images
Thịnh hành
Cộng đồng
Webtretho Awards 2025
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Đổ xô đi bắt đỉa giữa thủ đô
Chán cho mấy mợ ở đây quá, cứ thấy cái giề dính tới tàu là sồn sồn như *** phải lá han.
Đang đói có món hời nó mua cho chả sướng bỏ *** đi ấy chớ. Cứ đặt địa vị các mợ vào mấy bác nông dân xem nào. Mà nếu tầu nó định 'tà lưa" sao ta không nhân đấy lừa lại chết cụ chúng đi. Mình nắm đằng chuôi mà cứ suốt ngày sợ đứt tay.
Tôi nói thật chỉ mong ta sớm bằng tàu cho dân đỡ khổ
06:21 CH 28/07/2013
FONT chữ viết tay
cảm ơn bạn HN2004, tôi đã down về font mới của bạn để viết chữ mẫu cho em bé nhưng so với font chuẩn được in trong sách lớp 1 của bộ giáo dục thì thấy chưa chuẩn. Các nét của các chữ sau l, k, h, b, e chưa đúng, kể cả các nét của r, v.. cho nên không thể in ra làm mẫu cho bé được. Rất mong bác chỉnh lại cho thật đúng với tiêu chuẩn của sách lơp1.
Thân ái!
Gao
05:20 CH 16/07/2008
24 phút trò chuyện với ông Vương Trí Nhàn
Nguyễn Đình Đăng
Báo chí văn chương
Trong tiểu thuyết 1984 George Orwell đã vẽ nên một xã hội giả tưởng do một nhà độc tài gọi là “Anh Cả” - chủ tịch một đảng độc tài – cai trị. Khẩu hiệu hành động của đảng này là:
Chiến tranh là Hoà bình
Tự do là Nô lệ
Ngu dốt là Sức mạnh

Đất nước nằm dưới sự điều hành của 4 bộ: Bộ Sự thật - chuyên chỉnh lý, bịa đặt thông tin; Bộ Hoà bình - chuyên chuẩn bị chiến tranh; Bộ Tình yêu – chuyên lo việc dò xét, theo dõi, đàn áp những người đối lập và dân chúng để giữ “ổn định” xã hội, nhưng thực chất là nhằm duy trì quyền lực của “Anh Cả”; Bộ No đủ - chuyên lo về kinh tế. Tuy vậy, cho dù có một trí tưởng tượng và tài tiên đoán khác thường, Orwell cũng không thể hình dung được nhân loại vào cuối thế kỷ 20 sẽ có internet. Nếu Orwell đoán trước được điều đó hoặc cái gì tương tự như internet thì có lẽ nhân vật Winston trong 1984 làm ở Bộ Sự thật đã không phải hàng ngày vất vả chữa lại bằng tay những số liệu trong các tờ báo đã xuất bản của đảng sao cho khớp với các tuyên bố dự đoán (thường là sai) của “Anh Cả”. Để “tái tạo quá khứ” anh ta sẽ chỉ cần chữa lại html file là voilà! Hoặc đơn giản hơn, anh ta có thể làm như VieTimes: Gỡ luôn cái bài: “24 phút trò chuyện với ông Vương Trí Nhàn: Trí thức hiện đại: Không được tạo ‘dịch nói xấu người Việt” đã đăng hôm 2/11/2007 xuống cho biệt tăm tích!
May thay thế giới ngày nay đã không phải như Orwell tiên đoán trong 1984! Và cũng rất may, chúng ta còn có Google, Youtube, blog, v.v. là những nơi mà sự thật trần trụi được lưu trữ và phơi bày không thể che giấu hay xóa đi được. Vì thế cho dù VieTimes đã gỡ cái bài phỏng vấn nói trên khỏi trang của mình, nó vẫn nằm chềnh ềnh tại cache của Google như một minh chứng sống động và đáng xấu hổ cho trình độ và văn hóa của nhóm phóng viên nặc danh đã phỏng vấn ông Vương Trí Nhàn.
Trong bài nhận xét ngắn này tôi không có ý định bàn về thái độ ứng xử của nhóm phóng viên VieTimes vì đã có tác giả, chẳng những đã nói về điểm này, mà còn yêu cầu VieTimes phải xin lỗi ông Vương Trí Nhàn vì cung cách phỏng vấn rất bất lịch sự, nếu không nói là xấc xược của nhóm phóng viên VieTimes đối với ông Nhàn. Tôi chia sẻ quan điểm của một người bạn rằng một cuộc phỏng vấn mà lại làm cho người được (bị) phỏng vấn bỏ về giữa chừng là một cuộc phỏng vấn thất bại. Thay vì xin lỗi, VieTimes đã lẳng lặng gỡ bài báo xuống. Vậy thì góp ý thêm về điểm này liệu có khác gì nước đổ đầu vịt? Vì thế, trong bài này, tôi chỉ mạn phép độc giả chỉ ra tính ngụy biện trong các câu hỏi của nhóm phóng viên VieTimes trong bài phỏng vấn ông Vương Trí Nhàn.
*
Lập luận ngụy biện, lừa dối, hay xảo trá đã được phân loại từ thời Aristotle, tức cách đây hơn 2300 năm. Một khi tính xảo trá của lập luận (câu hỏi) được vạch ra, bản thân lập luận (câu hỏi) đó trở nên vô giá trị. Để khỏi mất thì giờ, tôi chỉ tập trung vào những câu hỏi hoặc /và khẳng định mang tính ngụy biện điển hình nhất, mà bỏ qua các câu hỏi nhỏ, vì dễ thấy là chúng cũng không nằm ngoài cách phân loại tương tự.
1. Trong nhân loại nói chung, dân tộc nào mà chẳng có những thói hư tật xấu ấy?
Lập luận này thuộc loại argumentum ad antiquitatem - tức là lý lẽ dựa vào cổ xưa hoặc truyền thống. Đây là một lập luận ngụy biện rất hay được dùng trong tranh cãi. Lý lẽ này khẳng định rằng một chính sách, tính cách, cách hành xử là đúng và chấp nhận được vì từ xưa tới giờ và ở đâu người ta cũng làm như thế. Ví dụ: “Mọi nền văn minh vĩ đại trong lịch sử đều bảo trợ văn hóa và nghệ thuật bằng quỹ của nhà nước.” Nhưng sự thực đó không phải là sự biện minh cho việc tiếp tục một chính sách như vậy. Cái sự thật rằng dân tộc nào cũng có những thói hư tật xấu không phải là sự biện minh cho việc không nên nói về những thói hư tật xấu của dân tộc Việt Nam!
2. Đó là những kẻ đứng ngoài Việt Nam để xếp hạng. Để đánh giá một nước, một xã hội thì phải thấu hiểu, phải trải qua chính những vấn nạn mà xã hội ấy gặp phải. Vậy nên không thể nói những bảng đánh giá đó là chính xác, coi như một chân lý để khẳng định?
3. Những người nước ngoài sống trong một thể chế chính trị khác, đời sống văn hóa khác. Tất cả mọi thứ đều khác Việt Nam. Một mặt nào đó, người ta đứng ở thế giới khác thì không thể đánh giá khách quan về một thế giới khác. Ví dụ một con cá chỉ bơi ở trong nước thì làm sao biết loài chim bay trên trời như thế nào?
Hai câu hỏi này thuộc loại argumentum ad ignorantiam (viện dẫn sự không hiểu biết). Ngụy biện loại này khẳng định rằng một điều trở nên nghiễm nhiên đúng vì nó chưa bị chứng minh là sai (Nếu cứ tạm xem như bảng xếp hạng của những nguồn bên ngoài Việt Nam là không đáng tin cậy). Việc thất bại trong chứng minh rằng một cái gì đó là sai không đồng nghĩa với việc chứng minh được nó là đúng. Đó là chưa nói đến những giá trị chung của nhân loại (chứ không phải giữa các loài khác nhau như cá, chim, hay cóc nhái, sâu bọ). Ví dụ ăn cắp ở xã hội nào và trong hoàn cảnh nào cũng là xấu! Không xã hội nào đánh giá việc nói một đằng làm một nẻo như một đức tính cao quý! Những người biết tự trọng thường coi khinh những kẻ nịnh hót, bợ đỡ.
