Source: http://www.webtretho.com/news/index.php?p=dtnews&c1=A6000&c2=A6300&item_id=2236&s=1


Tôi đến Seoul (Hàn Quốc) vào lúc trời vừa hửng sáng. Cái lạnh se se đầu mùa thu vafsuowng mù phủ xuống sân bay khiến phong cảnh thơ mộng như trong những bộ phim mà mỗi ngày bật ti vi ở nhà, tôi đều được ngắm nhìn.


Đứng vào hàng người chờ làm thủ tục Hải quan, tôi bất chợt nhận ra khoảng bảy, tám cô gái Việt nam vận những chiếc áo dài xanh, đỏ, tím, hồng, đứng túm tụm nhau ngơ ngác, xanh xám mặt mày. Nhìn điệu bộ cũng đủ biết họ đang lo sợ vì không biết đi đâu, chẳng biết làm gì. Những người cùng chuyến bay, ai cũng vội vàng, hối hả. Chẳng ai để ý đến các cô gái mặc áo dài Việt Nam duyên dáng đang luýnh quýnh, với mớ hành lý ngổn ngang, trông vừa buồn cười, vừa thương. Tôi tranh thủ bước ra khỏi hàng để chỉ cho họ chỗ cần làm thủ tục nhập cảnh… 7g30, tôi theo nhóm của mình rời sân bay. Còn các cô gái lại líu ríu bước lên chiếc xe của một người Hàn Quốc xa lạ để bắt đầu cuộc đời người thợ may nơi xứ người.


“Bà Tám” ở Chung Am


Khu tôi đến tá túc có tên là Chung Am, nằm tại Metro University, một trong những khu vực đông người Việt nhất ở Seoul. Đó là khu phố nhỏ với nhiều đường ngang ngõ tắt chật hẹp, có đến hàng trăm căn phòng ở tầng hầm được người Việt thuê lại để sinh sống. Chủ nhân của những căn hầm ấy là những phụ nữ còn rất trẻ. Họ sống thành đôi với những người đàn ông Việt Nam như vợ chồng. Những cô gái Việt tụ hội về đây từ khá nhiều nguồn, nhưng đông nhất là những công nhân diện xuất khẩu lao động trốn khỏi nhà máy.


Hương Thủy, một cô gái phốn pháp, được cộng đồng Chung Am bầu làm nhân vật “bà Tám nhất xóm”, ngay ngày đầu tiên gặp tôi ở cửa hàng bán thực phẩm cho người Việt đã oang oang: “Vì sao bỏ trốn à? Thì vì tiền thôi”. Cô kể: “Em sang Hàn cách đây đã 10 năm. Lúc đó, lương em được khoảng 700 USD. Nhưng để mua được một suất sang Hàn em đã phải tốn đến 10.000 USD.


Lương thế, lại còn chi tiêu cho cuộc sống thì biết chừng nào mới trả nợ được, nói chi đến chuyện để dành mà gửi về nhà. Thế nên, đến lúc gần hết hợp đồng, biết chút tiếng Hàn, thông thạo đường đi rồi là… trốn thôi”.


Nói thì nghe đơn giản như vậy,nhưng cái cuộc trốn ra ấy của các cô gái ở Chung Am đầy gian truân. Theo Hương Thủy, hồi ở nhà máy, tuy cô nhanh nhẹn, thạo việc, nhưng hay chống đối nên bà quản lý chẳng ưa. Một lần cô đã nổi nóng đánh lại bà ta vì bạn bè cô bị bà ngược đãi một cách vô lý. Sợ bị trả thù, bạn bè bảo cô trốn đi. Thế là Thủy trốn.


Từ một thị trấn nhỏ lên Seoul, Thủy không biết đi đâu, nương tựa vào ai. Có một địa chỉ duy nhất của một người con trai mới quen, cũng là dân lao động trốn ra, cô đến đó. Anh ta đón tiếp cô đàng hoàng, như với một đồng hương. Dầu vậy, đêm đầu tiên ngủ trong căn phòng với bốn người đàn ông lạ, Thủy cũng sợ thon thót. Cả đêm cô không ngủ, nằm co rúm trong góc phòng… thủ thế. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như cô lo sợ. Người bạn trai mới quen đã không có hành vi xấu nào, thậm chí còn dẫn cô đi các xưởng may để xin việc. Chỉ có điều, chiều hôm ấy, khi về đến nhà, anh ta nói với cô một cách đàng hoàng: “Em ạ, ở đây chẳng có ai giúp không ai cái gì bao giờ. Em cũng phải hiểu”.


