính danh rồi. Bởi vì là người trong tổ chức có thật: Tám là đội viên “Đội cảm tử”, do Lê Văn Châu giao nhiệm vụ… (theo tư liệu của Ban Tuyên huấn Quận ủy Bình Thạnh). “Tám” còn được những người dân sống gần kho dầu (xăng) chứng kiến truyền nhau câu chuyện (…). Họ kể rằng: Có một em bé từng bán đậu phọng rang, thuốc lá, diêm quẹt… tên Tám, không rõ có ai là họ hàng không. Em thường la cà ra vào giao dịch các mặt hàng em có … và mua cả xăng dầu của người gác kho bán lén, để bán ra ngoài. Bữa đó (17-10 ?), nhiều người thấy trong kho đột ngột có ngọn lửa “phừng” lên… rồi thấy bóng một em bé người như một ngọn đuốc chạy hướng vào kho… rất giống Tám. Lập tức, có những tiếng nổ rồi lửa khói bốc ngút trời… Dân gần đó bỏ cửa nhà chạy tránh xa.
Sau này, GS Trần Văn Giàu đã viết rõ hơn trong đoạn hồi ký ở bộ sách “đứng lên đáp lời sông núi”, đã khẳng định: “người tổ chức cho đội viên cảm tử Lê Văn Tám lập chiến công là Lê Văn Châu đã hy sinh năm 1946 tại Ngã ba Cây Thị” (Trần Văn Giàu: Tuyển tập, NXB Giáo dục, HN.2000, tr.535). GS còn đúc kết một cách hình tượng những gương đánh giặc thời đó. GS đề cập về Lê Văn Tám với hình tượng hộp diêm và chai xăng đốt kho, trong đoạn văn: “… Ở loại hình chiến tranh này, lúc đầu, vũ khí được sử dụng rất thô sơ: “súng lục bắn ghen”(1), hộp diêm và chai xăng đốt kho (2), lưỡi dao cạo của người thợ cắt tóc(3)…” (**)
Vậy “Vị anh hùng vô danh” tên thật sự là LÊ VĂN TÁM. Không phải bàn!
Thế thì có gì phải tự làm khó mình, rồi day dứt “tự trách” vì “thiếu cân nhắc”. Người “nói lại giùm” lại “thiếu cân nhắc” hơn. Trong việc này, nếu làm đúng lương tâm trách nhiệm “nhà sử học chuyên nghiệp” chắc chắn không đến nỗi làm một việc không kín kẽ (…) để sau đó gây nhiều hệ lụy (…) không đáng có!?!
Còn giả thuyết: “Vị anh hùng vô danh” ấy là hoàn toàn không biết tên và được đặt tên cụ thể (Lê Văn Tám). Người làm việc này tôi cho là ưu điểm, chớ có gì phải “tự trách”. Bởi tấm gương “dũng cảm” ấy đã được nhân dân “phong thần”, có miếu thờ, ngày lễ Tết được dân chúng đến thắp nhang cúng viếng! Vị Thần này phải có tên. Hợp lý!
Như vậy, đã rõ một sự thật không còn gì thật hơn: Chiến sĩ đốt kho xăng Thị Nghè là Lê Văn Tám. Lê Văn Tám người đội viên cảm tử, người trong tổ chức “Đội cảm tử”, mà người chỉ huy là Lê Văn Châu thực hiện vào ngày 17-10. Chuyện đã ghi vào sử sách.
Nhưng còn ngày ĐỐT KHO XĂNG chính thức là 17 hay 16 tháng 10?
Bởi Báo CỨU QUỐC ngày 19-10-1945 viết: “Tin điện từ Mỹ Tho đánh ra ngày 17-10”, thì theo tôi vụ cháy không thể xảy ra trong ngày đó. Ngoài ra, còn có tin của báo ĐỘC LẬP ngày 20-10-1945: “Ngày 16, quân ta đốt cháy 2 kho hàng của Pháp thiệt hại tới mấy triệu đồng… (Tin Đê-li ngày 18.10)”. Bài trên báo LA RÉPUBLIQUE, số 5, ngày 4-11-1945, đầu đề “ĐUỐC SỐNG” đưa tin: “Ngày 16.10, một người lính đã biến thân mình thành đuốc sống, bằng cách thiêu thân mình sau khi tẩm xăng để đốt cháy kho dầu Simon Piétri ở Sài Gòn…”
Vậy, ngày đốt kho xăng của giặc Pháp ở Sài Gòn năm 1945, có thể khẳng định là ngày 16 tháng 10. Và 16-10-1945, nổi bật sự kiện “Đuốc sống” Lê Văn Tám đốt kho xăng tại khu vực Thị Nghè – Sài Gòn, thêm một chiến công oanh liệt nhất: Bởi sau 23 ngày Pháp tấn công Sài Gòn (hơn hai tuần lễ, sự kiện này đã dập tắt hy vọng của tướng Leclerc là bình định Nam bộ trong vòng 1 tuần lễ).