4. Nhưng có một giá trị chung là “Người thơ phong vận như thơ ấy”. Lòng người như thế nào thì sẽ tràn ra ngoài miệng như thế đó.
5. Lời yêu thì ai cũng nói được nhưng ai nói vói ta thì mới là quan trọng chứ!
6. Tôi muốn nói rằng những nguồn trích dẫn chỉ đáng tin khi tác giả của chúng đáng tin thôi.
7. Ông vừa nói có những người không tốt nhưng lời nói của họ tốt đúng không. Nhưng “Y phục” phải “xứng kỳ đức”. Chúng ta ở một vị trí xã hội, tầm văn hóa như thế nào thì mới có quyền phát ngôn ở vị trí xã hội như thế, tầm văn hóa như thế.
Lập luận trong bốn khẳng định trên đây thuộc loại argumentum ad hominem (lý lẽ hướng vào cá nhân). Lập luận kiểu này xảo trá ở chỗ, thay vì phản bác một ý kiến nào đó, lập luận lại hướng sự công kích vào tính cách và động cơ của người đưa ra ý kiến đó. Bốn khẳng định trên đây là những ví dụ khá điển hình của argumentum ad hominem khi nó tấn công nguồn đưa ra thông tin, tuơng tự như khẳng định: “X là tên lừa đảo vì thế không thể tin được những gì hắn nói.” Sự ngụy biện ở đây là ở chỗ, thay vì chứng minh ý kiến của X là sai, người ta lại đi công kích cá nhân X là tên lừa đảo. Sự thực là, cho dù X là tên lừa đảo, y vẫn có thể nói: “2 x 2 = 4” và khẳng định đó của y vẫn là chân lý.
8. Sẽ có nhiều người ngạc nhiên vì sao ông lại coi những trích dẫn đó là mẫu mực?
Lập luận này thuộc loại argumentum ad numerum (lý lẽ viện dẫn các con số). Tính ngụy biện của lập luận loại này là ở chỗ, thay vì chứng minh điều gì đó là đúng, lập luận lại trích dẫn bao nhiêu người nghĩ rằng nó là đúng. Nhưng cho dù có bao nhiêu người tin rằng một điều gì đó là đúng cũng không có nghĩa điều đó là đúng. Ví dụ: “Ít nhất 70% người Mỹ ủng hộ việc hạn chế nạo thai.” Rất có thể 70% dân Mỹ là sai lắm chứ!
9. Nếu như một dân tộc có quá nhiều tật xấu thì nó đã bị đồng hóa, tan biến từ lâu chứ không thể có một dân tộc Việt như ngày hôm nay…
10. Chẳng nhẽ dân tộc Việt đã có hàng nghìn năm lịch sử lại không thể nhận thức được mình?
Đọc hai khẳng định này tôi lại được dịp tặc lưỡi bái phục Albert Einstein khi ông nhận xét: “Trên đời này chỉ có hai thứ là vô hạn: 1) vũ trụ và 2) sự ngu dốt của con người. Tôi không chắc về cái thứ nhất lắm.” Những khẳng định đã nêu thuộc loại cum hoc ergo propter hoc (cùng với cái đó cho nên tại vì cái đó). Đây là một ngụy biện khá quen thuộc trong đó sự tương quan, xảy ra đồng thời đã bị nhầm với nguyên nhân, tức là cho rằng vì hai sự việc diễn ra đồng thời, nên một trong hai sự việc phải là nguyên nhân của sự việc kia. Ví dụ: “Tổng thống Clinton có một chính sách kinh tế tuyệt vời. Cứ xem kinh tế của nước Mỹ tăng trưởng tốt như thế nào trong nhiệm kỳ của ông ấy thì biết!” Vấn đề ở đây là hai việc có thể cùng diễn ra đồng thời đơn giản chỉ do trùng hợp ngẫu nhiên (chính sách của ông tổng thống có thể chỉ đóng vai trò rất nhỏ trong việc tăng trưởng kinh tế, còn nguyên nhân thực sự lại là sự phát triển của công nghệ) hoặc quan hệ nhân quả giữa chúng xảy ra trễ theo thời gian (chẳng hạn sự phát triển kinh tế kỳ này là nhờ chính sách của ông tổng thống ở nhiệm kỳ trước). Việc một dân tộc không tan biến hay có hàng ngàn năm lịch sử không phải là kết quả của việc dân tộc đó có ít tật xấu. Một dân tộc có thể có rất nhiều tật xấu mà vẫn tồn tại. Ông Bá Dương, tác giả của Người Trung Quốc xấu xí đã vạch ra bao tính xấu của người Trung Hoa trong khi dân tộc Trung Hoa đã có một lịch sử tới 5 ngàn năm, còn dài hơn cả dân tộc Việt.
11. Trong những thói hư tật xấu chung của người Việt mà ông đã trích dẫn, ông cảm thấy mình có bao nhiêu phần trăm thói hư tật xấu trong đó?
12. Đây là một cuộc phỏng vấn. Với tư cách là một người con của dân tộc Việt, ông cảm thấy mình có bao nhiêu tính xấu trong đó?
Đây là ví dụ điển hình kiểu “sách giáo khoa” cho lối ngụy biện Tu quoque (Ông cũng thế). Ngụy biện loại này bao biện cho một khuyết điểm, lỗi lầm trong lập luận của một người bằng cách chỉ ra rằng đối thủ của y cũng mắc khuyết điểm như vậy. Một lỗi lầm, khuyết điểm, hay thói hư tật xấu vẫn cứ là một lỗi lầm, khuyết điểm, hay thói hư tật xấu bất kể bao nhiêu người, kể cả một dân tộc, mắc phải.
13. Theo ông, Nguyễn Du có nhận thức được mình không khi viết ra một tác phẩm như “Truyện Kiều”?
Đây là lập luận thuộc loại argumentum ad verecundiam (lý lẽ dựa vào uy tín). Tính ngụy biện của lập luận loại này xảy ra khi người được trích dẫn không phải là chuyên gia trong lĩnh vực đang được bàn đến, ví dụ một số tác giả thường trích dẫn các quan điểm của Einstein về chính trị như thể Einstein là một triết gia hơn là một nhà vật lý thiên tài. Hơn nữa, đúng như ông Vương Trí Nhàn đã trả lời, việc có một, hai người như Nguyễn Du nhận thức được không có nghĩa là cả dân tộc nhận thức được.
Tiếp theo đó, nhóm phóng viên VieTimes đã chuyển sang ngụy biện kinh điển kiểu “bù nhìn rơm” khi đặt câu hỏi khiến ông Vương Trí Nhàn không thèm trả lời, và bỏ ra về:
14. Ông nói sao? Một thiên tài như Nguyễn Du cũng không biểu hiện cho nhận thức của dân tộc sao?
Ngụy biện kiểu “bù nhìn rơm” là cách đánh lạc hướng sự chú ý, tạo ra một dạng bóp méo (bù nhìn rơm) lý lẽ của đối phương thay cho lý lẽ thực sự mà đối phương đưa ra, và công kích cái lý lẽ bị bóp méo đó. Ngụy biện “bù nhìn rơm” khiến đối phương thiếu tỉnh táo sẽ phải quay sang bảo vệ cái lý lẽ “dở hơi” mà thực ra anh ta không đưa ra. Một dạng khác của ngụy biện đánh lạc hướng có tên là “cá trích đỏ” (red herring). Đây là cách lẩn tránh vấn đề chính (ở đây là thói hư tật xấu của người Việt), đánh lạc hướng sự chú ý sang một đối tượng khác (Nguyễn Du) để dễ quy kết, chụp mũ đối phương dựa trên argumentum verecundiam (lý lẽ dựa vào uy tín) đã nói ở trên và argumentum ad popolum (lý lẽ dựa vào công chúng) – vì công chúng xưa nay vốn đã được (bị) tuyên truyền rằng Nguyễn Du là thiên tài đất Việt. Tính ngụy biện của argumentum ad popolum là ở chỗ nó cố đi chứng minh một điều gì đó là đúng đơn giản là vì công chúng đồng ý với điều đó. Đó là chưa nói đến sự lươn lẹo tức cười giữa hai câu hỏi tiếp nhau 13 và 14 của nhóm phóng viên VieTimes bởi vì “nhận thức được mình” chẳng liên quan gì đến “biểu hiện cho nhận thức của dân tộc cả”. Ông N nhận thức được mình và ông N là người nước V không có nghĩa là ông N biểu hiện cho nhận thức của cả dân tộc V cho dù ông N có là thiên tài đi chăng nữa!
