Không nổi tiếng và không có mặt tại các hàng chè nhưng chè kê lại là một món ăn chơi khá quen thuộc của các gia đình miền Trung. Đặc biệt, vào những ngày rằm tháng giêng, rằm tháng bảy hay ngày giỗ, chạp, chè kê thường xuất hiện trong mâm cỗ cúng gia tiên như một nét văn hóa ẩm thực đặc sắc của quê nhà.
Kê là một loại ngũ cốc, thân cỏ, thoạt nhìn giống như cỏ lồng vực nhưng hạt to và mẩy hơn. Kê có tính mát, hạ hỏa, rất tốt cho sức khỏe nên được bà con nông dân các tỉnh Nam trung bộ trồng rất nhiều.
Kê sau khi thu hoạch được phơi khô. Những hạt kê bé nhỏ, có màu vàng ươm được mọi người bảo quản dùng dần quanh năm. Kê có thể chế biến thành những món ngon như bánh đa kê, cháo kê, vừa ngon vừa lạ miệng. nhưng có lẽ phổ biến nhất và để lại nỗi nhớ nhiều nhất trong lòng những người con miền Trung khi đi xa là món chè kê mà bà và mẹ vẫn thường nấu mỗi khi nhà có đám hay những lúc nông nhàn rảnh rỗi để đãi cả nhà.
Nấu chè kê tuơng đối đơn giản, nhưng để có được những chén chè kê ngọt ngào, vàng ươm, thơm man mát cũng đòi hỏi người nấu một sự tỉ mỉ và tinh tế cao. Vì kê thường lẫn nhiều cát, nên trước khi nấu chè, phải đãi kê cho thật sạch cát qua nước lã rồi cho kê vào nồi nước đun sôi. Khi nồi kê sôi lại thì phải hạ lửa và liên tục dùng vá khuấy cho kê không bị cháy sém (sẽ làm mất hương vị thơm ngon của món chè). Khi kê chín thì cho mật mía và một ít gừng già giã nhỏ vào. Tiếp tục để lửa liu riu và khuấy đều cho đến khi nồi chè đặc sánh lại, vàng óng, dậy lên hương thơm quyến rũ của mật mía và gừng già thì nhắc nồi chè ra khỏi bếp.
Chè được múc ra từng chén nhỏ. Chè kê có thể nóng hoặc ướp lạnh tùy thích nhưng không dùng kèm với đá. Khi ăn nóng, mọi người thường dùng bánh tráng thay thìa để múc từng miếng chè kê rồi từ từ thưởng thức những hương vị ngọt ngào của mật mía, bùi bùi của những hạt kê bé nhỏ, ấm nóng của gừng già quyện với vị giòn tan của bánh tráng, thật thơm ngon và lạ miệng. Khách phương xa đến miền Trung được thưởng thức chè kê dù chỉ một lần nhưng rồi lại nhớ mãi không thôi.