Chiếc xe ôtô BMW đỗ xịch trước dãy hàng bán vải quả. Một cô gái trẻ bước xuống, người uốn éo như rễ cây cam thảo, cất giọng nói như tiếng rít chói tai của chiếc cổng sắt lâu ngày không được tra dầu: “Vải thế nào đấy?”.
Có lẽ quá quen với vẻ kênh kiệu, chỏng lỏn của các thiên kim tiểu thư, người đàn bà bán vải mời xởi lởi: “Vải mười hai (12.000đ/kg) đấy, ngọt lắm, đảm bảo chính gốc Thuý Lâm, Thanh Hà!”. “Ối dào!” - cái miệng được bôi son đậm và ướt trề ra: “Thuý Lâm với chẳng thuý rừng! Chẳng biết có là cái đinh gì không, đây xem tivi chỉ thấy nói vải Lục Ngạn”. Tôi đứng cạnh đấy chợt nhớ đến chuyện bà tôi kể lại: Hồi trước, dân Hà Nội cứ đòi hỏi người bán vải trình căn cước, thấy đúng là dân Thuý Lâm, Thanh Hà, thì mới mua vải.
Vải Thuý Lâm rụng đầy gốc do người trồng không buồn thu hái vì giá rẻ. Ảnh: H.L.Q
Một cây vải - một cây vàng
Tôi về Thuý Lâm giữa mùa vải chín. Tháng 7 nắng đổ chói chang. Con đường trải nhựa chạy giữa chằng chịt bóng cây, bóng nhà xiên xẹo, nhưng vắng bóng người bóng xe. Trên những cánh đồng đầu làng, một bầu không khí tĩnh lặng như tấm lưới mỏng giăng mắc giữa các cây vải bỏ hoang. Đâu rồi cái cảnh đường về Thuý Lâm ngựa xe dập dìu: Xe to chở vải ra Bắc vào Nam đi bán, xe con chở người về quê xem vải.
Xã Thanh Sơn, huyện Thanh Hà có hai thôn: Thuý Lâm, Tráng Liệt. 130 năm trước, cụ Hoàng Văn Cơm đã trồng vải ở Thuý Lâm, đến nay còn sống một cây được Hội Trồng vườn Trung ương phong tặng là cây vải tổ. Lạ lùng, cứ ra khỏi làng Thuý Lâm là cây vải cho quả kém. Cho nên gọi vải Thanh Hà, song thực chất chỉ có vải Thuý Lâm là giống cây quý. Sách cũ viết về quả vải Thuý Lâm thế này: “Mã ngoài như lụa hồng tơ tía, thịt vải như giáng tuyết, như thủy tinh. Vị ngọt đậm, ăn vào thơm như thứ rượu tiên trên đời”. Năm 1958, ông Lê Vi Vận - người làng Thuý Lâm - đã mang 30kg vải lên Hà Nội biếu Bác Hồ.
Những năm 70-80 của thế kỷ trước, cả nước chỉ độc Thanh Hà có vải. Một cây vải chín bán quả có tiền mua một cây vàng. Nhờ có quả vải, người Thuý Lâm sống phong lưu. Tiền bạc rủng rỉnh trên các cây vải. Người dân quanh năm chẳng phải làm gì, ngồi dưới gốc cây chờ quả vải chín. Có người bỏ cả thành phố về quê để sống với vải. Thế nên, con gái vừa lớn nứt mắt là đi lấy chồng, con trai chẳng cần đỗ đạt học hành, nhưng các món chơi đều giỏi.
Buổi chiều, mỗi xóm một đội bóng chuyền thi đấu tưng bừng. Buổi tối, người Thuý Lâm mời thầy nhạc trên huyện về thôn, tiếng đàn hát bay khắp làng. Một du khách về Thuý Lâm thốt lên: “Nơi này nhiều nghệ sĩ thật!”. Hồi Mỹ ném bom miền Bắc, dân thành phố chỉ dám ước một chiếc xe đạp Phượng hoàng Trung Quốc, thì anh Hoá người Thuý Lâm đã đi xe đạp Peugeot của Pháp, trong nhà có cái “kèn hát” (máy quay đĩa) quay tay, hát được nhiều bài từ cải lương tới tân nhạc.