*
Sự khôi hài trong bài phỏng vấn thất bại nói trên là ở chỗ các câu hỏi và khẳng định của nhóm phóng viên VieTimes lại một lần nữa bộc lộ vài thói hư tật xấu – có thể không chỉ của riêng người Việt – thói “đánh hội đồng”, tính “mặc cảm tự ti”, và thái độ “không biết phục thiện”.
Tôi rất muốn tin rằng nhóm phóng viên của VieTimes đã thực hiện cuộc phỏng vấn nói trên không phải là do cơ quan A hay ông quan to B nào đó đã đánh tiếng “chỉ đạo”. Vì nếu không phải như thế thì chẳng hóa tình trạng được phản ánh trong bài thơ có từ hơn nửa thế kỷ trước mà tôi trích dẫn thay kết luận dưới đây vẫn còn nguyên tính thời sự?
Báo chí văn chương cũng đáng buồn
Một thằng ọ oẹ, chục thằng nôn
Rằng hay, hết sức xun xoe tán,
Bảo dở, thi nhau xỉa xói dồn.
Mẹ hát con khen đâu phải tốt,
Chồng làm vợ nịnh hẳn là khôn?
Này này đây bảo phường hay “hót”:
Cái miệng hay là cái lỗ chôn?

Tokyo 6/11/2007
04:42 CH 09/11/2007
24 phút trò chuyện với ông Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn: Mấy lời trần tình
Vừa qua, một nam phóng viên Vietimes đã đến phỏng vấn tôi mà không xưng danh, trong buổi trò chuyện toàn giọng khiêu khích. Tôi đã dừng cuộc phỏng vấn lại giữa chừng. Vậy mà sau đó, những câu trả lời của tôi lại đã được đưa lên Vietimes với những lời bình luận đầy ác ý.
Tôi đã gửi thư phản đối cách làm của phóng viên Vietimes tới Tổng biên tập VietNamNet, ngày 4-11, ông Tổng Biên tập VietNamNet đã ngỏ lời xin lỗi tôi về cách làm việc của phóng viên.
Qua VietNamNet, một lần nữa tôi muốn trần tình trước dư luận và xin không phải chịu trách nhiệm về những gì nói lúc đang bối rối đó.
Còn về công việc đã làm – những ý kiến trò chuyện, các bài sưu tầm bài viết đã in ở đây đó, tôi muốn nói rõ mấy điều:
1/ Tôi cho rằng trước sau nhất định không thể không đặt vấn đề tự nhận thức dân tộc
Trong quá trình tự nhận thức đó, không thể thiếu việc tìm hiểu thói hư tật xấu.
Khoảng 1968-1972, cùng sống ở gác hai nhà số 4 Lý Nam Đế, tôi được Nguyễn Minh Châu chia sẻ nhiều suy nghĩ khi sáng tác. Tôi còn được ông cho đọc vài đoạn nhật ký nữa . Đây là một trong những đoạn Nguyễn Minh Châu ghi trong sổ tay hồi viết Dấu chân người lính : “Trong cuộc chiến đấu để giành lại đất nước với kẻ thù bên ngoài hai mươi năm nay, ta rèn cho dân tộc ta bao nhiêu đức tính tốt đẹp như lòng dũng cảm, sự xả thân vì sự nghiệp của Tổ quốc.
Nhưng bên cạnh đó, hai mươi năm nay không có thì giờ để nhìn ta một cách thật kỹ lưỡng. Phải chăng bên cạnh những đức tính tốt đẹp thì tính cơ hội, nịnh nọt, tham lam, ích kỷ, phản trắc ,vụ lợi còn được ẩn kín và đã có lúc ngấm ngầm phát triển đến mức gần như lộ liễu? Bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài”.
Tôi đã trích dẫn đoạn nhật ký này trong một bài viết về Nguyễn Minh Châu mang tên Sự dũng cảm rất điềm đạm .( Bài này đã in trong tập Cánh bướm và đóa hướng dương bản in ở NXB Phụ Nữ 2006, tr. 326).
Từ thời điểm đó, tôi đã nung nấu để có dịp là viết về thói hư tật xấu của chúng ta, trong mỗi người chúng ta.
Vì đã có nhiều người nói về những mặt hay mặt tốt của cộng đồng, nên tôi đi sâu hơn kỹ hơn vào phần thói hư tật xấu. Tôi nghĩ rằng trong số hàng ngàn hàng vạn người đã viết về cộng đồng nói chung, có một vài người đi sâu vào chuyên đề “ thói hư tật xấu” là cần thiết. Những giả thiết chúng tôi nêu ra sẽ được các đồng nghiệp khác chia sẻ, đào sâu thêm, hay phản biện, bác bỏ trong các trao đổi thảo luận. Và tất cả các kết quả nghiên cứu – cả mặt tốt lẫn mặt xấu -- , sau khi được kiểm nghiệm và nhất trí, sẽ cùng tác động tới dư luận như một thực thể tổng hợp.
2/ Trong các bài viết vừa qua, tôi chỉ trình bày cái phương diện cụ thể mà tôi đã đi sâu tìm hiểu. Còn trong quá trình nghiên cứu, muốn được khoa học, tôi phải nhìn thói hư tật xấu trong toàn bộ tâm lý ứng xử của người mình nói chung. Trong “ phòng thí nghiệm cá nhân “ là sổ tay ghi chép riêng của tôi, tôi đã làm đúng như vậy.
Những phương diện tốt đẹp của người Việt, bao giờ cũng là tầng ngầm trong suy nghĩ của tôi. Khi trình bày các thói hư tật xấu, tôi đã nói rõ phần nào một sự thật : nhiều khi ở đây có sự chuyển hóa; một thói xấu nào đó ban đầu vốn là một phản ứng cần thiết trước thực tế, chỉ vì bị đẩy lên quá đà và không có điều kiện sửa đổi mà nó thành mặt xấu.
3/ Khi viết, nhất là khi nói, có thể có một số chữ một số cách diễn tả tôi dùng không thích hợp. Có những khi cách nói gây cảm tưởng vơ đũa cả nắm. Ai là người có kinh nghiệm hẳn sẽ tha thứ cho tôi: nhiều khi phải say phải bốc phải nói quá lên một chút, thì mới tìm thấy hào hứng đi tiếp.
Lúc này đây, tôi đã nghĩ lại.Tôi đang đề cập tới những vấn đề nhạy cảm nên không được phép tự nhiên dễ dãi như vậy. Trong khi vẫn đi tới cùng trong suy nghĩ riêng tư, tôi tự nhủ tới đây sẽ thận trọng hơn mỗi khi phát biểu trước công chúng.
4/ Nhìn toàn bộ, chỉ có thể nói là tôi viết về thói hư tật xấu của cộng đồng. Chụp cho tôi cũng như tất cả những ai chia sẻ suy nghĩ của tôi là nói xấu dân tộc là không đúng. Là con dân đất nước này, sao tôi lại có thể đứng ra làm cái việc bỉ ổi đó?
5/Tôi không bao giờ tin rằng mình đã đi tới được những kết quả đúng đắn. Tôi sẵn sàng nghe những ý kiến ngược. Chính vì lý do đó mà khi một nữ phóng viên Vietimes gọi điện cho tôi, nói là muốn phản bác tôi, tôi đã nhận lời. Tôi tưởng qua việc trò chuyện với các bạn trẻ, tôi sẽ được dịp kiểm nghiệm lại nhận thức của mình. Ai ngờ…
Tuy nhiên, cho tới lúc này, tôi vẫn tha thiết mong các đồng nghiệp và bạn đọc tiếp tục trao đổi về các giả thiết mà tôi đã nêu. Một mình tôi thì làm được việc gì ? Cần có sự đóng góp của những người có kinh nghiệm sống nhiều hơn, đọc nhiều sách vở hơn, và có tầm nhìn xa rộng hơn.