Câu nói ấy khiến Thủy hoảng sợ. Hôm sau, cô đành tự mình đi lang thang khắp các xưởng may với một câu tiếng Hàn duy nhất mà cô thành thạo: Ông (bà) có cần công nhân không?


Tấm ảnh này được đăng trên tờ Chosun, với các cô dâu Việt hoàn toàn không được che mặt. (Ảnh: www.vnexpress.net)


Tủi hận xứ người


Thủy chỉ tôi một “dấu hiệu” để nhận ra những công nhân lưu vong trên đường phố Seoul: Mặt họ lúc nào cũng cuối xuống đường! Cô bảo: Đó là cách để họ tránh bị chủ bắt. Hễ bị bắt coi như là mat61t sạch tiền bạc, giấy tờ, lại còn bị giam 10 ngày và đưa thẳng ra ga. Thủy đã từng bị bắt như thế ba lần. Và cả ba lần cô đều trốn thoát.


Một lần cô đã nhảy ra khỏi cửa sổ từ lầu hai của trụ sở công an xuống mái nhà bên cạnh rồi từ đótụt xuống đường. Một chân bị bong gân đau điếng, thế mà Thủy đã lết cái chân ấy chạy suốt mấy cây số. Lần thứ hai, cô đã quay được cửa kính xe cảnh sát xuống, chui ra và chạy thoát. Lần thứ ba cô cũng chạy trốn từ đốn cảnh sát, trong lúc đông người lộn xộn. “Còn bây giờ?”, tôi hỏi. “Em kinh nghiệm đầy mình rồi anh ơi” cô cười như không.


Thành tích trốn chạy cảnh sát Hàn Quốc của Thủy không phải điều lạ trong nhiều câu chuyện của những cô gái ở khu Chung Am này. Các cô tự hào “Cá nhỏ là bị hốt sạch đưa về Việt Nam rồi. Những người anh gặp đây toàn là loại cá… nhà táng không đó”. Kể rồi Thủy cười ngất, nhưng trong tiếng cười vẫn không giấu được nỗi buồn.


Thủy kể: “Chọn con đường sống lưu vong thì không thể gọi là sống bình thường. Làm ở các xưởng may nhỏ, công việc có vẻ không nặng nề, nhưng phải quần quật từ sáng sớm đến tối mịt. Nếu có hàng làm thì cả tháng và phải tăng ca đến khuya. Tối về chỉ có nấu ăn và lăn ra ngủ. Gặp người chủ tốt, lương bổng đầy đủ, rõ ràng thì mừng, còn ngược lại, làm chưa hết tháng đã bị kiếm cớ đuổi để xù lương. Ức nhưng cũng chẳng làm được gì. Kiện cáo, khác nào lạy ông con ở bụi này. Thế nên khi đã có việc, phải giữ công việc bằng mọi giá. Thậm chí khi có bầu, phải xiết bụng đến tháng thứ sáu, thứ bảy để tránh những gã chủ rà tay vào bụng kiểm tra xem có bầu hay không”.


Niềm vui ngắn chẳng tày gang


Ở khu Chung Am, người Việt tụ lại với nhau thành một quần thể sống đông đúc, thế nhưng dường như họ chẳng thân thiết gì với nhau. Có gặp gỡ, trò chuyện chỉ là để cho bớt buồn mà thôi. Cánh đàn ông thì cờ bạc, rượu chè, phụ nữ thì túm tụm buôn dưa lê. “Trung tâm bà Tám” là cửa hiệu bán đồ Việt Nam của một phụ nữ VIệt Nam tên Hoa. Chị ấy là công nhân sang Hàn lao động cũng được năm, sáu năm. Trong thời gian lao động, Hoa được một thanh niên Hàn Quốc tốt bụng hiền lành yêu và cưới. Có giấy tờ hợp pháp, Hoa và chồng đi về Việt Nam, vận chuyển tiền và quà thuê cho người Việt, nhân tiện mang đồ ăn qua lại, mở cửa hàng bán buôn.


Lấy chồng Hàn trên đất Hàn mà được như Hoa là may mắn. Còn đa số phụ nữ Việt thường bất hạnh trong đời sống hôn nhân với chồng Hàn mà trốn ra đây. Lan, một cô gái ở TP.HCM kể: cô lấy chồng qua môi giới. Đến khi sang đây được một thời gian mới biết chồng đã có ba con lớn và anh ta đã triệt sản hoàn toàn. “Có khác gì nó mua mình sang làm nô lệ tình dục đâu:. Lan quyết định trốn đi và nhờ người phát đơn kiện ông chồng triệt sản của mình.