Cây vải quý thế, nên người Thuý Lâm ghét bỏ các loài cây khác. Cả làng biến ruộng thành vườn để trồng cây vải. Vải tràn ra đê, ra bãi tha ma. Trung bình mỗi người dân có 15 cây vải. Hồi đó ở làng Lâm có ông Sạn, ông Khần... là những nông dân năng động, có máu làm giàu và... rất chủ quan! Họ chiết hàng vạn cành vải đi khắp miền Bắc rao bán, rồi lại đem hết kinh nghiệm trồng vải của tổ tiên ra truyền bá, vì cứ ngây thơ nghĩ rằng: Chẳng ở đâu có đất cho cây vải ra quả ngọt như Thuý Lâm.
Thế rồi, cây vải đã đặt được chân lên vùng đồi trọc Lục Ngạn, Bắc Giang. Cả một rừng vải gốc gác Thanh Hà trẻ trung, khoẻ mạnh mọc lên trên đất Lục Ngạn đã đánh bạt những vườn vải già cỗi của Thuý Lâm trên thương trường. Quả vải Lục Ngạn dẫu không ngọt bằng, thơm bằng, nhưng quả to hơn và nhiều thì như “quân Nguyên”! Điều rất quan trọng là nó lại tiện đường sang Trung Quốc. Người Thuý Lâm không ngờ rằng, Lục Ngạn đánh dấu chấm hết cho thương hiệu vải Thuý Lâm, Thanh Hà. Họ chỉ còn điều an ủi trong miếu thờ cây vải tổ. Đó là một tấm trướng thêu dòng chữ: “Nhân dân các dân tộc huyện Lục Ngạn biết ơn cụ Hoàng Văn Cơm (ông tổ vải thiều)”.
Chặt vải trồng... rau!
Đường vắng tanh mà Dũng đi rón rén như một chú mèo gặp mưa. Đơn giản vì anh không nỡ giẫm chân lên những quả vải chín đỏ rụng la liệt trên lối đi. Chúng tôi gặp một chủ vườn đứng ngẩn ngơ dưới mái nhà nhễ nhại phơi trong nắng hè. Anh than thở với chúng tôi, nhà 6 tấn vải trên cây mới bán được có 4 tạ. Có lẽ vì sốt ruột quá anh cứ giậm chân liên tục, cử động ngọ nguậy, vụng về trong chính lớp da của mình. Bỗng nghe thằng con thét lên ngoài ngõ “bố ơi, có người mua vải!”, anh vội lao nhanh ra cửa để lại bầu không khí rung bần bật. Một lát sau anh quay lại, nụ cười sung sướng làm lộ ra một cái răng to tướng.
Ngay trước cửa trụ sở chính quyền xã có một điểm thu mua vải cho thương lái mang vào Nam (năm nay người Trung Quốc không ăn vải Thuý Lâm). Những người đàn ông, đàn bà đứng ngồi ngổn ngang chờ được cân vải, tâm trạng nặng nề. Gã thu mua vải hấp háy đôi mắt như hai hạt đậu nhão nhoét, láo liên, toan tính trừ của người này, bớt của người kia: “Không bán thì thôi, mang về!”.
Mang về đâu đây? Mỗi sáng, người Thuý Lâm mang vải đi chợ Lại để bán, đông tắc cả đường. Làm gì còn cảnh ngồi dưới gốc cây rung đùi, vênh mặt chờ người mang tiền đến nộp ngày xưa. Cuộc đời quả vải ngắn ngủi chỉ tồn tại trong 10 ngày. 4.000 tấn vải của người Thuý Lâm bán đâu cho hết, vì cung đã vượt quá cầu. Cho dù có lúc giá rơi đến 2.000đ/kg – chỉ bằng một cốc chè chén vỉa hè. Anh Nguyễn Văn Thắng - trưởng chi họ Nguyễn ở làng Thuý Lâm - thốt lên: “Xót lắm chú ơi!”. Có lần, Thắng nằm mơ thấy cây vải âm thầm khóc ngoài cửa sổ.