Do đó, “Đuốc sống” – LÊ VĂN TÁM sống mãi cùng dân tộc Việt Nam. Là biểu tượng yêu nước mà Bác Hồ biểu dương : “… một dân tộc có tinh thần cao đến bực ấy, thì không có sức mạnh nào có thể đè bẹp được” (Bác Hồ viết trên báo Cứu Quốc, Cơ quan của Tổng bộ Việt Minh, ngày 23-10-1945). Và biểu tượng “Đuốc sống” Lê Văn Tám ấy đã cùng góp một viên gạch cho bức “Thành đồng Tổ quốc” mà Bác Hồ khen tặng cho Sài Gòn và Nam Bộ.
Nhà Bè, ngày 4 tháng 12 – 2015
Lý Châu Hoàn
(Nguyên BT Đảng ủy khối cơ sở Bộ VH, TT và DL tại TP.HCM)
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 383
01:15 CH 23/04/2016
Lãnh đạo Tân Sơn Nhất: 'Một Việt kiều về 10 người...
Định hướng dư luận thôi mà.
Thủ thuật của trò định hướng này là tuyển diễn viên quần chúng đóng vai người thân đi đón ở sân bay, cho nằm ngồi vạ vật làm sao cho có vẻ nhếch nhác, thê thảm nhất. Hoặc chọn đúng hôm có đoàn đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài để chụp cho có vẻ đông nghịt. Cố tình phóng đại lên bằng cách chụp cận cảnh, góc rộng, thậm chí dùng cả cắt ghép, Photoshop để đạt được mục đích.

Mục đích để làm gì thì đã chỉ ra bằng một số bài báo dẫn ở trên : không gì khác là để định hướng dư luận rằng "sân bay Tân Sơn Nhất quá tải", nhằm xúc tiến thông qua duyệt chi ngân sách hàng chục, hàng trăm ngàn tỷ để xây dựng sân bay Long Thành vốn đã bị phản đối ngay từ đầu.

Mẹ này theo thuyết âm mưu thì phải. Với tư cách người đi lại khá nhiều ở TSN, mình công nhận mùa này là mùa kinh khủng ở ga đến quốc tế. Hiện tượng này năm nào cũng diễn ra từ tháng 12 đến hết tháng 3. Còn ở ga đi, mời các bạn tránh xa khoảng thời gian 09:00-12:00, 14:00-16:00, 20:00-24:00. Nếu không thì chấp nhận đông!
11:15 SA 05/02/2016
Nước mắm truyền thống đang kiệt quệ
Mình ăn từ nước mắm Tuấn Phan Thiết, Hồng Hiếu Nha Trang, Liên Thành các loại, 584, Phụng Hưng....nhưng giờ đang thích Mắm Thuyền Nan. Các mẹ ăn thử xem sau. Mình thì thấy đúng vị ngày xưa.
Ra siêu thị mà nhìn thấy chất điều vị là không chơi!
06:32 CH 23/01/2016
Đà Nẵng: Xuất hiện showroom cấm cửa khách Việt,...
Mấy bạn từng đi Thái Lan, cho mình hỏi mấy chỗ sexy show có người Thái nào vào hay không?
09:40 SA 24/12/2015
Ngày đầu bán ra, BPhone bị chê phí ship đắt, củ...
10:32 SA 05/06/2015
Công ty vung tiền, đãi 6.000 nhân viên đi nghỉ ở...
Xác nhận tin này do nhân viên Lafayett nói cả trung tâm phải sắp xếp chỗ hoàn thuế cho đoàn này. GDP của Paris tăng ngon!
09:10 SA 09/05/2015
"Đi học kinh nghiệm ứng phó với động đất, gặp...
Thành Rome không chỉ xây trong một ngày nhỉ:
CTD Nghệ An:
http://dantri.com.vn/x%C3%A3-h%E1%BB%99i/qu%E1%BA%A7n-%C3%A1o-c%E1%BB%A9u-tr%E1%BB%A3-v%C3%A0o-gara-%C3%B4-t%C3%B4-l%C3%A0m-gi%E1%BA%BB-lau-434336.htm
CTD Đồng Nai:
http://nld.com.vn/phap-luat/bat-nguyen-chu-tich-hoi-chu-thap-do-dong-nai-2010062412468897.htm
CTD KHÁNH HÒA
http://www.anninhthudo.vn/phap-luat/thi-hanh-ky-luat-chu-tich-hoi-chu-thap-do-khanh-hoa/440326.antd
CTD KIÊn GIANG:
http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/kiem-diem-nhieu-can-bo-hoi-chu-thap-do-tinh-kien-giang-2185626.html
Hà NỘi:
http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/kiem-diem-nhieu-can-bo-hoi-chu-thap-do-tinh-kien-giang-2185626.html
(Nhặt từ tathy)
12:32 CH 07/05/2015
Cảnh người đông chưa từng có ở công viên nước
“Không có hiện tượng xé quần xé áo hay quấy rối tình dục ở đây. Việc cô gái bị rách bikini là do chất lượng đồ bơi của người này”, Phó Tổng giám đốc Công viên nước Hồ Tây cho biết.