Trong cuộc trao đổi này, tôi chỉ đề nghị một điều là chúng ta giữ lấy sự lương thiện của người làm khoa học, vừa làm vừa lắng nghe, không quá tự tin, không chụp mũ cho nhau, không mang vào đó những ân oán cá nhân.
Trong cuộc đời làm nghiên cứu của tôi ( viết văn nói chung cũng là một cách nghiên cứu đời sống ), nhất định là có nhiều lầm lỗi. Nhưng riêng trong việc tìm hiểu thói hư tật xấu, tôi tự thấy mình chỉ có thiện chí. Cái tâm của tôi đã giúp tôi có thêm nghị lực mầy mò tìm kiếm trong một khu vực mới mẻ. Tôi mong những bạn bè và đồng nghiệp cũ, muốn “chiếu cố “ tới cả con người tôi nói chung, để cho một dịp khác.
Trước mắt chúng ta cần tập trung suy nghĩ về những vấn đề thiết thân tới sự nghiệp chung. Những gì mà các thế hệ trước chưa kịp làm, những người đang sống hôm nay phải bảo nhau làm bằng được.
Vương Trí Nhàn
04:32 CH 09/11/2007
Bác nào đọc "Bóng đè" của Hoàng Diệu chưa?
Thế thôi, mình chẳng đọc nữa!

Bạn cứ thử đọc đi.
ĐHD là hiện tượng "hiếm có khó tìm" đấy!!!
10:19 SA 12/10/2007
Phần mềm Gu gu học toán
Cám ơn nhà Tòng Mít nhiều nhiều !!!
07:21 CH 31/08/2007
Link truyện Ngắn "Sự Tích Những Ngày Đẹp Trời"
Cám ơn bác One, năm ngoái khi Hòa Vang mất mình tìm truyện này mỏi mắt mà không thấy ở trên mạng.
một trong những truyện hay ngắn hay nhất mà mình đã đọc.
11:40 SA 31/08/2007
Tô tem sói
(Tiếp)
Ngoài việc dẫn ra những nỗi nhục của ông cha để chứng minh cho tính “ưu việt” tuyệt đối của “tính cách sói”, Khương Nhung tiên sinh còn tỏ ra hàm hồ tới mức dẫn chứng cả cái nước Trung Sơn bé tí thời Chiến Quốc ra cho cái “học thuyết” rởm đời của tiên sinh tăng thêm phần... nguỵ biện. Than ôi, cái nước “vô danh tiểu tốt” thuộc giống “Bạch Địch” (hay “tiên Ngu”) nằm ở phía tây nước Tấn ấy, chẳng đã bị Nhạc Dương, tướng của Nguỵ Văn Hầu vây hãm suốt 3 tháng trời, đến nỗi phải đem cả con người ta ra nấu cháo để khủng bố tinh thần mà vẫn không thoát khỏi số phận bị diệt, từ đó biến mất hẳn trên bản đồ đó sao?
Nói gì thì nói, chưa kể đến những chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt hoặc Quang Trung Nguyễn Huệ (toàn thị là văn minh canh nông) đối với cái “văn minh sói” hoặc có dính tí “huyết sói” ưu việt tuyệt đỉnh ấy. Chỉ sơ sơ vài sự thật lịch sử mà Khương Nhung tiên sinh đã cố tình lờ đi đó thôi, thì cái học thuyết “sói vi quý” của tiên sinh cũng đã sụp đổ tan tành rồi. Cái kiến thức ấy dẫu “kì diệu” đến mấy, thì cũng chỉ lừa được trẻ con. Sao lừa nổi những bậc cao sĩ. Vậy mà ngày nay, con cháu của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... những vị anh hùng của một nền văn minh canh nông đã nhiều phen đập tan cái sức mạnh sói tính ấy lại dễ dàng nhẹ dạ đồng ý ngay lập tức với những tư tưởng sói của con cháu những kẻ bại trận kia. Để (nói theo chữ của Đức Thánh Trần): “uốn lưỡi cú diều” mà ca ngợi cuốn sách. Thật chẳng còn hiểu ra làm sao nữa.
Lẽ ra, nếu dừng lại ở phần “Vĩ thanh” thì cuốn tiểu thuyết ca ngợi thiên tài sói ấy dù có nhiều chỗ hồ đồ, song cũng tạm coi là có thể đọc để giải trí, cười cợt cho vui. Tiếc rằng tác giả lại tương thêm một phần dài lê thê gọi là “Khai quật bằng lý tính”, thực chất là những “chiết ný” cực kì quái đản, bệnh hoạn. Lịch sử đã được/bị nhìn dưới một góc độ hết sức thiển cận, méo mó và dị dạng. Chưa kể sự nhảm nhí, phản khoa học và phản nhân văn của những “chiết ný” ấy (ví dụ chỉ bằng cách chiết tự chữ “mĩ” (hoa hậu là... con cừu to), tác giả suy ngay ra rằng du mục Mông Cổ chính là tổ tiên của người Hán. Chưa biết đúng sai ra sao, chỉ thấy một điều rằng ông này đích thị là kẻ: “thấy người kiêu nhận liều là... ông tổ”). Riêng về mặt thủ pháp, bố cục... thì cả phần sách dày tới 68 trang khổ to này thuộc loại văn chương hạng bét. Để trình bày cái “tư tưởng sói” siêu hạng của mình, tác giả tiếp tục dùng những “màn” sắp đặt để rao giảng “kiến thức”. Tiếc rằng ở phần này, “thủ pháp” đó được vận dụng một cách hết sức vụng về, dớ dẩn. Đó là cuộc “thuyết giảng” giáo lý sói giữa nhân vật chính (Trần Trận) với gã “quan cừu” ngây ngô Dương Khắc. Cứ sau một đoạn lê thê “hùng biện” làm người đọc tưởng lầm đang đọc một cuốn sách lịch sử hay triết học quái gở nào đó, tác giả lại cho cái mồm của Trần Trận dừng lại nghỉ một chút, để cái gã Dương Khắc kia tấm tắc, tung hứng mấy nhời. Kết quả của sự “thuyết giảng” này là gã học trò Dương Khắc ngay lập tức từ bỏ cái tư tưởng “sô vanh Đại Hán” bấy lâu nay của mình (như chính miệng gã nói ra) để chuyển hẳn sang “sô vanh sói” cho nó tăng thêm phần bạo liệt. Thật chẳng khác gì cảnh một thầy một tớ diễn tuồng. Thà cứ viết lửng lơ con cá vàng, không cần nhân vật, không cần bối cảnh... còn hơn. Chứ viết theo kiểu này thì xưa nay các nhà viết tiểu thuyết tối kị. Viết cũng còn ngượng bút, nói chi đến việc đọc tránh sao cho khỏi ngượng mắt, ngượng mồm...
