Sân chơi vắng bóng thương hiệu nông sản Việt - Vì sao?
Việt Nam là nước có nền nông nghiệp lâu đời, trên 70% dân số sản xuất nông nghiệp, thế nhưng chúng ta vẫn chưa xây dựng được một thương hiệu đúng nghĩa cho các loại nông sản. Vì thế, chẳng mấy ai ngạc nhiên khi sân chơi toàn cầu vắng bóng các thương hiệu nông sản Việt.
Hiện nay, nước ta có sản lượng xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Thái Lan, các sản phẩm khác như: cà phê, hồ tiêu, hạt điều… luôn ở nhóm dẫn đầu thế giới. Ngoài ra, chúng ta có các loại nông sản được xem là đặc sản như: chè, nhãn, bưởi, thanh long… Đây là những sản phẩm mà các thị trường lớn, khó tính như Mỹ, châu Âu ưa chuộng. Thế nhưng, các sản phẩm này chưa hề có một bảo chứng nào để người tiêu dùng tin cậy, cũng như chưa có thương hiệu đặc trưng. Thương hiệu của nông sản Việt Nam đa số mang tính “truyền miệng”, gắn với một địa phương, một vùng đất như: Thanh long Bình Thuận, gạo An Giang, cà phê Buôn Mê Thuột...
Trên thực tế, nông sản Việt chưa thật sự có thương hiệu cho riêng mình. Vì thế, sản lượng xuất khẩu tuy nhiều nhưng giá trị và lợi nhuận thu về không đáng kể. Người nông dân trực tiếp sản xuất, quanh năm lam lũ với ruộng đồng, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” lại không được hưởng lợi từ thành quả lao động của mình, nghèo vẫn hoàn nghèo.
Năm 2009, nông dân và ngành nông nghiệp Việt Nam được phen vui mừng vì trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản cả nước vẫn đạt 15,4 tỷ USD, vượt xa so với dự kiến ban đầu. Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam dẫn đầu thế giới về sản lượng như gạo, cà phê, tiêu, điều… Thế nhưng, chúng ta cũng phải tốn một số tiền không nhỏ để nhập khẩu rau quả từ Trung Quốc (khoảng 150 triệu USD), nhập nông sản từ Thái Lan (45 triệu USD). Ngoài ra còn phải bỏ hàng tỷ USD nhập nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi như ngô, sắn, cỏ khô, bột cá… từ nhiều nước.
Điệp khúc buồn của nông nghiệp Việt Nam, lặp đi, lặp lại từ nhiều năm nay là “được mùa- mất giá, được giá- mất mùa”. Thực tế đó làm tăng thêm nỗi bức xúc của hàng chục triệu nông dân Việt Nam mỗi khi vào mùa thu hoạch. Nghịch cảnh đó đã xảy ra nhiều lần và tồn tại như một “căn bệnh nan y”, chưa tìm ra phương thuốc cứu chữa. Vào mùa thu hoạch, có khi cả cánh đồng rau rộng lớn mà người nông dân đổ biết bao mồ hôi, công sức nhưng đành phải bỏ đi do không có nơi tiêu thụ; những ruộng dưa, cà chua, dứa… để thối do không có đầu ra. Vậy mà, trên thị trường, hàng nông sản của nước ngoài ào ạt tràn vào bày bán khắp các chợ, siêu thị.
Nguyên nhân của thực trạng đáng buồn đó do đâu?
Đó chính là sự yếu kém của nền sản xuất, kinh doanh, từ khâu tổ chức, tiếp thị đến khâu quảng bá hình ảnh và xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt. Chúng ta đã tự đẩy mình vào thế bí, chấp nhận thua ngay trên “sân nhà” chứ không phải do quá trình hội nhập. Vẫn biết, khi hội nhập, chúng ta chấp nhận sân chơi chung, có cơ hội và cả những thách thức, phải cạnh tranh với các sản phẩm chất lượng cao, giá cả hợp lý của nước ngoài. Nhưng điều đáng buồn là có nhiều loại nông sản Việt không hề yếu thế về tiềm năng cũng như chất lượng nhưng đành phải chào thua. Vì sao lại có chuyện vô lý như vậy? Sự thật là chúng ta đã có một nền sản xuất nông nghiệp tốt, tạo ra sản lượng dồi dào nhưng khâu quản lý chất lượng yếu, khâu tiếp thị không hiệu quả, khâu phân phối chưa chu đáo, việc xây dựng thương hiệu không đến nơi, đến chốn… đã tạo ra những khoảng trống cho nông sản nước ngoài có điều kiện tung hoành.
Hàng năm, chúng ta tốn nhiều tỷ đồng cho hoạt động xúc tiến, quảng bá nông sản tại nước ngoài nhưng thị trường trong nước rất giàu tiềm năng lại chưa được quan tâm đúng mức. Với những ưu thế đặc trưng về khí hậu, đất đai, sự cần cù và sáng tạo của người lao động, nhiều vùng miền nước ta dễ dàng tạo lập được những nông sản có thương hiệu, có sức cạnh tranh cao. Nhưng chúng ta chưa có ý thức trong việc thực hiện chủ trương “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt”, vẫn có tư tưởng “sính ngoại”. Chỉ khi nào người dân nhận thức được vấn đề này, các ngành chức năng thực sự vào cuộc, đẩy mạnh tổ chức sản xuất theo hướng hàng hóa tập trung, nâng cao chất lượng để tăng sức cạnh tranh; mặt khác, đầu tư mạnh vào khâu phân phối, tiếp thị, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ… Làm được điều này thì nông sản Việt sẽ không những lấn át được nông sản nước ngoài ở thị trường nội địa, mà còn vươn xa, chiếm được cảm tình của khách hàng quốc tế.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, việc xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt, phải bắt đầu từ “gốc rễ”, nghĩa là từ người nông dân. Muốn tăng giá trị cho sản phẩm, cần tăng hàm lượng chất xám, nâng cao trình độ, kỹ thuật canh tác và chế biến để có được những sản phẩm chất lượng… Nếu làm tốt những điều này trong tương lai, nông sản Việt sẽ “thắng sân nhà” và “vươn ra sân khách”, không phải chịu lép vế như hiện nay.