Còn Tuyết, một cô bé 18 tuổi mỗi lần nhắc đến ông chồng 60, không giấu được sự kinh sợ: “Sợ lắm anh ơi, ăn cơm, răng giả của ông ấy cứ rơi vào chén lộp cộp”. Từ Việt Nam ra đi với viễn cảnh giàu sang, cô bé phải sống cùng chồng trong chiếc container cũ và ngày ngày làm công việc đồng áng. Gặp Hoa ở chợ, thế là cô bé trốn đến khu Chung Am sinh sống. Tuy “đèn nhà ai nấy sáng”, nhưng niềm vui lớn nhất của cộng đồng người Việt ở Chung Am chính là những đám cưới. Đó là dịp duy nhất mà nhiều người có thể gặp mặt nhau một cách đông vui.


Mấy hôm tôi đến may mắn cũng trùng dịp đám cưới của Hà, một cô gái xinh xắn, ăn nói mạnh bạo… mới trốn ra khỏi đồn công an rồi dạt về đây thuê phòng ở. Nói là đám cưới cũng đúng, nói tiệc chiêu đãi hợp đồng sống chung cũng không sai. Gọi anh chàng tên Tính là chồng cũng được, mà gọi là người bảo kê cho Hà, cũng không sao. Vì thực ra đời sống ở đó kéo dài ngắn hay dài tùy vào sự chọn lựa của họ, chứ họ làm gì có quyền đăng ký kết hôn. Nhưng hôm đó cả khu Chung Am tưng bừng vui vẻ, xôm tụ ra phết. Thậm chí, cô dâu chú rể còn mời cả một ban nhạc sống, dù chỉ là cây nhà lá vườn.


Trước hôm tui ra sân bay, Thủy “làm mối” cho tôi với vài phụ nữ trong xóm để tôi chọn lựa. “Trước là làm ơn, sau có chút đỉnh tiền cò mua quà cho người thân”. Cô cười. Theo lời Thủy, việc của tôi là bồng một đứa bé chừng vài tháng tuổi, với tên cha trong giấy khai sinh là tôi (còn giấy khai sinh đó ở đâu mà có thì thuộc chuyện của người khác) mang về giao cho bà ngoại ở sân bay. Giá một “cuốc” là 1000- 1500 USD và được lĩnh trước ở Hàn Quốc.


Cuộc sống lưu vong là phải đi làm. Có con, gánh nặng càng nặng thêm nên phương án đưa con về ngoại nuôi là tốt nhất. Nhưng do sống bất hợp pháp, nên không a i có thể tự mình bồng con qua cửa khẩu. Đàng chọn kiểu “hàng xách tay” để gửi con về quê. Thủy đã đưa con mình về Việt Nam bằng cách đó. Chuyện đã lâu rồi, nhưng khi nhắc lại, cô vẫn rân rấn nước mắt: “Hôm đưa nó ra sân bay, chồng em cứ phải dọa tát vỡ mặt em ra nếu khóc. Khối đứa đưa con về đã đứng khóc rưng rức, thế là công an tóm lại luôn”.


Ngày tôi rời Seoul, trên chuyến bay của tôi cũng có gần chục cô giá Việt trở về nước sau khi kết thúc thời hạn hợp đồng lao động ba năm. Tôi ngạc nhiên: “Sao các cô không… trốn ở lại?”. Các cô cười: “ Thôi về thôi! Tiền bạc bao nhiêu cho đủ mà phí hết cả đời. Ngày đi, tụi em không tốn nhiều tiền. Giờ mang về được chút ít là mừng rồi”.


Nhìn họ thanh thản, ríu rít làm thủ tục, tôi lại chạnh lòng nhớ những người bạn ở Chung Am. Buổi sáng, biết tôi ra sân bay một mình, dù mến khách nhưng Thủy và bạn bè cũng đành thú thật: “Bọn em chẳng ra sân bay tiễn anh được, đang chiến dịch truy quét đấy!”. Có lẽ, giờ này, họ đã lao vào ca sáng một cách cật lực và đầy lo toan.


Theo Nguyễn Thiện, Báo PNCN, số 29, ngày 27/07/2007, trang 6