Nếu nhân vật Trần Trận chính là hoá thân của tác giả, thì phần “chiết ný” ấy đã lòi ra một sự thật, rằng Khương Nhung tiên sinh đâu phải nhà văn. Ông ta đã lộ rõ là một nhà đầu cơ tư tưởng có thứ hạng, kẻ chuyên nghiên cứu để “cải cách thể chế”... đấy chứ. Và ông ta viết cuốn sách này cốt để truyền bá, cốt công khai cái tư tưởng “sô vanh sói” của một nhà “cải cách thể chế” quái đản đó thôi. Nhân loại (cả chính Trung Quốc nữa) đã từng chứng kiến và vật vã qua bao cuộc “đấu tranh giai cấp” đẫm máu, nồi da nấu thịt... rồi. Vậy mà đối với nhà “cải cách thể chế” Khương Nhung tiên sinh hình như vẫn chưa ăn thua. Rằng cái sự giết chóc ghê tởm ấy cần phải có tính sói để “khốc liệt” và “sâu rộng” hơn nữa. Hãy đọc đoạn văn này để mà rùng mình:
“Mình thấy khiếm khuyết chí mạng của văn minh nông canh Hoa Hạ là ở chỗ trong nền văn minh nông canh không có cạnh tranh sinh tồn khốc liệt sâu rộng hơn so với đấu tranh giai cấp.” (trang 492)
Một nhà văn như ông Khương Nhung, lại là người sùng bái tính sói, thì cứ việc nhân cách hoá sói tha hồ. Song ông ta lại làm thế nhằm kêu gào “lang sói hoá” dân tộc Hoa Hạ vĩ đại của ông ta, đồng thời biến cả vũ trụ này thành một “thảo nguyên” để loài sói Hoa Hạ ấy mặc sức tung hoành thì phải coi chừng. Không biết dịch giả nghĩ gì khi dịch đoạn văn này:
“Người Trung Quốc hiện nay phải cảm thấy may mắn và tự hào vì có một di sản tinh thần lâu đời vĩ đại và quý báu như thế. Giờ đã đến lúc lột bỏ cái vỏ nông canh cừu tính để tinh thần ấy toả sáng chói lọi. Nó là nguyên liệu tinh thần bản thổ quý báu nhất của công trình chuyển đổi tính cách dân tộc Trung Hoa đương đại. ‘Con sư tử ngủ phương Đông’ sẽ do tinh thần tô tem sói mà sống lại, thức tỉnh và vươn lên.” (trang 511)
Dù sao cũng phải cám ơn ông Trần Đình Hiến đã bỏ công dịch cuốn sách này để giúp chúng ta hình dung, rằng những “sói tính” ghê gớm kia không chỉ len lỏi dưới dạng thuốc độc, thuốc gây ung thư hay những cú điện giật trong vô vàn kiểu hàng hoá, thực phẩm, kem đánh răng, đồ chơi trẻ em... mang nhãn hiệu Made in China đang tràn ngập khắp thế gian mà báo chí trong nước và khắp nơi trên thế giới đang đề cập. Mà cả trong văn chương nữa. Biết đâu đây chính là mớ “cơ sở lý luận” cho những “thực tiễn” mang “sói tính” ấy?
Không dám bàn đến chất lượng dịch thuật ở đây. Việc đó xin nhường cho các nhà chuyên môn. Chỉ riêng câu thơ: “Quân bất kiến, Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai...” trong bài “Tương tiến tửu” của Lý Bạch (ông này theo Khương Nhung cũng là người mang dòng máu sói, căn cứ vào cái “hào khí ngất trời” trong thơ của ông ta) mà dịch giả dịch là: “Quân biết không, nước sông Hoàng Hà tự trời cao đổ xuống...” thì nghe cứ... buồn cười làm sao ấy. Cứ như thể Lý Bạch nói với một ông bạn... tên Quân nào đó vậy. Có vẻ như dịch giả không dịch “thạo” thơ cho lắm. Bàn kĩ về những sự hồ đồ, chủ quan và phi nhân của cuốn sách thì còn nhiều, nhiều nữa. Chỉ riêng nội dung tư tưởng của cuốn sách, thì văn chương kiểu phát xít như thế này trừ những kẻ yêu thích chiến tranh, quen thói lấy thịt đè người, giẫm đạp lên nhau mà tồn tại nhắm mắt tung hô... còn ngoài ra, những người yêu chuộng hoà bình chắc chắn không thể chấp nhận.
Cuối cùng chỉ băn khoăn một điều. Rằng nhà xuất bản Công an Nhân dân tất phải đứng về phía nhân dân. Mà đã “nhân dân” tất phải yêu chuộng hoà bình. Phải chăng nhà xuất bản có “thâm ý” xuất bản cuốn sách này để nhân dân “nâng cao cảnh giác” với cái tư tưởng “sô vanh sói” kia đang hàng ngày hàng giờ phà cái hơi tanh tưởi của nó vào những hải đảo, biên cương... thậm chí phà vào tận gáy ta, vào những bàn tay, ánh mắt trẻ thơ, vào cả cái dạ dày của ta nữa...? Ôi! Nếu có được cái “thâm ý” ấy thì tốt quá. Đáng tiếc hình như sự thật không phải như vậy.
Một ngày đầu tháng 6/2007
© 2007 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
Tô tem sói – tác giả Khương Nhung, người dịch: Trần Đình Hiến. Nhà xuất bản Công an Nhân dân quí I/2007, số trang: 560 khổ lớn (16 x 24)
07:31 CH 13/06/2007
Có mẹ nào có con học trường mầm non Đống Đa không?
Trường này hay phết. Cu Bin nhà này lúc 3 tuổi học chích Bông, mất một năm mới chuyển sang đây. Học phí giảm hơn nửa. Lớp học rộng tha hồ chạy nhẩy hơn hẳn các trường tư thục. Sân trường to, phục vụ ăn snág và quà chiều tạm ổn. Hai cô trông 1 lớp khoảng 40 - 45 cháu (phần này thì kém hơn Chich bông chỉ có
07:40 CH 11/06/2007
Tại sao phải đánh răng.
Hoan hô Khunglongdo!!!!!!!!!!!
11:42 SA 07/06/2007
Quà muộn
Ba lấy vợ. Dì hai mươi ba tuổi, lớn hơn tôi tám tuổi. Nhìn dì và tôi người ngoài dễ lầm là hai chị em.
Dì không hoạnh họe tôi như những bà dì ghẻ người ta hay nói. Mà thật ra dì không chú ý đến tôi thì đúng hơn. Sáng tám giờ dì thức dậy, chải đầu, thay áo quần rồi ăn sáng đến mười giờ, đi chợ, vậy là tới trưa. Ngủ trưa dậy là đã ba giờ, dì tới tiệm gội đầu hoặc làm móng tay móng chân... rồi cơm chiều. Khi có bầu, da mặt bị nám một chút, dì khóc, không chịu vào bếp nấu ăn vì sợ nám nhiều hơn. Ba mua bếp điện về, dì than cái thai làm dì mệt. Vậy là ba thuê một bà già ngày ngày tới lo cơm giặt giũ.
- Chứ còn con Linh làm gì? – Đó là câu nói đầu tiên của dì ám chỉ đến tôi sau một năm sống chung.
- Để cho nó học hành - Giọng ba như ra lệnh, dì im lặng ngay.
Dường như dì hiểu được rằng ba rất cưng tôi và đặt hy vọng nơi tôi rất nhiều. Dì muốn gì thì muốn, trừ việc... gây sự với tôi.
Chỉ tội nghiệp cho bà già giúp việc – Ba tôi vốn khó tính, dì không khó tính nhưng lại nhỏng nhảnh, còn tôi thì ngủng ngẳng với tất cả. Bà nấu món gì, hễ tôi khen ngon thì dì chê dở, bà làm gì, hễ được dì khen thì tôi lại chê. Ba khi thì nghe theo dì, khi thì nghe theo tôi... và một ngày kia ông quát lên:
- Từ nay về sau ai chê thì tự làm lấy.
Dì sinh ra một đứa em gái giống em Thu như đúc. Bà già giúp việc lắc đầu “Đàn bà có thai mà chưng diện thì sinh con xấu xí vô duyên là đúng rồi. Chỉ tội nghiệp con bé...”.
Ba cau mặt mỗi khi nhìn thấy đứa nhỏ. Dì trút bỏ áo quần đẹp, thôi son phấn, cả ngày dì ôm con vào lòng nựng nịu mong cho nó biết cười. Nhưng mặc kệ tình thương lẫn nước mắt của dì, nó vẫn cứ nhìn quanh bằng lờ đờ và chẳng hề vui hơn chút nào khi nghe tiếng lúc lắc của món đồ chơi.
- Sao anh chẳng bao giờ nựng con hết vậy? - Tôi nghe dì khóc hỏi và tiếng giày ba xa dần.
