Quyền sở hữu của ông Boer Sander bị xâm phạmKhoản 1 điều 401 Bộ luật dân sự quy định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”.
Hợp đồng dịch vụ là một trong những loại hợp đồng pháp luật không bắt buộc phải lập thành văn bản. Tuy nhiên, việc hợp đồng không được lập thành văn bản có những hạn chế nhất định. Trong trường hợp này, pháp luật chỉ ghi nhận giữa ông Boer Sander và studio MK đã phát sinh hợp đồng dịch vụ mà không thể biết các thỏa thuận cụ thể. Do đó, khi phát sinh tranh chấp, ông Boer Sander sẽ là bên gặp nhiều bất lợi do không có đủ bằng chứng chứng minh studio MK đã không cung ứng dịch vụ đúng như thỏa thuận.
Căn cứ định nghĩa tại điều 16 nghị định 100/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, ảnh cưới là tác phẩm nhiếp ảnh.
Ông M.K. là người trực tiếp tạo ra bộ ảnh cưới. Tuy nhiên, việc sáng tạo này được thực hiện trên cơ sở hợp đồng dịch vụ với ông Boer Sander. Theo quy định tại khoản 2 điều 39 Luật sở hữu trí tuệ, “tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ sở hữu các quyền quy định tại điều 20 và khoản 3 điều 19 luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Những quyền liệt kê tại điều 20 Luật sở hữu trí tuệ là quyền tài sản. Như vậy, file ảnh cưới gốc chính là tài sản của ông Boer Sander. Do giữa ông Boer Sander và ông M.K. không có bất kỳ thỏa thuận nào về việc ông Boer Sander sẽ chuyển giao toàn bộ quyền sở hữu file ảnh này cho ông M.K. nên việc ông M.K. từ chối giao file ảnh gốc hoặc chỉ giao với điều kiện được đưa thêm tiền tức là đã xâm phạm quyền sở hữu của ông Boer Sander
LS BÙI QUANG NGHIÊM