http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/233294/-khong-co-quay-roi-o-cong-vien-nuoc--do-chat-luong-bikini-thoi-.html
07:09 CH 21/04/2015
Nhân viên Vietjet bị kỷ luật vì thái độ phục vụ...
Mình nhiều chuyện một chút:
LUẬT HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG VIỆT NAM
Điều 3. Áp dụng pháp luật
1. Đối với những quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động hàng không dân dụng không được Luật này điều chỉnh thì áp dụng các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam.
2. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về cùng một nội dung liên quan đến hoạt động hàng không dân dụng thì áp dụng quy định của Luật này.
Điều 145. Nghĩa vụ của người vận chuyển khi vận chuyển hành khách
1. Vận chuyển hành khách và hành lý đến địa điểm đến thoả thuận và giao hành lý ký gửi cho người có quyền nhận.
2. Thông báo kịp thời cho hành khách thông tin về chuyến bay; phải quan tâm, chăm sóc hành khách, đặc biệt đối với hành khách là người tàn tật hoặc cần sự chăm sóc trong quá trình vận chuyển.
Điều 146. Từ chối vận chuyển hành khách có vé và đã được xác nhận chỗ trên chuyến bay hoặc đang trong hành trình
1. Do tình trạng sức khoẻ của hành khách mà người vận chuyển nhận thấy việc vận chuyển hoặc vận chuyển tiếp sẽ gây nguy hại cho hành khách đó, cho những người khác trong tàu bay hoặc gây nguy hại cho chuyến bay.
2. Để ngăn ngừa lây lan dịch bệnh.
3. Hành khách không chấp hành quy định về bảo đảm an toàn hàng không, an ninh hàng không, khai thác vận chuyển hàng không.
4. Hành khách có hành vi làm mất trật tự công cộng, uy hiếp an toàn bay hoặc gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác.
5. Hành khách trong tình trạng say rượu, bia hoặc các chất kích thích khác mà không làm chủ được hành vi.
6. Vì lý do an ninh.
7. Theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
07:03 CH 21/04/2015
38.000 đồng ăn gì ở Singapore?
May quá! Sài gòn vẫn còn quán 2000đ. Quê ta vạn tuế!
03:25 CH 23/03/2015
Dùng điện thoại di động trên máy bay bị phạt 1...
http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/bi-cam-bay-4-thang-vi-dung-dien-thoai-3084504.html
Một nữ hành khách người Thanh Hóa bị cấm bay 4 tháng vì dùng điện thoại trên tàu bay và không chấp hành quy định xử phạt 4 triệu đồng.
Trễ chuyến bay 2 lần, khách được bồi thường phiếu ăn trưa
Trao đổi với VnExpress, ông Nguyễn Trọng Thắng, Chánh thanh tra Cục Hàng không cho biết vừa ra quyết định xử phạt cấm bay 4 tháng đối với nữ hành khách tên Minh Hà, địa chỉ thường trú tại Thanh Hóa.
Trước đó, vào ngày 12/8, nữ hành khách Minh Hà đi chuyến VJ8666 của hãng hàng không Vietjet. Dù đã nghe tiếp viên phát thanh nhắc nhở về việc phải tắt các thiết bị điện tử, vị khách trên vẫn sử dụng điện thoại. Sự việc sau đó được báo cáo lên Cảng vụ Hàng không miền Bắc và cơ quan này ra quyết định xử phạt hành chính 4 triệu đồng.
dien-thoai-1638-1411619630.jpg
Hầu hết các hãng hàng không trên thế giới cấm hành khách sử dụng điện thoại trong giai đoạn tàu bay cất và hạ cánh.
Tuy nhiên, nữ hành khách trên không chấp hành quyết định xử phạt. Do đó, Cảng vụ Hàng không miền Bắc đã gửi báo cáo lên Cục Hàng không, đề nghị áp dụng hình phạt cấm bay có thời hạn.
"Căn cứ vào điểm A khoản 5 Điều 59 của thông tư 30 của Bộ Giao thông Vận tải về Chương trình an ninh hàng không dân dụng, Cục ra quyết định cấm bay 4 tháng với nữ hành khách trên vì lý do không chấp hành quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng", ông Nguyễn Trọng Thắng cho biết.
