Minh duoc nguoi ban gui cho tai lieu nay, doc thay hay qua nen chia se voi moi ngui nhe.


Chang biet ve sau con minh co tro thanh tien tai hay khong nua nhi nhung ma van muon danh nhung gi tot nhat cho con iu.:Kiss:


THIÊN TÀI TỪ 280 NGÀY


I_LỜI NÓI ĐẦU:


Cùng với sự phát triển của xã hội, mọi gia đình đều quan tâm, chăm sóc và giáo dục con cái, hi vọng con mình lớn lên có thể trở thành những thiên tài. Tuy nhiên sau này con mình có thể trở thành tài đức hay không, đòi hỏi đứa trẻ ngay từ khi còn là bào thai đã phải có một tố chất nhất định. Tố chất đó không phải tự nhiên mà có phải trải qua một quá trình giáo dục, giáo dưỡng ngay từ khi còn là bào thai gọi là “giáo dục thai nhi”. Tuy nhiên rất nhiều người cho rằng thai nhi chỉ là một thực thể sống chưa có ý thức, sao có thể tiến hành giáo dục được? nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy ngay từ những ngày đầu hình thành, thai nhi đã có khả năng tiếp nhận sự giáo dục từ bố mẹ.


Xuất phát từ quan điềm đó, chúng tôi cho xuất bản cuốn sách: “Thiên tài từ 280 ngày”. Cuốn sách này cung cấp cho các bậc cha mẹ những kiến thức cơ bản về giáo dục thai nhi và chăm sóc sức khỏe cho người mẹ trong quá trình mang thai. Trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thai nhi trong từng tháng. Tình trạng sức khỏe người mẹ, những tác động từ môi trường bên ngoài , cuốn sách đã đưa ra những phương thức chăm sóc, giáo dục thai nhi trong từng tháng, qua đó giúp ông bố bà mẹ tìm hiểu, tham khảo, nghiên cứu và áp dụng một cách khoa học căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể.


Một mụch đích của cuốn sách này là nhằm loại bỏ sự sợ hãi và ý thức mơ hồ về quá trình mang thai , sinh nở của người phụ nữ bằng cách và đưa ra những nghiên cứu đưa ra những thay đổi tâm sinh lý thường thấy của người mẹ khi mang thai. Từ xưa tới nay, không ít người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ mới mang thai lần đầu đã quá lo lắng về những điều chưa biết về việc mang thai và sinh nở nên đã gây ra sự căng thẳng mệt mỏi cho người mẹ và đã ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của thai nhi. Vì vậy cuốn sách còn mách nhỏ những phụ nữ mang thai cách thư giãn để loại bỏ trạng thái tâm lý căng thẳng, sợ hãi khi mang thai. Đồng thời tiến hành giáo dục thai nhi một cách thường xuyên, đúng quy trình, mang tính khoa khọc thì không những giúp mẹ sinh nở dễ dàng mà còn sinh được một đứa trẻ khỏe mạnh, thông minh, nhanh nhẹn. Đó chính là mục đính cao cả của cuốn sách: “THIÊN TÀI TỬ 280 NGÀY”.


CHƯƠNG I: TÌM HIỂU VỀ GIÁO DỤC THAI NHI


I – BẠN HIỂU GÌ VỀ GIÁO DỤC THAI NHI?


Giáo dục thai nhi là gì?


Giáo dục thai nhi – cụm từ này có từ thời cổ đại, có thể nói Trung Quốc chính là đất nước đã sản sinh ra học thuyết giáo dục thai nhi. Hơn 2000 năm về trước, cuốn sách nổi tiếng của Trung Quốc – “Hoàng đế nội kinh” đã có những ghi chép về giáo dục thai nhi. Thời nhà Hán đã bắt đầu hình thành học thuyết về giáo dục thai nhi. Trong cuốn “Thiên kim phương” của Tôn Tư Mạc “Thuyết dưỡng thai”. Cuốn “Phương pháp an toàn của phụ nữ” của Trần Tự Minh đời nhà Minh cũng đề cập đến vấn đề giáo dục thai nhi. Tác phẩm “Nhập môn y học” và “Phương pháp kỳ diệu” của đời nhà Minh cho học thuyết về giáo dục thai nhi ngày càng hoàn thiện hơn. Cuốn ”Tuyển tập y học cổ kim” của nhà Thanh đã tổng hợp tất cả các bài viết về vấn đề giáo dục thai nhi qua các triều đại của Trung Quốc.