Đứa bé đã kéo tôi đến gần dì. Đi học về, tôi thường vào phòng dì bế bé lên. Tôi ca hát, vui đùa trêu chọc bé, cũng như dì, tôi thiết tha mong nghe tiếng nó cười. Dì vui hơn khi thấy tôi gần gũi bé Bi của dì, nhưng không bao giờ dì hiểu được rằng tôi đang nhìn thấy mẹ nơi dì và bé Bi là em Thu ngày xưa. Giờ thì tôi hiểu được câu cuối cùng của mẹ nói, “em Thu yếu đuối hơn con nên em cần mẹ hơn”.
Sau bao ngày tháng, giờ đây bỗng tôi nhớ mẹ và em Thu đến cồn cào. Tôi nhớ ngày đó tôi hay giành đồ chơi với Thu và nó chẳng biết làm gì hơn là khóc ư ử. Cuối năm học nào tôi cũng ôm về gói phần thưởng lớn nhất và ba tôi hãnh diện chở tôi khắp nhà người quen. Mỗi lần ba nựng nịu hoặc mua quà cho tôi thì mẹ lại đưa em Thu đi loanh quanh trong xóm và mua cho em một món quà tương tự để rồi tôi giành luôn món quà đó bằng câu phụng phịu:
- Mẹ ứ thương con. Mẹ chỉ thương em Thu thôi.
- Linh! Con là chị. Con phải nhường em - Mẹ dàn hòa – Và đôi khi mẹ nói như năn nỉ tôi - Khi nào đi chơi, con dắt em theo cho em biết này biết nọ nghe con.
Tôi lắc đầu nguây nguẩy:
- Nó chậm lù đù, dắt theo mệt lắm.
Tôi chưa bao giờ quan tâm đến em Thu, ba đã khiến tôi nhận ra điều này!
Tôi ẵm bồng bé Bi, ru nó ngủ, may áo búp bê, mua đồ chơi cho nó. Tôi muốn làm thật nhiều cho bé để chuộc lại sự vô tấm đối với em Thu. Nhưng bé Bi là bé Bi, em Thu là em Thu và tôi bật khóc mỗi khi nhớ mẹ. Tôi lục mấy phong thư cũ, tìm địa chỉ của mẹ nhưng vô ích, con dấu ngoài phong bì với hai chữ Nha Trang lạnh lùng chẳng nói gì được hơn. Nha Trang trở thành một địa danh ám ảnh.
Giấy báo tôi thi đậu Á khoa Đại học Y thành phố Hồ Chí Minh gởi về nhà. Ba mở tiệc mừng ngay ngày hôm sau. Tiếng cụng ly của khách khứa chúc mừng tương lai tôi vọng vào phòng khiến dì run vai lặng khóc. Tôi bồng bé Bi lên, bé nhìn tôi bằng đôi mắt lờ đờ rồi mệt mỏi ngã cổ trên vai tôi.
- Mai mốt Linh đi học... ở đây một mình... dì biết làm sao? – Dì nói nho nhỏ, thống khổ, tuyệt vọng, cô đơn. Dì già khọm như đã bốn mươi.
Tôi cắn nghiến môi lại. Mẹ cũng đã từng thống khổ tuyệt vọng và cô đơn như vậy. Mà hồi đó, tôi còn quá nhỏ để biết chia sẻ.
Tôi rời bữa tiệc mừng đi lang thang trên phố. Hàng cây hai bên đường rủ lá lặng im. Niềm kiêu hãnh trước sự quan tâm đặc biệt của ba dành cho tôi không còn nữa, điều gì đó đã nứt rạn, xót xa.
- Con gái của ba, con muốn ba thưởng gì cho con? – Ba hồ hởi khi tôi quay về sau bữa tiệc.
- Con thích đi Nha Trang – Tôi đáp và mong ba hỏi “Tại sao con muốn đi Nha Trang” để tôi nói với ba về nỗi day dứt trong tôi, nhưng ba không thèm thắc mắc.
Mặc đám bạn vui đùa trên bãi cát. Tôi đi lòng vòng khắp phố biển như một con điên. Tôi dáo dác nhòm ngó, nghểnh cổ xoáy đầu nhìn quanh tựa như mẹ và em Thu vừa mới chia tay với tôi xong.
Tôi đặc biệt chú ý đến những đứa bé trạc tuổi Thu ngày ra đi, những đứa bé rách dưới nhẫn nhục chìa cái mũ trước ngực và ngước mắt chờ đợi. “Nếu bỗng nhiên một đứa bé ngửa mũ trước mặt tôi với nụ cười nhăn nhở và đó là Thu thì sao?”. Câu hỏi kinh khủng loé lên khiến tôi sựng người khiếp sợ. Mẹ sẽ không bao giờ để em Thu như vậy! Nhưng có thể là mẹ làm sao đó... Mẹ chết chẳng hạn và chẳng còn ai trên đời này biết đến em tôi. Một con người sinh ra không có lý trí thì có thể làm được gì ngoài việc ngửa mũ đi ăn xin? Tôi thẩn thờ đi trên phố, lòng vừa mong gặp vừa mong đừng gặp.
Ngày cuối cùng ở Nha Trang, tôi đi quanh các cửa hàng tìm mua quà cho bé Bi.
“Có món quà nào thật hay khiến cho bé cười được không?” Tôi lùng sục món quà trong trí tưởng tượng của mình một cách xét nét tỉ mỉ khiến đám bạn cùng đi kêu trời:
- Sao mày khó tính như bà già vậy Linh?
Cuối cùng tôi tìm mua được con thuyền bằng vỏ ốc gắn vào nhau. Những cái vỏ ốc nhiều màu lấp lánh dưới ánh mặt trời.
- Cám ơn Linh đã mua quà cho bé Bi. – Dì buồn bã nói. – Từ lâu rồi, dì cũng chẳng nhớ đến việc mua quà bé nữa.
Dì đưa chiếc thuyền cho bé và ngay lập tức, chiếc thuyền tuột khỏi đôi bàn tay lỏng lẻo của bé, rồi rơi xuống nền xi măng khô khốc, vỏ ốc văng tung toé.
Thật bất ngờ, tôi gặp mẹ ngay ngày đầu tiên đến trường Đại học. Trong phút giây, tôi và mẹ đứng lặng nhìn nhau. Mẹ già đi nhiều, tóc lốm đốm bạc.
- Sao mẹ... đứng ở đây? – Tôi ấp úng hỏi một câu ngu ngơ.
- Mẹ đợi con – Giọng mẹ khàn khàn.
- Sao mẹ... không viết thư cho con?
- Biết ba con lấy vợ nên mẹ thôi không gởi. Mẹ ngại ba nghĩ rằng mẹ quấy rầy hạnh phúc của ba con.
- Mẹ ngại... ngại... mẹ không nhớ đến con thì có! – Tôi dằn dỗi, như ngày xưa mỗi lần mẹ mua quà cho em Thu.
- Linh! – Mẹ dịu dàng gọi tên tôi – Mẹ luôn hỏi thăm về con. Con có thấy là mẹ đang đứng đây không? Từ khi biết con thi đậu trường này, ngày nào mẹ cũng đến đây đợi.
Hai mẹ con mà phải đợi chừng đó năm tháng để gặp nhau ở một nơi xa lạ. Tôi gục đầu trên vai mẹ, bật khóc:
- Con về Nha Trang tìm mẹ... mẹ ơi.
- Hồi đó mẹ đưa em về Nha Trang với hy vọng khí hậu biển sẽ tốt hơn cho em con. Rồi nghe nói ở Sài Gòn có nhiều bác sĩ giỏi nên mẹ đưa em về đây.
- Em Thu... sao rồi mẹ? – Tôi hồi hộp hỏi.
- Em con mất rồi! – Nước mắt mẹ rơi trên tóc tôi. – Em con không ý thức được nguy hiểm nên đút tay vào ổ điện.
Đột nhiên tôi thấy nhẹ nhõm, nỗi nhẹ nhõm tàn nhẫn, kỳ quặc và đau đớn. Mẹ nghẹn ngào:
- Chết có lúc là giải thoát phải không con?
Nỗi đau trong mắt mẹ khiến cổ tôi cứng lại.