Thời hạn cấm bay đối với nữ hành khách này kéo dài đến ngày 28/1 năm sau. Thông báo cấm bay đã được chuyển đến tất cả các hãng, đại lý để không bán vé cho nữ hành khách với hành trình bay trong khoảng thời gian trên.
Theo đại diện Cục Hàng không, đây không phải là lần đầu tiên khách đi máy bay bị xử phạt vì hành vi sử dụng điện thoại, mặc dù họ luôn được tiếp viên nhắc nhở. Còn tình trạng khách "lén" sử dụng điện thoại thì diễn ra thường xuyên. Trong giai đoạn cất và hạ cánh, tiếp viên cũng phải ngồi cài dây an toàn nên không phải lúc nào cũng phát hiện ra người dùng điện thoại.
Trên tất cả các chuyến bay, tiếp viên đều phát thanh nhắc nhở hành khách những lưu ý để đảm bảo an toàn, trong đó có việc tắt nguồn tất cả các thiết bị điện tử khi cất và hạ cánh.
Theo nhiều nghiên cứu, việc sử dụng các thiết bị điện tử có thể phát ra sóng vô tuyến, gây nhiễu hệ thống vô tuyến điện tử của máy bay. Các hãng hàng không Việt Nam quy định khi cất hạ cánh, khách phải tắt nguồn hoàn toàn điện thoại cầm tay. Khi tàu bay ở chế độ bay bằng, khách có thể sử dụng điện thoại nhưng để ở chế độ máy bay.
Thanh Bình
06:29 CH 25/09/2014
Phải sắm 320.000 máy tính bảng
Tiền của người khác nên bọn họ hăm hở lắm!
09:19 SA 21/08/2014
Phải sắm 320.000 máy tính bảng
Nếu chỉ nhờ mấy cái máy tính bảng này để bắt kịp thế giới thì quả là trẻ con!
02:43 CH 19/08/2014
Người Việt nhập cảnh vào Thái phải xin thị thực
Nhiều bạn hình như đọc mà không hiểu! Công dân Việt Nam đi du lịch thì miễn visa. Đi du học hay sang lao động...thì phải xin visa. Trước đây nhiều người mượn danh đi du lịch để đi làm. Chẳng hạn nhiều hướng dẫn viên du lịch tại Thái Lan là người Việt 100%. Sắp hết visa, họ chạy sang cửa khẩu Lào/Cam ăn bữa trưa rồi trở lại Thái tiếp tục.
Những ai đi theo đoàn thì không phải lo. Những ai đi tự túc thì chuẩn bị booking khách sạn, vé máy bay khứ hồi, tiền mặt hoặc thẻ tín dụng. Đơn giản vậy thôi.
06:21 CH 13/08/2014
Người Việt nhập cảnh vào Thái phải xin thị thực
h
tui vừa lên ĐSQ hỏi nhé bạn ơi, chính miệng chị gái tóc xoăn bảo là nhân viên hải quan cho hay ko cho nhập cảnh là quyền của nhân viên hải quan nhé,
nhiều khi thấy ko ưa là ko cho, hay phai cái nó đang bực trong người nó ko cho thì cũng chả làm gì được nó

Nhiều người không chịu phân biệt Hải quan (Custom) và nhân viên xuất nhập cảnh (Immigration) nhỉ? Nếu tên nhân viên nhập cảnh kia từ chối thì vẫn còn cửa để khiếu nại sếp nó nếu bản thân mình không có "phốt".
10:59 SA 13/08/2014
Người Việt nhập cảnh vào Thái phải xin thị thực
Trừ trường hợp trùng tên với đối tượng cấm nhập cảnh thì bắt buộc phải chờ xác minh còn bình thường thì chẳng việc gì phải ngại. Mọi thứ nằm trong dữ liệu của xuất nhập cảnh Thai Lan chứ không có nghĩa là thích thì cho, không thích thì thôi. Nhân viên xuất nhập cảnh Thái cũng không hành xử theo kiểu dựa vào chương trình tour mà cho bao nhiêu ngày. Nhân viên hải quan không có trách nhiệm cho hay không cho nhập cảnh nhé.
10:00 SA 13/08/2014
Đi đường bộ từ Sài Gòn đến Bangkok, Thái Lan
Hải quan nào bắt đưa tiền để quyết định chuyện nhập cảnh? Đó là công an xuất nhập cảnh (Immigration) thôi. Nhà báo viết lấy được!
08:29 SA 12/04/2014
Bộ trưởng Đinh La Thăng nhắn tin cho cô giáo qua...
Mình cứ tưởng nhắn tin bằng điện thoại chứ! Ôi cái tít!
08:30 SA 23/03/2014
1
1695
Bắt chuyện
710Điểm·2Bài viết
Báo cáo