Phương Tây cũng có nhiều tại liệu nói về giáo dục thai nhi> Vào thế kỷ thứ V – TCN, trong một cuốn sách của Scrotes – một triết gia cổ đại nổi tiếng người Hy Lạp cũng đã nói về vấn đề giáo dục thai nhi. Những năm 0 của thế kỷ XIX, nhà sinh vật học nổi tiếng người Anh – Galton đã cho ra đời “Học thuyết ưu sinh”. Những năm 50 của thế kỷ XX “Học thuyết ưu sinh” của Galton được phát triên mử rộng và được nhiều người biết đến, nhờ đó mà học thuyết giáo dục thai nhi được phát triển hoàn thiện thêm một bước và dần dần trở thành một bộ môn lý luận.


II_THAI NHI CÓ KHẢ NĂNG THỤ GIÁO


Muốn nhận thức giáo dục thai nhi một cách khoa học, thì trước hết chúng ta phải nhận thức được tính khoa học giáo dục của thai nhi. Tính khoa học giáo dục của thai nhi là ở chỗ là thai nhi có khả năng thụ giáo.


Mọi người thường cho rằng thai nhi trong bụng mẹ là một cơ thể sống, không có ý thức như một vật”vô tri vô giác”, nó không có liên hệ gì với thế giới bên ngoài. Nhưng thực tế nó không phải như vậy, theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm khoa học: Thai nhi không những có thích giác, thị giác, khứu giác mà còn có cả trí nhớ và nó có thể trao đổi thông tin với cơ thể người mẹ.



1. Thính giác của thai nhi:


Theo kết quả nghiên cứu mới đây, sau 6 thánh tuổi là thai nhi có thính giác và bắt đầu “Chăm chú lắng nghe”. Hiện tượng này không được các bà mẹ trẻ chú ý đến nhưng nó lại thu hút sự chú ý của các nhà khoa học. Sau khi sinh ra được vài ngày , lúc đứa trẻ khóc, người mẹ chỉ cần bế đứa bé áp sát vào lòng thì đứa bé nhanh chóng nín khóc và một lát sau thì ngủ. Các nhà khoa học đã giải thích hiện tượng này như sau: Sở dĩ có hiện tượng này là do ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ đứa trẻ đã có thính giác, dần dần quen với nhịp đập huyết quản của người mẹ. Nên khi đứa bé được bế áp vào lòng mẹ, tai của nó áp sát vào ngực của người mẹ vì thế đứa trẻ có thể đã nghe thấy âm thanh quen thuộc từ khi nó còn ở trong bụng mẹ, đứa trẻ như được tìm lại cảm giác an toàn nên đã nín khóc và có thể ngủ ngon.


Theo nghiên cứu khoa học, các giác quan của thai nhi như: Mắt, tai, mũi và da được hình thành từ ngay thời kỳ đầu, tất nhiên việc hình thành và phát triển chức năng của các giác quan này là thời kỳ sau của bào thai. Vào thời kỳ giữa của bào thai, thai nhi đã bước đầu mẫn cảm với âm thanh, những âm thanh đó bao gồm âm thanh trong cơ thể người mẹ như: Nhịp đập của huyết quản , động mạch ở tử cung, mạch máu ở cuống rốn và âm thanh từ sự co bóp của dạ dày. Trong đó bao gồm cả âm thanh ở bên ngoài cơ thể người mẹ.


Y học hiện đại đã dùng dụng cụ để quan sát hiện đại để quan sát tình hình của thai nhi trong dạ con của người mẹ, khi thai nhi nghe thấy âm thanh, nhịp tim của thai nhi đập mạnh hơn. Khi nghe thấy tiếng xe ô tô thì thai nhi liền cựa quậy. Do âm thanh chi phối môi trường sống của thai nhi là nhịp tim của người mẹ, nên chỉ khi nào nghe thấy nhịp tim của người mẹ thì thai nhi mới thôi cựa quậy. Khi người mẹ mang thai đi ở những nơi đông đúc nhiều xe cộ qua lại cũng làm cho thai nhi bất an. Tất cả những cái đó đều chứng tỏ rằng thai nhi có khả năng cảm thụ âm thanh bên trong và bên ngoài cơ thể của người mẹ.


Tóm lại thai nhi sớm đã có thính giác và có thể liên hệ với thế giới bên ngoài nhờ vào thính giác. Đây là một trong những cơ sở và căn cứ khoa học trong quá trình giáo dục thai nhi.


2. Thị giác của thai nhi:


Thai nhi sống trong bào thai bị bao bọc bởi nước ối, nhau thai, có thể nói không nhìn thấy gì, những điều đó không có nghĩa là thai nhi không có khả năng thị giác. Vậy thị giác của thai nhi như thế nào?