Tôi có thêm một đứa em trai, vì mẹ đã có chồng. Chồng của mẹ là một bác sĩ khoa tâm thần. Thật khó chịu khi biết mẹ có chồng. Việc mẹ có chồng khác hẳn việc ba có vợ! Không thể giải thích được vì sao lại như vậy.
Tôi cố tạo một vẻ mặt vô tư khi gặp bé. Nó có một khuôn mặt tròn và sóng mũi thanh tú của mẹ. Rồi khi đối diện với ông bác sĩ, tôi nhận ra đôi mắt nó là bản sao của đôi mắt ông.
Câu chào ngập ngừng trên môi, rồi tôi bật ra “Chào bác”.
Ông đáp lại câu chào của tôi bằng một nụ cười.
Ông đưa mẹ và tôi ra mộ em Thu. Ngôi mộ xây theo một kiểu là lạ, ngồ ngộ. Những viên đá hoa đủ màu đắp quanh mộ như những món đồ chơi bày ra bừa bãi.
- Với dáng mộ này, bác mong em của cháu có được tuổi thơ ở thế giới bên kia. Ông nói bằng một giọng ấm áp, ân cần.
Tôi hình dung một cuộc sống có ông, mẹ, em Thu và đứa em tôi mới gặp. Thật khó mà hình dung được cuộc sống đó ra sao. Tuy nhiên, tôi hiểu ông rất yêu mẹ. Vì yêu mẹ nên ông đã tặng cho em tôi tuổi thơ, dẫu muộn màng. Cũng như tôi thân thiện với dì vì nhớ mẹ, và nựng nịu vỗ về bé Bi vì tình yêu muộn màng dành cho em Thu.
NGUYÊN HƯƠNG
08:50 SA 03/11/2006
Offline về Game giáo dục - sáng Chủ nhật 10.9 tại...
GaoRangers xác nhận sẽ lấy đủ đĩa như đã đăng ký. Lấy ở đâu và khi nào thì Mod cho biết nhé. Xin cám ơn
05:54 CH 27/09/2006
Mẫu thượng ngàn
QUyển này mới được giải thưởng văn học, mình chưa đọc nhưng có thấy trên mạng baqì phê bình của Phạm Lưu Vũ (nhà văn VN mình yêu thích nhất hiện nay) nên lôi về để các bạn xem thử
Phạm Lưu Vũ
“Mẫu Thượng ngàn” - Một tác phẩm vừa có danh, vừa có... giá

Không biết thiên hạ thường đọc sách trong tư thế nào, chứ một kẻ tạm coi là mọt sách như tôi thì tư thế ưa thích nhất bao giờ cũng là nằm đọc. Vì thế tôi vừa không thích, lại vừa ớn những cuốn có bìa cứng. Huống chi đây lại là một cuốn tiểu thuyết dày tới 800 trang khổ 13,5 x 20,5 bìa đẹp, bóng láng nhưng cứng như sắt nguội, thì nằm đọc quả là vất vả. Dùng một tay thì không đỡ nổi, mà dùng cả hai tay thì chỉ một lát đã mỏi rã rời. Thế là hết xoay bên nọ, lại trở bên kia, bê cuốn sách trên tay chẳng khác nào bê một cái thớt gỗ nghiến, mới đọc được vài chục trang đã đỏ ửng cả lòng bàn tay, chỉ sợ ngủ gật mà đánh rơi sách xuống mặt thì dễ... đi bệnh viện như chơi.
Đó là tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, do NXB Phụ nữ ấn hành năm 2006. Dù sao thì cái vụ bìa cứng bìa mềm trên cũng chỉ là nói cho vui, không hề quan trọng. Điều quan trọng là tiểu thuyết này vừa đoạt giải “Nô-ben Hà Nội” năm 2006 của Hội Nhà văn danh giá đất Kinh kỳ (Hội Nhà văn Hà Nội). Rất cám ơn nhà văn Vũ Ngọc Tiến đã mua tặng tôi và anh Nguyễn Hoà (SCL) mỗi người một cuốn. Tôi đã phải thoa rượu mật gấu (nuôi) vào hai bàn tay để quyết đọc trong khoảng bốn năm hiệp, mỗi hiệp vài tiếng, từ đầu cho đến cuối cuốn tiểu thuyết đó. Với tư cách là một bạn đọc, tôi cũng xin mạn phép được (liều mạng) phát biểu một số suy nghĩ (thiển cận) của mình về cuốn tiểu thuyết này, đặng góp vui tí chút cho văn đàn như sau:
Đúng như những gì mà các báo, mạng đã giới thiệu gần đây về Mẫu Thượng ngàn, đây là một tiểu thuyết có những trang mô tả rất quý, rất sinh động, đầy chất tư liệu về văn hóa phong tục của làng quê Việt Nam hồi cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Nhưng nếu “văn hoá” nghĩa là dùng cái “văn” để “cảm hoá”... thì cuốn sách này còn mang một nét khác, đậm hơn cả cái nét “văn hoá” kể trên. Đó là nét “dâm hoá” - dùng cái “dâm” để cảm hoá... Hình tượng người phụ nữ nông thôn hiện lên trong cuốn sách như những thiên thần dâm dục hạng lực điền (sàng), những cái máy hút tinh khí đàn ông có công suất cực lớn. Mặc dù đã được giải thích bằng “tư tưởng” của “chủ nghĩa” phồn thực, được núp dưới những tính cách “cao thượng” trứ danh (như quảng cáo ở bìa 4), song, công bằng mà nói, thì đó chẳng qua chỉ là những cái dâm nhà quê, dâm cổ điển. Những cái dâm pha trộn giữa sự hút hồn, sát đực kiểu Hạ Cơ thời Xuân Thu bên Tàu, với cái dâm man dại trong Trăm năm cô đơn” của Gacía Marquez (nhân vật bà Mùi trong truyện là một ví dụ).
Ngoài những thành công về “văn hoá” và “dâm hoá” kể trên, đọc cuốn sách này, người đọc có cảm giác như được vào thăm một ngôi chùa cổ, nhưng là một ngôi chùa mới được dựng lại, trên cái nền chùa đã bị phá huỷ từ lâu. Tiếc rằng các nghệ nhân thời xưa hầu như đã khuất bóng, thành ra ngôi chùa đó dẫu cũng có bố cục chữ công, chữ đinh gì đấy, dẫu cũng được trang trí long, ly, quy, phụng gì đi nữa... thì thực chất, cũng chỉ là một ngôi chùa... giả cổ mà thôi. Oái oăm nhất, đồng thời cũng đáng tiếc nhất là nhân vật chính mang cái tên của một vị đại Nho thời Tam Quốc (là Trịnh Huyền) lại (hơi bị) mờ nhạt, chẳng tạo nên ấn tượng nào đáng kể ngoại trừ cái tài thổi kèn đám ma và bộ mặt nửa thiên thần nửa quỷ sứ (!) của mình, chưa kể đến cái kết cục của ông ta cũng hơi bị đột ngột và có phần... lãng xẹt. Dù sao, trong tác phẩm cũng có những “xen” miêu tả rất đạt, rất hay như cảnh đám ma vùng đồng chiêm trũng, cảnh dịch tả ở làng Cổ Đình, cảnh vì tránh chết “trùng” mà phải chôn người “bán âm bán dương”... Đặc biệt “xen” người chết sống lại (anh chàng Điều, con “giống” của họ Đinh) tả rất xuất sắc, công phu. Tiếc rằng sự công phu ấy về sau hầu như... chẳng để làm gì. Lại có những “xen” không mấy thuyết phục, thiếu thực tế như đoạn tả việc tìm xác tên thực dân Henri Rivière, đoạn tả về hai nhân vật Mường, Ngơ, đoạn tả những cái hấp dẫn, mượt mà, đầy... dâm lực của mấy bà nạ dòng nhà quê lam lũ ngót bốn mươi tuổi, lại có tới năm sáu con... Văn này mà mấy bà nhà quê ở quê tôi nghe được, chắc thể nào mấy bà ấy cũng bảo là tác giả... nói điêu! Lại còn những cách đặt tên nhân vật. Đồng ý là người nhà quê xưa đặt tên con rất nôm na, dân dã... nhưng không đến nỗi tuỳ tiện, dễ dãi kiểu Cỏn, Tẻo, Liến, Láu... như trong truyện. Làm như thế chỉ tổ giảm chất thực của văn chương đi, đồng thời lại tăng chất kịch của tiểu thuyết lên... Nhưng thôi, theo thông lệ xưa nay, thì một tác phẩm đã được trao giải “chính qui, chính thống”, do một ban chung khảo, toàn những tên, tuổi có “cỡ” như thế này, thì thói thường, người đọc chỉ được phép khen mà thôi. Vậy xin nói về những cái được của tác phẩm này.