Vải rẻ, nhiều người Thuý Lâm bỏ cả cây không bẻ quả. Họ tính: Bán một tạ vải không đủ tiền mua con vịt làm cơm chiêu đãi những người đến bẻ vải hộ. Ông Sạn - nhà tỉ phú vải ngày xưa - bị hen, bà vợ than thở, có cả vườn vải mà chỉ đủ tiền mua 3 bình ôxy cho ông thở. Và rồi người Thuý Lâm bắt đầu đi... chặt vải, những cây vải bố mẹ, ông bà họ đã trồng sum sê, hoành tráng, không hề có sự già nua, xấu xí của những thân cây mục rỗng. Họ chặt vải để lấy đất trồng... rau màu ăn hằng ngày! Giống như ngày xưa họ chặt tất cả để trồng cây vải. Ông Chuẩn (77 tuổi) phải bỏ nhà đi chỗ khác, không dám nhìn các con ông cầm dao chặt vải trong vườn.
Chiều về, chúng tôi ngồi với anh Hương - nguyên cán bộ Đảng uỷ Cảng Hải Phòng về hưu. Anh cầm đàn hát “không đâu bằng quê hương tôi, vải thiều quanh năm xanh biếc...”. Và tôi nghe thấy tiếng những quả vải rơi rụng lộp độp lên lớp lá mục, như những giọt mưa buồn bã, từ trên cây xuống.
Mặt trời đã lặn. Bầu trời bắt đầu xám xịt như một cái bụng béo mỡ, muốn vỡ để trút nước xuống. Cơn mưa ào ạt, vội vã tìm đường đến các tầng đất sâu thẳm, nơi có những rễ cây vải vừa bị chặt đứt khỏi thân. Mưa lặng lẽ khóc trên mặt cô gái mặc áo dài màu xanh tím cầm chùm vải đỏ được vẽ trên tấm panô khổng lồ dựng ngay đầu cầu Phú Lương với một dòng chữ: “Thanh Hà quê hương vải thiều kính chào quý khách”. Một con quạ đen đỗ trên thành cầu cất tiếng kêu như một lời than thở: Hết rồi, vải thiều Thuý Lâm, Thanh Hà. Còn tôi, ngồi ôm chùm vải chín đỏ như những mặt trời nhỏ, ngọt lên đến tận đỉnh đầu, cảm tạ đất trời, tổ tiên đã ban tặng cho quê hương một giống cây quý và hy vọng một lối ra cho quả vải thiều Thuý Lâm, Thanh Hà.
Vĩ thanh
Ông Đỗ Văn Nhạt - lúc bí thư, lúc chủ tịch xã Thanh Sơn 13 năm - khẳng định: Người Thuý Lâm đã dự báo được số phận của quả vải từ năm 2003. Họ âm thầm chuyển từ trồng vải sang trồng... người! Tiền tích cóp được từ vải, người Thuý Lâm không xây nhà mà đầu tư cho con học. Khác hẳn thế hệ cha mẹ, học sinh Thuý Lâm đỗ đạt rất cao, mỗi năm có hơn trăm em vào được đại học, cao đẳng. Ai không học được thì chạy cái chân lao động xuất khẩu. Hiện cả thôn có 421 người lao động ở nước ngoài. Chính quyền xã làm rất chắc, không có ai bị vướng vào các vụ lừa đảo phải bỏ về trong nghèo túng. Người làng vải thiều bắt đầu đi làm cây cảnh hoặc vào các xưởng đóng giày, may mặc...
Không còn những “cây vải – một cây vàng”, nhưng Thuý Lâm có đường lát bêtông đến từng cửa nhà, có trường mầm non khang trang đầu tư trên 6 tỉ đồng, có nhà máy lọc nước sạch 650m3/ngày. Nhà biệt thự bắt đầu mọc từ tiền của thế hệ “sau vải thiều”. Trong làng có chục ôtô, ai cần đi ngao du bất cứ đâu, cứ alô là có ngay phục vụ. Đặc biệt nhất là, Thuý Lâm có một chính quyền xã được lòng dân. Họ là nhân tố quyết định những đổi mới ở Thuý Lâm ngày nay.