Sự hình thành thị giác của thai nhi muộn hơn so với sự hình thành của các giác quan khác, bởi vì dạ con là một môi trường tối, không thích hợp với việc dùng mắt nhìn , nhưng mắt của thai nhi không phải không hoàn toàn nhìn thấy. Khi người mẹ mang thai được hai tháng, mắt của thai nhi bắt đầu được hình thành, đến khi thai nhi được 4 thánh tuổi, thai nhi có khả năng cảm thụ ánh sáng.


Có báo cáo khoa học nói rằng, sau khi sinh được 10 phút đứa trẻ đã có thể sử dụng thị giác, có thể nhận thấy rõ sự thay đổi của mẹ mình trong khoảng cách từ 15-30cm, thậm chí có thể nhìn rõ được ngón tay trong khoảng cách khoảng 3m.


3. Khứu giác của thai nhi( xúc giác):


Khác với thị giác, khứu giác của thai nhi được hình thành sớm hơn. Khi người mẹ mang thai được hai tháng thai nhi có thể cử động phần đầu, tứ chi và phần thân, có thể chuyển dịch trong bào thai. Khi được 4 tháng, nếu như tay của người mẹ vô tình xoa vào phần mặt của thai nhi thì nó sẽ chau mày hoặc nhắm mắt. Nếu người mẹ tạo áp lực nhỏ trên bụng thì lập tức thai nhi dùng tay hoặc chân của mình để tạo phản ứng. Tất cả những cái đó đều cho thấy chức năng xúc giác của thai nhi.


4. Vị giác và khứu giác của thai nhi


Sau khi người mẹ mang thai được 2 tháng, thì miệng của thai nhi bắt đầu được hình thành. Được 4 tháng thì khí quan cảm thụ vị giác trên đầu lưỡi của thai nhi được hình thành hoàn toàn, mặc dù nước ối làm giảm mùi vị nhưng thai nhi vẫn cứ cảm nhạn được vị giác.


Mũi của thai nhi cũng giống như miệng của nó, được hình thành sau khi người mẹ mang thai được 2 tháng. Được 7 tháng thì lỗ mũi của thai nhi hoàn toàn có thể cảm nhận được thế giới bên ngoài. Nhưng do thai nhi bao bọc bởi nước ối, tuy nó có thể đã hình thành khứu giác, nhưng vẫn không thể ngửi thấy mùi vị gì, điều đó hạn chế sự phát triển khứu giác của thai nhi. Tuy vậy nga sau khi được sinh ra khứu giác của trẻ sơ sinh liền phát huy tác dụng, nhờ có khứu giác của trẻ sơ sinh liền phát huy tác dụng, nhờ có khứu giác mà đứa trẻ có thể tìm đến bầu vú mẹ để bú sữa.


Vị giác khứu giác của thai nhi là một bộ phận không thể tách rời trong quá trình hình thành các giác quan cảm giác của thai nhi cảm thụ sự kích thích bên ngoài và cũng là một trong những cơ sở khoa học cho việc giáo dục thai nhi.


5. Trí nhớ của thai nhi:


Xung quanh vấn đề trí nhớ của thai nhi có rất nhiều quan điểm khác nhau. Có người cho rằng, sau 4 tháng kể từ khi người mẹ mang thai, trong não bộ của thai nhi đã xuất hiện những biểu hiện cho thấy thai nhi bắt đầu hình thành trí nhớ. Cũng có người cho rằng trước 8 tháng thai nhi không thể có trí nhớ và khả năng cảm giác, khả năng này ngày càng phát triển cùng với sự lớn dần của thai nhi.


6. Thói quen và tính cách của thai nhi:


Thai nhi và trẻ sơ sinh chỉ khác nhauở chỗ trẻ sơ sinh được sinh ra và sống trong môi trường bên ngoài cơ thể người mẹ. Thai nhi và trẻ sơ sinh không có sự khác nhau về chất. ví dụ, trẻ sơ sinh chỉ thích ngủ, nhìn mọi vật xung quanh chỉ múa chân múa tay và khóc lịm người đi. Thai nhi cũng vậy, lúc thì thích cựa quậy chân tay lúc thì không thích, sự khác nhau đặc điểm tính cách của thai nhi và trẻ sơ sinh là do sụ khác nhau của môi trường sống của chúng.


Thói quen của thai nhi có mối liên hệ chặt chẽ với thói quen của người mẹ. Cũng theo nghiên cứu này, trước khi sinh một vài tháng , người mẹ và thai nhi đã có sự liên hệ với nhau về nhịp điệu và quy luật sinh vật cũng như về mặt tinh thần. “Sự cảm thông” giữa người mẹ và đứa trẻ sau khi sinh chính là qúa trình tiếp diễn” Sự cảm thông” giữa người mẹ và thai nhi không chỉ là căn cứ khoa học cho việc giáo dục thai nhi.