Cái được thứ nhất là những sự ẩn ý, thâm trầm (chưa bàn đến đúng, sai) của tác giả gửi gắm vào câu chuyện. Hai dòng họ Đinh và họ Vũ trong làng đối lập, kèn cựa với nhau, tạm gọi là sự đối lập giữa quân tử (họ Đinh), và tiểu nhân (họ Vũ)... Rốt cuộc họ Đinh (quân tử) lại để lại trong làng một cái dòng giống giả, lai Tây (con dâu họ Đinh là Nhụ bị gã chủ đồn điền Julien cưỡng hiếp, sinh một đứa con đặt tên là Nhị). Còn dòng giống thực nếu có, chắc chỉ còn cách tha phương, reo rắc ở ngoài thiên hạ mà thôi (nhân vật Đinh Công Điều - chồng Nhụ trốn đi Sài Gòn hay Cao Miên gì đó...). Nhưng thực ra, dòng quân tử (họ Đinh) ấy ở làng Cổ Đình vẫn chưa phải đã đến nỗi tuyệt tự. Có điều cái gien “quân tử” đó phải “ẩn” vào dòng... tiểu nhân là họ Vũ thì mới tồn tại được (nhân vật Cò - Xuân là con hoang của Đinh Công Phác (Trịnh Huyền) với bà ba Váy, vợ Lý Cỏn (họ Vũ)). Tuy nhiên, tất cả những rắc rối đầy ẩn ý triết học, lẫn lộn quân tử với tiểu nhân đó chưa phải quan trọng. Điều quan trọng là những kẻ láng giềng gọi là “Tàu” kia, dù đã hơn hai nghìn năm có mặt ở xứ sở này, lại có hẳn một nghìn năm đô hộ, vậy mà vẫn bị coi là những “chú khách” (lời nhân vật Lềnh trong truyện), vẫn không “lai” được tí dòng giống (văn hoá) nào. Trong khi cái kẻ mũi lõ mắt xanh ở tận phương trời Tây kia, dẫu có mặt ở xứ sở này chưa đầy trăm năm, nhưng đứa con lai (do cưỡng hiếp) của nó vẫn được (Thánh Mẫu) chấp nhận, vẫn từ đó hoà nhập với cái cộng đồng tín ngưỡng mũi tẹt da vàng này. Câu nói đầy tính thoả hiệp, ngụy biện của nhân vật Nhụ về đứa con lai Tây của mình ở những dòng cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, chính là muốn (ngầm) nói lên cái tư tưởng đó của tác giả: “Anh ạ, ngày xưa có lần mẹ em bảo: “Đã là người ta, con ơi, ai chẳng là con của Mẫu”...”
Cái được thứ hai của cuốn tiểu thuyết là nó không sa vào lối mòn của cả một nền “văn học minh họa” (chữ dùng của cố nhà văn Nguyễn Minh Châu) xưa nay. Bối cảnh của cuốn tiểu thuyết rõ ràng gắn với những mâu thuẫn gay gắt mang tính thời đại của cả một nền văn hoá, của cả dân tộc. Song tác giả đã để cho những mâu thuẫn đó tự phát triển, và tự giải quyết một cách hết sức tự nhiên, hết sức con người, không bị chi phối bởi bất cứ một thứ “ánh sáng”, hay một thứ “chủ nghĩa” (bịp bợm) nào. Ở đây, ta cũng bắt gặp một vài dáng dấp của cái gọi là “luồng gió mới” (những nhân vật như Tuấn, Huy, Hoa...) song đó chỉ là những hiện tượng nhân sinh tất yếu, chỉ là sự báo hiệu của những tư tưởng cấp tiến mà thôi (chưa hẳn đã là Cách mạng). Cuối cùng, kết thúc của cuốn tiểu thuyết cũng không phải là một cái kết có “hậu”, không phải một cái kết “bừng sáng tương lai” như thông lệ của những tiểu thuyết, hoặc những truyện ngắn đầy tác dụng tuyên truyền được cấp giấy phép thời cách đây chưa lâu (ví dụ truyện “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân...).
Nếu cần phải bàn thêm một tý, thì bố cục của cuốn tiểu thuyết này cũng hơi bị “có vấn đề”. Xem xét kĩ, sẽ thấy sự lúng túng của tác giả khi muốn thể hiện một loạt những nội dung mà ông không biết sắp xếp vào đâu cho hợp lý, đành để cho nhân vật tự kể (ví dụ những chương bà ba Váy kể chuyện). Cách kết cấu này (lạ sao) thi thoảng lại bắt gặp ở một số nhà văn Trung Quốc thời hiện đại (ví dụ Khâu Hoa Đông). Không thể nói là ai bị ảnh hưởng của ai, chắc là “tư tưởng lớn” gặp nhau đó thôi.
Nói gì thì nói, bằng việc trao giải cho tác phẩm dày dặn này, HộI Nhà văn Hà Nội muốn chứng tỏ một điều, rằng nền tiểu thuyết của văn chương Việt Nam hiện nay mà được như cuốn Mẫu Thượng ngàn này, thì kể như cũng... quí hoá lắm rồi.
20/9/2006
10:41 SA 27/09/2006
Giới thiệu nội dung các chương trình TRÒ CHƠI...
Các Bác vào đây http://hanoicd.com/ có khá nhiều thứ hay cho các cháu đấy
06:26 CH 21/09/2006
Trò chơi Hu gô.
Cám ơn nhà Tòng Mít nha
Thế tất cả có bao nhiêu đĩa Hugo hả Bố cháu? Mình xin đăng ký tất!!!!!!
07:32 CH 13/09/2006
Trò chơi Hu gô.
Cám ơn nhà Tòng Mít nhé
Mới hỏi 1 được trả lời 10 đã quá. Hôm trước ghi ít đĩa Hugo tặng con mấy người ở cơ quan. Bọn trẻ sướng quá đòi tiếp HCC đâm ra lại phải trong cậy vào nhà TM đấy. Kiểu này mình lại oai nhất công ty rồi.
04:04 CH 13/09/2006
Trò chơi Hu gô.
Không biết nhà Tòng Mít có bản Hugo mới "Cannon Cruise" chưa nhỉ?. Nếu có up hộ lên cho bà con nhờ.
cám ơn
08:45 SA 12/09/2006
Bộ 3 Audio-CD cho bé tuổi nhà trẻ & mẫu giáo
Hoá ra mình dùng Winamp bản beta (mới nhất) vãn có lỗi, chứ các file gốc vẫn tốt
Xo ri Bố tắc kè
12:06 CH 06/09/2006
Bộ 3 Audio-CD cho bé tuổi nhà trẻ & mẫu giáo
Các bác ơi tải về, hôm nay mới nghe thử thì thấy chất lượng không được tốt đồng thời tốc độ chạy có lẽ phải là >1,3
Không biết tại máy mình hay tại file gốc đây.
Bố Tắc kè có bị thế này không?
11:12 SA 06/09/2006
Trò chơi Hu gô.
...À, cho em hỏi tí, cái Winrar là bản Evaluation copy. Có mẹ nào có key không, up cho em với (Được voi đòi Hai Bà Trưng các mẹ 1 tý :4: )

Các mẹ vô tư, Bản này không cần đăng ký, khỏi phải ki cót gì cho mệt
10:58 SA 05/09/2006
g
GaoRangers
Bắt chuyện
909Điểm·7Bài viết
Báo cáo